Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đó Đây

Lãng Tử Hồi Đầu   Trúc Chi, tác giả "đó đây" (tùy bút, nhà xuất bản Văn Học, Hoa Kỳ, 1999), tên thật là Tôn Thất Kỳ. Sinh năm 1934. Học ở Huế và Đà Lạt. Vào ngành thông tin báo chí từ năm 1960. Biên tập viên ban Việt ngữ đài BBC. Tiếp tục làm cho đài này sau khi rời Luân Đôn vào năm 1967. Làm cho thông tấn xã Reuters, tại Singapore. Cho tới năm 1975, thông tín viên cho Reuters tại Việt Nam và một số các quốc gia Đông Nam Á.  Người viết giới thiệu dài dòng về tiểu sử của ông, là vì một câu hỏi mà bất cứ ai đã từng làm quen với những tuỳ bút của Trúc Chi, đều phải tự hỏi: cả cuộc đời trẻ trung của ông, là liên quan tới báo chí, với lối viết tin "ngắn gọn, trình bầy sự kiện...", tại sao về già, ông chọn lối viết gần như trái ngược hẳn với "thói quen" của ông? Tại sao lối viết "cà kê, dê ngỗng" đó? Liệu nó có thực "cà kê, dê ngỗng"â không? Liệu có thể sử dụng một lối văn khác, để viết về những chuyện "đó đây" đó?  Sau đây là một số đề nghị, nhằm lý giải câu hỏi nêu trên.  "Không ai bắt mình viết cả, nhưng mà tôi lại phải ngồi vào bàn..." (Một Nét Thu). Và ông giải thích cái lý do phải ngồi vào bàn: Tự nhiên mà không để ý đến ngày tháng, không nhìn tờ lịch, tôi đã biết thu đã lẩn quẩn đâu đây rồi.  W. Faulkner cho rằng, con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết. Nhưng ở một chỗ khác, ông thêm vô: con người là tổng số những kinh nghiệm về khổ đau.  Thành thử cái lý do ngồi vào bàn của tác giả, có cả hai.  Chao ôi binh lửa ôi binh lửa/Ai giẹp giùm ta trận giặc này... Còn lòng tôi, nghĩ đến thân nhân, bạn bè quê hương xứ sở, lúc này là cả một trận phong ba... (Cành Phượng Tím).  Ai giẹp giùm ta? Trận giặc nào?  George Steiner, qua một cuộc phỏng vấn, được hỏi, ông còn mê viết tiểu thuyết hay không, đã trả lời: Tôi cứ loay hoay với một đề tài nó làm tôi đứt ruột đứt gan. Tôi cứ bắt đầu hoài một câu chuyện nho nhỏ như vầy: Chúng ta đang ở tại một hòn đảo xứ Hy Lạp, thời kỳ mấy ông tướng đang làm mưa làm gió, hay ở Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc Nam Mỹ... Bất cứ nơi nào trên trái đất, nhưng phải là một nhà nước cảnh sát. Một người đàn ông trở về nhà với vợ, với con, và... đúng vào lúc họ ngồi vào bàn ăn, hoặc đi vô giường ngủ, là bà vợ "ngửi" ra cái mùi hôi hám đồ tể ở nơi anh chồng (anh ta đã tra tấn người suốt buổi). Anh chồng chưa hề nói với vợ, nhiệm vụ của anh ở trong ngành, vậy mà bà vợ biết.  Đề tài này, theo Steiner, cội nguồn của nó, là từ Lysistrata, của Aristophanes, về những người vợ không chịu ngủ với chồng, chỉ khi nào anh ngưng chém giết, thì mới cho anh "động phòng"! Ở đây, với Steiner, còn là vấn đề: một căn bịnh khủng khiếp đã tác động vào chính cái hành vi ân ái, sau cùng những người vợ bắt đầu "làm thịt" mấy ông chồng...  (Đề tài này, như tôi biết, được Phạm Thị Hoài sử dụng ngược lại, trong một dụ ngôn, viết về những chàng trai tơ trước khi ra chiến trường, được hưởng mùi đời lần đầu tiên, và có thể là lần cuối cùng. Và họ cứ thế lao vào cái chết. Liệu có một trùng hợp thú vị ở đây, theo đó, Phạm Thị Hoài đã được gợi hứng từ Lysistrata?)  Vẫn Steiner, đã chỉ ra sự khác biệt của văn chương Tây Phương, giữa hai Cuộc Chiến Lớn. Cuộc chiến 1914-1918 đưa tới những tác phẩm cổ điển như "Thôi Đừng Diễn Hành" (No More Parades), của Ford Madox Ford, "Lửa" (Feu), của Barbusse, "Phòng Lớn" (Enormous Room) của Cummings, "Giã Từ Vũ Khí" (Farewell to Arms) của Hemingway, âm hưởng chiến trường và thái độ của người dân ở chương cuối của Proust. Những tác phẩm lớn về thảm họa thứ nhì là phóng sự và chứng nhân tức thời: "Bay Đêm" (Vol de Nuit) của Saint-Exupéry, "Hiroshima" của Hersey, "Nhật Ký" của Anne Frank, "Ghi Chú từ Ghetto Warsaw" của Emmanuel Ringleblum. Không một nhà thơ, không một tiểu thuyết gia nào, cho tới nay, có thể đem đến cho thực tại trại tập trung, sự sáng suốt nghiêm ngặt, làm chủ kinh nghiệm, như là chúng ta nhận thấy ở trong nghiên cứu xã hội "Trái Tim Biết" (The Informed Heart), của Bruno Bettelheim. Giả tưởng ngậm câm trước tính lớn lao của sự kiện; trước uy quyền lồng lộng như thế, chỉ có phóng sự không hoa hòe hoa sói mới có thể làm bật ra được.  Đọc Trúc Chi, tuy ông nói chuyện cà kê dê ngỗng, nhưng lúc nào tôi cũng ngửi thấy cái mùi toát ra từ những bản tin ngắn gọn ngày nào, ngày nào...  Cũng có thể giải thích, Trúc Chi rất mê Nguyễn Tuân của tuỳ bút. Và khi ông viết, ông đã viết lại những trang sách của Nguyễn Tuân, nhưng với một sự khác biệt. Trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân, chỉ có Nguyễn Tuân. Ông bầy biện người này, cảnh nọ, thì cũng liên quan đến Nguyễn Tuân. Những Cô Tơ, Con Vượn Gầy, Bá Nhỡ... đều mang hơi hám Nguyễn Tuân. Với Trúc Chi, những nhân vật của ông là do cơ may, ông gặp được, khi làm nghề phóng viên đi đây, đi đó. Ý nghĩa của tập tùy bút, là tính không gian đó đây, và những sự kiện, và những nhân vật của nó. Không có họ, không có "đó đây". Sự khác biệt thật là lớn lao. Độc giả đọc bất cứ trang sách nào của "đó đây", cũng có thể làm quen với một nhân vật, hoặc dễ thương, hoặc ngậm ngùi, hoặc có thể đáng giận nhưng không đáng ghét... Tôi đã có lần viết về nhân vật Hương Cơ, và tiếng đàn "thuyền mấy lá, đông tây lặng ngắt" của người đẹp. Nhưng Hương Cơ không được may mắn như nàng kỹ nữ bến Tầm Dương: không phải thuyền mấy lá lặng ngắt vì tiếng đàn, mà là: tiếng đàn lặng ngắt, trước tính dã man của sự kiện, của biến cố Mậu Thân. Của cuộc nồi da nấu thịt. Bạn đọc khó có thể quên được một nhân vật như vậy. Làm sao có thể quên chi tiết về một trận pháo kích: "Hôm trước, khi đến xem vụ pháo kích trường tiểu học Cai Lậy tôi thấy anh không lăng xăng quan sát, hỏi tin tức như thường lệ mà lại đứng thừ người nhìn tử thi mấy đứa trẻ tội nghiệp có vẻ như ... đang cầu nguyện".  Phải nói là nhiều nhân vật như vậy. Nhiều chi tiết như vậy. Độc giả đã làm quen với một chị Hoài của Nguyễn Tuân, làm sao không muốn làm quen thêm một chị Đàn. Đứa bạn trai của đứa em, khi rời "thiên đường tuổi thơ ở Đà Lạt", lớn lên lăn lộn với đời, có thói quen nhắc ly rượu lên uống là phải để đúng vào cái dấu trôn để lại, nhờ vậy mà không thể nào quên hai từ "tĩnh lự", bữa ăn khoai lang nghẹn thở, thói dễ ghét của người chồng chị Đàn (cái tật duy nhất của anh mà tôi biết là anh cứ đứng chỉ nước cho cả hai bên mỗi khi xem Đạt và tôi đánh cờ tướng. Dễ ghét lạ.) Ba từ "dễ ghét lạ", như để giải thích những câu sau đó (Chưa kịp cám ơn, chị đã cốc nhẹ vào đầu tôi), hay là đoạn cuối: "... Cái người chỉ những điều sơ đẳng về phép tĩnh lự cho chị Đàn, là bồ cũ của chị... Toa kể chuyện đời một người nhiều tình cảm như chị Đàn mà lại không nhắc nhở chi đến tình yêu là vụng lắm. Dù là tình học trò vớ vẩn...".  Tôi nghĩ, phần lớn những nhân vật ở trong "đó đây", đều là tri âm của tác giả. Trong đời sống, ông đã từng gặp họ, rồi không thể quên được họ. Nào là người sĩ quan tên Duy, câu chửi đổng (Đ.M. tin tức nào mà chờ mấy thằng báo chí đi trễ), cử chỉ (nhét quyển sách chưởng vào túi), bữa cá nướng hết xẩy, tí nhạc sống, nữ ca sĩ tài tử tên Huyền, và buổi hát "trùng phùng": "Bây giờ là đỡ rồi, hồi trước cứ hát xong bài Buồn Tàn Thu là chỉ khóc ròng... Không biết thiếu tá có để ý không, chứ hồi nãy đến cái chỗ "nhưng năm tháng qua dần mùa thu chết bao lần" chỉ còn rơm rớm nước mắt đó. Em sợ chỉ khóc lớn thì hư cả buổi tối hôm nay. May quá!". Nào là cái ông bạn tên Pháp (Nguyễn Nhược Pháp), và câu trả lời (Cũng chỗ quen biết cũ), trong lần tác giả ghé thăm Hà Nội...  Vả chăng, tuỳ bút, ở thời đại Nguyễn Tuân, vẫn nằm trong dạng "tĩnh" của nó, chưa thực sự va chạm với đời sống, và đời sống cũng chưa "ròm rỏ" nhiều đến nó. Tôi muốn nói, xã hội thuộc địa hồi còn thực dân Pháp, trước năm 1945, và những nhân vật "nhà văn, nhà báo" như Nguyễn chẳng hạn; họ không thể tưởng tượng ra một nơi chốn mơ tưởng nào khác, bên ngoài những cuốn sách: nhà hát ả đào, cuộc bù khú với bạn bè kế bên một ngọn đèn. Nhân vật, ngôn ngữ, thể loại (tùy bút), đều cảm thấy thật "an toàn", trong môi trường khép kín như vậy.  Phải tới sau Cuộc Chiến Lớn, và cùng với nó là những điều "không thể nói được", mọi vấn đề của ngôn ngữ, thể loại văn học mới cảm thấy mất đi sự an toàn "đời đời" của chúng. Ngày nay, thật khó mà gọi, một thể loại viết như ở trong "đó đây", là "tùy bút", với tất cả những quan niệm cũ kỹ về nó, từ thời Nguyễn Tuân. Tôi nghĩ, nên gọi chúng là "tiểu luận" (essay).  