Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Ngắn Ngủi

Rosamund Morgan còn rất trẻ, mới hai lăm tuổi. Nàng mồ côi cả cha lẫn mẹ và lại rất giàu có. Nàng thông minh, xinh đẹp, có bằng ưu về lịch sử và là một nghệ sĩ piano tài năng. Nhưng, nàng sắp chết vì bệnh máu trắng. Sự ra đi của Rosamund là điều không thể tránh khỏi, song một số người lại muốn nhận được chúc thư của nàng, sớm hơn và tìm cách để đạt được điều đó. Và rồi những người xa lạ ở đâu bỗng bước vào cuộc đời Rosamund - họ muốn gì, liệu điều này có tác động đến quãng đời còn lại của nàng và có ảnh hưởng đến các chúc thư mà bao người đang thèm muốn. ***   "Một căn nhà nhỏ xinh xắn, dễ thương - Jane đọc - Hai phòng khách, hai phòng ngủ, phòng làm việc, công trình phụ và giàn nho ngoài hiên. - Sao cơ? - Robert hỏi. Anh chuyển vị trí con tốt trên bàn cờ rồi liếc về phía tờ báo để trên bàn cà phê. - Sao cái gì? - Hay ho gì cái giàn nho ngoài hiên mà lại đưa vào nhỉ. Chỉ tổ làm tối nhà chứ được tích sự gì. Anh không hiểu là làm thế nào mà quân trắng có thể đi hai nước chiếu tướng được. Quân đen chắc là ngớ ngẩn rồi. Bao nhiêu? - Bao nhiêu cái gì? - Thì cái căn nhà xinh xắn em vừa nói ấy giá bao nhiêu tiền? - Một trăm ba nhăm ngàn bảng - Jane trả lời. - Tức là gấp 11,25 lần thu nhập hàng năm cùa cả anh và em à - Robert nói không chút lưỡng lự. Jane ném tờ Everting Standard sang cho anh, tờ báo đánh văng con tướng trắng khỏi bàn cờ. Anh lẳng lặng đặt nó lại vị trí cũ, liếc mắt sang tờ báo đặt trên bàn lần nữa và rồi chống cằm đăm đăm nhìn bàn cờ. Ở phía bên kia lò sưởi, Jane với nét mặt rầu rầu ngồi bó gối trong chiếc ghế bành nhìn sang anh. - Anh thật là ngớ ngẩn mới đi dạy văn học Anh trong khi có thể giải được những nước cờ bí như vậy và thậm chí tính toán không cần suy nghĩ. Nhất định anh phải có cách nào đó để có thể kiếm ra tiền chứ - Cô nói. - Thì anh có bằng về văn học Anh mà lị - Robert trả lời - Ngoài việc đó ra anh chẳng làm được gì khác đâu. - Nhưng bây giờ có ai cần đến những sinh viên tốt nghiệp ngành văn chương đâu, ngoài những trường dạy thêm đáng ghét chẳng có triển vọng gì. - Anh chẳng hiểu gì về máy tính cả và sẽ chẳng bao giờ học được - Robert nói - A! Con mã. Mày chết này! Có thế chứ. Rất cao thủ - Anh chăm chú nhìn bàn cờ một lúc vẻ rất hài lòng trước khi bỏ quân cờ vào hộp - Anh đang ở đây với em mà, cưng. Có thật là em đang thèm khát một cái chuồng thỏ xa hoa với những chùm nho xanh quanh cửa không? - Không nhất thiết là thế, nhưng em muốn có một ngôi nhà tươm tất. Em đã ngấy lên tận cổ cái cảnh sống nghèo nàn này rồi. - Mình không phải hoàn toàn nghèo. Và vẫn còn may là mình được sống tương đốì giữa London đấy. - Và may là mình còn đủ cơm mà ăn và may là cả hai đều còn có việc làm để không đến nỗi phải sống nhờ vào của bố thí chứ gì. Em biết, em biết, em biết! Và em chán cũng vì thế đấy. Em đã hai bảy, còn anh hai chín, và năm năm nữa chúng ta cũng vẫn chỉ vậy thôi nếu không nói là sẽ khốn khổ hơn vì mọi thứ cứ đắt lên còn công việc thì thậm chí cứ ngày một ít đi. Em cần tiền. Tiền thật sự cơ. Và em cần ngay bây giờ. Em không muốn sống trong cái căn hộ tồi tàn từ thời Victoria với cái kho để than sửa lại thành bếp này đâu. Thử tưởng tượng một cái kho than dùng để làm bếp giữa năm một nghìn chín trăm tám hai này mà xem! Thật nực cười. Thử hỏi xem có bao nhiêu người dùng kho để than làm bếp? - Anh không biết - Robert nói - nhưng chắc chắn là ta có thể tìm được từ các con số thông kê điều tra dân số. Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống đã chắc mấy ai bằng mình.” - Ôi, đừng pha trò ngớ ngẩn thế nữa đi - Jane hét lên - Anh không hiểu em muốn nói gì à?" Robert ngước lên nhìn cô, gật đầu không nói. Anh là người đàn ông cao lớn, điềm đạm và có vẻ trẻ hơn so với tuổi. Còn Jane vào những lúc buồn nản như thế này trông lại có vẻ già hơn. Nhưng những khi cô vui vẻ và tràn trề hy vọng thì khuôn mặt bừng sáng đầy sinh khí làm cô trông trẻ hẳn ra và hấp dẫn hơn bất kỳ vẻ đẹp hình thức nào. Cô có mái tóc hung đỏ, đôi mắt xanh, cả người như toát lên sự nhanh nhẹn, tháo vát, trừ những lúc làm công việc của một y tá chăm sóc bệnh nhân, mà quả thực là cô làm việc này cũng rất tốt. Họ đã sống với nhau năm năm, vậy mà chính Jane lại là người không muốn tổ chức đám cưới. - Chưa được - cô luôn nói vậy mỗi khi Robert đề nghị làm đám cưới - Em cảm thấy chưa ổn định lắm. Hãy đợi đến khi chúng mình kiếm được căn nhà tử tế một chút.” Anh cảm thấy hơi đau lòng khi nghe cô nói vậy, nhưng rồi cô thường xuyên nói ra những điều làm anh tổn thương. Robert không bao giờ để lộ ra là mình cảm thấy đau lòng. Cuộc sống đã dạy anh phải giấu tình cảm thật của mình. Khi còn là một đứa bé mới hai tuần tuổi, một viên cảnh sát đã nhặt được anh trong buồng điện thoại công cộng gần ga Waterloo, và trong mấy tháng sau đó nhà của anh là Bệnh viện Trẻ em. Các bác sỹ và y tá đã chiến đấu với tử thần, giành giật lại mạng sống cho cái hài nhi hấp hối ấy như thể nó là một hoàng thái tử, và khi họ đã hoàn thành phần việc của mình rồi thì họ giao lại nó cho Phòng Dịch vụ Xã hội. Nhận con nuôi, chứ không phải là đưa vào trại trẻ mồ côi, đang là trào lưu rất thịnh hành lúc bấy giờ, và trong mấy năm tiếp theo, đứa trẻ được chơi trong một căn phòng nhỏ cùng với một thằng bé Tây Ấn và một đứa trẻ Bắc Alien mồ côi, nó lớn phổng lên và tập đi, tập nói nhưng rất chậm. Gia đình tiếp theo nuôi nó được khoảng một năm, và cũng chính ở đây lần đầu tiên nó bắt đầu được biết thế nào là đau đớn, sợ hãi. Khi bà mẹ nuôi nó từ bỏ không tham gia Dịch vụ Xã hội, không phải do lỗi của bà mà là do lão chồng nghiện ngập, Robert lại bị chuyển đỉ, lần này là đến một nơi nương náu tạm thời do một giáo phái trông nom trong khi chờ đợi quyết định của các nhà chức trách xem phải làm gì với nó. Hóa ra đây lại là khoảng thời gian hạnh phúc duy nhất mà nó có được trong cả quãng đời niên thiếu cùa mình. Ánh nắng ấm áp chan hòa, bãi cỏ để chạy chơi, thỏ và mèo để chơi cùng thay vì căn nhà nhỏ bé chật chội sặc mùi sợ hãi. Hơn tất cả là một khuôn mặt với mái tóc sẫm màu, tuy xanh xao nhưng đôi mắt luôn nhìn thẳng vào nó mỗi khi người đó gọi tên nó, làm cho nó lần đầu tiên hiểu được rằng nó đích thực là Robert, và rằng trên thế gian này còn có người cũng biết đến điều đó, và rằng nó vẫn phải là Robert - mỗi ngày một lớn lên và mạnh khỏe thêm. Nó chẳng bao giờ học cách đặt tên cho một khuôn mặt, nhưng lại biết gắn liền khuôn mặt đó với một thứ tình cảm mà mãi đến tận sau này nó mới biết là tình yêu. Và khi khuôn mặt và giọng nói đó biến mất thì nó lại bị chuyển đi một lần nữa vì đó chỉ là một giải pháp tạm thời cho nó và còn có nhiều trẻ em khác có điều kiện khó khăn hơn cần được giúp đỡ - nó đã học được cách cảm nhận mất mát, đau buồn và tuyệt vọng. Và cả nghệ thuật để tồn tại. Để không bị tổn thương, anh hãy làm một kẻ vô cảm. Để khỏi bị thất