Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dựa Lưng Nỗi Chết

Dựa lưng nỗi chết là thiên truyện thứ nhì sau Ải trần gian (1970), vẫn lấy đề tài quen thuộc với tác giả là chiến tranh. Tác phẩm gồm 7 chương và một đoạn kết nằm ngoài cấu trúc chung, những lần tái bản ở hải ngoại về sau còn thêm bài tựa của bạn văn Đào Vũ Anh Hùng[2]. Không khí trong truyện là cuộc Chiến tranh Việt Nam đang đà khốc liệt nhất, thế giới trong truyện là thế giới của đàn ông: Người lính, người trí thức trong cơn lửa loạn, người thanh niên bất mãn, nhà tu hành. Cái chết bi thảm của những người bị hệ tư tưởng chia rẽ đưa đến những dấu hỏi về khái niệm thuận nghịch và anh hùng. Rồi trong cảnh chiến tranh tương tàn, đâu là chỗ đứng của một nhà chân tu. Truyện của Phan Nhật Nam được dựng lên trong một không gian gắn thiết thân với tâm trạng của mỗi nhân vật. Sau cùng, thế giới cảm tính của tác giả dần được biểu lộ. Đây là truyện của ba người lính Nhảy Dù. Cả ba tham gia một cuộc hành quân miền Trung đã 78 ngày. Năm hết Tết sắp đến, họ có mặt ở Huế và không ngờ biến cố Mậu Thân sắp ập đến như cơn gió lốc. Minh và Lạc được nghỉ phép hai ngày. Minh về thăm nhà và dự lễ ăn hỏi người chị họ tên Quỳnh Như, anh bèn mời Thuấn lúc đó ở trong trại cùng đến dự cho thân. Quỳnh Như đính hôn với Bằng, nhưng khi gặp Thuấn, cô thốt mê anh đại úy gốc Bắc. Biết rằng rồi đây không còn gặp nhau nữa, Thuấn và Quỳnh Như vội lao vào nhau sống những giờ phút tột đỉnh của yêu đương. Sau đó Thuấn về trại, trong khi Minh ngụ khách sạn chờ Lạc đón vợ con ở Sài Gòn ra ăn Tết. Minh đem được chút nhu yếu phẩm đến cùng ăn Tết với Lạc. Đúng đêm giao thừa, quân miền Bắc tràn vào Huế, khắp đô thành ran súng đạn thay tiếng pháo bông. Minh giúp gia đình Lạc kịp trốn, còn mình sang nhà Quỳnh Như nương tạm. Bằng đã đoán biết tình cảm của Quỳnh Như với Thuấn nên nổi cơn ghen. Anh vốn sinh nhai bằng nghề dạy học, đồng thời sắp hoàn thành chứng chỉ Triết ở Viện Đại học Huế. Bằng chơi rất thân với đại đức Trí Không, người cũng ghi danh học ban Triết. Bằng theo Mặt trận Giải phóng đã được ít lâu, vừa thúc bách vừa đe dọa Trí Không để buộc nhà sư nhận dẫn đầu đoàn sinh viên Phật tử xuống đường biểu tình và xử dụng võ khí làm nội ứng cho bộ đội Việt Cộng. Trong những ngày Mậu Thân sôi sục, Bằng để ý thấy sự hiện diện của Minh và Lạc trong nhà Quỳnh Như. Nom anh thù ghét lính Cộng Hòa ra mặt, Trí Không có linh cảm rằng Bằng sẽ đi cáo giác hai người lính Nhảy Dù bị kẹt ở nội thành này nên tìm cách khuyên can. Cho tới khi biết Bằng rắp tâm hãm hại tới cùng, nhà sư đành ra tay hạ sát anh này, sau đó giúp Minh và gia đình Lạc chạy thoát. Phần Thuấn đem đại đội rút về phi trường Tây Lộc, tại đây xảy ra một trận tử thủ kinh hoàng. Khi Lạc và Minh về lại được tiểu đoàn, cả hai đều bị thương và kiệt sức. Hết chiến dịch, ba người bạn gặp lại nhau trong một bệnh xá Sài Gòn, chuẩn bị cho những ngày sắp tới. *** Dựa lưng nỗi chết của Phan Nhật Nam mang một nét buồn bã khó tả. Ừ, khi đang dựa lưng vào nỗi chết thì làm sao mà vui được. Nỗi buồn của Phan Nhật Nam là nỗi buồn khi nhìn đến cảnh nồi da xáo thịt, cảnh anh em giết nhau: “Nòng súng thượng liên Trung Cộng, tiểu liên Tiệp Khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu nhắm chiếc vòng đen sâu hun hút vào đám lính mang giày Nhật nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa. Chờ nhau hân hoan âm ỉ, chờ thản nhiên lạnh cứng.”   