Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Luyện Đọc Siêu Tốc

Với lượng thông tin khổng lồ chúng ta tiếp nhận hàng ngày từ báo chí, email, báo cáo, sách vở, việc đọc là một trong những kỹ năng được sử dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, so với những kỹ năng khác mà chúng ta luôn cố gắng cải thiện tốt hơn, kỹ năng đọc thường không được quan tâm đúng mức. Cuốn sách này sẽ giúp bạn tìm hiểu các nguyên lý và kỹ năng cần thiết để trở thành người đọc nhanh và hiệu quả trong một thời gian ngắn. Các phương pháp đọc sách siêu tốc đang nằm trong tay bạn. Bạn hoàn toàn có thể thay đổi được khả năng đọc của chính mình và bằng cách đó, cuộc đời bạn cũng sẽ đổi khác. *** LUYỆN ĐỌC SIÊU TỐC CÓ Ý NGHĨA NHƯ NÀO VỚI BẠN Học cách đọc nhanh gấp 3 lần cùng với khả năng hiểu tốt hơn, nhớ được nhiều hơn và cải thiện khả năng ghi nhớ - ngay tại nhà - chỉ trong 6 tuần ngắn ngủi Không khó để một người bình thường chạy hết 1 dặm trong vòng 8 phút. Nhưng người chạy nhanh nhất thế giới lại có thể hoàn thành việc này chỉ với nửa thời gian đó. Nếu theo dõi một nhà vô địch bơi lội trong cuộc đua cự ly 100m, bạn có thể dễ dàng nhận thấy người đó không thể bơi nhanh gấp hai lần so với bạn − cho dù bạn chỉ bơi ở tốc độ vừa phải. Tuy nhiên, nhiều người lại có thể đọc nhanh gấp ba, gấp năm, thậm chí gấp mười lần so với bạn. Thực tế, với sách giấy, chỉ có vài người – không nhiều – có thể đọc được ở tốc độ đáng kinh ngạc – đọc hết nhiều cuốn sách với tốc độ chóng mặt. Có thể bạn biết John F. Kennedy được nhớ đến là một trong số những người sở hữu kỹ năng đọc nhanh này. Khi còn ở Nhà Trắng, Theodore Roosevelt thường đọc một cuốn sách mỗi ngày, vào trước bữa sáng. Còn Oliver Wendell Holmes chỉ cần liếc qua các trang sách trên đường đi bộ đến Tòa án Tối cao là có thể trả lời cực kỳ chi tiết các câu hỏi liên quan đến tài liệu sau đó. Đây chỉ là một vài người nổi tiếng có khả năng đọc nhanh được biết đến. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều người bình thường khác cũng có khả năng đọc lướt qua sách và tạp chí “với vận tốc của gió”. Luyện đọc siêu tốc Phải đến những năm 1940, chúng ta mới có bước đột phá quan trọng đầu tiên về việc đọc nhanh. Một giáo viên trường Salt Lake City đã khám phá ra cách giúp người đọc ở tốc độ trung bình trở thành những người đọc siêu nhanh. Từ đó đến nay, hàng nghìn người đã học và thực hành thành công, tốc độ đọc của họ tăng lên tối thiểu ba lần cùng với việc cải thiện khả năng nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có thể được dạy trên lớp và học viên phải trả hàng trăm đô-la để được hướng dẫn. Giờ đây, tất cả những kỹ thuật mang tính cách mạng này đã có sẵn để bạn tự học cùng những bài tập dễ thực hiện. Chúng tôi đã mất 4 năm xây dựng, nghiên cứu và thử nghiệm để đưa những phương pháp tự học này đến tay bạn. Giờ đây, bạn có thể học ngay tại nhà vào bất cứ lúc nào rảnh rỗi. Mọi chủ đề và kiến thức của toàn nhân loại sẽ nằm trong tay bạn. Bằng những phương pháp mới này, bạn sẽ tìm ra cách để có thể trở thành một trong những người đọc nhanh nhất thế giới. Một số kỹ năng đột phá bạn sẽ học được Bạn sẽ khám phá ra phương pháp đọc tinh nhanh và hiệu quả hơn. Tinh nhanh hơn nghĩa là bạn sẽ đọc nhanh một tài liệu nào đó ngang bằng với khả năng suy nghĩ về nó. Bạn sẽ biết khi nào phải tăng tốc và khi nào phải đọc chậm lại. Bạn sẽ học được tất cả “mẹo” của những người đọc tốt. Bạn sẽ lĩnh hội được thông tin với tốc độ mà bạn chưa từng nghĩ đến. Và cả những phương thức tích cực khác. Bạn sẽ tìm ra cách nhớ những điều mình đã đọc. Sự tập trung chính là bản năng thứ hai trong việc đọc. Bạn sẽ bắt đầu suy nghĩ rõ ràng hơn và sắp xếp việc đọc hằng ngày. Điều này giúp bạn có nhiều thời gian rảnh rỗi dành cho những mối quan tâm bên ngoài. Bạn sẽ trở nên thú vị hơn trong mắt bạn bè, gia đình, và khi có thêm sự hiểu biết, bạn cũng sẽ tự tin hơn vào chính mình. Hãy bắt đầu ngay hôm nay, bạn sẽ đọc được nhanh hơn ít nhất 30% sau một tuần − nghĩa là trong cùng một khoảng thời gian, thay vì chỉ đọc được 30 trang thì nay bạn sẽ đọc được 40 trang mà không phải sử dụng máy móc hay bất kỳ thiết bị hỗ trợ nào. Bạn sẽ bắt đầu đến với các bài luyện đột phá, thứ đã giúp hàng trăm nghìn người đạt tốc độ đọc gấp hai và ba lần chỉ trong vài ngày. Bạn sẽ khám phá ra lối hành văn của người viết, từ đó bạn có thể đọc nhanh hơn nữa. Bạn sẽ bắt đầu với lối viết trừu tượng – lối viết khó nhất. Và bạn cũng sẽ tìm hiểu nhiều phương pháp đọc khác nhau – đúng vậy, bạn sẽ biết nhiều hơn một cách đọc. Ngay cả thái độ cũng có thể ảnh hưởng đến tốc độ đọc, và bạn sẽ tìm hiểu xem mình có thể làm gì. Bốn chương được dành để học đọc nhanh – cách học hiệu quả và nhanh hơn, bằng tất cả các phương pháp mới nhất, giúp nhiều sinh viên đạt được điểm số cao mà chỉ mất một nửa thời gian người khác đã bỏ ra. Học cách đọc báo “ngay lập tức” sẽ giúp bạn có thể đọc được nhiều hơn một tờ báo mỗi ngày hoặc nhiều hơn hai cuốn tạp chí mỗi tuần. Và còn nhiều, nhiều hơn thế. Tôi đã trở thành người đọc nhanh như thế nào? Tôi sẽ chia sẻ với bạn cách tôi trở thành người đọc nhanh. Năm 1966, tôi đã rất lo lắng về khả năng đọc của mình sau đại học. Khi đó, trên ti vi chiếu đoạn quảng cáo về một người đàn ông trẻ đang lướt ngón tay trên một trang sách và đọc được hàng nghìn từ mỗi phút. Ngay lập tức, tôi đã điện đến Học viện Evelyn Wood Reading Dynamics và đăng ký lớp học vào sáng thứ Bảy. Chỉ trong vài tuần, khóa học thú vị này đã giúp tôi đọc nhanh hơn gấp năm lần. Việc duy trì khả năng đọc như vậy ở trường trở nên dễ dàng một cách khó tin. Trên thực tế, tôi đã vừa duy trì việc nghiên cứu của mình, vừa tiếp tục làm một công việc toàn thời gian mà vẫn có thể hoàn thành việc tốt nghiệp. Năm 1967, tôi đã gặp Evelyn Wood, một người phụ nữ tuyệt vời và tận tụy, cô ấy đã dành cả cuộc đời để giúp người khác thay đổi cuộc sống bằng việc đọc sách. Và tôi còn học được từ cô ấy cách tư duy bắt đầu với khả năng lĩnh hội thật nhanh tài liệu giấy. Vài năm sau, tôi không chỉ dạy kỹ năng tuyệt vời này cho nhân viên Nhà Trắng, mà còn trở thành Giám đốc Quốc gia về Giáo dục cho Học viện Evelyn Wood Reading Dynamics – theo yêu cầu của riêng Evelyn Wood. Sau khi rời Học viện, tôi đã quyết tâm tìm ra một phương pháp giúp mọi người tự học những kỹ thuật này và đem chúng đến với hàng trăm nghìn người khác – những người không có điều kiện tham gia các lớp học đắt đỏ. Luyện đọc siêu tốc miêu tả một cách toàn diện phương