vọng thì tốt nhất là đừng có hy vọng. Hãy tự tạo ra xung quanh mình một vỏ bọc dễ chịu để mọi đau khổ bên ngoài không thể xuyên qua, và trong cái vỏ bọc đó chỉ có bản thân mình, tuy cách biệt nhưng an toàn. Đó là hành trang sinh tồn của Robert Fenniman, cái tên được đặt theo người cảnh sát hôm đó đã tìm thấy anh và người bác sỹ chịu trách nhiệm chính trong việc cứu sống anh hồi ấy. Tính cách ôn hòa, điềm đạm chính là một phần đáng kể để hình thành nên cái vỏ bọc bảo vệ đó. Jane đã không nhận thấy điều này mặc dù cô luôn có cảm giác rằng cô sẽ chẳng bao giờ thực sự hiểu anh, cũng như là anh sẽ chẳng bao giờ biết được sự thật về cội nguồn của mình. Lịch sử ra đời của anh làm cho cô nửa lo âu, nửa bị mê hoặc, và không thể hiểu được làm sao anh có thể điềm tĩnh và thờ ơ đến vậy. Quá khứ của cô chẳng có gì là bí mật cả, nhưng về nhiều phương diện thì cuộc sống của cô lại hoàn toàn không ổn định, cũng giống như anh vậy. Bố cô đã từng là một nhà sáng chế, một người đàn ông bừa bãi và kỳ quặc mang chút hơi hướng thiên tài, nợ nần triền miên để rồi bắt đầu lại từ con số không. Mẹ cô thường xuyên bỏ đi rồi lại trở về với ông, và hiện giờ đang rất thỏa mãn sống một cuộc sống góa bụa ở một thị trấn nhỏ ven biển phía Nam, trông nhà cho ông em độc thân, hưởng thú điền viên và chơi bài brít. Jane thích mẹ theo cái cách cáu kỉnh của riêng cô, song lại luôn trở về mệt mỏi hơn bao giờ hết sau mỗi chuyến đi thăm bà và luôn miệng kêu ca về cuộc sống nghèo nàn và tự mãn quá quắt của mẹ. - Anh nghĩ là thể nào ông chú Walter của em cũng sẽ để lại cho em một ít tiền khi ông ấy mất - Robert nói. Họ thường nói với nhau những câu chuyện đại loại như vậy. Jane đã không mảy may hình dung được rằng sự bất mãn biểu lộ mãnh liệt ấy của cô đã chạm tới nguồn gốc của sự thiếu tự tin và bức bốì sâu thẳm trong anh. - Ông ấy thì làm gì có cái gì đáng giá - Jane nói vẻ khinh miệt. - Có cái nhà đấy thôi. - Cái nhà gỗ bé tẹo rẻ tiền giữa cả đống đến bốn trăm cái nhà cũng tồi tàn như nó ấy à. Không! Xin cảm ơn. - Em có thể bán nó đi mà. Robert với tay lấy cái hộp nhựa đỏ đựng các quân cờ, cảm giác đó làm anh thấy thỏa mãn. Anh đã nghĩ ra giải pháp đương đầu với vấn đề này và điều đó làm anh hài lòng. Nó tựa như một cái cọc chắc chắn cho anh bấu víu trong cơn phẫn nộ của Jane. - Cái nhà ấy có bán cũng chẳng mua nổi một túp lều ỏ London chứ đừng nói đến cái kho để than - Jane ước đoán. Robert biết rằng tốt hơn hết là họ nên chuyển đi khỏi London. Anh im lặng chờ đợi, đầu óc bị ám ảnh bởi nước đi tuyệt đẹp của con mã, trong khi Jane thao thao nói về những mơ ước đẹp đẽ hoang tưởng. Khi ván cờ hết nước đi, điều này thì chẳng mấy vì cơn giông tố có vẻ như trở nên tệ hơn bao giờ hết, anh sẽ lẩn tránh bằng cách tự nhủ mình bằng câu nói vĩ đại của Macbeth. "Ngày mai, ngày mai và ngày mai ..." Điều này chẳng dễ chịu gì, ngoài sự lo sợ trống rỗng đen tối với ý nghĩ mất Jane. Nhưng dù sao thì nó cũng giúp cho anh giữ được bình tĩnh để đánh giá và đối mặt với sự thật. Cuối cùng thì cơn bão cũng qua đi. Jane lại gần và ngồi xuống sàn bên cạnh cái ghế anh đang ngồi, dụi đầu vào gốỉ anh như một chú mèo hiền lành bày tỏ tình cảm với chủ.  - Em xin lỗi, anh yêu - Giọng cô nghẹn lại. - Anh cũng xin lỗi - Một tay vuốt mái tóc cô, tay kia vẫn cầm cái hộp đựng các quân cờ, anh nói: Anh thấy chỉ có một cách duy nhất để có thể giải quyết được vấn đề này - Thông thường trong những dịp như thế này anh thường đưa ra giải pháp như là cặp vé hạng nhất đi xem nhạc kịch ở Covent Garden hay một kỳ nghỉ cuối tuần ở Paris. Những “giải pháp” thường xuyên này, cùng với sách, đĩa nhạc và quần áo mới cho Jane, đã xóa sạch những gì hiện là nỗi ám ảnh của Jane về việc muốn có một “ngôi nhà xinh xắn”. Đã từ lâu, Robert nghiệm ra rằng cuộc trò chuyện tế nhị về các khoản vay nợ chẳng bao giờ được hưởng ứng cả. Đôi khi anh cũng có ý nghi ngờ rằng những mong ước cùa Jane là không tưởng, nhưng đề cập đến vấn đề này với cô hay cố gắng dưới bất kỳ hình thức nào để cô không ảo tưởng nữa có khác gì đưa quan hệ của họ đến bờ vực thẳm. - Cách gì, anh yêu? - Jane vừa hỏi vừa xích lại gần. Thay vì định nói “Chúng mình đến Caprice ăn tối đi”, anh bỗng sửng sốt và kinh hãi khi nghe thấy những lời mình thốt ra: - Hãy bỏ anh và tìm cho mình một người đàn ông có thể mua cho em tất cả những gì em muốn”. Không chỉ lời nói, cả giọng nói dường như cũng khác: chua chát, cay đắng, giận dữ và đau khổ, một giọng nói mà Jane thậm chí không hề biết đến và Robert nghĩ là đã hoàn toàn bị lãng quên trong suốt nhiều năm qua. Điều đó như thể Macbeth và các quân cờ đã quá căng thẳng để vượt qua cơn bão vừa kết thúc đến mức phá vỡ lớp vỏ bọc của anh. Jane co rúm người lại, trườn ra xa như thể anh đã đánh cô. - Anh nghĩ thế thật đấy à? Có phải anh muốn tống khứ em đi cho rảnh nợ không? Họ chằm chằm nhìn nhau trong giây lát, người này thấy rõ nỗi sợ hãi trong ánh mắt của người kia, và rồi họ ôm chầm lấy nhau như chẳng bao giờ có thể chia lìa. Tốỉ hôm sau, cũng vào tầm ấy, Jane về nhà và thông báo rằng cô đã suy nghĩ rất nghiêm túc rồi và đã quyết định phải chấm dứt cằn nhằn Robert, không rền rĩ với anh nữa và phải tự làm điều gì đó để có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Đừng lo - cô nói thêm – Em sẽ không làm điều gì sai trái đâu, không bao giờ, dù bất cứ giá nào.” - Phúc đức quá - Robert uống cạn và rót thêm một ly nữa. Sống với Jane, người ta rất dễ mất đi những thói quen tiết kiệm. Trước khi gặp cô, anh thấy bằng lòng với những gì mình có. Hay nói khác đi, với anh một chút thôi cũng đã là nhiều rồi. Trong suốt mười năm sau khi bà mẹ nuôi, người đã nói với anh bằng giọng nói đem lại ý nghĩa lớn lao cho cái tên của anh ra đi, Robert đã có quá nhiều cơ hội để củng cố thêm cái vỏ bọc của mình. Chẳng có sự đốỉ xử thô bạo nào, nhưng vô cảm thì quá nhiều và thiếu thốn tình thương và niềm động viên. Rồi cuối cùng, khi bước vào tuổi mười sáu, anh được ông bà Quaker, cả hai đều là giáo viên đã nghỉ hưu nhận chăm sóc. Lòng tốt không dễ xúc động của họ rất thích hợp với Robert và họ cũng đã mở ra cho anh một cuộc sống trí tuệ. Dưới sự khuyến khích và hưóng dẫn của họ, anh bắt đầu đọc, học và trải qua các kỳ thi. Luôn rất thích ứng, luôn sẵn sàng điều chỉnh theo bất cứ điều gì anh muốn để anh chàng Robert trong vỏ không bị sợ hãi, anh nhanh chóng học được cách cảm thấy thoải mái khi đến trường. Cha mẹ nuôi vui mừng khi anh có giấy gọi vào đại học, và anh sung sướng cho họ và cho mình. Anh có thể và đã cảm nhận được lòng biết ơn, nhưng lại không thể nào cảm thấy hay bày tỏ tình yêu đốì với họ. Cũng may là họ không đòi hỏi điều này. Trong căn nhà tĩnh lặng của họ không có chỗ cho những cảm xúc mạnh mẽ. Nhẹ nhàng và lòng tốt; tôn trọng sở thích cá nhân của người khác, ưa thích đọc sách và tôn trọng sự thật là những bài học mà Robert đã học được từ gia đình cuối cùng