Sẽ có người bực mình. Tiểu luận, là phải có "vấn đề", (viết về cái gì, mở đề ra sao, thân đề thế nào, kết luận có không....). Cái kiểu viết đầu cua tai nheo, "viễn mơ", hoặc nhắc tới hết ông này bà nọ, hoặc khi người đời đang bận rộn với những vấn đề nóng bỏng, nào con bọ, nào tận thế... vậy mà nhân vật xưng tôi lại đâm ngang một câu, rằng làm sao có một chút khói cho một buổi chiều đẹp như thế này, ở nơi quê người!  Trong bài viết Mở Đầu cho tập "Những bài tiểu luận hay nhất ở Mỹ trong năm 1998", Robert Atwan kể lại thời gian ông dạy đại học, và để ý sinh viên nào cũng thuộc nằm lòng, cách viết một bài essay, mà họ gọi là theme (nghị luận, chủ đề). Một Nghị Luận Hoàn Hảo (Perfect Theme), là như thế này: một đoạn mở đầu, có một câu thuộc loại "Đức Khổng Tử nói", một thứ định nghĩa, definition, (someone named Webster). Sau đó là thân bài, mở rộng câu phán, tư tưởng chính (the main idea). Rồi tới kết luận (tóm lại đoạn thân bài), và nó thường bắt đầu như vầy: Như vậy, chúng ta thấy rằng...  Kinh nghiệm trên, tôi đã từng trải qua, khi đi học, dốt tiếng Tây, học thuộc lòng mấy câu, khi làm bài Nghị luận đạo đức (Dissertation morale). Theo Atwan, những sinh viên của ông không hề để ý đến chuyện, viết là một hành động khám phá, một cơ hội để nói về một điều mà trước đây chưa từng có ai nói. Ông trích dẫn Robert Frost; nhà thơ Mỹ này cho rằng, với rất nhiều người, suy nghĩ có nghĩa là bỏ phiếu, đi bầu. Tại sao lại lao tâm khổ trí với ba chuyện viết lách về một vấn đề, trong khi chỉ cần, một cuộc thăm dò dư luận (opinion poll)?  Theo Atwan, một essay hay đưa tới một kết luận "chẳng kết luận gì hết" (a "conclusion in which nothing is concluded"). Cứ lửng lơ con cá vàng. Muốn hiểu sao thì hiểu. (Tôi nhớ có lần, khi còn đi học, cả đám bạn bè xúm quanh nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, truy ông tới cùng về một câu thơ trong bài Phục Sinh: Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường. Sao là tại sao, hay sao là những ngôi sao, hay sao là làm sao... Thi sĩ cười: muốn hiểu sao thì hiểu!)  Với "đó đây", bạn chỉ cần chú tâm một chút, là nhận ra sợi dây dẫn nằm bên dưới những câu chuyện tưởng như tào lao, đầu ngô mình sở đó. Sợi dây dẫn, là mượn thuật ngữ phê bình Tây Phương (fil conducteur). Mấy nhà phê bình ở trong nước thường gọi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, ngụ ý cần phải có đảng tính, có "máu" ở trong đó. Đông Phương ta gọi là: rắn nằm trong cỏ. Cỏ ở đây, có thể là ba cái mớ bòng bong mà người ta gọi là cuộc nồi da nấu thịt, vẫn còn dây dưa tới bây giờ. Rắn là chuyện đó đây, giữa một số người có mắc míu tới nó. Hoặc rắn, chính là kỹ thuật viết của Trúc Chi.  Liệu có một cách viết khác, cho "đó đây"? Vẫn Steiner, sau khi chỉ ra sự khác biệt về thể loại văn chương giữa hai cuộc chiến lớn, ông cho rằng: "có vẻ như chúng ta đang ở trong giao thời, nếu nói về tài liệu mang chất thơ (poetic documentation), một thời mà những kỹ thuật và những qui ước của tiểu thuyết được sử dụng để bầy ra chất liệu mang tính tâm lý, xã hội và khoa học. Thể loại phóng sự và cách trình bầy sự kiện như hiện nay, là kế thừa những tự do của tiểu thuyết." Nguyễn Tuân, trong suốt cuộc chiến, khi để cho tùy bút đụng đầu với thực tế, nó đã mất đi sức tưởng tượng (của tác giả: một người mê đọc sách, thèm giang hồ...) , sự an toàn (của tầng lớp nhà báo, trung lưu, sống bên trong sự bảo hộ của nhà nước Đại Pháp...) và cuối cùng trở thành (thể loại) ký. Ký, theo tôi, là một tiền-tùy bút. Khi nhà văn xuất hiện, nó biến thành tuỳ bút, giả tưởng, hoặc gì gì đó. Tôi tin rằng, những chi tiết ở trong "đó đây", chắc chắn đã được tác giả lưu giữ trong những cuốn "sổ nhật trình" từ những ngày nào, ngày nào; bây giờ được tác giả đem ra, tẩm vào chúng cái con người tình cảm, tế nhị, hóm hỉnh, và cũng thật lãng đãng là chính mình...  Lãng Tử Hồi Đầu, là "biệt hiệu" của nhân vật xưng tôi, khi trở về Việt Nam, và được cô em gái (quê hương?) ban tặng. Nó gợi nhớ Sự Trở Về của Đứa Con Hoang Đàng, trong Kinh Thánh. Và nó cũng liên can tới "lịch sử" Việt Nam. Huy Cận, với Lửa Thiêng (1943), đã nói lên cú hồi đầu "đầu tiên":  Hồn lưu lạc không hề thờ một chúa  Yêu một người, ta dâng cả tình thương.  Trong khi đó Vũ Hoàng Chương, đã không chấp nhận "yêu một người":  Biển vô tận sá gì phương hướng nữa  Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.  Phương hướng, ý nghĩa về một lịch sử tuyến tính, hướng tới một ngày mai ca hát...: không có ta!  [Như người viết được biết, thời kỳ 1946, một số thi sĩ như Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Định (?) - em Vũ Hoàng Chương - Đinh Hùng, Trần Dần, đã thành lập một nhóm thơ tượng trưng, ra số báo đầu tiên tháng 11/1946, có tên là "Địa Ngục". Tháng Chạp 1946: toàn quốc kháng chiến. Trần Dần, thi sĩ (chủ trương thơ tự do), họa sĩ (lập thể), ở lại, và dính vào vụ Nhân Văn. Tinh thần của nhóm theo Vũ Hoàng Chương vào Nam. Nhóm Sáng Tạo, một phần thoát thai từ Miền Bắc, là theo nghĩa này. Thanh Tâm Tuyền rất "nể" Vũ Hoàng Chương, nhất là chi tiết thú vị: về già ông còn làm một tập thơ (hay một bài thơ?) lấy tên là Ngồi Quán].  Từ "Lãng Tử" còn gợi nhớ từ "Lãng Nhân" (Phùng Tất Đắc rất "tâm đắc" từ này). Lãng Nhân, là từ "Ronin", dùng để chỉ một võ sĩ Nhật Bản, đã mất chúa, trở thành "lính đánh thuê" (mercenaire, hit man). Nó còn là tên một chiêu thức võ công của Kim Dung. (Nếu gọi cách viết của ông là Lăng Ba Vi Bộ, như vậy ông thuộc môn phái Kim Dung!) Lãng Tử Hồi Đầu còn làm chúng ta liên tưởng đến mấy câu hát ru con, của một bà vợ trong tùy bút Nguyễn Tuân, nhân ngày trùng phùng với ông chồng chỉ mong "khi chết đi, người đời sẽ thuộc da mình, để làm một chiếc vali" (Paul Morand):  Ba năm lưu lạc giang hồ  Một ngày gây dựng cơ đồ, vẫn nên.  Chúng ta cũng có thể giải thích trường hợp "đó đây", qua tác phẩm "Trái Tim Biết" (The Informed Heart), đã nói ở trên. Khi làm phóng viên, Trúc Chi đã nhận được những thông tin (information). Do cũng được quen biết tác giả, ông có lần tâm sự, ông có cái may là lâu lâu được nhẩy ra khỏi lò lửa, để suy nghĩ về nó. Những thời gian quí báu này, mở ra một trái tim biết; "đó đây", là một essay, về cuộc chiến, là như vậy: Qua cái mớ bòng bong "cà kê dê ngỗng" đó, có đủ sự thực, để cứu vớt một kẻ dạn dầy. (1)  Với riêng tôi, với "đó đây", là một anh chàng lãng tử phóng viên, hồi đầu với tuỳ bút. Với văn chương.  Xin chúc mừng!  Nguyễn Quốc Trụ  Chú thích: Mô phỏng Conrad, trong "Trái Tim của Bóng Đen" (Heart of Darkness): "There was surface-truth enough in these things to save a wiser man." Một người đàn ông khôn ngoan hơn (a wiser man), là từ dòng chót "Bài thơ của Người Thủy Thủ Già", của Coleridge: A sadder and wiser man He rose the morrow morn. [Theo ghi chú của Catherine Pappo-Musard, khi dịch Trái Tim của Bóng Đen qua tiếng Pháp.] (Một người đàn ông buồn hơn, dạn dầy hơn, Buổi mai thức giấc).   NQT *** Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần Làm thân con nhện mấy lần vương tơ. Ca dao Lời vào tập Trong văn chương Việt Nam hiện đại, số người viết tùy bút thành công không được bao nhiêu! Nói tới thể loại này, người ta nghĩ ngay đến Nguyễn Tuân. Ông là một bậc thầy trong loại tùy bút. Sau Nguyễn Tuân, những người viết tùy bút, không nhiều thì ít, đều chịu ảnh hưởng của ông. Ngoài Bắc, có lẽ “chủ nghĩa cá nhân” bị lên án dữ dội nên không thấy có người nào đi theo Nguyễn Tuân. Trong Nam, viết tùy bút giỏi có Võ Phiến và Mai Thảo. Ở hải ngoại, suốt một phần tư thế kỷ, chỉ có hai người viết tùy bút thành công, là Nguyễn Bá Trạc với Ngọn Cỏ Bồng, và Trúc Chi với cuốn sách này. Vì sao ít người viết tùy bút như thế? Câu trả lời khá đơn giản: Viết tùy bút khó! Viết truyện ngắn hay truyện dài, tác giả mặc sức “giả dạng vô danh” núp đằng sau các nhân vật để nói cho đã miệng, mà khỏi phải chịu trách nhiệm gì hết. Nhân vật nói được những lời vàng ngọc: tác giả nhận ngay mình mới là người thực sự nghĩ ra những lời cao siêu ấy. Ngược lại, nhân vật lỡ phun những lời ngu xuẩn ngược ngạo, người viết đổ hết mọi trách nhiệm cho hư cấu. Những người viết kịch cũng có lợi-thế như người viết truyện. Anh ta đóng vai người đạo diễn núp đằng sau cánh gà, nhắc nhở, quan sát diễn tiến của vở kịch. Cùng một câu thoại, diễn viên này diễn tả xuất sắc hơn diễn viên kia, thế là người viết kịch có vô số những câu “tại vì…” để biện hộ cho cái bất tài của mình. Có những thể loại văn chương