thức tự học mới, bao gồm bài tập dành riêng cho những người tự học. Bạn sẽ tìm thấy toàn bộ lý thuyết và kỹ thuật tốt nhất được dạy trong các khóa đọc nhanh cùng với các kỹ thuật mới tôi đã xây dựng cho lớp học của mình – những thứ không thể tìm thấy ở nơi khác. Lần đầu tiên, những bí quyết đọc nhanh, đọc siêu tốc được “bày sẵn” cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể cầm cuốn sách này và tìm hiểu các nguyên lý, cũng như kỹ năng cần thiết để trở thành người đọc nhanh và hiệu quả. Thậm chí, cả những người đã hoàn thành các khóa đọc nhanh muốn tiếp tục cải thiện, rèn giũa các kỹ năng hoặc tìm hiểu sâu hơn các vấn đề, đều có thể sử dụng. Với cuốn sách này, bạn không chỉ học được những kỹ năng đột phá mà còn có thể áp dụng chúng sau một khoảng thời gian cực kỳ ngắn. Cuốn sách Luyện đọc siêu tốc đang nằm trong tay bạn. Bạn sẽ thay đổi được khả năng đọc của chính mình, và bằng cách đó, cuộc đời bạn cũng sẽ đổi khác. Peter Kump *** ĐỂ TIẾT KIỆM THỜI GIAN, HÃY BẮT ĐẦU NGAY HÔM NAY Mọi người thường nói rằng họ cần một khóa học đọc nhanh nhưng lại không có thời gian bởi họ vốn đã phải đọc rất nhiều thứ, từ tờ báo buổi sáng cho đến những e-mail dài dòng. Nhiều người trong chúng ta đang chìm ngập trong biển thông tin. Nếu cho rằng, việc đọc quá nhiều cản trở bạn trở thành người đọc nhanh thì có lẽ bạn nên xét lại. Mặc dù việc rèn luyện trong một hoặc hai tuần đầu có thể “ngốn” của bạn thêm nhiều thời gian, nhưng bạn nên đọc thật nhanh, không chỉ để luyện tập mà còn để đọc hoặc nghiên cứu tài liệu của mình. Nếu không có thời gian cho cả hai thì giờ là lúc bạn nên học cách tiết kiệm khoảng thời gian này. Việc học kỹ năng đọc hiệu quả tương đối đơn giản. Mỗi lần đọc một chương trong cuốn sách này, bạn hãy thực hành các bài tập ngắn trước khi chuyển sang chương tiếp theo. Trung bình mỗi phần luyện tập cần khoảng 20 phút, nhưng thường sẽ mất ít thời gian hơn thế. Sau 6 bài học đầu tiên là phần bài tập đặc biệt. Trong thời gian hoàn thành 6 bài học tiếp theo, bạn vẫn phải song song thực hành các bài tập này hằng ngày. Thời gian dành để thực hành bài tập có thể khác nhau, tùy thuộc vào việc bạn muốn kỹ năng đọc của mình được cải thiện đến mức nào. 6 bài học là 6 bí quyết, mỗi bí quyết lại có một phần bài tập riêng. Tuần đầu tiên sẽ trôi qua rất nhanh. Bạn sẽ học một số thứ liên quan đến cách đọc nhanh, sau đó hãy tự kiểm tra khả năng đọc hiện tại của mình và bắt đầu quá trình cải thiện tốc độ đọc. Đến cuối tuần này, bạn sẽ đọc nhanh hơn ít nhất 10%, thậm chí còn có thể hơn thế. Tất nhiên, trong khi học đọc nhanh, bạn cũng sẽ đọc cuốn sách này nhanh hơn. Đọc tinh nhanh là một kỹ năng Đọc tinh nhanh không phải là một kỹ năng khó học. Đa số việc học của người lớn là học các khái niệm, hoàn toàn khác so với việc phát triển một kỹ năng. Học khái niệm chủ yếu là quá trình phát triển hiểu biết về một vấn đề, có thể đạt được qua việc nghe hoặc đọc. Đây chính là kiến thức ban đầu. Phát triển kỹ năng cũng cần có kiến thức, nhưng những kiến thức này phải được kết hợp với sự rèn luyện những điều bạn đang học. Đôi khi bạn phải rèn luyện mà không có lý thuyết, vì chỉ khi nào thực hiện được điều đó thì bạn mới có kiến thức. Có một khác biệt nữa giữa việc học lý thuyết và việc phát triển một kỹ năng. Đôi khi, các lý thuyết có thể học được rất nhanh, đặc biệt với người lớn. Nhưng học một kỹ năng phức tạp như kỹ năng đọc, rất khó có thể đạt được ngay. Bạn phải nắm vững từng khía cạnh của kỹ năng đó trước khi chuyển sang khía cạnh tiếp theo. Đọc trọn cuốn sách này trong một buổi tối và chỉ hiểu về nó thôi thì chưa đủ. Cách học kỹ năng thành công Nhìn chung, trong việc học các kỹ năng mới, việc thực hành mỗi ngày một chút là tốt nhất. Nếu cố học tất cả trong một lúc, bạn có thể hiểu rất nhanh cách thực hiện nhưng lại không thể thực hành tốt. Để nắm được hết nội dung cuốn sách và tiến bộ nhanh nhất, bạn hãy lên kế hoạch mỗi ngày hoàn thành một chương. Bắt đầu học một kỹ năng mới thường rất khó khăn. Mọi người thường có xu hướng gác lại vào cuối ngày, đặc biệt là khi học lần đầu. Do vậy, một khoảng thời gian kiên định mỗi ngày là điều bắt buộc. Buổi sáng thường là khoảng thời gian tốt nhất vì những việc khác vẫn có thể hoãn lại đến tối. Trước khi bắt đầu học đọc nhanh, bạn hãy xác định thời gian dành cho việc này mỗi ngày. Nếu đưa việc học vào thời gian biểu hằng ngày, bạn sẽ thấy mình tiến bộ rõ rệt. Một “học viên” lớn tuổi đã làm được việc đó Arthur, một trong những học viên lớn tuổi của tôi, là nhân sự cao cấp mới về hưu của một trong những hãng môi giới danh tiếng nhất phố Wall. Ông đã quyết định tiếp tục học tập và phát triển bản thân sau khi nghỉ hưu với một kế hoạch và sự quyết tâm cao độ. Ông cảm thấy một khóa học đọc hiệu quả sẽ là khởi đầu thú vị. Có khá nhiều bằng chứng đề cập tới việc “tre già khó uốn” và khi đã bước qua tuổi 60, việc cố học thói quen đọc mới không phải là một việc dễ dàng. Sau bước khởi đầu chậm chạp dưới mức trung bình, giờ đây, Arthur đã đọc được nhanh hơn gấp ba lần, đồng thời nâng cao khả năng hiểu của mình. Nhưng với tôi, việc Arthur khẳng định ông có khả năng đọc hiểu được nhiều hơn và có thể sử dụng tốt các kiến thức đã tiếp thu còn quan trọng hơn bất kỳ con số thống kê nào. Lưu ý: Không được đọc hết cuốn sách rồi quay lại thực hành, vì nhiều bài tập sẽ không còn tác dụng khi bạn đã biết phần tiếp theo. Hãy nắm vững từng khái niệm và làm bài tập trước khi chuyển sang chương mới. Nếu làm được như vậy, tôi đảm bảo bạn sẽ cải thiện được kỹ năng đọc của mình. Một người đọc tốt là một người đọc linh hoạt Học đọc siêu tốc không đơn thuần là tăng tốc độ đọc. Bạn sẽ học đọc theo một cách hoàn toàn mới. Khi mọi người hỏi làm thế nào tôi đọc được nhanh, tôi không thể trả lời bằng số từ đọc được mỗi phút. Cũng như việc bạn hỏi một tài xế xem anh ta có thể lái xe nhanh ra sao. Anh ta thường sẽ trả lời rằng, điều đó còn phụ thuộc vào tình trạng xe, điều kiện đường sá, thời tiết, giao thông, mức độ quen thuộc với con đường và mức độ hấp dẫn của việc đi được đến đích. Tương tự tài xế, một người đọc hiệu quả thay đổi tốc độ tùy thuộc vào mức độ khó của tài liệu, cách tổ chức văn bản, hiểu biết về đề tài và mục đích đọc. Vì vậy, thay vì đọc mọi thứ theo cùng một phương pháp, hãy bắt đầu từ đầu và đọc từng từ cho đến hết, bạn sẽ học được nhiều cách đọc khác nhau, cách điều chỉnh cho phù hợp với mỗi tài liệu để đáp ứng mục đích cụ thể của mình. Bạn mong đợi học được điều gì? Đối