nuôi anh này. Anh quen nhiều trong trường đại học nhưng không có bạn thân. Chẳng ai ghét anh song cũng chẳng có ai chú ý gì nhiều đến anh. Anh chẳng bao giờ gây ra điều gì rắc rốỉ, và luôn hòa nhập ở bất cứ nơi nào anh đến. Nhưng luôn luôn anh chỉ như một khán giả theo dõi diễn biến cuộc sống của những người xung quanh mà thôi: niềm hy vọng và sự sợ hãi, tình yêu và sự căm ghét - nhưng không bao giờ tham gia vai nào trong đó. Tránh những cảm xúc mạnh mẽ để không bị đau khổ, tránh những hy vọng cao xa vì chúng chỉ mang lại toàn thất vọng: đó là những bài học ban đẩu mà anh không bao giờ quên. Vì anh luôn tỏ ra điềm tĩnh và mãn nguyện, ở anh không bao giờ có dấu hiệu nào cho thấy sự cô đơn hay bất hạnh, nên thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên của anh đều cho rằng chắc chắn là anh có thân với một ai đó. Lối sống tách biệt nhưng không bất hạnh từ thời học đại học này đã theo anh đến khi ra đi làm. Robert chẳng có mục đích nào khác ngoài kiếm sống bằng cái cách mà sẽ không làm phật lòng ông bà Quaker, và đức tính kiên nhẫn cùng khiếu hài hước của anh rất thích hợp với nghề giáo và các bạn đồng nghiệp. Anh dạy ngôn ngữ và văn học Anh cho sinh viên nước ngoài, tham dự vào các hoạt động xã hội khi cần, nhưng không hề có quan hệ thân thiết với bất cứ một ai. Thời gian rỗi anh dành để đọc sách, chơi cờ, đi dạo một mình và thăm cha mẹ nuôi. Và rồi trong buổi liên hoan do một đồng nghiệp tổ chức, ai đó đã giới thiệu anh với Jane, cô chợt đến như một vầng nắng chói lòa phá vỡ cuộc sống khổ hạnh của anh, mang lại hơi ấm và làm tan đi sự cằn cỗi trong anh. Cô không để cho anh lảng tránh như những cô gái khác. Cô thích anh; cái vẻ bề ngoài lạnh lùng của anh như một thách thức với cô - cô yêu thích chính cái vẻ thách thức ấy ở anh, và cô quyết định phải làm cho anh chú ý đến mình, phải yêu mình. Trong hành trang của Robert, trong tất cả những bài học trường đời mà anh đã học, chẳng có điều gì dạy anh phải làm thế nào để chống trả những cuộc công kích dữ dội như vậy cả. Càng cố lẩn tránh, càng bị cuốn đi mạnh hơn. Và cuối cùng thì anh chẳng còn muốn trốn chạy nữa mà bước ra khỏi tình trạng vô thức như mặt đất thức dậy vào mùa xuân, và để cô dẫn dắt cuộc đời mình. Bây giờ thì anh không thể hình dung được cuộc sống mà không có Jane và cũng chẳng còn đường thoái lui. Anh đã phá vỡ cái nguyên tắc an toàn của bản thân và phải trả giá. Điều khá kỳ quặc là, gần gũi nhau như vậy nhưng Jane chưa bao giờ thành công trong việc đột nhập vào bên trong cái vỏ bọc của Robert. Có lẽ sẽ chẳng ai làm được điều đó. Có lẽ những tổn thương hồi nhỏ đã ăn quá sâu vào tâm hồn anh nên khó ai có thể hàn gắn lại được. Robert cũng phần nào hiểu được điều này và đôi khi anh cảm thấy giữa họ vẫn còn thiêu thiếu cái gì đó và rằng anh cần phải cởi mở hơn đốì với cô, chí ít là như cô luôn cởi mở về cuộc sổng và tâm tư của mình vậy. Anh trả lời cô những câu hỏi về quá khứ của mình với vẻ bình thản vốn có nhưng không bao giờ kể cho cô nghe về khuôn mặt và giọng nói đã ăn sâu vào tiềm thức anh trong nhiều năm qua. Đó là một thế giới huyền bí, quá mong manh và quý giá mà anh không muốn cho Jane biết đến. Cô phải cố phân tích nó từ xa, và anh đã bỏ lỡ điều gì đó mà ở một khía cạnh nào đó, thậm chí gần gũi với anh hơn cả bản thân Jane. Như vậy là vì một lý do nào đó, giữa họ đã có một hố sâu ngàn cách. Những khoảng quan trọng trong cuộc đời và cảm xúc mà họ chẳng thể gặp nhau. Nhưng về cơ bản là họ cần cho nhau và điều này giúp họ có thể tránh không nhìn vào cái khoảng cách đó. Tối nay cả hai người đều có vẻ như rất ý thức được mối nguy hiểm đang rình rập và thu mình lại trong sự cố gắng vượt qua ý nghĩ ảm đạm về buổi tối hôm trước. - Em không hiểu làm sào mà anh lại trở thành một công dân đáng kính như vậy - Jane nói giọng âu yếm - Điều này trái với mọi nguyên tắc xã hội học. Với sự dạy dỗ như anh được hưởng, chí ít anh phải là một thanh niên ngỗ ngược, và hiện giờ lẽ ra phải là một tên tội phạm nguy hiểm mới đúng. - Có lẽ phải vậy - Anh vừa cười vừa nói. - Tiếc là chẳng được cái may mắn như thế. Nếu cần làm điều gì bất hợp pháp thì chắc em sẽ phải làm một mình rồi. - Chắc không phải là em đang nghĩ đến việc ám sát các bệnh nhân giàu có đấy chứ - Robert bỡn cợt hỏi. - Đúng rồi, em đã nghĩ vậy đấy - cô trả lời anh cũng bằng giọng hài hước vậy - nhưng mà điều đó sẽ chẳng có tác dụng gì trừ phi họ để lại cho em thật nhiều tiền trong chúc thư, phải không?" Đôi mắt cô sáng long lanh trong tâm trạng hân hoan, tinh nghịch. - Anh không tin - Robert nói - Em mà nghỉ việc ở bệnh viện là rất tiếc đấy." - Em chẳng có sự lựa chọn nào khác sau cái lần cuốỉ cùng cãi lộn với bà quản lý bệnh viện. Và có khối điều đáng nói về dịch vụ chăm sóc bệnh nhân. Môi trường khác này, chọn được thời gian cho mình này, và ... - ... các bệnh nhân tư giàu có này, Robert cắt ngang - Anh biết em muốn nói gì rồi. Em định chiếm lòng tin cùa một bà lão ốm yếu nào đó để rồi nẫng đồ nữ trang của bà ta chứ gì. - Đúng là hiện có nhiều trường hợp thế thật - Jane nói giọng đã nghiêm túc hơn - Em có thể hiểu sự cám dỗ cùa nó, nhưng sẽ không bao giờ em làm vậy đâu. Đây là lợi dụng sự ốm yếu của người ta trong khi người ta tin tưởng giao cho mình chăm sóc. Nếu ai đó có chủ tâm muốn cho em một món quà thì đó lại là việc hoàn toàn khác. Chắc chắn không phạm pháp đúng không, em hứa với anh thế đấy, và điều đó chắc chắn chỉ đem lại thêm niềm vui cho người ta thôi chứ không phải là bớt đi đâu.’ - Anh có thể được biết đó là gì không? - Chỉ khi nào nó ảnh hưởng đến anh dưới bất kỳ hình thức nào thôi. Không phải bây giờ. - Nếu thế thì anh sẽ đi nấu vài món cho bữa tối đây để em đỡ phải vào cái kho than đó. Cô vênh mặt lên và đưa cho anh một túi đầy thức ăn vừa mua về. “Có thịt bê và một ít bột mua tận cái cửa hàng mới lộng lẫy ở phố Hampstead High đấy. Công việc ngày hôm nay của em phải đi qua phố ấy mà, em sẽ kể cho anh nghe lúc chúng mình ăn tối. Tối qua em thật đáng ghét phải không? Em sẽ nghĩ cách đền anh nhé.” “Cứ làm như mình còn bé lắm ý” - Robert nghĩ thầm khi mang túi đồ ăn vào bếp, tuy nhỏ nhưng rất tiện nghi. Trên thực tế thì khối người London còn phải thèm rỏ rãi căn nhà cách ga Paddington không xa của họ. Các buồng tuy nhỏ nhưng được sửa sang lại rất hoàn hảo; tàu qua lại hơi ồn một chút nhưng ở mãi cũng thành quen, và cặp vợ chồng trung niên trên gác thân thiện mà kín đáo. Thậm chí họ còn có một khoảnh khoảng vài mét để làm vườn và còn có vài tiếng được hưởng ánh nắng chiều trong những tháng hè. Điều lo ngại chính của Robert là hiện nay chủ nhà, một người có tuổi, lập dị nhưng nhân từ, có thể chết và họ sẽ phải chịu sự quản lý của một công ty bất động sản. Lúc bấy giờ thì Jane sẽ có lý do chính đáng để phàn nàn. Anh đặt thịt vào trong vỉ nướng và ao ước không biết đến lần thứ bao nhiêu là Jane có thể sẽ thấy hạnh phúc như