gần gũi với tùy bút ở chỗ tận dụng chủ quan của người viết, như thế “ký”, và “hồi ký”. Trong hai thể loại này, người viết phải bắt buộc xưng “tôi” và chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì mình viết ra. Nguyên tắc đạo đức căn bản của “ký” và “hồi ký” là sự thành thật, người viết hồi ký phải tôn trọng sự thật mặc dù được phép viết một cách chủ quan. Nhưng viết bút ký và hồi ký cũng chưa phải là trò chơi nguy hiểm. Người viết ký chỉ cần công nhận mình chủ quan trong cách ghi chép sự việc là ngay lập tức mọi lỗi lầm được tha thứ. Người viết hồi ký còn rộng chân rộng tay hơn nữa. Vì chỉ những người đã may mắn “có một chút danh gì với núi sông” mới viết hồi ký. Trong ánh hào quang của danh vọng và sự an toàn của người đã ra ngoài cuộc, người viết hồi ký chiếm được nhiều tiện nghi. Có cái sang trọng hấp dẫn của “miệng nhà quan”, và vì ông quan “có gang có thép” một thời ấy bây giờ đã “từ quan”, nên không còn là đối tượng của những ghen ghét, đố kỵ. Nói hay người ta khen, nói dở người ta thông cảm. Chỉ còn những người liều lĩnh chọn viết một thể loại nguy hiểm, là tùy bút. Vì người viết tùy bút phải đem cái tôi ra nói từ đầu chí cuối, như là một người khỏa thân ngay giữa chợ. Chẳng những thế, tuy được phép nói về mình, nhưng tùy bút không cho phép nói có đầu có đuôi, có thắt có mở như người viết truyện. Tùy bút cũng không cho phép ăn nói nghiêm trọng. Trong một cuộc hội họp bù khú cuối tuần, người được Trời ban cho cái giọng thiên phú, thu hút thiên hạ bằng những lời hiệu triệu chính trị hùng hồn hoặc những bài hát karaoke. Người có tài kể chuyện cũng là chúa tể của một nhóm khác. Riêng các anh chị viết tùy bút, trong những dịp ấy, họ chẳng khác nào những người có tài tán gẫu, nói những chuyện có vẻ bông lơn chẳng có gì trầm trọng nhưng ai nghe cũng thích thú. Khi chia tay, cảm giác thích thú ấy cứ còn hoài, tuy cố nhớ thì cũng không thấy anh chàng ăn nói lan man có duyên ấy nói những chuyện gì. Trong The Importance of Living (Nguyễn Hiến Lê dịch thành cuốn Một Quan Niệm Về Sống Đẹp), Lâm Ngữ Đường bàn về những cái thú ở đời. Lâm tiên sinh có bàn về một cái thú rất dễ tìm nhưng ít ai lưu ý: cái thú tán gẫu. Những lúc đó, vô phúc gặp phải những tay hùng biện thao thao bất tuyệt về những chuyện vá trời lấp biển, thì phí mất một ngày cuối tuần. Hoặc gặp phải một ông thầy tu dạy dỗ những điều phải làm, ngồi nghe phải kính cẩn xếp hai bàn tay ngay ngắn trên đầu gối, miệng đánh nhịp “bạch thầy” với “lạy cha” thì cũng chán chết. Kẻ may mắn mới gặp được những chuyên gia tán gẫn trong những tối cuối tuần, hoặc đọc được những tập tùy bút có duyên. “Tán gẫu” không phải là “tán thán”, lại càng không phải là “tán nhảm”. Chuyện đem ra bàn không phải là chuyện có đầu có đuôi, một người xướng rồi những người nói sau phụ họa như một giàn hợp xướng đơn điệu. Ở đây, không có ai dẫn đạo, không có ai theo đuôi. Đề tài được mở rộng, cái gì hứng khởi thì cho tới luôn, đang tới mà thấy cái gì lạ thì bẻ ngoặc rẽ sang hướng khác cũng không sao. Võ hiệp gọi là “vô chiêu”. Người tán gẫu giỏi hay người viết tùy bút hay, không lụy vào bất cứ khuôn thước nào, cứ tùy hứng mà bay nhảy thoải mái. Trúc Chi viết tùy bút như thế! “Trong cuộc sống hàng ngày, tôi vẫn thích có được mươi mười lăm phút ngồi một mình như vậy. Ngồi im vậy thôi chứ không có bận tâm gì về cái thiên hình vạn trạng của hai chữ xuất xứ của người nay và người xưa. Đời tôi kể cũng có một đôi lúc khá xui, nhưng chưa bao giờ phải xuất, phải bất hạnh mà gánh lấy việc quân quốc trọng sự như ông quân sư đầy mưu thần chước quỷ nọ, ngồi một mình bên hồ cá nghĩ kế chận năm đạo quân xâm lược đang rục rịch tiến vào Thành Đô. Còn về chữ xử, thì hình như tôi vẫn chân trong chân ngoài. Tôi ngồi trong một tư thế rất thoải mái cho cơ thể tôi, không phải kiết già kiết trẻ chi, mà cũng không phải để thiền thiếc gì. Những lúc ấy đầu óc tôi bận rộn lắm, nhảy hết chuyện này sang chuyện khác, cứ loạn xà ngầu cả lên như là màn ảnh ti-vi chớp từ đài này sang đài kia. Cứ ngồi vậy thôi, để cho bộ máy thần kinh hoàn toàn độc lập, tự do, nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Những lúc ấy, hình như tôi… hạnh phúc lắm. Không biết đó có phải là hạnh phúc thật không, nhưng riêng tôi, tôi lấy đó làm một cái thú thường nhật”. Lúc cô độc một mình, Trúc Chi thích nghĩ lan man. Cho nên khi viết, anh cũng thích viết lan man. “Ấy, cái lối viết lách của tôi nó vậy đó. Định viết về một chuyện mà rồi lại nhảy sang chuyện khác. Nó cứ giống như thói quen của các bà nội trợ tham con diếc tiếc con rô mà tôi vẫn thường thấy trong các siêu thị ở đây. Thấy bó rau muống tươi, sắp sửa mua thì lại bị mấy quả xoài đầu mùa nhập cảng từ Mễ Tây Cơ nó cám dỗ. Thành ra cái rổ chợ (đúng ra thì phải nói cái xe chợ) nhiều khi có phần… đa mang. Thành ra bài vở của tôi cũng vậy, nhét quá nhiều thứ, mà lại không có đầu đuôi gì cả. Hỏng!”. Đọc tùy bút của Trúc Chi, không thể không nghĩ tới tùy bút của Nguyễn Tuân. Phong cách tùy bút của hai người có nhiều điểm giống nhau: giọng thiết tha khi nói đến thanh đến sắc, niềm xót thương cho những thân phận ca kỹ về chiều, chút khinh bạc dành cho những kẻ tối mặt vì những thứ phù vân. Những trang tùy bút hay nhất của Trúc Chi, cũng như Nguyễn Tuân, là những trang “thương hoa tiếc ngọc”. Đọc những trang viết ấy tôi cứ liên tưởng đến mấy câu của Chu Mạnh Trinh viết trong Bài Tựa Truyện Kiều (qua bản dịch): “Ta cũng nói tình thương người đồng điệu, cái kiếp không hoa lẩm cẩm, còn hồn xuân mộng bâng khuâng. Đã toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muốn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên…”. Nhưng tôi cũng nhận ra được điểm khác biệt lớn lao giữa Nguyễn Tuân và Trúc Chi. Lấy lại hình ảnh những buổi tán gẫu trên kia. Trong những dịp họp mặt thích thú đó, một người như Nguyễn Tuân dĩ nhiên là cái đinh của cuộc vui. Tùy bút Nguyễn Tuân hay, điều đó khỏi cần bàn cãi. Qua cái ảo diệu uyển chuyển của ý và lời, trong tùy bút Nguyễn Tuân, tôi vẫn lờ mờ thấy có cái phần “biểu diễn”, cái phần “muốn lấn lướt” để vượt lên trên đám nhân sinh lổn nhổn đang vây quanh ông. Ngyễn Tuân không hề che giấu lòng khinh mạn lũ người ngợm dung-thường đang trố mắt thán phục ông, cho nên trong cái ngang tàng ngất ngưởng của Nguyễn Tuân, có chen nhiều chất “kịch”. Trong buổi tán gẫu có mặt Nguyễn Tuân, tôi nghĩ chỉ có Nguyễn Tuân xướng, và ông cũng không muốn cho ai khác hơn ông được xướng. Tùy bút Trúc Chi không có cái phần “kịch” ấy. Trúc Chi là một người biết rõ cốt tủy của thú tán gẫu: sự bình đẳng. Ông hòa đồng chứ không muốn nổi bật. Ông tỉ tê lan man chứ không cao giọng. Nguyễn Tuân nói rõ những kẻ đáng khinh đáng ghét. Trúc Chi chia nhân loại làm hai hạng: đáng yêu chiếm đa số; thiểu số còn lại là những người đáng thương. Hãy nghe Trúc Chi “tán gẫu” về một người chồng phụ bạc: “… Bởi vì nó đang đưa tôi về với một buổi chiều hè trong một quán rượu ở đường Montparnasse, có Hoài, có tôi, có nhiều mất mát. Vẫn biết, như câu chuyện cũ trong sách giáo khoa, mình mất người khác được, nhưng những thứ mà Hoài và tôi từng bị đời cướp mất, lại không ai buồn lượm cả. Thành ra cái buổi hội ngộ sau tháng Tư 75 ấy, nó nhuốm một chút bùi ngùi, đượm một chút chua chát. Hôm ấy là lần đầu tiên Hoài nói thật với tôi rằng Nhân quyết định ở lại Việt Nam, không phải vì Nhân thích “bên kia” như tôi vẫn tưởng, mà chính vì Nhân không thể xa người đàn bà ấy, vốn cũng là bạn của tôi. Trong cái nháo nhào, trong cái tuyệt vọng của số đông vào cái ngày 30 tháng Tư năm ấy, có hai tâm hồn tự tách rời ra khỏi những biến cố trọng đại của lịch sử để mà xây một cái tổ ấm trên cái đống tro còn nóng của một thời khói lửa. Kể cũng can đảm. Mà cũng đẹp chứ không phải không. Cái anh chàng Nhân bạn học của tôi, tôi nghĩ mà thương. Ngày còn thanh niên, Nhân vui vẻ, hay đùa giỡn, trêu thầy, chọc bạn. Ra đời nhờ bẩm sinh thông minh lanh lẹn, lại thành công sớm trong ngành thầu xây cất. Tôi biết rõ Nhân lắm, con người hoạt bát và lịch lãm ấy hẳn không phải là không nát óc, không nát ruột khi phải chọn giữa bên vợ và bên bồ. Tôi nghĩ đến những vở kịch thời cổ bên Hy Lạp mà cốt chuyện được dựng trên cái xung đột nội tâm của nhân vật chính. Tôi nghĩ đến cái dằng co giữa Hiếu và Tình, giữa Trung và Hiếu trong một đôi tuồng hát bộ. Phải rồi: Song phủ cứu lai chánh hậu Ngửa vái trời soi thấu lòng ngay Xét thân hổ với cao dày Phơi gan giúp chúa, chau mày phụ cha. Xót xa lắm chứ. Tôi còn thấy được hình ảnh khổ đau của nhân vật này trong tuồng Sơn Hậu, nếu tôi không lầm, đôi lông mày nhíu lại cơ hồ chỉ còn có một đường ngang dưới trán, hai tay dang ra với một vẻ sững sờ hầu như là tuyệt vọng khi kẹt trong một cái thế lưỡng nan: giết cha hay phò chúa. Vậy nhưng mà trong lòng những con người thời trước, có cao dày, có trời đất chứng giám cho, còn ở trong lòng người bạn hiền mang tên Nhân, mà tôi biết là không tin ở một đấng nào trong cõi siêu hình cả, động cơ nào đã thúc đẩy anh đi đến quyết định bỏ Hoài mà ở lại với người đàn bà rất tài hoa kia? Hình như nó là cái chữ Tình thì phải. Chữ Tình mà người đời trước đã tự hỏi xem nó là cái chi chi!”. Một phong cách thật sự thoải mái, thư giãn, đi chung với một tâm hồn nhân hậu, tôi nghĩ đó là kết hợp tuyệt vời tạo ra vẻ đẹp trong tùy bút của Trúc Chi. Xin bạn đọc gác tạm những lo toan vướng víu sang một bên, và cùng Trúc Chi hưởng cái thú tán gẫu bằng những trang tùy bút sau đây. Nguyễn Mộng Giác - Đó Đây, tùy bút của Trúc Chi, nhà xuất bản Văn Học, 1999 Nguồn: Tạp Chí Văn Học, số 164. Mời các bạn đón đọc Đó Đây của tác giả Trúc Chi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Hồi ký Phạm Duy