với thể loại khó đọc nhất như tài liệu kỹ thuật và tài liệu nghiên cứu, sinh viên trung bình có thể giảm bớt từ ⅓ đến ½ lượng thời gian nghiên cứu của mình và nắm được nội dung tài liệu tốt hơn. Các chuyên gia và doanh nhân có thể đọc được các báo cáo, e-mail, thư từ thông thường và các tạp chí chuyên ngành nhanh gấp 2-4 lần so với hiện tại. Nếu chỉ đọc với mục đích giải trí, cùng hầu hết các thể loại tiểu thuyết và tài liệu dễ đọc, bạn có thể đạt tốc độ nhanh gấp 5-10 lần. Bạn sẽ không chỉ học để đọc tinh nhanh hơn mà còn học cách đọc hiệu quả hơn. Chẳng hạn, cách hiểu tài liệu nhanh hơn, cách nhớ được những gì mình đọc, cách xác định mục đích đọc các loại tài liệu khác nhau và cách tập trung tốt hơn. Đọc là một kỹ năng cực kỳ phức tạp và có rất nhiều điều mới mẻ để tìm hiểu về nó. Bất kể nhu cầu đọc của bạn là gì, nếu đặt mình vào các bài học trong cuốn sách này, bạn sẽ bắt đầu cải thiện ngay lập tức, không những trở thành người đọc nhanh hơn mà còn là người đọc hiệu quả hơn chỉ trong 6 tuần. Sherri Weisman là một học viên nghiêm túc và chăm chỉ của khóa học đọc hiệu quả, cô ấy không chỉ trở thành người đọc nhanh nhất trong nhiều tuần của khóa học mà còn đạt được những thành tích đáng kinh ngạc, khiến nhiều người sửng sốt, thậm chí hoài nghi. Một lần, tại trường trung học nơi cô ấy đang theo học, giáo viên dành cho học sinh 15 phút cuối giờ để đọc một cuốn sách đã được chỉ định từ đầu giờ. Cô ấy đã hoàn thành nó trong vài phút và loay hoay làm một việc gì đó, khiến giáo viên cho rằng cô ấy đã không tập trung đọc sách như các bạn khác. Khi bị nhắc nhở, cô ấy nói rằng mình đã đọc xong rồi. Giáo viên không tin, liền yêu cầu cô ấy lên đứng trước lớp và nói xem nội dung cuốn sách viết về những vấn đề gì. Cô ấy đã trả lời chính xác nhưng giáo viên vẫn tiếp tục nghi ngờ và một mực cho rằng, cô ấy đã đọc cuốn sách này từ trước khi tới lớp. Bắt đầu như thế nào? Việc đầu tiên bạn nên làm là tự kiểm tra và đánh giá khả năng đọc của mình. Điều này có nghĩa là bạn phải xác lập tốc độ đọc khởi điểm và kiểm tra xem mình có thể nhớ được bao nhiêu từ từ những gì đã đọc. Chương tiếp theo sẽ nói về chủ đề này. Trước tiên hãy làm một bài tập ngắn. Hãy thu thập một số tài liệu sau khi hoàn thành. Bài tập đầu tiên này là bước chuẩn bị để làm các bài tập khác trong khóa học − và sẽ chỉ tốn tối đa 5 phút. Bạn cần sử dụng bảng theo dõi sự tiến bộ (mẫu ở cuối sách, sẽ sử dụng trong nhiều bài tập và bài thực hành xuyên suốt cuốn sách này). BÀI TẬP SỐ 1 Tài liệu: Bảng theo dõi sự tiến bộ (ở cuối sách). Dùng bút mực hoặc bút chì (hoặc có thể sử dụng phần mềm xử lý yêu thích trên máy tính cá nhân. Hãy tạo một tệp riêng cho mục đích này). Phần thứ nhất: Nếu chỉ còn sống được 6 tháng và có thể đọc 10 cuốn sách trong khoảng thời gian đó, bạn sẽ chọn những cuốn sách nào? Trong 3 phút, hãy liệt kê vào bảng theo dõi sự tiến bộ. Không phải những cuốn bạn cảm thấy mình nên đọc, mà là những cuốn bạn thực sự muốn đọc. Phần thứ hai: Dành tối đa 2 phút để viết ra bất cứ chủ đề hoặc vấn đề nào bạn muốn tìm hiểu thêm nếu có thời gian. Sau khi hoàn thành bài tập này, bạn nên thu thập một số tài liệu cần thiết cho chương tiếp theo. Tôi đã nghiệm ra rằng, nếu sinh viên thực hành đọc bằng tài liệu của chính mình − hay các tài liệu mà họ thực sự quan tâm − những khó khăn liên quan đến việc đọc sẽ được giảm đi một cách dễ dàng và họ cũng sẽ tiến bộ nhanh hơn trong khóa học. Tài liệu bạn cần có thể được tìm thấy ngay trong nhà, ở nơi làm việc, trong các hiệu sách, quầy sách hoặc qua các nguồn trực tuyến. Chúng đơn giản là những cuốn sách bạn hay đọc, những tờ báo và tạp chí mà bạn đặt mua hoặc tài liệu giấy từ các bài báo chọn lọc trực tuyến. Hãy tập hợp lại để sẵn sàng cho việc tự kiểm tra vào ngày mai. Dụng cụ, tài liệu bạn cần trong tuần đầu - Bút chì hoặc bút mực. - Một thiết bị định giờ. Có thể dùng một trong những thứ sau: đồng hồ đeo tay hoặc đồng hồ treo tường/để bàn có kim giây chuyển động quét, đồng hồ bấm giờ, máy ghi âm băng từ hoặc bất kỳ thiết bị bấm giờ nào đặt được một phút. Nếu muốn, bạn có thể dùng đồng hồ trên máy tính. - Một cuốn sách để bạn tự kiểm tra. Đây phải là cuốn sách bạn chưa từng đọc, một cuốn sách có chủ đề phổ biến hoặc một cuốn tiểu sử sẽ là lựa chọn tốt nhất. Tránh các cuốn tiểu thuyết và sách hướng dẫn. Tạp chí thường không phù hợp cho việc kiểm tra vì phần lớn các bài viết không đủ dài. - Chọn tùy ý một cuốn sách khác. Có thể là cuốn bạn thường đọc giải trí. Không nên chọn sách quá khó và cũng có thể sử dụng cuốn bạn đã đọc từ trước. - Giấy, khổ A4. (Có thể tạo một tệp trên máy tính để theo dõi sự tiến bộ) Trong khi tập hợp những vật dụng cần thiết ở trên, bạn cũng nên tìm kiếm những cuốn sách liệt kê trong bài tập số 1. Mặc dù bài tập đặt giả định rằng, bạn có 6 tháng để đọc những cuốn sách này, nhưng nhiều khả năng bạn có thể đọc hết chúng trong 6 tuần tới. Trường hợp không có sẵn, hãy lên kế hoạch tìm kiếm trong thư viện địa phương, tiệm sách gần nhà hoặc đặt mua trực tuyến. Không nhất thiết phải có tất cả các cuốn sách này cùng một lúc, nhưng bạn phải có chúng khi cần. Ngay khi có được tài liệu cho tuần này, bạn đã sẵn sàng bắt đầu chương tiếp theo. Hãy xác định mốc thời gian đều đặn hằng ngày để đọc các chương sách, và lên kế hoạch bắt đầu vào thời điểm đó trong ngày mai. Mời các bạn đón đọc Luyện Đọc Siêu Tốc của tác giả Peter Kump.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kỹ Năng Buông Bỏ - Leo Babauta
"Quyển sách này được viết tặng cho những độc giả tuyệt vời, những người đã ủng hộ và hỗ trợ tôi không ngừng nghỉ trong suốt thời gian qua. Không lời nào có thể thể hiện được lòng biết ơn sâu sắc của tôi đối với các bạn.Tôi cảm ơn các bạn rất nhiều! " - Leo Babauta - *** Về tác giả Leo Babauta là người sáng lập Zen Habits, một blog vềlối sống đơn giản hóa, phát triển thói quen và nâng cao sức mạnh tinh thần. Anh sống ở San Francisco cùng vợ và 6 đứa nhóc. Leo bắt đầu cuộc hành trình thay đổi đời mình vào năm 2005, bỏ thuốc lá và tập chạy bộ. Trong suốt những năm sau, anh đã tham gia chạy marathon, giảm hơn 13kg (sau này là 32kg), bắt đầu ăn chay (sau này chuyển dần từ vegetarian sang vegan), giảm và trả hết nợ, bắt đầu dậy sớm, ít chần chừ, và xử lí hoàn toàn mọi thứ bừa bộn về vật chất và tinh thần.Anh bắt đầu viết Zen Habits để chia sẻ những gì mình đã học được trong quá trình thay đổi các thói quen. Ngày nay, anh giúp mọi người thay đổi cuộc sống thông qua các quyển sách và chương trình thay đổi thói quen Sea Change.  