anh, hài lòng như anh với những gì họ hiện có. Nhưng anh hiểu rằng mong muốn này cũng là không tưởng giống như sự thèm muốn không giới hạn của Jane đối với một cuộc sống xa hoa. Anh phải chấp nhận những ước mơ và hy vọng hão huyền của cô, cũng như cô phải chấp nhận thực tế là anh sẽ chẳng bao giờ kiếm được nhiều tiền cả. Khi yêu ai thì người ta phải chấp nhận những điều khó chịu này thôi. Và rốt cuộc, trong hoàn cảnh của anh, điều may mắn là Jane đã không yêu cầu anh phải là người trưởng thành trong khuôn phép, với một người có tuổi thơ như anh, lẽ ra anh đã không dám bước chân vào lĩnh vực tình ái nữa kia. Có lẽ anh đã điên khi yêu và phơi bày cái sinh vật nhút nhát trong vỏ bọc ra trước mọi thế lực phá hoại. Và tối qua, một cái gì đó đã rạn nứt. May mắn là Jane đã kịp nhận ra và nhanh chóng giúp anh sửa lại vết nứt đó. Vì thế bây giờ họ đang quay trở lại những gì đã qua, không bao giờ dự kiến cho bất kỳ tương lai hiện thực nào cả, chỉ mơ mộng (trong trường hợp của Jane) hay trốn tránh trong các con số và quân cờ (trong trường hợp của bản thân anh) và thu xếp các giải pháp nho nhỏ cho mình như thể họ là một cặp bé thơ không tình yêu cố gắng bù đắp lại cho nhau những gì mà cuộc đời đã không dành cho họ. Nhưng chúng ta không thể cứ sống mãi như thế này được, Robert nghĩ trong khi xé gói đậu đông lạnh; chúng ta sẽ không thể che mãi cái vết rạn ấy bằng một tờ giấy. Nỗi hoang mang sợ hãi lại tăng lên cùng với ý nghĩ về một cuộc sống không có Jane. Anh đấu tranh tư tưởng, tự nhủ rằng mọi cái không thể hoàn toàn giống như trước khi có cuộc tranh cãi tối qua được bởi vì chẳng có ai hai lần tắm trên cùng một dòng sông, nhưng sự khác biệt không có nghĩa là tồi hơn. Có lẽ cuối cùng thì Jane cũng bắt đầu hiểu ra rằng tính khí của cô đã có tác động đến anh. Có lẽ cô sẽ phải cố gắng để dung hòa. Thực tế là những cuộc tán gẫu như vậy về việc kiếm tiền từ những bệnh nhân giàu có có thể là bước khởi đầu của quá trình dung hòa đó. Trong chốc lát, anh không tin là cô đã có một kế hoạch cụ thể trong đầu, ngoại trừ mong muốn rất hợp lý là đến lúc nào đó nhận được một món quà mà thôi Robert rất thích nấu nướng, và với những ý nghĩ vui sướng ấy, anh với tay lấy mấy quả cà chua cùng một ít cải xoong để tô màu cho bữa ăn, và gọi với lên nhà bảo Jane sắp xếp bàn ăn. Cũng chẳng có gì phải làm nhiều ngoài việc dọn chồng sách báo và đẩy mấy cái ghế bành lại gần lò sưởi. Jane vui vẻ làm mà không cằn nhằn như mọi khi về chỗ ở và phòng ăn chật chội. - Mâm cơm tuyệt đẹp - Jane tán dương sau một hai phút im lặng - Khi nào chán dạy học anh có thể chuyển sang làm đầu bếp được đấy, nghề này chẳng bao giờ lo thất nghiệp cả. Robert không thấy có ẩn ý gì trong nhận xét đó nên không có phản ứng gì. - Anh không hế phản đốì, nhưng anh tin là giờ thì họ cần em cung cấp thực phẩm cả năm cho trưòng đấy. - Em sẽ không nhận làm cho họ nếu anh có ý định tự mình mở một tiệm ăn nhỏ.” Họ không ngừng tranh luận sôi nổi về vấn đề này cứ như định thực hiện những việc đó thật. Robert phân vân không biết đó có phải là một phần nỗ lực của Jane trong việc chỉ ra rằng cô cũng có thể thực tế trong việc làm ăn kiếm tiền. Dường như anh thấy rằng mình cũng cần phải cố gắng để làm được như vậy, và anh đề nghị cô kể cho anh nghe về người bệnh ở Hampstead, vì anh có cảm giác là cô đang muốn được anh hỏi. Jane kể chi tiết cho anh nghe, và Robert quên bẵng đi sự căng thẳng giữa hai người và quên đi nỗi sợ hãi của mình. Họ ngồi sang ghế bành trước lò sưỏi uống cà phê, và Robert theo dõi biểu hiện diễn biến tình cảm của Jane trong khi nghe câu chuyện thương tâm và bi thảm của một kiếp người. Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Ngắn Ngủi của tác giả Anna Clarke.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuối Trời Hợp Tan - Anne Tyler
Pauline và Michael yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhưng sau khi kết hôn, do có quá nhiều sự khác biệt về tính cách, sở thích, thói quen... nên cuộc sống lứa đôi của họ xảy ra liên tiếp những mâu thuẫn, điều này đã làm tình yêu mãnh liệt thuở ban đầu của họ phai nhạt dần. Những cuộc cãi vã bất tận, những lời đay nghiến nhau, nước mắt, chiến tranh lạnh, làm lành rồi lại cãi vã... Họ cứ sống mệt mỏi trong cái vòng luẩn quẩn đó mà không sao tìm được mệt mỏi trong cái vòng luẩn quẩn đó mà không sao tìm được hạnh phúc thực sự, vì cái tôi của cả hai đều quá lớn. Sau ba mươi năm chung sống, cuối cùng họ đã chia tay nhau..., bởi họ nhận ra rằng, dù sống bên nhau nhưng họ không cùng nhìn về một hướng mà vẫn là những kẻ xa lạ trong đời sống hôn nhân, không thể hiểu và dung hòa được với người bạn đời của mình. Tiểu thuyết là một món quà ý nghĩa dành tặng riêng cho những ai đã, đang sắp bước vào đời sống hôn nhân. Từ câu chuyện của hai nhân vật chính, độc giả sẽ có thêm những kinh nghiệm sống quý báu, giúp hóa giải mâu thuẫn không thể tránh khỏi trong đời sống vợ chồng.. Cuối trời hợp tan là cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội thứ 16 của Anne Tyler, từng lọt vào top 10 cuốn sách bán chạy nhất ở Mỹ vào năm 2004 và nằm trong danh sách những cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất do tạp chí "New York Times" bình chọn năm 2005. *** Anne Tyler sinh năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota (Mỹ). Là con cả trong một gia đình có bốn anh em, cha là nhà hóa học, mẹ tham gia công tác xã hội, những năm tháng ấu thơ của Anne trôi qua trong cộng đồng những tín đồ giáo phái Quaker trên những dãy núi ở Bắc Carolina và Raleigh Anne Tyler sinh năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota (Mỹ). Là con cả trong một gia đình có bốn anh em, cha là nhà hóa học, mẹ tham gia công tác xã hội, những năm tháng ấu thơ của Anne trôi qua trong cộng đồng những tín đồ giáo phái Quaker trên những dãy núi ở Bắc Carolina và Raleigh. 11 tuổi Tyler mới được đến trường. Chính điều kiện giáo dục như vậy khiến cô bé Tyler lúc đó nhìn thế giới xung quanh với rất nhiều ngạc nhiên, lạ lẫm. Anne Tyler sinh năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota (Mỹ). Là con cả trong một gia đình có bốn anh em, cha là nhà hóa học, mẹ tham gia công tác xã hội, những năm tháng ấu thơ của Anne trôi qua trong cộng đồng những tín đồ giáo phái Quaker trên những dãy núi ở Bắc Carolina và Raleigh. 11 tuổi Tyler mới được đến trường. Chính điều kiện giáo dục như vậy khiến cô bé Tyler lúc đó nhìn thế giới xung quanh với rất nhiều ngạc nhiên, lạ lẫm. Tuy nhiên, năng khiếu văn chương của Tyler được bộc lộ khá sớm. 7 tuổi Tyler đã bắt đầu viết những câu chuyện đầu tiên cho riêng mình. The Little House (Virginia Lee Burton) - cuốn sách yêu thích nhất của Tyler đã dạy cô bé rất nhiều điều về cuộc sống. Nhưng mơ ước lớn nhất của Tyler lúc bấy giờ là trở thành bác sĩ. Cô bé Anne Tyler có thể bỏ ra hàng giờ ngồi tưởng tượng mình là bác sĩ, trò chuyện với bệnh nhân như thế nào, bệnh tật và cuộc sống của họ ra sao, tự nghĩ ra những vở kịch nho nhỏ xung quanh những nhân vật này và thì thầm một mình trong đêm. “Những câu chuyện tưởng tượng thời thơ bé đã giúp tôi trở thành tác giả được yêu mến như ngày hôm nay”, Anne Tyler chia sẻ.   