Kể lại chuyện mình xẩy ra từ sáu, bẩy mươi năm về trước là một việc làm không dễ. Tuy nghề nghiệp bắt buộc người nhạc sĩ phải có trí nhớ tốt để thuộc lầu hàng trăm, hàng ngàn bản nhạc, nhưng khi ngồi đào sâu ký ức để tìm về quá khứ thì tôi thấy những dữ kiện quá ư phức tạp, quá ư hỗn độn. Tôi lại không còn ở trong nước để kiểm chứng hàng chục, hàng trăm những nghi vấn về địa chí, về danh xưng và cũng không có trong tay những bản đồ với tên tỉnh, tên huyện, tên phố đã được thay đổi tới 4, 5 lần dưới nhiều chính thể... Do đó Hồi Ký Thời Thơ Â'u Vào Đời này có những khuyết điểm tuy không quan trọng nhưng tác giả cũng xin một sự độ lượng nào đó của người đọc. Là con mồ côi cha quá sớm, tôi muốn dâng cuốn Hồi Ký này lên người bố mà tôi không được gần gũi, vì tôi tin ở huyết thống. Tôi mường tượng bố tôi sinh ra đã có người Pháp cai trị dân Việt Nam rồi. Bên cạnh những hành động của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cùng với các bạn "đồng chí hướng" như Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim... bố tôi đem uẩn ức của dân nô lệ vào đời và hoạt động trong nhiều địa hạt, khi làm công tác trong một Nghĩa Thục, khi dùng ngòi bút tả chân trong văn chương và báo chí, khi tranh thương với Hoa Kiều v.v... Tất cả cho mục đích thay đổi xã hội, thay đổi cuộc đời. Nói như vậy vì tôi thèm được thấy bạn đọc nhìn nhận Hồi Ký này không khởi sự từ những năm 20 khi tôi vừa ra đời mà còn ôm đồm thêm những dữ kiện về thế hệ cha ông trong những năm đầu của thế kỷ. Nếu được như vậy, toàn bộ Hồi Ký của tôi sẽ bao trùm được đủ 100 năm của thế kỷ mà 50 năm đầu là sự đoàn kết của tất cả "người Việt nô lệ" -- trong đó có bố con tôi -- trong việc giành Độc Lập và Tự Do. Muốn biết rõ hơn cuộc đời của một "người Việt tự do" -- là tôi -- trong 50 năm sau của thế kỷ thứ 20, xin mời bạn đọc tiếp những cuốn Hồi Ký tiếp theo. Thế hệ ông cha ta, với các phong trào Văn Thân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, thành công hay thất bại, ai cũng đều biết. Riêng tôi biết rõ bố tôi chết đi mà chưa thực hiện được những giấc mơ của mình. Những đứa con là nơi để bố trút bầu tâm sự. Bốn người con lớn không thừa hưởng vẹn toàn thông điệp của bố, có lẽ tại vì các anh các chị chưa phải là thứ "tinh trùng bất mãn" được bố cấy vào trong mẹ. Thằng con út, khởi sự là bào thai đã được bố gửi gấm những hoài bão vào lúc bố biết mình đã thất bại và sắp chết. Nó lớn lên, vì sự linh thiêng của huyết thống, nó thực hiện giấc mộng không thành của người cha ?! Hình như Goethe và Maxime Gorki đã coi những ngày thơ ấu của hai ngài là những ngày Đại Học. Vốn chẳng được theo đuổi việc học hành trong sách vở tại nhà trường, tôi cũng bắt chước hai vị để nói rằng trường Đại Học Âm Nhạc của tôi là kho tàng âm nhạc bình dân mà tôi hấp thụ trong quãng đời sớm lang bạt của tôi. Thuật sống của tôi học được ở mọi tầng lớp nhân dân mà tôi sớm được tiếp xúc. Lẽ dĩ nhiên sự giáo dục về cuộc đời cũng đến với tôi từ mẹ ruột, từ vú nuôi, từ mẹ nuôi, từ thầy giáo, từ bạn bè... đến cả từ những khắc nghiệt của người anh cũng như từ những ân sủng của người tình. Xin được tri ân tất cả! Tôi cũng cần phải cám ơn những người giúp tôi rất nhiều trong việc hoàn tất tập HỒI KÝ này: Bạn cùng học tại những ngôi trường cũ như Bác Sĩ Nguyễn Đình Thi (Trường Hàng Vôi), Cao Trung (Trường Bách Nghệ), Tạ Tỵ, Võ Lăng (Trường Mỹ Thuật). Bạn tâm giao cũ hay bạn mới làm quen là những người ở từng địa phương như Phạm Thanh Liêm, Lê Ninh (Hưng Yên), chị Lê Tôn Hy (YênThế-Bắc Giang), Nguyễn Sĩ Hưng (Thanh Hoá), Cao Xuân Vỹ, Nguyễn Đình Khuê (Nghệ An), Nguyễn Cúc (Huế), Hàn Vĩ, Lê Trọng Nguyễn (Hội An), Nguyễn Văn Sang (Quảng Ngãi), Lữ Liên (Dalat), Trần Văn Khê (Vĩnh Long). Bạn văn nghệ như Lê Văn-Vũ Bắc Tiến, Nguyễn Hiền. Tất cả đã nhắc lại tên các rạp hát và các điạ danh của tỉnh mình, hoặc kể lại vài mẩu chuyện cũ để cho cuốn Hồi Ký của tôi thêm mầu sắc và thêm xác thực. Lẽ ra có hai tập: Hồi Ký Thời Thơ Â'u và Hồi Ký Thời Vào Đời. Nhưng để tiết kiệm thời giờ và tiền mua sách của bạn đọc, tôi thu gọn hai tập vào một cuốn sách. Do đó toàn bộ Hồi Ký chỉ còn 4 tập thay vì 5 tập như tôi đã rao. Vậy tôi xin rao lại, và xin trân trọng mời bạn đọc cùng tôi đi về dĩ vãng. Thị Trấn Giữa Đàng, Mùa Đông 1989 ***   Tôi ra đời tại nhà hộ sinh ở số 40 Rue Takou (phố Hàng Cót) Hà Nội vào lúc 1 giờ 15 sáng ngày 05 tháng 10 năm 1921, theo âm lịch là ngày mùng 5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu. Trước đó vài giờ, mẹ tôi còn đang ôm bụng ngồi đánh tổ tôm với mấy bà bạn và với Bác Hàn Làng Vẽ. Mẹ tôi vừa ù xong ván bài tổ tôm thì dở dạ và người nhà vội vàng đưa vào nhà đẻ. Do đó, khi tôi lớn lên, mỗi lần gặp Bác Hàn là bác nhắc tới chuyện ván bài tổ tôm và gọi tôi là thằng Tôm. Ai ngờ bây giờ về già, tôi cũng trở thành một thứ Uncle Tom. Tuy luôn luôn đắc ý cho rằng mình ra đời trong một canh bạc thắng của mẹ, nhưng khi lớn lên thằng Tôm này lại khoái với cái tên tự do chính mình đặt ra là Mộng Vân. Vì sao? Vì trong một lúc quá yêu Tôm, mẹ buột miệng nói rằng đã nằm mơ thấy những đám mây trong thời kỳ có mang... Lại cũng là một cái tên tiền định. Thằng Tôm sẽ như mây, lang thang suốt đời. Và khi du nhập vào nghề hát rong thì đụng ngay một đoàn hát Cải Lương mang tên Gánh Mộng Vân. Ngoài hai tên hiệu đó, cái tên thật -- rất quan trọng vì là tên cúng cơm -- cha mẹ đặt cho khi tôi vừa chào đời, tuy nó chẳng ngộ nghĩnh hay thơ mộng gì cho lắm, nhưng khi tôi trở thành ca sĩ của một gánh hát rong và chỉ dùng chữ họ và chữ đệm để cho khán giả dễ nhớ tên thì... cái tên cúng cơm đó biến mất. Ngay chị ruột tôi, về sau, cũng chỉ gọi tôi bằng tên đệm mà thôi. Giống như là có một sự quên tên hay kiêng tên vậy. Có điều chắc chắn là tôi đã ra thoát được tục lệ từ xưa của người Việt là thường đặt những cái tên rất xấu xí cho con cái để ma quỷ không thèm bắt đi như: (xin lỗi) thằng Buồi, thằng Đít vân vân... Bố tôi là Phạm Duy Tốn, được người đời biết như là một nhà báo, một nhà văn đã từng tiếp súc với văn hóa Âu Tây và đã không còn là một nhà nho thuần túy nữa, nhưng khi bố tôi đặt tên cho con cái thì đều dựa vào chữ nho cả. Tên của ông cũng như tên của các con đều là tên của những đức tính và nếu viết bằng chữ nho thì chữ nào cũng nằm trong bộ ngôn, nghĩa là bộ chữ thuộc vào những hạng người thích ăn to nói lớn. Anh cả của tôi mang tên Khiêm, tới hai người chị là Thuận và Trinh, rồi tới người anh hơn tôi 2 tuổi là Nhượng. Hai người anh trong thực tế sẽ sống bằng nghề ăn nói, họ đều là những ông thầy dạy học. Nhưng họ đều giống tôi ở chỗ tính nết sẽ không như cái tên bố đã đặt cho. Ông Khiêm nhiều khi có vẻ thiếu khiêm cung. Ông Nhượng không hẳn lúc nào cũng nhường nhịn em nhỏ. Còn tôi, với cái tên Cẩn, nếu suốt đời đã sống nhờ chữ ''ngôn'' trong cái tên thì trái với điều mong muốn của bố tôi, chẳng bao giờ tôi thấy trong tôi có được một sự cẩn trọng tối thiểu! Tuy vậy, về sau tôi cũng học mót bố tôi trong việc đặt tên cho tám đứa con. Chúng đều phải mang những cái tên tốt đẹp như: Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh. Tôi đã thừa hưởng tinh thần hướng thượng của bố tôi vậy. Mời các bạn đón đọc Hồi ký Phạm Duy của tác giả Phạm Duy.