Quyển sách Kĩ Năng Buông Bỏ mà các bạn đang đọc được ecoblader dịch từ bản tiếng Anh The One Skill - How Mastering the Art of Letting Go Will Change Your Life của Leo Babauta. Tác giả cho phép mọi người chia sẻ quyển sách này miễn phí, với mong muốn những bài học trong sách có thể giúp mọi người có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Leo Babauta thường lặp đi lặp lại nhiều ý trong quyển sách mình bởi hai lí do. Thứ nhất, những nội dung trong sách rất đơn giản, nhưng chỉ có thể hiểu bằng cách tự cảm nhận. Thế nên, Leo Babauta luôn lặp lại các ý tưởng để từng ý có thể thấm dần dần trong quá trình đọc. Thứ hai, nếu bạn thực hành cùng lúc với việc đọc sách (chứ không đợi đến kết thúc mới bắt đầu nghĩ xem nên làm theo hay không), bạn sẽ thấy quan điểm mình dần thay đổi mỗi lần nhìn lại những ý tưởng, những ví dụ cũ đã nói đến ở những chương trước. Kĩ Năng Buông Bỏ có thể được đọc xong chỉ trong một tiếng đồng hồ, nhưng để tối ưu hóa lợi ích, dịch giả khuyến nghị độc giả nên đọc một vài chương, sau đó nghiền ngẫm làm theo, để rồi hôm sau lại đọc các chương này và thêm một số chương khác nữa. Có thể bạn sẽ mất cả tháng để đọc xong quyển sách hơn 100 trang, nhưng chính 1 tháng đó lạilà 1 tháng giúp bạn thay đổi đời mình gần như toàn diện. Ngoài ra, các bạn có thể download miễn phí một quyểnsách khác của Leo Babauta: Biết Hài Lòng, dịch từ bản tiếngAnh Little Book of Contentment. Các bạn có thể đọc cả hai, hoặc chỉ đọc một vài chương cũng được, bởi vấn đề không phải là nội dung, mà là thấu hiểu tinh thần sống. Chúc các bạn có thể bình tâm hơn trong mọi chuyện vàthấy được vẻ đẹp của cuộc sống xung quanh mình! ecoblader *** Không thể buông bỏ là nguồn gốc của mọi vấn đề. Tôi bắt gặp ý tưởng này trong một quyển sách về Thiền vài năm trước, và tôi vô cùng bất ngờ vì sự đơn giản của ý tưởng ấy Có thật là như thế không? Hãy tưởng tượng một con chim đang bay. Con chim hoàn toàn sống trong thực tại ấy, hoàn toàn tập trung bay lượn và dùng đôi mắt tinh tường của mình tìm kiếm thức ăn. Nó không hề nghĩ: "Tại sao trên cao lạnh thế này? Mấy con chim khác sẽ nghĩ gì về mình? Chút nữa mình sẽ làm gì khi gặp mấy con chim khác? Mình có phải là kẻ thành công trong nghiệp xây tổ không? Tại sao ngực mình không bự như mấy con khác? Tại sao mình không dậy sớm được như mấy đứa kia?" Vân vân và vân vân. Dĩ nhiên là não con người lớn hơn chim, nên ta mới có khả năng giải quyết vấn đề, làm thơ và xây những tòa nhà chọc trời. Ta có nhiều khả năng và việc để nghĩ hơn là một con chim đơn giản chỉ bay trong gió. Tuy nhiên, cũng vì thế, ta lại bắt đầu gặp vấn đề. Vấn đề ở đây không phải là nghèo đói, bệnh tật, mà là suy nghĩ quá nhiều, từ đó con người bắt đầu khó ở, bực bội, buồn chán và tức giận với những gì đã và sẽ xảy ra với mình. Nhận ra được vấn đề, tôi bắt đầu thực hành ý tưởng Thiền này trong những năm qua, và kết quả cực kì tuyệt vời: Tôi giảm stress, ít chần chừ hơn, nâng cao chất lượng các mối quan hệ, tăng cường khả năng đối diện với thay đổi, học được cách thay đổi thói quen, và chú tâm hoàn toàn vào thực tại cuộc sống của mình. Kĩ năng buông bỏ là một kĩ năng cực kì quan trọng. Và ngạc nhiên thay, nhiều người lại có xu hướng phản đối ý tưởng này. Hãy xem một số ví dụ (tôi sẽ nói rõ hơn ở những chương sau): - Stress: Ta thường muốn mọi việc diễn ra theo ý mình, và khi thực tại không được như ý, ta bắt đầu stress. Nếu ta có thể buông bỏ hình ảnh lí tưởng ấy để chấp nhận và trân trọng thực tại, ta có thể giảm stress rất hiệu quả. -Sự chần chừ: Ta chần chừ vì sợ thất bại, sợ làm việc khó, sợ sự rối loạn và khó chịu. Nhưng nếu ta có thể buông bỏ tham vọng về sự dễ dàng, sự thành công, sự dễ chịu... trong ý nghĩ, và chấp nhận rằng cuộc đời ta sẽ có nhiều trải nghiệm khác hơn, ta sẽ có thể dấn thân làm mọi thứ mà không suy nghĩ nhiều nữa. -Thói quen và sự mất tập trung: Nhiều người không thể thay đổi thói quen hay thường mất tập trung cũng vì lí do tương tự như trên. -Sự khó chịu với người khác: Ta bực mình với người khác vì họ không cư xử theo ý ta. Từ đó, quan hệ giữa ta với họ bắt đầu xấu đi khi ta trút giận lên họ. Thay vì đó, ta có thể thôi không khăng khăng họ phải hành động theo ý mình, chấp nhận con người họ, thế thôi. Như thế, mối quan hệ giữa ta và họ sẽ tốt hơn. Tôi đã áp dụng thành công với cha tôi, vợ tôi và các con. -Sự mất mát: Khi một người bạn yêu thương mất đi, hay khi ta mất việc, hay khi ta bệnh nặng, ta thường rất đau. Vì đây là chuyện không thể tránh được (và ta nên chấp nhận sự đau thương, mất mát này), nên nếu có thể buông bỏ, ta sẽ đối mặt với sự mất mát tốt hơn. -Ham muốn hiện diện: Rất nhiều người muốn hiện diện ởmọi nơi để không bỏ qua bất kì sự kiện nào, bởi theo họ, chỉ có như vậy họ mới tận hưởng cuộc sống hoàn toàn được. Thế nhưng, cứ tưởng tượng bạn đang có một dĩa đồ ăn hấp dẫn trước mặt, và vẫn vừa ăn vừa suy nghĩ về công việc, thì rõ ràng bạn đã bỏ qua mùi vị tuyệt vời của thức ăn rồi. Nếu bạn có thể chú tâm hoàn toàn vào thưởng thức, trân trọng trải nghiệm khi ăn, thì mọi thứ tốt đẹp hơn nhiều. Cuộc sống là thế đó, ta thường bị ám ảnh bởi những thứ khác, muốn hiện diện ở những nơi khác, nên lại không thể tận hưởng bản thân trong thực tại. Ta có thể học cách bỏ qua những suy nghĩ về bản thân trong tương lai hay quá khứ, để hoàn toàn chú tâm vào cuộc sống thực tại, để có thể cảm nhận rõ ràng hơn. -Nỗi sợ hãi: Nguồn gốc của mọi vấn đề là sự sợ hãi - sợ hãi không dám khởi nghiệp, cho đến sợ hãi không dám giảm cân. Nguồn gốc của sự sợ hãi lại đến từ những viễn cảnh lí tưởng ta tự đặt ra cho mình. Ta sẽ nói đến việc này kĩ hơn ở phần sau. Còn ở đây, ta đơn giản sẽ để ý rằng nếu mình có thể buông bỏ những viễn cảnh lí tưởng ấy, ta sẽ có thể buông cho nỗi sợ bay theo gió. Những điều ở trên sẽ cho bạn cảm nhận cuộc sống của ta sẽ thay đổi thế nào nếu biết buông bỏ. Khi đó, bạn sẽ đối mặt với những vấn đề trong cuộc sống dễ dàng hơn nhiều. Buông bỏ là một kĩ năng có thể luyện tập được. Rõ ràng là không dễ, nhưng bạn có thể luyện thành chỉ với 5 phút luyện tập mỗi ngày. 5 phút ngắn ngủi mỗi ngày ấy nghe có vẻ đơn giản, nhưng sẽ tạo nên những thứ cực kì lớn lao. Trong quyển sách nhỏ này, ta sẽ nghiên cứu xem kĩ năng buông bỏ sẽ giúp ta xử lí các vấn đề khác nhau như thế nào, cũng như chỉ rõ cách phát triển và luyện tập kĩ năng buông bỏ một cách hiệu quả. ... Mời các bạn đón đọc Kỹ Năng Buông Bỏ - Leo Babauta.