Trong thời gian học trung học tại Đại học Duke, Tyler từng hai lần đoạt giải Anne Flexner Award về sáng tác. Truyện ngắn đầu tay mang tên Laura được đăng trên tạp chí văn học của trường. Tốt nghiệp trung học, Tyler tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu về nướcNga tại Đại học Columbia, New York. Trước khi chuyển đến Maryland, bà làm công việc của người sưu tầm tư liệu tại Đại học Duke, sau đó là thủ thư tại thư viện luật của Đại học McGill. Năm 1963, Tyler kết hôn và có hai con gái. Kể từ đó, bà định cư ở Baltimore, bang Maryland và chuyên tâm sáng tác. Những câu chuyện lấy bối cảnh ở Baltimore của Anne Tyler khắc họa cuộc sống của những gia đình trung lưu nơi đây với những bí mật, hoài bão, ước mơ và có cả những khủng hoảng họ phải đối mặt.   Năm 1977, bà giành giải thưởng của Viện Hàn Lâm với tác phẩm Earthly Possessions.   Breathing Lessons, tiểu thuyết thứ mười một mang về cho bà giải thưởng Pulitzer năm 1989. The Accidental Tourist (Du khách bất đắc dĩ) được trao giải National Book Critics Circle Award năm 1985; có mặt trong danh sách đề cử giải thưởng Pulitzer năm 1986 và đứng đầu danh sách những cuốn sách bán chạy nhất của The New York Times. Du khách bất đắc dĩ cũng đã được chuyển thể thành phim năm 1988 với sự góp mặt của hai diễn viên William Hurt and Geena Davis. Đây cũng là hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Anne Tyler.   Ngoài ra, bà còn biên tập cho ba tuyển tập: The Best American Short Stories 1983, Best of the Southvà Best of the South: The Best of the Second Decade. Trong số những nhà văn đương đại sở hữu những cuốn sách bán chạy nhất, Anne Tyler sống giản dị, khép kín nhất. Rất ít khi bà xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn, hiếm khi thực hiện những chuyến đi quảng bá sách và hầu như không lộ diện trước đám đông. Các cuộc phỏng vấn Anne Tyler chủ yếu được thực hiện qua email.  *** Tất cả những người hàng xóm đều có thể miêu tả lại cảnh gặp nhau lần đầu giữa Michael và Pauline. Đó là một buổi chiều thứ hai đầu tháng 10 năm 1941. Con đường St. Cassians vẫn nhỏ hẹp như ngày nào. Nó nằm ở phía Đông thành phố Baltimore, hai bên đường là những dãy nhà bé nhỏ chật hẹp san sát nhau, chen lẫn ở giữa là những cửa hàng rộng chỉ bằng phòng khách. Cặp song sinh nhà Golka đội khăn trùm đầu gần như giống nhau, đang đứng bàn luận về những hộp phấn hồng để trong tủ kính hiệu thuốc của nhà Sweda; bà Pozniak tay cầm gói giấy nhỏ màu nâu bước ra khỏi cửa hiệu ngũ kim; chiếc xe hơi Ford đời B của ông Kostka vừa chạy tới, tiếp đến là một chiếc Cadillac hào nhoáng cũng phóng vèo qua; một lúc sau, anh Ernie Moskowicz hàng thịt cọc cạch đạp chiếc xe cũ kỹ chạy ngang qua. Cửa hiệu tạp hóa nhà Anton nhỏ hẹp và mờ tối chất đầy hàng hóa. Trong đó, có một quầy hàng bằng gỗ đặt theo hình chữ L, còn hàng hóa trên giá xếp cao đụng cả trần nhà thấp bé. Mẹ Michael đang gói hai hộp đậu rồi đưa cho bà Brunek với vẻ mặt lạnh như tiền, thậm chí chẳng thèm nói lấy một câu “Hẹn gặp lại quý khách”. Con bà Brunek - chẳng biết là Carl, Paul hay Peter, bởi chúng giống nhau như khuôn đúc. Một miếng ván bên cạnh chỗ để thực phẩm ngũ cốc kêu ken két, toàn bộ khung sườn của căn nhà cũ kỹ này lại vùi sâu dưới đó. Michael đang đứng phía sau quầy hàng khá dài bên trái, bận rộn chất từng cục xà phòng hiệu Woodbury lên giá. Lúc đó anh vừa tròn 20 tuổi, dáng người cao cao, quần áo không vừa người, tóc đen nhánh và cắt hơi ngắn, khuôn mặt trông rất gầy guộc, râu ria đen sì, cho dù ngày nào anh cũng cạo nhưng chân râu vẫn lộ ra. Lúc này, anh đang chất xà phòng thành hình kim tự tháp, tầng dưới cùng xếp 5 cục, kế tiếp 4 cục, rồi 3 cục... Mặc cho mẹ anh đã nói nhiều lần rằng, bà không thích kiểu thiết kế giàu tính sáng tạo này, mà chỉ sắp xếp làm sao trông cho vững là được. Một lát sau, ngoài cửa nghe tiếng leng keng, leng keng. Bất chợt, rầm một tiếng, bốn cô gái xộc vào, tốc độ nhanh như dòng nước xiết, mang theo mùi mồ hôi và mùi khói xe. “Giúp chúng tôi với!”, Wanda Bryk kêu lên. Cô bạn thân Katie Vilna đang khoác vai dìu một cô gái mặc áo khoác đỏ lạ mặt, đồng thời đè chặt chiếc khăn tay trên huyệt thái dương bên phải của cô ta. “Cô ấy bị thương! Cần được cấp cứu!”. Wanda gào to. Michael dừng công việc đang làm. Bà Brunek hoảng sợ dùng một tay che mặt. Carl, Paul hay Peter “huýt” một tiếng dài. Nhưng bà Anton lại nói không chớp mắt: “Sao lại đưa cô ta đến đây?”, bà hỏi, “Phải đưa đến trạm y tế chứ”. ... Mời các bạn đón đọc Cuối Trời Hợp Tan của tác giả Anne Tyler.
Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê tập 4: Văn học
Nguyễn Hiến Lê là một học giả, một nhà văn lớn của Việt Nam. Ông là tác giả của hơn 100 công trình văn học, văn hóa, văn chương Việt Nam, Anh, Pháp, Trung Quốc. Tác phẩm của ông là những đóng góp lớn cho văn hóa sử Việt Nam hiện đại. Bộ sách Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê do Nguyễn Q. Thắng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Bộ sách gồm có 4 cuốn: Triết học, Sử học, Ngữ học, Văn học Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê - Tập I: Triết Học Tuyển tập này sẽ giới thiệu với các bạn hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa cũng như những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Đông Tây. Qua đó, tác giả giúp người đọc hiểu thêm ít nhiều về triết học Trung Quốc cổ đại.Tuyển tập sẽ giới thiệu với các bạn những tác phẩm tiêu biểu của Triết học Trung Quốc: Đại cương Triết học Trung Quốc, Khổng Tử, Lão Tử, Kinh dịch - Đạo của người quân tử. Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê - Tập II: Sử Học Tuyển tập này giới thiệu với các bạn một số tác phẩm về lịch sử, về văn minh thế giới mà tác giả đã bỏ nhiều tâm huyết để thực hiện. Phần lịch sử thế giới là một lược sử về diễn tiến của lịch sử nhân loại từ khởi thủy đến hiện đại xuyên suốt không gian và thời gian; sử Trung Quốc là một “Tập đại thành” của tác giả về toàn cảnh lịch sử Trung Quốc từ cổ đại đến hiện đại. Đây là một tác phẩm lớn và tương đối đầy đủ nhất của Nguyễn Hiến Lê về “Trung Hoa học”. Những tác phẩm về lịch sử được giới thiệu trong sách là cái nhìn xuyên suốt về lịch sử, văn minh sử thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam. Tập III : Ngôn ngữ học  Trong tuyển tập này, các bạn sẽ được giới thiệu các quyển: “Để hiểu văn phạm” là quyển văn phạm Việt Nam phổ thông sớm nhất thoát ly khỏi ảnh hưởng văn phạm Pháp; “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam”, tác giả trình bày một quan điểm độc đáo về từ tính và từ vụ. Quan điểm này phù hợp với tinh thần tiếng Việt; “Chúng tôi tập viết tiếng Việt” là một số bài viết về cách sử dụng và hành văn của tiếng Việt hiện đại. Ngoài ra, tuyển tập còn trích đăng một số bài báo của tác giả về Ngôn ngữ học Việt Nam. Hy vọng sách sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu tham khảo để nghiên cứu về ngôn ngữ học. Tập III : Ngôn ngữ học gồm các quyển: - Để hiểu văn phạm - Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam - Chúng tôi tập viết tiếng Việt - Luyện Văn (I, II, III) Và một số bài báo về Ngôn ngữ học Việt Nam - Đọc Ngôn ngữ học Việt Nam của Nguyễn Bạt Tụy (1959) - Ngữ pháp là gì? (1962) - Cách dùng tiếng “Đâu” trong truyện Kiều (1966) - Nửa thế kỷ chánh tả Việt ngữ (1968) - Bộ Việt Nam từ điển của ông Lê Văn Đức (1970) - Góp ý về việc thống nhất tiếng Việt (1976) Riêng hai cuốn "Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam" và "Chúng tôi tập viết tiếng Việt", tác giả soạn chung, nhưng chúng tôi vẫn đưa vào tuyển tập III này.  Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê - Tập IV: Văn Học Cái đẹp bao trùm cả cái Chân và cái Thiện; mà mục đích của đời người là tìm tòi thực hiện rồi hưởng cái Đẹp. Chúng ta càng văn minh bao nhiêu thì càng bỏ nhiều thì giờ để theo đuổi mục đích đó bấy nhiêu. Ngay từ hồi tiền sử, cả ức vạn năm về trước, tổ tiên ta mỗi khi được rảnh rang, khỏi phải lo cái ăn cái mặt, đã tỉ mỉ đục trên đá hình vạn vật ở chung quanh, nét đục rất tinh xảo, rồi họ lại biết tạo ra những xa xỉ phẩm, chê trái cây trong rừng là không ngon... Nghệ thuật có mục đích ghi và thực hiện được cái đẹp trong vũ trụ; mà trong các nghệ thuật, văn chương và âm nhạc phổ cập hơn hết, cảm người ta sâu hơn hết, riêng văn chương lại có công dụng giảng giải, truyền bá các nghệ thuật khác, nên từ khi nhân loại có chữ viết thì bất kỳ ở thời nào và xứ nào, nó cũng được coi trọng hơn mọi môn khác và đựơc dạy nhiều nhất trong các trường học. Ngày xưa, ở phương Tây cũng như ở phương Đông chúng ta, nói đến học tức là học văn, vì triết lý hay sử ký cũng điều là văn. Ngày nay, khoa học tuy đã chiếm một địa vị lớn trong chương trình giáo khoa, song vẫn không áp đảo nổi văn chương. Muốn luyện thuật viết, phải lĩnh hội được cái Đẹp trong văn và một khi lĩnh hội được rồi thì trí óc ta mở mang hơn, tình cảm ta tế nhị hơn, tâm hồn ta cao cả hơn; tóm lại con người của ta phong phú hơn. Chẳng những vậy, thuật viết còn làm tăng khả năng giúp đồng bào của ta lên. Xét về phẩm thì chúng ta tự hào đã có những trước tác phẩm đáng liệt vào hạng bất hủ của nhân loại, nhưng xét về lượng, nhất là về phương diện phong phú, ta phải nhận văn học của mình còn kém văn học Hoa, Pháp, Anh: Chẳng hạn loại anh hùng ca, loại kịch mới phôi thai hồi gần đây, mà văn xuôi Việt, mặc dầu đã tiến rất mau, mới chỉ là đương bước vào giai đoạn trưởng thành vì như trong cuốn Luyện văn II đã nói, nó mới được thông dụng không đầy một thế kỷ nay. Sách được trích dẫn nhiều văn thơ ngoại quốc, âu cũng là một cách học hỏi thêm để bồi bổ cho văn học Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê tập 4: Văn học
Gót Sen Ba Tấc - Phùng Ký Tài
Sau năm 1977, văn học Trung Quốc bước vào một thời kì mới, thời kì nhà văn dám viết sự thật về những mất mát sâu xa do “đại cách mạng văn hóa” và những chính sách quá tả trước đó gây ra. Cả một thế hệ đông đảo các nhà văn trẻ ra đời: thế hệ thứ năm, và lập tức trở nên nổi tiếng. Họ chẳng những là nhân chứng mà còn là nhân vật chính trong tấn bi kịch khủng khiếp rộng lớn khắp Trung Hoa. Cơn lốc Hồng vệ binh đã cuốn họ vào các cuộc kiểm điểm, phê bình, đấu tố, cải tạo tư tưởng bằng học tập “trước tác” hoặc bằng lao động khổ sai. Chính trong thời gian mười năm đó (1966-1976), họ đã có dịp hòa nhập vào thực tế, có dịp suy ngẫm lại về cuộc đời và về số phận con người, đã thai nghén hoặc phác thảo xong những tác phẩm tâm huyết chỉ chờ dịp công bố cùng bạn đọc.  Phùng Ký Tài là một nhà văn "ngẫu nhiên" và "tất nhiên" trong cả loạt nhà văn nói trên. Ông sinh năm 1942 ở thành phố Thiên Tân. Năm 1960, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông tham gia đội bóng rồi chuyển sang làm giáo viên dạy mĩ thuật. Trong thời gian cách mạng văn hóa, những lần bị đưa ra đấu tố và lao động cực nhọc ở nông thôn đã làm giàu cuộc đời sáng tác của ông. Năm 1978 ông bắt đầu sáng tác và liên tiếp có truyện in từ bấy đến nay. Về truyện dài có Nghĩa hòa quyền (viết chung với Lý Định Hưng), Đèn thần; về truyện vừa có Ngả đường nở đầy hoa, A! (giải truyện vừa ưu tú toàn quốc năm 1977-1980), Trên cả tình yêu, Dấn mình trong mưa gió, Roi thần (giải truyện vừa ưu tú toàn quốc 1983-1984), Cảm tạ cuộc đời (giải ưu tú của tạp chí Tuyển chọn truyện vừa), Gót sen ba tấc v.v..; về truyện ngắn có Chiếc tẩu thuốc khắc họa (giải Truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978-1984), Người đàn bà cao lớn và anh chồng lùn, v.v...  Một loạt tác phẩm trên đây cho thấy Phùng Ký Tài không chỉ sở trường về đề tài hiện thực đương đại mà cả về đề tài phong tục, lịch sử. Ở đề tài thứ hai, văn phong của ông thiên về dí dởm, hài hước, tươi vui; còn ở đề tài thứ nhất, ông viết nghiêm túc, sâu sắc, chân thực, cảm động, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong người đọc. Bới vậy một số truyện tuy không được giải thưởng song vẫn được giới lí luận chú ý nghiên cứu về nghệ thuật dẫn truyện và hình tượng nhân vật của ông. Năm 1987, Trung tâm truyện ký Mĩ tặng ông huy chương danh dự Danh nhân thế giới trong năm. Ông còn có tên trong cuốn Người trí thức nổi tiếng thế giới của Anh và Nhân vật kiệt xuất thế giới của Mĩ.  Gót sen ba tấc là chuyện chương hồi "hiện đại" viết về số phận Qua Hương Liên, một cô gái con nhà nghèo có đôi bàn chân bó xinh đẹp, qua đó cho thấy một tập tục kì cục, tàn nhẫn, dã man. Tập tục này không bắt nguồn từ tôn giáo như nhiều tập tục kì lạ của nhiều dân tộc trên thế giới, mà bắt nguồn từ một quan điểm thẩm mĩ quái gở của người khác giới với chị em, những người đàn ông có quyền thế ngang trời là vua chúa Trung Quốc, sau khi đã chơi chán các kiểu "búp bê" - như sau này nhà văn lớn Na Uy Henrik Ibsen đã gọi đúng tên những người phụ nữ bị coi là đồ chơi cho đàn ông - có dung nhan chim sa cá lặn, liền chuyển ánh mắt thích thú sang hình thể của họ, hết kiểu "búp bê" thắt đáy lưng ong, thon thả, nhẹ nhàng để có thể đứng trên tay, trên mâm mà múa như Triệu Phi Yến, sủng phi của Hán Thành Đế, lại đến kiểu "búp bê" bụ bẫm, mũm mĩm đến mức thị tì nâng dậy mà cứ mềm oặt, không đứng lên được như Dương Quý Phi của Đường Mạnh Hoàng. Rồi không biết tự lúc nào, cái thú chơi bệnh hoạn của họ lại chuyển xuống đôi chân của chị em, muốn bàn chân trời sinh của các nàng cung phi cũng phải biến thành những mầm măng, ý hẳn để cho xứng với búp măng là những ngón tay thon thon trắng xinh của họ chăng? Hay là để cho chị em, dù đã có người xốc nách, mỗi khi bước đi, vẫn còn chập chững, chệnh choạng như say, thảng thốt, kinh hoàng như chim hồng mất vía - như dáng đi đứng của người đẹp từ lâu được ca ngợi trong thơ? Có lẽ cả hai và chắc là còn nhiều thú vị khác nữa, mà những người đàn ông quyền thế tìm thấy ở những đôi gót sen nọ. Chỉ có một điều là những người đàn ông đó không một ai nghĩ đến nỗi khổ của chị em khi bị bó chân nhỏ lại chỉ còn ba tấc ta, nỗi đớn đau khôn tả cả về tinh thần và thể xác buộc phải làm cho đôi chân mình biến dạng. chẳng khác nào nỗi đau đớn khi muốn biến cái đuôi mình thành đôi chân để được yêu như nàng tiên cá trong truyện Andersen.  