Miền Đất Hứa
Cùng với hồi ký Chất Michelle của cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama, First News - Trí Việt vừa giao dịch thành công bản quyền hồi ký A Promised Land (tạm dịch: Miền đất hứa) của cựu Tổng thống Barack Obama. Sách đã được phát hành hơn 3 triệu bản tại Mỹ trong lần xuất bản đầu tiên và sẽ ra mắt độc giả Việt Nam trong thời gian sớm nhất.   Ngày 17-11, dù dịch Covid-19 vẫn đang bùng phát mạnh tại Mỹ nhưng hồi ký Miền đất hứa của cựu Tổng thống Barack Obama vẫn trở thành tâm điểm chú ý của dư luận. Ngay trong lần in đầu tiên, cuốn sách đã phát hành được hơn 3 triệu bản, ngay lập tức tạo nên cơn sốt với hơn 890.000 bản được bán trong ngày đầu tiên phát hành.   Hồi ký Miền đất hứa dày 768 trang, là tập đầu tiên trong bộ hai tập sách của cựu Tổng thống Barack Obama. Tác phẩm viết về những bước đầu trong sự nghiệp chính trị của cựu Tổng thống Mỹ, chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008 của ông và kết thúc tại sự kiện cái chết của trùm khủng bố Osama bin Laden năm 2011.     Tại Mỹ, NXB Penguin Random House đã dự đoán số người đặt mua sách rất lớn nên đã in 3 triệu bản sách tại thị trường Mỹ. Để dự phòng số đơn hàng tăng cao hơn, nhà xuất bản này đã thêm phương án đặt in thêm một triệu bản tại Đức và sắp xếp vận chuyển trên ba con tàu, 112 container để đưa về Mỹ.   Sau ngày 17-11, tập 1 của hồi ký sẽ được phát hành tại nhiều nước trên thế giới, chuyển ngữ sang 25 thứ tiếng -  trong đó có tiếng Việt, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Trung, tiếng Ả Rập, tiếng Czech, tiếng Phần Lan.   Ông bà Obama đã bán bản quyền những cuốn hồi ký của mình cho đơn vị xuất bản tại Mỹ với giá lên đến 65 triệu USD và gây được những thành công vang dội. Chỉ riêng cuốn hồi ký nổi tiếng của cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama đã bán được hơn 8,1 triệu bản, tính riêng tại Mỹ và Canada cho tới thời điểm này. Sách cũng tạo nên một hiện tượng xuất bản tại Việt Nam về thể loại hồi ký phu nhân nguyên thủ thế giới sau hồi ký Hilary Clinton, cũng do First News - Trí Việt chuyển ngữ phát hành ở Việt Nam.   Năm ngoái, First News - Trí Việt đã tham gia đấu giá Royalty Auction quốc tế, vượt qua hàng chục NXB trong nước để mua bản quyền hai cuốn hồi ký Chất Michelle và Miền đất hứa để xuất bản hai tác phẩm này bằng tiếng Việt.   Được biết, hiện tại First News - Trí Việt đã nhận được đầy đủ file cuốn hồi ký gây sốt của cựu Tổng thống Obama từ NXB Penguin Random House - nơi nắm giữ bản quyền tác phẩm, từ New York chuyển về. Dự kiến, hồi ký của cựu Tổng thống Obama sẽ được First News biên dịch và xuất bản để phục vụ bạn đọc Việt Nam trong thời gian sớm nhất. *** Tôi bắt đầu viết quyển sách này ngay sau khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của tôi — sau khi Michelle và tôi lên máy bay Không Lực Một lần cuối và đi du lịch về phía Tây trong một kỳ nghỉ dài hạn. Tâm trạng trên máy bay buồn vui lẫn lộn. Cả hai chúng tôi đều kiệt quệ cả về thể chất và tinh thần, không chỉ bởi công sức của tám năm trước mà còn bởi kết quả bất ngờ của một cuộc bầu cử trong đó một người hoàn toàn phản đối tất cả những gì chúng tôi ủng hộ đã được chọn làm người kế nhiệm của tôi. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành chặng đường của cuộc đua, chúng tôi hài lòng khi biết rằng chúng tôi đã làm hết sức mình — và dù tôi đã hụt hẫng với tư cách là tổng thống, bất kỳ dự án nào tôi mong muốn nhưng không hoàn thành, đất nước bây giờ đang ở trong tình trạng tốt hơn so với khi tôi bắt đầu. Trong một tháng, Michelle và tôi ngủ muộn, ăn tối nhàn nhã, đi bộ đường dài, bơi ở biển, đi mua sắm, bồi đắp tình bạn, tìm lại tình yêu của chúng tôi và lên kế hoạch cho một hành động thứ hai ít biến cố hơn nhưng hy vọng không kém phần thỏa mãn. Và vào thời điểm tôi đã sẵn sàng trở lại làm việc và ngồi xuống với cây bút và tập giấy màu vàng (tôi vẫn thích viết mọi thứ bằng tay, nhận thấy rằng một chiếc máy tính cung cấp cho ngay cả những bản nháp thô nhất của tôi một độ mượt mà và khiến những suy nghĩ nửa vời trong chiếc mặt nã của sự ngăn nắp) , tôi đã phác thảo rõ ràng về cuốn sách trong đầu. Đầu tiên và quan trọng nhất, tôi hy vọng sẽ tái hiện trung thực thời gian tại vị — không chỉ là bản ghi chép lịch sử về các sự kiện quan trọng đã xảy ra trên đồng hồ của tôi và các nhân vật quan trọng mà tôi đã tương tác mà còn là bản tường thuật về một số mặt chính trị, kinh tế và sự giao thoa văn hóa đã giúp xác định những thách thức mà chính quyền của tôi phải đối mặt và những lựa chọn mà nhóm của tôi và tôi đã đưa ra để đối phó. Nếu có thể, tôi muốn cung cấp cho người đọc cảm giác trở thành tổng thống của Hoa Kỳ là như thế nào; Tôi muốn kéo bức màn lại một chút và nhắc nhở mọi người rằng, đối với tất cả quyền lực và sự phô trương của nó, chức vụ tổng thống vẫn chỉ là một công việc và chính phủ liên bang của chúng tôi là một doanh nghiệp con người như bao doanh nghiệp khác, và những người đàn ông và phụ nữ làm việc ở Nhà Trắng trải nghiệm sự kết hợp hàng ngày với sự hài lòng, thất vọng, xích mích trong văn phòng, những rắc rối và thành tích nhỏ như những người khác. Cuối cùng, tôi muốn kể một câu chuyện cá nhân hơn có thể truyền cảm hứng cho những người trẻ đang cân nhắc cuộc sống phục vụ công cộng: sự nghiệp chính trị của tôi thực sự bắt đầu như thế nào với việc tìm kiếm một vị trí phù hợp, một cách giải thích những khía cạnh khác nhau của tôi - nâng cao di sản, và làm thế nào mà chỉ bằng cách nâng toa xe của tôi đến một thứ lớn hơn bản thân tôi mà cuối cùng tôi đã có thể định vị một cộng đồng và mục đích cho cuộc đời mình. Tôi nghĩ rằng tôi có thể làm tất cả những điều đó trong khoảng năm trăm trang. Tôi dự kiến sẽ được thực hiện trong một năm. Công bằng mà nói thì quá trình viết không diễn ra chính xác như tôi đã định. Bất chấp những ý định tốt nhất của tôi, cuốn sách vẫn tiếp tục phát triển về độ dài và phạm vi — lý do tại sao cuối cùng tôi quyết định chia nó thành hai tập. Tôi đau đớn nhận ra rằng một nhà văn có năng khiếu hơn có thể đã tìm ra cách để kể cùng một câu chuyện với sự ngắn gọn hơn (sau cùng, văn phòng tại nhà của tôi ở Nhà Trắng nằm ngay cạnh Phòng ngủ Lincoln, nơi có một bản sao của quyển Diễn văn Gettysbur g nằm bên dưới tủ kính). Nhưng mỗi lần như vậy tôi lại ngồi viết — cho dù đó là mô tả các giai đoạn đầu của chiến dịch của tôi, hay cách xử lý của chính quyền của tôi đối với cuộc khủng hoảng tài chính, hoặc các cuộc đàm phán với người Nga về kiểm soát vũ khí hạt nhân, hay các lực lượng dẫn đến Mùa xuân Ả Rập — Tôi thấy tâm trí mình đang chống lại một câu chuyện tuyến tính đơn giản. Thông thường, tôi cảm thấy có nghĩa vụ cung cấp ngữ cảnh cho các quyết định mà tôi và những người khác đã đưa ra và tôi không muốn chuyển nó thành chú thích cuối trang hoặc chú thích cuối sách (tôi ghét chú thích cuối trang và chú thích cuối sách). Tôi phát hiện ra rằng không phải lúc nào tôi cũng có thể giải thích động cơ của mình chỉ bằng cách tham khảo hàng đống dữ liệu kinh tế hoặc nhớ lại một cuộc họp báo đầy đủ ở Phòng Bầu Dục, vì chúng đã được định hình bởi một cuộc trò chuyện mà tôi đã có với một người lạ trên đường vận động, một chuyến thăm bệnh viện quân y, hay bài học thời thơ ấu mà tôi đã nhận được từ mẹ tôi nhiều năm trước đó. Ký ức của tôi lặp đi lặp lại những chi tiết dường như ngẫu nhiên (cố gắng tìm một vị trí kín đáo để hút thuốc buổi tối; nhân viên của tôi và tôi cười sảng khoái khi chơi bài trên Không Lực Một) đã ghi lại được, theo cách mà hồ sơ công khai không bao giờ có được, kinh nghiệm sống trong tám năm tôi ở Nhà Trắng   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Hứa của tác giả Barack Obama.