Vượt Lên Những Chuyện Nhỏ Trong Công Việc - Richard Carlson
Nhiều người trong chúng ta dành phần lớn thời gian và năng lượng của bản thân cho công việc – tám tiếng, mười tiếng, thậm chí mười hai tiếng một ngày. Dù chúng ta làm việc cho tập đoàn danh tiếng hay một doanh nghiệp nhỏ; dù chúng ta thành lập công ty riêng, làm cho nhà nước hay hoạt động trong bất cứ ngành nghề nào, thì có một điểm chung mà không ai có thể chối cãi: công việc không chỉ có thể mà còn là yếu tố thường xuyên khiến ta căng thẳng! Tuy nhiên, điều chúng ta bàn đến sau đây không liên quan đến việc làm thế nào để xóa bỏ căng thẳng trong công việc hay làm thế nào để bạn không gặp rắc rối – bởi vì đây là những điều chắc chắn sẽ xảy ra. Đề tài mà chúng ta bàn dưới đây là: “Bạn sẽ đối phó như thế nào với căng thẳng?”. Tôi đã học được một điều rõ ràng rằng: nếu bạn có ý định tìm kiếm một phương pháp giúp giảm bớt căng thẳng trong công việc, bạn phải tìm nó trong chính bản thân mình. Bởi vì chẳng có công việc hay cuộc sống nào không chứa thách thức cả. Nếu từng đọc qua những cuốn sách trước đây của tôi, hẳn bạn cũng nhận ra rằng tôi là người rất lạc quan. Tôi tin rằng tất cả mọi người đều có thể nâng cao chất lượng cuộc sống của mình bằng cách tạo ra những thay đổi nhỏ về thái độ và cách xử sự của bản thân. Dù chẳng có cách nào giảm thiểu khó khăn trong cuộc sống nhưng tôi cam đoan rằng chúng ta không phải là nạn nhân của cuộc đời. Chúng ta có thể thay đổi cuộc sống của mình. Tuy nhiên, sự thay đổi sẽ không đến khi những khó khăn được giảm thiểu hay khi cuộc sống trở nên dễ dàng hơn. Sự thay đổi phải đến từ bên trong chúng ta. Và khi ta thay đổi, công việc cũng như cuộc sống của ta sẽ trở nên dễ dàng và ít căng thẳng hơn. Sau khi xuất bản cuốn “Tất cả chỉ là chuyện nhỏ”, tôi đã nhận được hàng ngàn bức thư và điện thoại từ độc giả. Tất cả đều cảm ơn vì cuốn sách đã giúp họ cảm thấy thoải mái hơn trong cuộc sống. Nhiều người đã đề nghị tôi viết thêm những cuốn sách với cùng mục tiêu đó, nhưng chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định, chẳng hạn như công việc. Bản thân tôi đã từng vượt qua được nhiều chuyện nhỏ trong công việc và cũng đã tiếp xúc với nhiều người như vậy. Vậy nên tôi đã quyết định chia sẻ những kinh nghiệm mà mình đã tích lũy được với các bạn thông qua cuốn sách này. Việc phân tích cách thức con người dùng để đối phó với rắc rối trong công việc - chẳng hạn như quan sát thái độ của một người bị sa thải, bị đối thủ vượt qua, bị thuyên chuyển công tác; hay quan sát vấn nạn ăn cắp từ trong nội bộ - đã mang lại cho tôi nhiều thích thú. Tôi nhận thấy rằng hầu như trong những tình huống buộc phải đối phó với thách thức lớn, chúng ta đều tỏ ra can đảm, sáng tạo và kiên cường lạ thường. Nhưng, cũng giống như các khía cạnh khác trong cuộc sống, việc đối phó với những “chuyện nhỏ” trong công việc lại là chuyện khác hẳn. Khi nhìn lại, bạn sẽ nhận thấy rằng trong quá trình làm việc, dù thỉnh thoảng vẫn có những vấn đề thật sự nghiêm trọng xảy đến, nhưng hầu hết những rắc rối khiến ta căng thẳng hàng ngày đều là những “chuyện nhỏ”. Có thể nói, với hầu hết chúng ta, những rắc rối hay vấn đề nghiêm trọng thường xảy ra không nhiều và cách quãng, trong khi điều làm ta căng thẳng và muốn nổi đóa lên lại chính là những chuyện nhỏ hằng ngày. Bạn hãy dừng lại trong giây lát để hình dung xem chúng ta đã tốn biết bao nhiêu năng lượng cho những lúc căng thẳng, giận dữ hay nản lòng chỉ vì chuyện nhỏ nhặt? Còn những lúc ta bị xúc phạm, quấy rầy hay bị chỉ trích thì sao? Và hãy hình dung về những lúc bạn cảm thấy lo lắng, sợ hãi hoặc đau buồn. Hãy nghĩ xem những cảm xúc tiêu cực này sẽ tác động xấu như thế nào đến năng suất và niềm đam mê công việc của bạn. Thật lãng phí phải không? Bây giờ, hãy tưởng tượng mọi chuyện sẽ ra sao khi bạn dùng chừng đó năng lượng – thậm chí chỉ một phần năng lượng – nhưng làm việc trong trạng trái hưng phấn và sáng tạo? Dù không thể kiểm soát những biến cố nghiêm trọng nhưng phải thừa nhận rằng rất nhiều lúc, ta đã thổi phồng những vấn đề nhỏ nhặt và làm rối tung mọi thứ. Chúng ta dễ mệt mỏi và nản lòng khi phải đối phó với các vấn đề nhỏ nhặt chồng chất. Theo đó, chúng ta xâu chuỗi các rắc rối lại với nhau và xử sự như thể chúng là những vấn đề nghiêm trọng vậy. Bởi vì công việc thường chứa đựng rất nhiều “chuyện nhỏ” mà bạn phải đối phó, nên giữa cách bạn giải quyết chúng và những kinh nghiệm bạn thu được thường có một sự tương quan nhất định. Nếu bạn có thể học