Gót sen ba tấc chẳng những chỉ viết về những điều kể trên mà còn cho thấy bi kịch của con người khi không làm chủ được mình, để cho hoàn cảnh xô đẩy trở nên tha hóa, dẫn tới một cái ta khác hẳn với cái tôi ban đầu. Qua Hương Liên ngây thơ, hiền lành từ nạn nhân đáng thương của tục bó chân, của thú chơi đồ cổ, dần dần cũng bị chôn vào các cuộc xâu xé, tranh giành quyền lực để rồi trở thành tội nhân đáng tàn nhẫn, ngoan cố, song cũng đầy mâu thuẫn. Phần chìm này trong Gót sen ba tấc cũng giống như phần chìm trong phim Đèn đỏ treo cao của đạo diễn Trương Nghệ Mưu sau này - một phim viết cùng về đề tài búp bê, dù rằng do đặc điểm thể loại và bút pháp, Gót sen ba tấc đề lại ấn tượng cho bạn đọc một cách khác. Gót sen ba tấc đăng lần đầu trên tạp chí văn học cỡ lớn Thu Hoạch số 3 năm 1986. Đây là truyện vừa thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết viết về chủ đề suy ngẫm lại về văn hóa của Phùng Ký Tài mà tập đầu là Roi thần (1984) và tập ba là Âm dương bát quái (1988). Cả ba đều đã được dịch ở Nhật, riêng Gót sen ba tấc còn được dịch ở Mĩ và ở Đức. *** Người ta bảo trong đôi chân bó nhỏ xíu ẩn giấu cả một pho lịch sử Trung Quốc, câu ấy thật sâu sắc! Bàn chân nhỏ dài chừng ba tấc,1 chỉ dài hơn điếu thuốc lá một tẹo, mà quanh năm, suốt đời vải bó kín mít, ngoài cái mùi bốc lên, phỏng còn có gì trong đó nữa? Lịch sử trải qua từng chặng từng chặng một. Triều này hưng thịnh, triều khác suy vong. Hưng hưng suy suy làm cho dân chúng sống không yên, trở ngại việc ăn uống, trở ngại cả việc mặc áo quán, cư trú, nhưng không trở ngại đến việc bó chân. Từ Lí Hậu chủ đến ngài Tuyên Thống,2 sự bó chân của đàn bà đã được một ngàn năm, giữa chừng thay đổi biết bao triều đại, thay đổi biết bao niên hiệu, chân chẳng cứ bó mãi đó sao? Lịch sử can thiệp đến nó mà làm gì? Trên từ thái hậu, cung phi, dưới đến gái quê, nhà chài, văn như Lí Thanh Chiếu,3 võ như Lương Hồng Ngọc,4 ai chẳng bó? Chỉ có khỉ là không bó, tôi tin vậy. Khi người Mãn Thanh tràn qua biên ải, họ ra một đạo lệnh bắt người tộc Mãn không được bó chân, lại còn bắt người Hán phải cởi chân đã̃ bó ra. Cái đận ấy nhà Thanh làm dữ lắm, nhưng dù dữ cũng dữ không nổi với chân bó. Vả lại, dữ hay không, không thể chỉ nhìn vào một lúc. Rốt cuộc, người tộc Hán vẫn bó theo lệ rồi con gái tộc Mãn cũng giấu cha giấu mẹ, lẳng lặng lấy vải bó chân thành "lát dưa". Như vậy là trong bàn chân bó hẳn phải có phép ma nào đó. Ma hay không, khoan hãy nói. Chỉ riêng bàn về quy củ, tài nghệ, độ tinh xảo mức công phu, kiểu cách, biện pháp, kĩ xảo, bí mật của cái trò đó, ít ra cũng phải nói vài ba ngày trời. Đó là cả một môn học vấn. Tôi không hề muốn giấu một vị nào, trong những chương sau đây đều có chép cả. Nếu vị nào chưa hề nghiên cứu, ngàn lần xin đừng góp chuyện bừa. Vị bảo bó chân thật khổ, nhưng bó rồi cũng thật đẹp đấy! Vị chửi chân bó xấu, hừm, chân bó lại mắng vị mới xấu kia! Nếu triều Thanh không đổ, làm sao có khóc có cười, muốn sống muốn chết, bó rồi cởi, cởi rồi bó, lại bó lại cởi, lại cởi lại bó? Người thời bấy giờ thật sự coi chân bó hơn cả đầu óc. Nhưng các vị chớ có tưởng bây giờ tiệt nòi chân bó thì vạn sự đại cát. Không bó chân thì có thể bó tay, bó mắt, bó tai, bó óc, bó lưỡi, rồi cũng lại có khóc, có cười, muốn sống, muốn chết, bó bó cởi cởi, cởi cởi bó bó, cởi bó bó cỏ, bó cởi cởi bó. Chuyện này mà tiếp tục nói thì còn kéo đi xa nữa. Ở đây chỉ kể một câu chuyện về bó chân thôi. Câu chuyện vốn kèm theo bốn câu sau đây:  Bảo giả toàn là giả,  Bảo thật, thật cả thôi. Đọc tới khi hứng thú, Thật giả chẳng đôi hồi. Các vị cứ việc pha một ấm trà nhài, cùng với kẹo vừng làm bằng đường củ cải đỏ vừa ăn vừa uống, giở một chương, đọc một chương coi như trò vui vậy. Nếu bỗng nhiên vị nào vỗ trán, tự cho giác ngộ một điều gì, thì chớ vội nói bừa, không chừng vì bốc máu lên đầu, nghĩ lầm đấy! * * *   Hôm ấy, vệ Thiên Tân như bị ma làm. Vào ngày ấy, tất cả những việc lạ lùng bình nhật không được thấy, không được nghe đều đua nhau xảy ra, chẳng ai ngăn cản được. Trời vừa mới rạng còn chưa sáng hẳn, không mưa không gió, thế mà góc thành phía Đông Nam đang yên lành bỗng ầm ầm lở một mảng lớn như bị đại bác bắn trúng vậy. Chuyện lạ lùng cứ từng việc từng việc nối tiếp nhau.  Trước hết, bậc đại thiện họ Lí xã Bị Tế, am Địa Tạng ở Hà Đông, đầu bỗng bốc hỏa, sai nấu một trăm nồi cháo hoa bố thí cho người tàn tật khắp thiên hạ. Lời vừa nói ra, tiếng chưa tan hết, hầu như tất tật người nghèo túng trong toàn thành, nào mù, điếc, câm, thọt, bại liệt, dở hơi, cho chí rụng tóc, rách môi, chột, gù, sẹo mắt, nói lắp, vẹo cổ, chân vòng kiềng, tay sáu ngón, rỗ trắng, rỗ đen đều kéo đến. Cả đau mắt đỏ, má sưng cũng chen vào, như rừng hoa vây chặt lấy nhà nấu cháo của họ Lí, chẳng khác gì lũ quỷ trong bức tranh người chết cạn, kẻ chết đuối kéo nhau ùn ra. Cả một vùng khiếp vía chẳng ai dám ra đường, trẻ con nín khóc, chó không dám sủa, gà chẳng đậu bờ tường, mèo chẳng lên nhà trên. Vệ Thiên Tân chưa bao giờ có cảnh lạ lùng như thế.  Cùng ngày, tại nhà ông lớn họ Viên, lí trưởng cửa Bắc có chân trong Ty vận chuyển muối cũng xảy ra một việc lạ lùng. Bà cả ăn táo răng ngựa bị hột táo chẹn ngang họng, nuốt bánh, chiêu nước, uống dấm, khạc khan, vừa nhẩy lò cò vừa xách một tai đều chẳng ăn thua. May nhờ một người bán thuốc ê cho con rắn nhỏ dài chừng hơn một gang chui vào cổ đẩy hột táo rơi xuống bụng. Ông lớn họ Viên thưởng cho năm chục lạng bạc. Nào ngờ chẳng bao lâu chú rắn giở trò trong bụng bà lớn, đau đến nỗi bà lớn lăn từ trên giường xuống dưới đất, rồi đấm bụng, đập đầu vào tường. Tìm đến người bán thuốc ê thì gã đã mất hút. Một bà già hiểu biết nhiều chuyện vội vàng bảo người mang kiệu khiêng bà lớn đến Ngũ Tiên đường ở tận đầu phía Tây. Ngũ Tiên đường thờ năm vị đại tiên là Hồ, Hoàng Bạch, Liễu, Xám. Hồ là hồ li, Hoàng là chồn vàng, Bạch là nhím, Xám là chuột, Liễu là rắn. Bà lớn vừa chổng mông rập đầu được ba cái, bỗng thấy hậu môn ngưa ngứa, rồi loạt xoạt con rắn tuồn tuột chui ra. Thế có lạ lùng không? Nghe đâu chỉ vì bà lớn sớm ngày hôm ấy dẫm chết một con rắn nhỏ bên bờ giếng và người bán thuốc ê chính là vị đại tiên, tinh loài rắn biến ra. Chuyện lạ lùng không chỉ có hai việc trên. Ngày hôm ấy, có người ăn món cua bể ở nhà hàng Tụ Hợp thành phố Bắc