Cha Tôi - Tổng Thống Thứ 41 Của Hoa Kỳ
Cuốn sách kể về cuộc sống và sự nghiệp của Tổng thống George H. W. Bush, qua đó tiết lộ về ảnh hưởng của ông đối với cuộc đời Bush con sau này, từ thời thơ ấu ở Texas cho đến khi bước vào con đường chính trị và trải qua hai nhiệm kỳ tổng thống. Đây là cuốn sách mà George Bush - Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ - muốn bày tỏ tình yêu, sự tôn trọng và biết ơn đối với người cha kính yêu. Trong Cha tôi: Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ, George Bush đã vẽ lên bức chân dung của người cha bằng tình cảm trìu mến. Ông không chú trọng viết về thời kỳ Bush-cha ngồi trong Nhà Trắng mà chỉ xoay quanh những điều mà ông gọi là “câu chuyện tình yêu” về tình phụ tử: “Nhiều năm qua đi, tôi đồ rằng sẽ có rất nhiều sách phân tích về George Herbert Walker Bush, về con người và nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nhiều cuốn trong đó có thể theo chiều hướng khách quan. Nhưng cuốn sách này thì không. Đây là một cuốn truyện tình - chân dung về một cá nhân phi thường, người mà tôi được ban phước lành để gọi là Cha. Tôi không có ý định sẽ miêu tả toàn bộ các khía cạnh trong cuộc sống của ông hoặc những năm ông tại nhiệm. Tôi thật sự hy vọng sẽ thể hiện được lý do tại sao George H.W. Bush thật sự là một vị tổng thống tuyệt vời và là một người cha còn tuyệt vời hơn nữa...” “George W. Bush đã cho độc giả thấy quan điểm hết sức độc đáo về những phẩm chất cá nhân và nguyên tắc đã làm cho cuộc sống phục vụ đất nước và gia đình vô cùng lạ thường của George H. W. Bush thêm sinh động”- Maya Mavjee, nhà xuất bản Crown Publishers, cho biết. *** George Walker Bush (còn gọi là George Bush con, Bush Jr hoặc là Bush 43, sinh ngày 6 tháng 7 năm 1946) là một chính trị gia, doanh nhân, và là Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ tại nhiệm từ năm 2001 đến năm 2009. Ông là thành viên Đảng Cộng hoà và từng đảm nhiệm chức Thống đốc thứ 46 của tiểu bang Texas từ năm 1995 đến năm 2000. Ngoài ra, ông còn là thành viên của một gia đình có quyền thế ở nước Mỹ, Gia tộc Bush, với cha của ông, George H. W. Bush, là Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ tại nhiệm năm 1989 đến năm 1993. Bush là con trai cả của Barbara và George H. W. Bush, và là người con trai thứ hai trở thành Tổng thống Mỹ sau cha mình (người đầu tiên là John Quincy Adams). Sau khi tốt nghiệp Đại học Yale năm 1968 và Trường Kinh doanh Harvard năm 1975, ông làm việc trong ngành dầu khí. Bush kết hôn với Laura Welch vào năm 1977. Khoảng một năm sau khi kết hôn, Bush tranh cử dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ông đã thất bại trong cuộc bầu cử lần đó. Vài năm sau, Bush trở thành đồng sở hữu một đội bóng chày mang tên Texas Rangers. Trong cuộc bầu cử Thống đốc bang Texas năm 1994, ông đã vượt qua vị Thống đốc lúc bấy giờ là Ann Richards để trở thành người lãnh đạo mới của tiểu bang Texas. Bush được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ năm 2000 sau khi đánh bại vị Phó Tổng thống đương nhiệm đến từ Đảng Dân chủ Al Gore. Đây là một chiến thắng khá sát sao và gây nhiều tranh cãi nhất lịch sử khi phải cần đến xét xử của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ để chấm dứt việc kiểm phiếu lại ở tiểu bang Florida. Đồng thời, cũng với chiến thắng này, Bush trở thành người thứ tư được bầu làm Tổng thống với số phiếu phổ thông ít hơn đối thủ. Để đáp trả cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9, Bush đã phát động cuộc "Chiến tranh chống khủng bố" và mở màng chiến dịch này với chiến tranh Afghanistan năm 2001. Vào năm 2003, ông cũng cho tiến hành Chiến tranh Iraq. Trong thời gian làm Tổng thống, Bush đã ký ban hành nhiều điều luật bao gồm các cắt giảm thuế, Đạo luật Yêu nước (Patriot Act), Đạo luật Giáo dục cho Mọi Trẻ em (No Child Left Behind Act), Đạo luật Cấm Phá Thai (Partial-Birth Abortion Act), Đạo luật Hiện đại Hóa Chương trình Bảo hiểm Sức khỏe (Medicare Modernization Act) và tài trợ cho chương trình cứu trợ AIDS mang tên là PEPFAR. Trong kỳ bầu cử Tổng thống năm 2004, Bush đã giành được một chiến thắng sát sao sau khi vượt qua Thượng nghị sĩ của Đảng Dân chủ John Kerry. Sau khi tái đắc cử, Bush đã phải nhận nhiều lời chỉ trích từ nhiều phía trên phổ chính trị (từ các chính trị gia thuộc cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa) vì cách xử lý các vấn đề trong Chiến tranh Iraq, Bão Katrina, cũng như các thách thức khác. Giữa tình hình trên, Đảng Dân chủ đã giành lại quyền kiểm soát Quốc hội trong cuộc bầu cử năm 2006. Vào tháng 12 năm 2007, Hoa Kỳ bước vào thời kỳ suy thoái dài nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai, và thời gian này thường được gọi là thời kỳ "Đại suy thoái". Sự việc này đã khiến chính quyền Bush phải dựa vào sự chấp thuận của Quốc hội cho nhiều chương trình kinh tế nhằm bảo toàn hệ thống tài chính của đất nước. Bush là một trong những tổng thống Hoa Kỳ nhận cả sự mến mộ lẫn không bằng lòng từ người dân. Sau vụ tấn công 11/9, ông có được sự tín nhiệm cao nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 xảy ra, mức tín nhiệm lại xuống một trong những ngưỡng thấp nhất trong lịch sử. Bush kết thúc nhiệm kỳ thứ hai của mình vào năm 2009 và trở về Texas. Năm 2010, ông đã xuất bản hồi ký của mình mang tên Decision Points. Thư viện Tổng thống của ông được khai trương vào năm 2013. Mặc dù mức ủng hộ của người dân dành cho Bush đã dần được cải thiện đáng kể từ khi rời nhiệm sở, ông vẫn bị đánh giá là một trong những vị Tổng thống tệ nhất trong các cuộc thăm dò của các nhà sử học. *** ài tháng sau khi chúng tôi rời Nhà Trắng, Laura và tôi đã mời Tim Lawson cùng Phu nhân Dorie McCullogh Lawson đến trang trại của chúng tôi tại Crawford, bang Texas. Tôi đã nhờ Tim - một họa sĩ thực thụ, chứ không phải một người nghiệp dư như tôi - vẽ cảnh quan một số địa điểm mà chúng tôi yêu thích. Khi Tim quan sát các thảo nguyên rộng lớn và những gốc sồi sống trên mảnh đất màu mỡ thì Dorie và tôi nói chuyện về thân phụ của bà, ông David Mc Cullough. Tôi đã nói với bà ấy rằng được gặp thân phụ của bà là một điều đặc biệt trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi, ông là một nhà sử học uyên bác và đã được nhận giải Pulitzer cho cuốn tiểu sử về Tổng thống John Adams. Sau khi cung cấp cho tôi một số thông tin về sức khỏe và công việc của thân phụ, Dorie nói rằng, “Ngài nên biết rằng điều mà cha tôi cảm thấy đáng tiếc nhất khi nghiên cứu về John Adams đó là không hề có ghi chép cụ thể nào về ông, bởi con trai ông là John Quincy Adams”. Dĩ nhiên bà ấy biết sự tương đồng giữa tôi và John Quincy: Chúng tôi đều là con trai của hai vị tổng thống và đều trở thành tổng thống. “Vì mục đích lịch sử”, bà ấy nói, “Tôi nghĩ ngài nên viết một cuốn sách về cha mình”. Tại thời điểm này, tôi đang hoàn thành hồi ký về nhiệm kỳ tổng thống của mình. Nhưng ý tưởng của Dorie gieo một hạt giống. Cuối cùng, nó đã đâm chồi nảy lộc thành cuốn sách này. Nhiều năm qua đi, tôi đồ rằng sẽ có rất nhiều sách phân tích về Geore Herbert Walker Bush, về con người và nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nhiều cuốn trong đó có thể theo chiều hướng khách quan. Nhưng cuốn sách này thì không. Đây là một cuốn truyện tình - chân dung về một cá nhân phi thường, người mà tôi được ban phước lành để gọi là Cha. Tôi không có ý định sẽ miêu tả toàn bộ các khía cạnh trong cuộc sống của ông hoặc những năm ông tại nhiệm. Tôi thật sự hy vọng sẽ thể hiện được lý do tại sao George H.W. Bush thật sự là một vị tổng thống tuyệt vời và là một người cha còn tuyệt vời hơn nữa. Tôi gửi tình yêu vào cuốn sách này. Tôi hy vọng rằng các bạn sẽ thấy thú vị khi đọc nó. Mời các bạn đón đọc Cha Tôi - Tổng Thống Thứ 41 Của Hoa Kỳ của tác giả George W. Bush.