cách đối phó với những rắc rối hằng ngày bằng tầm nhìn sáng suốt, sự kiên nhẫn và lạc quan, nghĩa là bạn đã bắt đầu phát huy được khả năng tốt nhất của bản thân cũng như của đồng nghiệp. Bạn sẽ không còn cảm thấy căng thẳng, cáu kỉnh, thất vọng nữa mà ngược lại, bạn sẽ làm việc với cảm giác hưng phấn và sáng tạo hơn. Những giải pháp được tìm thấy khi ta ở tâm thái điềm tĩnh cũng nhiều bằng những rắc rối xảy đến nếu tâm trạng ta phiền muộn. Một tác dụng tích cực khi bạn học cách vượt qua những chuyện nhỏ đó là cuối cùng, bạn sẽ nhìn những rắc rối xảy đến hằng ngày như những chuyện nhỏ thật sự. Nếu trước kia, bạn xử sự với hầu hết mọi chuyện như thể chúng rất nghiêm trọng thì bây giờ, bạn sẽ ứng phó với chúng sáng suốt hơn vì bạn biết phân biệt rạch ròi giữa vấn đề thật sự nghiêm trọng và những vấn đề nhỏ nhặt. Nào, hãy cùng tôi khám phá bí quyết để vượt qua những chuyện nhỏ trong công việc! - Richard Carlson *** Richard Carlson sinh ngày 16 tháng 5 năm 1961 tại Piedmont, California, Mỹ, mất ngày 13 tháng 12 năm 2006 ở San Francisco, California, Mỹ. Ông là tác giả người Mỹ, nhà tâm lý, nhà diễn thuyết. Cuốn sách Tất cả đều là chuyện nhỏ (1997) của ông đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại và làm nên lịch sử xuất bản, bán chạy nhất 2 năm liên tiếp của USA Today's. Cuốn sách còn được xuất bản tại 135 quốc gia và dịch sang tiếng Latvia, Ba Lan, Iceland, Serbia và 26 ngôn ngữ khác. Tác phẩm: - Tất Cả Đều Là Chuyện Nhỏ - Vượt Lên Những Chuyện Nhỏ Trong Công Việc - Hạnh Phúc Bằng Bất Cứ Giá Nào  *** Đừng ngần ngại thể hiện mình là nhân viên hạnh phúc Nhiều người không cho phép bản thân được thể hiện niềm say mê, cảm giác thoải mái hay niềm hạnh phúc tại công sở. Tôi cho rằng đó là một hình thức coi nhẹ bản thân. Dường như họ cảm thấy lo ngại rằng mọi người xung quanh, từ khách hàng, đồng nghiệp cho đến sếp, sẽ nghĩ gì khi thấy vẻ bề ngoài hạnh phúc của mình. Họ kết luận rằng: “Một người thư thái không thể là một nhân viên chăm chỉ”. Lý lẽ mà họ đưa ra ở đây là: Nếu tỏ ra hạnh phúc, mọi người xung quanh sẽ cho rằng họ đang hài lòng với tình trạng hiện tại nên không còn động lực để phấn đấu hay tiến xa hơn trong công việc. Thực tế, bạn nên suy nghĩ ngược lại. Thật vô lý khi cho rằng một người hạnh phúc sẽ thiếu đi những động lực cần thiết trong công việc. Những người hạnh phúc luôn yêu thích việc họ đang làm. Và họ sẽ không ngừng thể hiện sự nhiệt tình để cải thiện hình ảnh bản thân cũng như tác phong làm việc của mình. Họ trở thành những người biết lắng nghe và tiếp thu nhanh. Thêm nữa, những nhân viên hạnh phúc còn rất sáng tạo, thân thiện cũng như làm việc nhóm rất hiệu quả. Còn những nhân viên luôn tỏ ra phiền muộn? Họ thường căng thẳng và gây trở ngại trong công việc. Họ thiếu động lực làm việc bởi bản thân họ đang héo mòn vì những rắc rối hay căng thẳng của riêng mình. Những người phiền muộn thường cảm thấy mình bị đồng nghiệp bắt nạt và môi trường làm việc thật bất công. Họ hiếm khi tự giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc mà luôn tìm cách đổ lỗi cho người khác. Thêm vào đó, do chỉ bận tâm về công việc của bản thân nên làm việc nhóm kém hiệu quả. Họ thường tỏ thái độ chống đối và hiếm khi lắng nghe ý kiến của người khác. Vì vậy, bạn đừng ngần ngại thể hiện mình là nhân viên hạnh phúc. Bí quyết này rất thích hợp để mở đầu cuốn sách này, bởi một trong những điều mà tôi muốn gửi gắm đến các bạn là chẳng có vấn đề gì khi bạn tỏ ra hạnh phúc và thư thái. Việc tỏ ra hạnh phúc sẽ đem lại cho bạn nhiều lợi ích, cả trong cuộc sống cá nhân lẫn trong công việc. Chẳng có lý nào hạnh phúc lại khiến bạn đánh mất động cơ làm việc hay trở thành một nhân viên tầm thường, lười biếng và lơ đễnh cả. Ngược lại, tôi có thể đảm bảo với bạn rằng khi bạn sống hạnh phúc, bạn sẽ cảm thấy hứng thú, sáng tạo và hăng hái hơn; nhờ đó có thể đóng góp cho công ty nhiều hơn. Bạn sẽ tìm ra được các giải pháp và cơ hội trong khi người khác chỉ nhìn thấy rắc rối. Thay vì nản lòng khi bị thua kém hay thất bại, bạn sẽ nhanh chóng vượt qua những điều đó. Với nguồn năng lượng dồi dào của tinh thần lạc quan hạnh phúc, bạn có thể làm việc trong môi trường khốc liệt nhất. Và bạn sẽ được tin cậy để trở thành người ra quyết định trong những tình huống khó khăn. Nói cách khác, bạn sẽ trở thành người dẫn đầu. Cuộc sống và công việc của bạn sẽ bước sang một trang mới tươi sáng hơn.   Mời các bạn đón đọc Vượt Lên Những Chuyện Nhỏ Trong Công Việc của tác giả Richard Carlson.
Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí - Alan Phan
Nhờ vai trò lịch sử trong 2 cuộc chiến tranh Pháp – Mỹ, Việt Nam đã có tiềm năng để nổi tiếng và tạo thiện cảm với nhân dân thế giới. Tuy nhiên sau 37 năm từ ngày chấm dứt chiến tranh, hình ảnh Việt Nam đã mờ dần trong trí nhớ của những thế hệ trẻ sau này. Sự thiếu vắng những thành quả ấn tượng trên mọi lãnh vực từ kinh tế đến khoa học, từ nghệ thuật đến thể thao đã bào mòn thương hiệu Việt Nam. Trước 1990, không mấy ai trên thế giới suy nghĩ nhiều về tài sản “mềm”, mà đo lường sự thịnh vượng thành công của 1 công ty hay 1 con người qua các đồ chơi sờ mó được như bất động sản, khoáng sản, thực phẩm, xe cộ, điện máy… Nhưng bây giờ đã khác. Tài sản mềm mang giá trị quan trọng nhất trong lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế tương lai. Nhìn lại Việt nam, liệu chúng ta có thể đánh giá được những tài sản mềm? Vai trò của chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào trong chiến lược kinh tế khu vực và toàn cầu? Tiến sĩ Alan Phan là doanh nhân Việt kiều đầu tiên đưa công ty tư nhân của mình lên sàn chứng khóan Mỹ vào năm 1987. Năm 1999, Tập đoàn Hartcourt của ông đạt mức thị giá lên đến 670 triệu USD, hiện nay đã tách thành năm công ty (HRCT, SRRY, ETLK, ENVI và SPXP) và tiếp tục niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ. Ông cũng là người đầu tiên giới thiệu hệ thống bán cổ phiếu qua mạng và giáo dục online tại Trung Quốc vào năm 1997. Trước đó, ông đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong các công ty đa quốc gia tại Mỹ, châu Âu và Trung Quốc. Ông cũng là cổ đông lớn tại 6 công ty đại chúng ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. *** Tiến sĩ Alan Phan là người bạn lớn, bạn tốt, bạn chân thành của tôi. Cũng theo quy luật của trời đất “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, chúng tôi gặp nhau và trở thành bạn. Tôi biết ơn vũ trụ cho chúng tôi gặp nhau để rồi đồng hành trong hàng chục chương trình dành cho doanh nhân, sinh viên và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tiến sĩ Alan Phan không chỉ là một học giả với hai bằng tiến sĩ và các chương trình giảng dạy tại đại học. Anh là một doanh nhân đáng nể. Anh lăn lộn khắp năm châu, bốn bể để tìm kiếm cơ hội và lập nghiệp, để kinh doanh và đầu tư. Anh đã hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau và ở đâu anh cũng để lại những dấu ấn đáng kể. Tiến sĩ Alan Phan và tôi có khá nhiều điểm tương đồng, nhất là tâm huyết cho thế hệ trẻ. Bất cứ chương trình nào dành cho giới trẻ, nhất là sinh viên là chúng tôi luôn bên nhau, nếu có thể. Chúng tôi đều mê đọc sách và cho rằng đọc sách là điều kiện tiên quyết để thành công. Chúng tôi nghiên cứu, thực hành và chia sẻ nhiều về tri thức. Chúng tôi luôn hướng về tương lai, về thế hệ nối tiếp chúng tôi. Tiến sĩ Alan Phan nói chuyện rất hài hước. Cách nói chuyện dí dỏm và tự nhiên của anh làm say mê lòng người, nhất là giới trẻ. Có lẽ nhờ điều này nên tôi luôn thấy anh trẻ, và đặc biệt trẻ trong tâm hồn của mình. Tiến sĩ Alan Phan rất tâm huyết với dự án “10 triệu máy tính bảng cho sinh viên”. Tôi nghe đến dự án này và cảm nhận được tâm huyết của anh. Tôi, với thâm niên 12 năm làm việc tại FPT, doanh nghiệp về công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam, nên luôn mong muốn góp sức cùng anh. Và hôm nay, khi nhận được bản thảo cuốn sách của Tiến sĩ Alan Phan, tôi rất vui và đọc liền một mạch. Cuốn sách gồm những bài viết rất sâu sắc và lắng đọng, ý nghĩa và thực tế, về những câu chuyện cũ nhưng rất mới, về quá khứ mà như nói cho tương lai, về những câu chuyện mộc mạc mà như những bài giảng quý. Tôi đưa bản thảo của anh cho vài người bạn doanh nhân đọc và ai cũng khuyên nên xuất bản ngay, càng sớm càng tốt. Thế là sau 42 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc, Niêm yết sàn Mỹ, Một tư duy khác về kinh tế và xã hội Việt Nam, Không có bữa ăn nào miễn phí là một cuốn sách nữa của Tiến sĩ Alan Phan được Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc và Thái Hà Books xuất bản. Tôi tin tưởng rằng những ai muốn tìm hiểu về kinh tế và quản trị, về làm giàu và đầu tư, về tri thức và ứng dụng, nhất là những ai đang hâm mộ Tiến sĩ Alan Phan sẽ có thêm một cuốn sách hay cho bộ sưu tập của mình. Đây là một cuốn sách có giá trị, bổ sung vào kho sách tri thức của Thái Hà Books – những cuốn sách không lý thuyết mà chuyên về ứng dụng, rõ ràng và hoàn chỉnh, ngắn gọn mà đầy đủ. Đây là cuốn sách lôi cuốn bạn khi đọc, là cuốn sách mà khi đọc bạn phải nghĩ. Nếu nói một vài từ, tôi xin thưa rằng “lôi cuốn và hấp dẫn”. Xin trân trọng cảm ơn các bạn của tôi tại Thái Hà Books và Nhà xuất bản đã làm việc miệt mài để cuốn sách sớm ra đời; xin chân thành chúc mừng bạn đọc đã có duyên lành được cầm trên tay cuốn sách này của bạn tôi - Tiến sĩ Alan Phan. TS. Nguyễn Mạnh Hùng  Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Thái Hà Books *** Bộ sách Góc Nhìn Alan gồm có: Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí Đừng Hoang Tưởng Về Biển Lớn Dành Tặng Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu 42 Năm Làm Ăn Tại Mỹ Và Trung Quốc Một Tư Duy Khác Về Kinh Tế Và Xã Hội Việt Nam ... *** Tài sản mềm của Việt Nam Trước 1990, không mấy ai trên thế giới suy nghĩ nhiều về tài sản “mềm”, mà đo lường sự thịnh vượng thành công của một công ty hay một con người qua các đồ chơi sờ mó được như bất động sản, khoáng sản, thực phẩm, xe cộ, điện máy… Khi tôi còn làm cho hãng Eisenberg và Hartcourt vào những năm đầu mở cửa của Trung Quốc (1975-1990), chúng tôi được tiếp đón nồng hậu và được mời đầu tư vào những công ty mà chính phủ Trung Quốc cho rằng là “hòn ngọc” giá trị nhất của họ. Đó là những đại công ty có nhà máy lớn như sân vận động, hàng chục ngàn nhân công, cơ sở văn phòng bề thế… tọa lạc phần lớn tại các vùng khỉ ho cò gáy (kế hoạch tránh các phi vụ ném bom trong chiến tranh). Những doanh nghiệp nhà nước này mang rất nhiều tính chất xã hội và quản lý theo kiểu “cha chung”… nên thua lỗ thường trực. Giá trị của tài sản mềm Do đó, khi Hartcourt đem tiền đầu tư chuyên vào các công ty IT hay truyền thông, nhiều tư vấn Trung Quốc cho rằng chúng tôi ngu, đem tiền đi đổ sông Ngô. Ngay đến hôm nay, phần lớn doanh nhân Việt vẫn không nhận ra giá trị mềm của công ty họ. Khi họ chào bán hay mời mọc, họ vẫn khoe nhiều về nhà máy hoành tráng, diện tích đất bao quanh lớn, văn phòng tráng lệ ngay tại trung tâm thành phố và chiếc xe Rolls Royce họ đang lái… Tôi có đến thăm tập đoàn Foxconn ở Thâm Quyến hai năm về trước. Nhà máy hiện đại với hơn 30 ngàn nhân công, hệ thống dây chuyền sản xuất và các phòng “sạch” (clean room) rộng lớn, rất ấn tượng. Sản phẩm chính họ gia công là Iphone, Ipad, Ipod cho Apple. Trong khi Apple làm chủ bản quyền trí tuệ và thương hiệu nên kiếm lời khoảng 140 đô la mỗi đơn vị Iphone, lợi nhuận của Foxconn khoảng 7 đô la một sản phẩm. Hãng Nike có thương vụ lớn nhất toàn cầu về giày dép và trang phục thể thao. Họ không sở hữu bất kỳ nhà máy nào trên thế giới. Tài sản quý giá nhất là thương hiệu đã xây dựng suốt 50 năm qua cùng với những trung tâm thiết kế và các phòng thí nghiệm hiện đại nhất về công nghệ và sản phẩm. Những công ty có thị giá cao nhất trên thế giới đều là những công ty mà giá trị mềm vượt trội: Google, Microsoft, Facebook, Pfizer, Oracle, IBM… Không một công ty bất động sản nào nằm trong Top 100 (100 công ty hàng đầu). Tài