Cũng, khi lật mai cua nóng hôi hổi ra, bên trong thấy ngay một hạt ngọc, tròn chằn chặn, sáng chói mắt. Từ xưa tới nay, ngọc chỉ có trong trai, chứ ai nghe ngọc có trong mai cua bao giờ? Hạt ngọc ấy không biết béo bở cho con cái nhà nào, chỉ biết nhà hàng buôn may bán lớn. Người kéo đến ăn cua nhiều hơn cả cua. Việc ấy lạ nhưng chưa phải là nhất. Việc lạ hơn còn ở đằng sau. Có người kể thấy một con cá chúa, mình bạc mắt vàng dài một trượng hai (có người nói dài ba trượng sáu) men theo sông đào ở phía Nam để xuôi về Nam, trưa ngày hôm ấy sẽ bơi qua ngã ba sông, vào sông Bạch Hà để ra biển Đông. Tới giữa trưa đã có mấy nghìn người đứng trên đê chờ cá chúa. Người đông, sức nặng đê chịu không nổi, ầm một tiếng sạt một mảng; hơn trăm người rơi xuống sông như thả bánh trôi. Một đứa bé bị sóng cuốn đi, chưa ai kịp nhảy xuống cứu đã không thấy chỏm đầu đâu nữa, hẳn là chết đuối. Không ngờ, một ông chài quăng lưới đánh cá trước cửa cũng Đức Bà, lưới vừa kéo lên thấy cái gì trăng trắng hồng hồng, ngỡ là cá chép bự, hóa ra thằng bé vẫn còn thở, xóc vài ba cái đã chớp mắt đứng dậy được rồi. Những ai có mặt đều ngẩn người ra, chuyện này lạ hết mực rồi còn gì nữa? Ngờ đâu đến trưa chuyện lạ lùng không những không giảm mà còn tăng thêm, xảy ra ngay tại phủ đường.  Số là bọn cân quấy ở góc thành Đông Bắc và ở phố Hà Bắc đánh nhau, thuận tay phá tan bốn mươi tám cửa hàng buôn bán ở phố Hàng Nồi, làm kinh động đến ngài Quan sát trưởng đạo binh bị. Ngài bèn cử những người giỏi trong đội săn bắt tóm ngay hai thằng đấu sỏ là tên Phùng Xuân Hoa và tên Đinh Lạc Nhiên giam trong cui đứng, đặt ở cửa công đường, hai bên tả hữu mỗi bên một đứa. Lập tức bốn năm trăm thằng lỏi càn quấy kéo đến, đứa nào cũng cầm một bản Bài ca sám hối của lũ càn quấy. Bài ca này do ngài Quan sát trưởng phát cho mỗi thằng càn quấy ở trong thành một bản vào dịp ngài đến Thiên Tân nhậm chức ngày hai mươi lăm tháng Mười năm ngoái, để cho đứa nào cũng thuộc lòng mà bỏ ác theo thiện. Hôm ấy, chúng kéo đến quỳ đen đặc cả cổng nha môn, cầm giấy đồng thanh đọc: Bọn càn quấy, đến phủ quan, nhờ ơn giáo huấn,  Bọn càn quấy, nay về sau, sửa loại đổi mình. Nghĩ kĩ rồi, việc trước đây, nhiều điều ngang ngạnh, Đánh đập người, sống hay chết, chẳng thèm ngó ngàng. Dù ngẫu nhiên, trốn pháp luật, may mắn một lúc,  Sẽ có ngày, bị tróc nã, trói đến cửa quan. Bị đóng gông, bị xiềng xích, cực hình chịu đủ, Ngàn lần khổ, trăm thứ tội, chống đỡ khó đành. Đọc đến đây, mấy trăm thằng lỏi đổi sắc mặt, gân xanh trên trán nổi lên, mắt bắn ra những tia dữ tợn, răng nghiến kèn kẹt chẳng khác gì bốn năm trăm con chuột cùng gặm đồ. Ngài Quan sát trưởng ngồi ở nhà sau nghe thấy tiếng đó thì run từ trong lòng run ra, khắp người nổi da gà. Quan vốn là người to gan lớn mật nhưng chống không nổi âm thanh ghê rợn đó, đến nỗi run lẩy bẩy như phát sốt phát rét. Ba chén rượu mạnh xuống đến dạ dầy cũng không át nổi nỗi sợ, quan đành gọi người ra tháo cũi mở lồng. Bọn càn quấy vừa tản ra về, da gà trên mình quan cũng lập tức lặn hết. Lại nói, nha môn trên huyện có việc còn lạ lùng hơn nữa. Mười bảy nhân vật vốn có máu mặt, có tên tuổi, bình nhật cũng là những kẻ hiếu sự, hôm ấy liên danh làm đơn tố cáo những việc làm bậy bạ của bọn hút thuốc lá ở chợ đằng Tây. Bao thuốc vẽ toàn những con đầm hở tay, hở cổ, hở nửa đùi, câu khách thanh niên du đãng. Bọn này ngỏng cổ trợn mắt lên nhìn như chỉ muốn đâm đầu vào bao thuốc lá. Lời lẽ trong tờ trình rất hùng hồn, nói rằng đó là do bọn Tây cố ý làm hư hỏng dân Trung Quốc chúng ta, "làm bẩn mắt ta là làm bẩn lòng ta; hại đến lòng ta tức là làm mất nước ta vậy." Lại còn nói: "Độc hại của thuốc lá còn hơn thuốc phiện, không nghiêm ngặt cấm tiệt là không xong!" Lệ xưa nay, võ biền gây sự bên ngoài, văn nhân gây rối bên trong! Cho nên văn nhân gây rối lại càng dữ, mà lần này là gây với người nước ngoài. Chuyện lạ lùng dính cả với Tây. Vệ Thiên Tân có câu tục ngữ:  Ai mà động đến người Tây, "Trò vui" ắt có mai này cho coi.  Rồi xem, vạ lớn đến nơi rồi! Quả nhiên, ngay ngày hôm ấy có người từ tô giới đến báo rằng việc lớn bất lợi to rồi. Các phố ở tô giới đều dán tờ Lệ cấm ở tô giới gồm tám khoản sau đây: 1. Cấm gái điếm. 2. Cấm ăn mày. 3. Cấm tụ tập đánh bạc, uống rượu, ẩu đả nhau. 4. Cấm đổ rác, đồ bỏ, đất bẩn ra đường. 5. Cấm đái ven đường. 6. Cấm trèo cây bắt chim. 7. Cấm lừa, ngựa, xe, kiệu tùy tiện đỗ lại. 8. Cấm cưỡi ngựa phi, phóng, hoành hành đuổi bắt, đua nhau trên đường.  ... Mời các bạn đón đọc Gót Sen Ba Tấc của tác giả Phùng Ký Tài.
Ba Mùa Yêu - Châu Sa & Nguyễn Phương Văn
Người đọc sẽ đi từ không gian của Hà Nội xưa đầy hoài niệm tới Sài Gòn năng động hiện đại, đồng thời cũng trải nghiệm cuộc sống của tuổi trẻ, dù là những thanh niên của những những thập kỉ 90 hay ở những năm 2000, thì đều yêu mãnh liệt và sống hết mình – cho sự nghiệp, tình yêu, và bè bạn – qua lời kể của một chàng trai tri thức. Với rất nhiều tuyến nhân vật phụ, tưởng chừng như không liên quan gì tới câu chuyện được kể, nhưng lại thống nhất trong tổng thể với dòng suy nghĩ của nhân vật chính. Trong không gian vừa thực vừa ảo, với cái đẹp nên thơ của Hà Nội xen lẫn sức sống sôi động của Sài Gòn, người đọc sẽ thấy đâu đó thấp thoáng tình yêu của mình ẩn hiện trong câu chuyện của các nhân vật. Cho dù ở bất cứ thế hệ nào, ở đầu thế kỷ trước hay đầu thế kỷ này thì tình yêu và tuổi trẻ không có quá nhiều sự biến đổi, vẫn đam mê và cuồng si như vậy. Chỉ có cách thể hiện là đâu đó có chút biến đổi.Cuốn sách là những suy nghĩ miên man, là ký ức và hoài niệm, một dòng chảy chậm rãi nhưng không ngừng. Vì thế, bạn đọc hãy nghe lời khuyên của tác giả ngay từ đầu cuốn sách, rằng hãy “đọc cuốn sách này thật chậm”. *** Ba Mùa Yêu là một “tiểu thuyết tí hon” tôi viết trong mùa đông năm 2014. Gọi là “tiểu thuyết tí hon” bởi vì: + Một là nó rất ngắn. Ngồi cà phê sáng thứ Bảy lâu một chút là đọc hết cuốn sách, hoặc ăn tối xong đọc một lèo là đến giờ đi ngủ. + Hai là tuy rất ngắn nhưng có tới sáu chương. Và dù rất ngắn nhưng Ba Mùa Yêu vừa viết tình yêu vừa về tình báo. Có nhiều mối tình, có cả xếp hình, nhiều sự kiện lịch sử, nhiều phân mảnh, cấu trúc rời rạc. Trong Ba Mùa Yêu, có những người trẻ thế kỷ XXI. Họ dùng Facebook, đọc sách Tây, nghe nhạc Mỹ, và yêu nhau. Có những người trẻ của những năm 1920. Họ lẩn trốn mật thám Pháp, hoạt động chống nhà nước thực dân, và… yêu nhau. Có cả những người trẻ từ Annam đi lính cho Pháp ở châu Âu trong Thế chiến thứ Nhất. Họ tò mò học hỏi cuộc sống xa lạ, và… cũng yêu nhau. Với những bạn không thích diễm tình, trong cuốn sách có các nhân vật mang hơi hướm lịch sử. Khi đọc xong có thể các bạn sẽ có hứng google. Cám ơn sự ủng hộ của các bạn. Hy vọng đọc xong cuốn tiểu thuyết diễm tình tí hon này các bạn ít có cảm giác tiếc tiền mua sách.   Mời các bạn đón đọc Ba Mùa Yêu của hai tác giả Châu Sa & Nguyễn Phương Văn.