Ta Ba Lô Trên Đất Á
“The world is a book and those who do not travel read only one page”. - St. Augustine. Chào bạn, bạn đang cầm trên tay cuốn sách hướng dẫn về du lịch bụi đầu tiên của Việt Nam. Có thể bạn là một người trẻ, khao khát mơ về chuyến đi đầu tiên của mình nhưng không biết làm cách nào để bắt đầu? Hoặc bạn là một người đã đi nhiều nơi, nhưng chỉ đi theo tour và đang tìm hiểu về du lịch bụi? Hay bạn là một phượt tử đã đi được kha khá nơi, nhưng vẫn muốn biết xem quyển sách này có gì hay ho mới mẻ? Nếu vậy, thì đây là quyển sách dành cho bạn. Hầu hết mọi người đều thích du lịch, và hầu hết người trẻ đều thích du lịch bụi. Nhưng làm thế nào để có thể đi? Nếu bạn đang tự hỏi câu đó, thì tôi có tin mừng cho bạn: Du lịch bụi không phải là chế tạo tên lửa. Nó dễ thôi, và không tốn nhiều tiền như ta tưởng. Còn nếu bạn đã có kinh nghiệm trong chuyện này, tôi chắc rằng bạn sẽ gật đầu với tôi. Trong trường hợp bạn không thuộc nhóm nào trên đây, bạn là người, bình thường, không cuồng du lịch, không yêu thích đi xa trải nghiệm như những người trẻ máu lửa khác (chà, bạn thuộc vào loại hiếm đấy). Bạn chỉ muốn tìm hiểu về những nền văn hóa khác, muốn có một vài thông tin, kiến thức về những dân tộc láng giềng để giúp ích cho việc kết bạn giao lưu văn hóa hoặc cho công việc của bạn, hay bạn chỉ đơn giản là đang trải qua một cuối tuần rảnh rỗi, nhặt quyển sách này lên và tự hỏi: “Cái quái gì ở trong này nhỉ?”. Ở đây, tôi có những câu chuyện hay cho bạn. Lý do ra đời của quyển sách này xuất phát từ kết quả của những quan sát về tình hình thực tế. Có hàng loạt đầu sách của các tác giả người Việt về du lịch và du ký khiến ta không khỏi mơ mộng về những cuộc hành trình khám phá và chinh phục thế giới: Châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Phi, Trung Đông, Ai Cập, và trời ạ, còn có Seychelles, Fiji và thậm chí là cả Nam Cực nữa chứ. Ngày càng có nhiều người Việt hòa nhập thế giới, chu du khắp mọi nơi trên Trái Đất này, và chia sẻ những ký ức tuyệt diệu về hành trình của họ. Bên cạnh đó, lại có rất nhiều bạn trẻ khao khát được đi, nhưng lại không biết bắt đầu như thế nào. Và đây là lỗ hổng mà tôi nhận thấy. Trong rất nhiều quyển sách du ký do người Việt viết hiện có trên thị trường, không có bất kỳ quyển sách nào hướng dẫn người trẻ một cách cụ thể làm thế nào để bắt đầu cuộc hành trình của mình. Cuốn sách này ra đời là để giải quyết vấn đề đó. Phân tích chi tiết hơn, có thể thấy, du lịch bụi hiện nay đang nổi lên như một trào lưu mới. Người trẻ hô hào rủ nhau đi và đi. Rất nhiều người viết về du lịch, về các địa điểm, các câu chuyện. OK, tất cả các câu chuyện nghe đều có vẻ hấp dẫn, nhưng rất nhiều bạn trẻ vẫn ngồi đấy, mài mông trên chiếc ghế nhà trường mòn vẹt, hoặc nhốt mình trong văn phòng ngột ngạt, mơ tưởng về những chuyến đi. Và đến khi họ bắt đầu chuyến đi của mình, họ gặp khó khăn, họ không biết bắt đầu từ đâu, họ không rõ tìm thông tin thế nào, làm cách nào để không bị lừa, nên đi đâu, làm gì, có nguy hiểm không, và vạn tỉ thứ khác đổ dồn trong đầu khiến những người mới bắt đầu lúng túng. Vậy nên, đó chính xác là điều tôi sẽ làm trong quyển sách này. Không như những quyển sách du ký hay nhật ký hành trình, ở đây tôi sẽ chỉ cho những người muốn đi du lịch bụi một cách tỉ mỉ làm thế nào để khởi hành chuyến đi của riêng mình. Sách của tôi có thông tin và các câu chuyện. Tất cả đều thực tế và sống động với kinh nghiệm nhiều năm lữ hành của khổ chủ. Vì tôi đã trải qua tất cả những điều đó, nên tôi không muốn những người đi sau phải tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí như tôi. Cái tôi muốn là truyền đạt những kinh nghiệm của mình, để nếu có thể sẽ giúp bạn giảm thiểu hết mức rủi ro và chi phí, và tăng hết mức niềm vui và trải nghiệm. Sách gồm những chia sẻ về kinh nghiệm cơ bản để chuẩn bị cho du lịch bụi, tất tần tật mọi thông tin, công cụ, mẹo hay giúp ích cho dân du lịch bụi trên hành trình của mình. Thêm vào đó là thông tin du lịch của một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, gồm Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines. Mỗi đất nước tôi sẽ trình bày các thông tin chi tiết ở quốc gia đó, cùng những câu chuyện hành trình của tôi ở mỗi nơi. Những điều tôi chú trọng khi viết về một đất nước nào đó bao gồm: lịch sử, văn hóa, và con người, đặc biệt là nhấn mạnh những nét tính cách dân tộc mà tôi có dịp tiếp xúc và trao đổi trong mấy năm trời vừa đi vừa làm việc không ngừng nghỉ với các dân tộc xung quanh châu Á. Vì sao? Vì những điều này liên quan mật thiết đến du lịch bụi, đồng thời sẽ giúp thêm cho những bạn muốn tìm hiểu về văn hóa các dân tộc xung quanh. Bạn đừng nghe tới lịch sử mà ngán, vì nếu biết cách học thì những câu chuyện lịch sử thường rất thú vị. Bản thân tôi rất chán học sử vì phải thuộc lòng quá nhiều, nhưng tôi không thể phủ nhận rằng lịch sử của một vùng đất lý giải được rất nhiều điều về văn hóa, con người của vùng đất đó. Với những nơi tôi có dịp đi qua, tôi thường hứng thú tìm hiểu quá khứ của chúng một cách tường tận. Vì càng đi tôi càng thấm thía câu thơ của Chế Lan Viên: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Mỗi vùng đất tôi qua đã trở thành một phần máu thịt của tôi, khiến tôi không ngại bỏ công tìm hiểu, và lại càng yêu nơi chốn đó hơn. Theo kinh nghiệm của tôi, khi đến một địa điểm nào đó mà không có kiến thức nền chuẩn bị, thì tôi đều mù mờ và không có cảm xúc gì đặc biệt. Ngay cả những thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa quan trọng, nếu mình không biết ý nghĩa của chúng, chỉ thấy đó là những ngôi đền bình thường, khu vườn tầm thường, và rốt cuộc ta chẳng học được gì cả. Cho nên khi đi một nơi nào đó, tìm hiểu về nó càng nhiều càng tốt là cách đi của tôi. Ở đây, để tiết kiệm thời gian cho bạn, tôi sẽ cố gắng tóm tắt những điều thú vị nhất tôi thấy về lịch sử từng nước, mong rằng đó là bước đầu giúp bạn tìm hiểu sâu hơn về vùng đất bạn sắp đến. Tuy vậy, khác với các sách hướng dẫn du lịch như Lonely Planet, Rough Guides hay Fodor’s, bạn sẽ không tìm thấy ở đây các gợi ý về nơi ăn chốn ở, nhà hàng, khách sạn hay quán bar. Đơn giản là vì những thông tin đó thay đổi khá nhanh, mất nhiều thời gian để tổng hợp, và mang tính chủ quan cao. Thay vào đó, tôi sẽ chỉ bạn những chỗ để tìm các gợi ý đó, và họ làm tốt hơn tôi. Mặc dù vậy, tôi cũng sẽ đề cập đến những nơi tôi ở trong các cuộc hành trình của mình. Về cách đọc sách, bạn có thể đọc hết một lượt, hoặc giở ra đọc bất kỳ nước nào bạn thích. Bạn có thể đọc những thông tin này trước khi đến đất nước đó, để quan sát và đối chiếu với những gì bạn thấy trên đường. Hoặc có thể bạn chỉ trở nên hứng thú tìm hiểu về vùng đất đó sau khi đã kết thúc hành trình, nên sau đó về nhà nghiên cứu thật kỹ. Cách đi nào cũng có cái lợi xen lẫn cái hại. Mặt lợi của việc không tìm hiểu trước thông tin là khi đi đường là bạn sẽ hoàn toàn khách quan, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ kiến thức nền nào cả, và bạn nhìn sự vật sự việc một cách chân thực nhất, có những cảm xúc trung thực nhất. Tuy nhiên, điều đó cũng dẫn đến tình huống là đôi khi đứng trước một công trình kiến trúc có ý nghĩa to lớn nhưng bạn hoàn toàn dửng dưng, vì bạn không được biết về những câu chuyện ẩn đằng sau nó. Dù sao thì tôi cũng hy vọng bạn sẽ tìm thấy những điều có ích qua những thông tin về các quốc gia được đề cập trong sách. Người ta đi được, sao bạn lại không? Để tôi kể cho bạn nghe một câu chuyện nhỏ. Hồng Hảo, một em sinh viên mà tôi quen, đã làm một chuyến đi bụi từ Campuchia qua Thái Lan suốt cả tháng trời mà chỉ với hai triệu đồng, còn rẻ hơn chi phí sinh hoạt ở Việt Nam một tháng. Khánh Ngân, một cô bé khác mới mười tám tuổi đã đi sáu mươi tư tỉnh thành của Việt Nam với chiếc túi thường xuyên rỗng không, chỉ bằng đi nhờ xe và ở nhờ nhà người lạ dọc đường. Khi tôi đang viết những dòng này thì em ấy đã kịp băng qua Lào, Campuchia và Thái Lan, giờ đang tìm đường đến Ấn Độ bằng đường bộ, lúc bắt đầu chuyến đi em ấy chỉ có bốn trăm nghìn đồng