sản mềm mang giá trị quan trọng nhất trong lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế tương lai. Nhìn lại Việt Nam, liệu chúng ta có thể đánh giá được những tài sản mềm? Vai trò của chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào trong chiến lược kinh tế khu vực và toàn cầu? Hãy kiểm điểm. Tài sản con người Hai yếu tố tạo mũi nhọn cho đội ngũ nhân lực là sáng tạo và năng động. Đây là phạm trù của tuổi trẻ và Việt Nam thường hãnh diện với 65% người dân dưới 30 tuổi, trên 50 triệu người. Thêm vào đó, học sinh, sinh viên Việt Nam thường tỏa sáng tại các trường trung, đại học trên toàn thế giới. Mặt khác, Việt Nam có 3,8 triệu kiều bào có kinh nghiệm nghề nghiệp cao, trong đó 32% tốt nghiệp đại học. Nói chung, so với 9 quốc gia còn lại trong khối ASEAN, Việt Nam dẫn đầu về tiềm lực nhân tài, trên cả Indonesia với gần 250 triệu dân. Tuy nhiên, sự yếu kém của nền giáo dục lý thuyết từ chương đã làm hạn chế tiềm năng này. Công ty Intel đã không tìm ra đủ 180 nhân viên trung cấp cho nhà máy 1 tỷ đô la của họ ở Thủ Đức và phải nhập khẩu một số lớn chuyên viên từ Malaysia và Philippines. Các công ty FDI khác tại Việt Nam đều có những than phiền tương tự. Thêm vào đó, tư duy sao chép nguyên bản các tư tưởng truyền thống, các công thức khoa học lỗi thời và chính sách dùng người hạn chế đã thui chột nhiều sáng kiến, nhiều đổi mới, nhiều tiến bộ. Dù Việt Nam có số lượng giáo sư, tiến sĩ cao nhất ASEAN (gần 10 ngàn người), nhưng trong các năm qua, chỉ có 5 bằng sáng chế nộp tại Âu Mỹ. Năm 2011, Singapore với 5 triệu dân đã đăng ký 648 bằng sáng chế, số lượng bằng sáng chế của Việt Nam với 90 triệu dân là zero. Thương hiệu quốc gia Các tên tuổi mà mạng truyền thông Việt không ngừng vinh danh như Vinamilk, Trung Nguyên, Kinh Đô, Bitis… đều chưa có thương hiệu tầm cỡ khu vực và thế giới trong khi việc hội nhập càng sâu vào thị trường quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy về thương hiệu và phải có tầm nhìn dài hạn và chiến lược marketing tổng thể. Ngay cả Vietnam Airlines đáng lẽ phải là một đầu cầu để phát triển các thương hiệu khác cho Việt Nam trên khắp điểm đến của thế giới cũng chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nhờ vai trò lịch sử trong hai cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, Việt Nam đã có tiềm năng để nổi tiếng và tạo thiện cảm với nhân dân thế giới. Tuy nhiên, sự thiếu vắng những thành quả ấn tượng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế đến khoa học, từ nghệ thuật đến thể thao đã bào mòn thương hiệu Việt Nam. Nhật Bản phải mất gần 40 năm mới tạo dựng cho Made in Japan một thương hiệu đồng nghĩa với chất lượng sản phẩm và sáng tạo. Trung Quốc cố gắng tạo một thương hiệu quốc gia suốt 35 năm qua. Tuy nhiên, lấy lại lòng tin của khách hàng vì sự mất uy tín của thương hiệu là cuộc chiến đấu quyết liệt ở Trung Quốc vì chạy theo lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp đã bất chấp cả sức khỏe và sinh mệnh của người tiêu dùng, điều ấy đã tạo ra sự phản cảm, dẫn đến sự công phẫn của công luận trong và ngoài nước với không ít sản phẩm Made in China. Nhưng nhiều doanh nghiệp Việt đã và đang đi lên bằng kinh nghiệm dày dạn, sáng kiến đột phá cùng khát vọng ở tầm chiến lược, từng bước chinh phục thị trường thế giới. Vị thế trên thị trường Mọi nền kinh tế cũng như doanh nghiệp đều có thể tạo cho mình một thế mạnh trong các thị trường ngách, mà không cần đến các yếu tố cạnh tranh trên. Thí dụ, Thụy Sĩ hay Singapore không có một nền tài chính lớn mạnh như Mỹ, Anh… cũng không có đội ngũ hay công nghệ gì sáng tạo hơn; nhưng họ biết biến quốc gia nhỏ bé của họ thành một trung tâm tài chính thế giới qua chính sách mở rộng mà kín đáo, hiệu năng và minh bạch. Việt Nam có thể tìm một lợi thế cạnh tranh theo phương thức trên. Dù công nghiệp Việt không thể sánh với Trung Quốc trên rất nhiều phương diện, nhưng các nhà sản xuất Hàn, Nhật đã đầu tư nhiều vào Việt Nam để tránh rủi ro khi bỏ tất cả trứng vào cái giỏ Trung Quốc. Về du lịch, dù không thể cạnh tranh với Thái Lan hay ngay cả những quốc gia nhỏ như Singapore và Malaysia, Việt Nam có thể đào sâu vào một chiến lược đặc trưng như sinh thái, thám hiểm hay hưu trí để tạo thị trường. Hai ngành nghề tôi tin là Việt Nam có thể dẫn đầu tại ASEAN nếu biết phát triển đồng bộ và sáng tạo. Thứ nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Tạo ra những sản phẩm xanh, sạch, an toàn được đảm bảo bởi những cơ quan kiểm phẩm nổi danh thế giới là bước đầu. Việc giáo dục huấn luyện cho các nông dân những công nghệ mới, những quy trình dùng IT để điều hòa và tiếp liệu, sử dụng đội ngũ tiếp thị trẻ và bén nhậy từ thành phố có thể tạo nên một làn sóng thay đổi bộ mặt của nông thủy sản Việt Nam. Người tiêu dùng tại các nước Á Châu, nhất là tại các nơi có thu nhập cao như Hồng Kông, Nhật, Singapore… đang có nhu cầu rất lớn về an toàn thực phẩm. Thứ hai là ngành IT (công nghệ thông tin) tại các thành phố lớn bao quanh bởi các trường đại học tiên tiến và hiện đại. Giáo trình học phải thay đổi và các trung tâm IT phải có những cơ sở hạ tầng tối tân nhất để giúp tính sáng tạo của đội ngũ phát huy đúng mức. Trên hết, luật về bản quyền trí tuệ phải được thắt chặt và nghiêm túc thực thi trên mọi cấp bậc của thị trường. Văn hóa gia đình và xã hội Người Việt Nam gắn bó thân tình chặt chẽ với gia đình, làng xóm và đất nước, nên sự đùm bọc và tiếp sức tạo một thế đoàn kết mạnh hơn chủ nghĩa cá nhân của Âu Mỹ. Nhưng đây cũng có thể là một bất lợi vì tầm nhìn bị giới hạn, tính cộng đồng rất cao và quá gần nhau thì cũng dễ gây ra xích mích, mâu thuẫn. Một mặt khác, một bộ phận thanh niên trong xã hội đang bị tha hóa về đạo đức và xuống cấp tinh thần trầm trọng, tinh thần công dân trở nên tệ hại với những vấn nạn về tham lam, vô cảm, thói gây ô nhiễm và tư duy ích kỷ. Nói tóm lại, cơ hội để tạo dựng những tài sản mềm cho Việt Nam hiện diện trên nhiều lĩnh vực và tiềm năng của các tài sản này có thể là cú hích đưa kinh tế Việt bắt kịp các láng giềng giàu ở ASEAN trong một hay hai thập kỷ sắp đến. Ba đòi hỏi quan trọng nhất trong quy trình đột phá này: 1. Tư duy của đại đa số người dân phải thay đổi để hiểu rằng cái giá phải trả cho sự thịnh vượng tương lai là can đảm vứt bỏ ngay lập tức những thói quen tai hại, những tư tưởng lỗi thời và những định kiến sai lầm về kinh tế, xã hội và văn hóa. Một cuộc đổi mới toàn diện từ trí tuệ của trí thức, nông dân, công nhân, trẻ già, giàu nghèo là ưu tiên số một. 2. Thành phần ưu tú và đang được hưởng thụ những thành quả từ sự thay đổi cơ chế phải nắm lấy cơ hội để tạo cho doanh nghiệp mình đang làm chủ hay làm công lĩnh hội được những kiến thức, công nghệ hiện đại, những kỷ cương đạo đức dài hạn, những sáng tạo đột phá trên thị trường và phải bắt đầu xây dựng thương hiệu bền vững. 3. Ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp là nền tảng quan trọng cho việc hình thành và phát triển của pháp luật về tổ chức và vận hành thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hãy “cởi trói” cho người dân để họ tự lực cánh sinh và đừng áp đặt thêm những gánh nặng không cần thiết qua chính sách thuế khóa công bằng và thủ tục hành chính đơn giản, minh bạch. 21 tháng 09 năm 2012 Mời các bạn đón đọc Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí của tác giả Alan Phan.
Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht
Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.