trong túi. Huyền thoại? Không đâu. Họ chỉ như chúng ta, tóc đen, da vàng, những con người rất bình thường. Cái họ có là thông tin và lòng hăng hái. Khi tôi nghe Hảo kể về hành trình của mình, tôi đã trầm trồ một cách thích thú. Không phải vì tôi ngạc nhiên là em ấy quá giỏi hay quá can đảm, mà vì tôi ngỡ ngàng nhận ra rằng cái mà em ấy có mà khi bằng tuổi em tôi đã không có, đó là thông tin. Và tôi đã đánh mất thời gian và cơ hội của mình chỉ vì như vậy. Ở tuổi hai mươi, em đã tham gia vào các diễn đàn du lịch quốc tế, đã nghe về các chuyến đi vòng quanh địa cầu, đã dò nát lộ trình từng chặng, cách đặt vé máy bay, cách xin thị thực và lên kế hoạch. Ở tuổi hai mươi, em ấy đã biết là chúng ta có thể đi du lịch bụi với chi phí rẻ đến thế nào, và em đã đi. Còn tôi, tuổi hai mươi tôi đã không biết, và tôi đã nhốt mình trong bốn bức tường của căn phòng trọ. Còn bạn thì sao? Bạn có muốn bỏ lỡ như tôi không? Tôi thì không, nếu như có thể trở về tuổi hai mươi thơ dại ấy, tôi cũng ước gì mình có thể đi. Nên tôi cho bạn cái bạn cần: thông tin, sự chuẩn bị. Để bạn biết rằng điều ấy có thể. Để bạn cũng lên đường. Nghe có vẻ là điều bạn đang tìm kiếm? Thật tuyệt, vậy chúng ta hãy cùng bắt đầu nào. *** Trên thế giới này, từ miền cực bắc giá lạnh đến vùng nhiệt đới cháy nắng, từ phương Tây phóng khoáng đến phương Đông huyền bí, có biết bao người ra đi vì tiếng gọi của những con đường, biết bao người ra đi vì tiếng gọi của miền đất mới. Đường xa vẫy gọi, tất cả họ đều nghe tiếng nói thôi thúc trong tim. Cụm từ “the traveler”, người lữ hành, không phải xuất hiện mới đây. Hàng nghìn năm về trước, từ thuở khai sinh loài người, các bộ lạc nguyên thủy đã chia làm hai loại, bộ lạc du mục và bộ lạc định cư. Theo thời gian, những nền văn minh hình thành, với các thành phố, pháo đài, bộ máy nhà nước. Con người dần dần quay về sống quây quần với cộng đồng của mình trong những lãnh thổ khác nhau. Nhưng có một số người nào đó, dường như còn vương vất lại dòng máu lãng du của tổ tiên mình, vẫn tiếp tục lang thang từ miền này đến miền khác. Trong những tác phẩm văn học thiếu nhi, thi thoảng ta vẫn bắt gặp hình ảnh của một người đàn ông gầy gò, râu tóc bạc phơ, đôi mắt sáng với cái nhìn khỏe khoắn, rong ruổi qua làng mạc núi non, sưu tầm những bài dân ca, những câu đồng dao, thần thoại, và kể chuyện cổ tích cho trẻ con nghe. Chính một ông già như thế trong câu chuyện Cánh buồm đỏ thắm đã khơi gợi niềm tin mãnh liệt của cô bé Assol, khiến cô tin vào một cánh buồm đỏ đến đón cô đi vào cuộc đời mới, với những chân trời mới đầy tình yêu và hy vọng. Chính ông già ấy đã gieo ước mơ vào lòng cô từ những ngày thơ bé, để nó nảy mầm và thành hiện thực khi cô lớn lên. Có lẽ những ông già như vậy, là ông tổ của những người lữ hành. Trải qua bao nhiêu năm, những người lữ hành hiện đại được trang bị với Internet, với các diễn đàn chuyên dành cho dân lữ hành, với các thiết bị chuyên dụng. Số lượng của những người lữ hành chuyên nghiệp ngày càng tăng lên, nhưng vẫn còn là một con số ít ỏi so với những nghề nghiệp khác. Họ vốn là những người muốn thoát ra khỏi cái vòng cuốn lẩn quẩn của công việc thường nhật và môi trường chật hẹp. Họ yêu thích khám phá những vùng đất xa lạ và tìm hiểu những nền văn hóa khác nhau. Họ đánh giá cao những trải nghiệm trong đời hơn là sở hữu vật chất. Và cũng giống như ông lão Egle trong Cánh buồm đỏ thắm ngày xưa, những người lữ hành ngày nay là những người khơi gợi ước mơ. Qua kinh nghiệm của họ, qua trí tưởng tượng của họ, những câu chuyện của người lữ hành luôn mang đến nguồn cảm hứng cho những người khác, khiến họ mơ đến những vùng đất thần tiên, khiến họ tin vào những gì tốt đẹp ở đời, khiến họ mong về một tương lai tươi sáng hơn, trái ngược với cuộc sống đầy khó khăn hiện tại. Như những người đứng bên lề xã hội, dân lữ hành luôn phải chịu những phản đối, thất vọng từ gia đình, những chỉ trích từ cộng đồng. Jodi Ettenberg (http://www.legalnomads.com), người đã từ bỏ công việc luật sư ở New York để trở thành một travel blogger kể về cuộc sống lữ hành toàn thời gian của cô một cách hài hước. Một lần cô gọi cho gia đình từ Việt Nam. Cha cô hỏi: “Con đang làm gì ở đó vậy con yêu?”, “Con ăn bún cha à, mỗi ngày”, “Cái gì? Bún hả? Hằng ngày sao?”, “Dạ, nơi này có nhiều loại bún lắm cha ơi, và con đang thử hết tất cả các loại”. Ông cười và bảo rằng: “Jodi, cha rất yêu con, nhưng cuộc sống của con làm cha thấy bối rối quá”. Nhưng không phải ai cũng nhẹ nhàng như cha của Jodi. Cô nhận được nhiều email từ các bậc phụ huynh, giận dữ bảo rằng cuộc sống của cô là một tấm gương xấu cho con cái của họ, khiến chúng sống ngày càng vô trách nhiệm. Những người khác thì hỏi rằng tại sao cô lại lựa chọn sống lang thang như vậy, và cô đang cố lẩn tránh điều gì. Trong khi thực tế thì Jodi chỉ yêu thích phiêu lưu trên những vùng đất mới. Liz Carlson (http://youngadventuress.com), một traveler khác, kể rằng khi trở về sau chuyến du hành vài năm, cô thấy nhiều người vốn là bạn thân bỗng quay lưng lại với cô. Cô bảo: “Lựa chọn một cuộc sống lữ hành có thể khiến bạn bị xa lánh”. Không chỉ có thế, người lữ hành thường xuyên phải đối diện với những khó khăn trên đường, những cô đơn thất vọng khi kiệt sức, và phải làm việc cật lực để có thể đi tiếp. Tác giả chia sẻ rằng để làm một người du hành, bạn phải làm việc vất vả hơn bao giờ hết, rằng thu nhập của bạn sẽ không ổn định, cùng với nhiều gian khổ khác nhau. Các lữ khách bị nhiều người chỉ trích rằng họ lựa chọn một cuộc sống thảnh thơi, không biết tích lũy cho sau này, không có trách nhiệm với xã hội, chạy theo những giấc mơ hão huyền trong đời sống, và sẽ chết già không nơi nương tựa. Nhưng cùng với những chỉ trích chua cay về họ, vẫn có rất nhiều người khác, hằng ngày nhắn hỏi làm cách nào để có thể sống được như vậy. Cuộc đời là thế, không thể tránh khỏi những khác biệt, những mâu thuẫn. Nhưng có nhiều điều khác nhau, có những thứ phong phú đa dạng mới là cuộc đời, và chính những điều đó làm nên nét đẹp của cuộc sống. Mỗi người đều có những sở thích, những ước mơ riêng. Nói như tác giả Phạm Lữ Ân: “Có người mải mê rong chơi, có người chỉ thích nằm nhà đọc sách. Có người phải đi thật xa đến tận cùng thế giới thì mới thỏa nguyện. Có người chỉ cần mỗi ngày bước vào khu vườn rậm rạp sau nhà, tìm thấy một vạt nấm mối mới mọc sau mưa hay một quả trứng gà tình cờ lạc trong vạt cỏ là đủ thỏa nguyện rồi”. Có người tìm thấy chính mình trên hành trình vạn dặm, nhưng cũng có người ngộ ra đạo lý khi ngồi dưới mái nhà của mình, trên chiếc giường quen thuộc của mình. Ai cũng có quyền lựa chọn cách sống riêng, miễn là không phương hại đến người khác. Đừng vì người ta khác mình mà dè bỉu gièm pha, đừng vì họ khác mình mà ghét họ. Đừng cho những người ở nhà là buồn chán cổ hủ, cũng đừng lên án kẻ lang thang là sống vô ích vô tâm. Hãy làm tốt việc của bản thân, ngừng xen vào chuyện người khác. Nhưng lẽ đời, nói thường dễ hơn làm. Khác biệt thường gây ra xung đột. Tác giả Chuyện con mèo dạy hải âu bay viết: “Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn”. Tôi thực chỉ ước có một nơi nào đó trên thế giới, nơi những suy nghĩ tự do, độc đáo được khuyến khích, nơi những khác biệt chung sống cùng với nhau, thuận hòa, an nhiên. Cũng như thời xưa cũ, những con đường luôn vẫy gọi trái tim của những con người mang trong mình dòng máu du mục. Má của tôi, một cô giáo làng nuôi mộng văn chương từ thuở bé, dù giờ đã hơn năm mươi tuổi, nhưng Người vẫn luôn nói rằng khi nghỉ hưu, Người mong ước được phiêu du trên những miền đất lạ, và được viết hăng say. Elizabeth Gilbert từng kể về một thời trẻ tuổi, khi bà lang thang khắp nơi ở lục địa châu Âu, làm đủ nghề từ bồi bàn đến trông trẻ, để gặp những người xa lạ, để nghe những câu chuyện kể, và cặm cụi viết trong những đêm tối đen sau một ngày cực nhọc. Cũng như họ, tôi cũng ước mơ một ngày nào đó. Một ngày nào đó, tôi sẽ lang thang trên hành trình vạn dặm, và viết với tất cả trái tim mình. Mời các bạn đón đọc Ta Ba Lô Trên Đất Á của tác giả Rosie Nguyễn.