Câu chuyện xoay quanh ba người sĩ quan lính dù trong thời gian của biến cố Tết Mậu Thân ở Huế. Trong truyện còn có Bằng, vừa sống với nghề dạy học vừa theo học các chứng chỉ triết ở đại học. Ở đó Bằng quen với Đại Đức Trí Không cũng ghi tên học triết. Bằng theo Mặt trận giải phóng miền Nam, vừa gây áp lực vừa đe dọa Đại Đức Trí Không để buộc nhà sư nhận điều hành đoàn sinh viên Phật tử và sử dụng vũ khí trong biến cố Tết Mậu Thân. Truyện của Phan Nhật Nam không tô hồng, không anh hùng hóa như chính tác giả đã viết ở phần cuối: “Chỉ là câu chuyện giản dị của những người lính trong một thời gian dồn dập… Chuyện bình thường, phẳng phiu, không là bản anh hùng ca rực rỡ uy dũng, cũng không đậm nét bi thương làm đọng cứng linh hồn.”. Đọc Dựa lưng nỗi chết không thấy ánh hào nhoáng vinh quang, nó chỉ ghi lại cuộc sống đời thường của những người lính dù với những lo toan hết sức bình dân giản dị, với những buổi nhậu để mua vui hay để nhấn chìm nỗi buồn vào trong đó. Tôi thấy chính giá trị của tác phẩm này là ở đó, để những thế hệ sau này muốn biến đời lính thật sự ra sao, muốn cảm nhận cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn nó cay đắng tàn bạo đến mức nào. Các bạn hãy đọc đi, để hiểu thêm quá khứ một chút, một quá khứ chân thực, giản dị, không tô hồng. Nhưng chính vì vậy mà đó mới là sự thật. *** Tháng Mười, tháng của chuyển động hoài hoài giữa hai điểm ngất ngây đớn đau và hạnh phúc. Tháng của những lạnh tanh bất chợt cứng ngắc và nồng nhiệt tràn đầy thác đổ. Tháng của đỉnh cao và vực sâu. Tháng tiếng động núi lở và im lặng đáy biển. Năm tháng căng thẳng giữa hai điểm không cùng. Làm sao để sống? Giữa những buồn phiền tanh tưởi độc địa, người muốn tan đi theo cơn gió rã rời, trôi vào lượn sóng nhạt thếch vô tri… Bỗng nhiên xôn xao những ý tình rực rỡ, bỗng choáng váng giữa niềm tin chói sáng, như mặt trời khởi đầu những ngày hè ở cực Bắc… Sống thật khó. Khó những ngày lặng lẽ rơi xuống, sáng trưa chiều trôi đi như lá khô, lặng lẽ đốt thêm điếu thuốc, xòe bàn tay, tay nhiều chỉ, tay nát bấy. Chiến tranh sắp chấm dứt và bàn tay chiến đấu cũng đã mỏi mệt. Xếp hai bàn tay, mở hai ngón, kẹp lấy điếu thuốc, thở ra lớp khói tàn tạ. Nhưng tháng Mười không hoàn toàn như thế. Tháng Mười, đêm thức giấc mở đôi mắt chợt xoay người để thấy một tình yêu thần bí hiện rõ từng đường nét khối lượng. Một tình yêu có thật cho người. Nhưng tháng Mười trong lòng hạnh phúc vẫn có những đớn đau câm lặng không ngừng nghỉ – phút rình rập của định mệnh độc ác… Gần cái chết và hạnh phúc, thấy rõ thêm niềm phấn đấu để sống. *** Thuấn lái xe dọc theo con phố. Chiều thứ Bảy, người đông kín. Chiều thứ Bảy, thật lâu Thuấn không biết đến loại thời gian này. Thứ Bảy, Chủ nhật, thứ Hai, những ngày tháng phân biệt đó trôi đi không gợi lên sự chú ý. Sự nghỉ ngơi chỉ có được lúc đêm khuya, khi đại đội đã trả súng vào kho, lính đi ra cổng doanh trại để nghỉ phép sau cuộc hành quân… Nghỉ ngơi – Thuấn thật sự không có. Chỉ có những giờ ngồi trước ly rượu bên con sông, nhìn xuống khoảng sông đào chen chúc thuyền đậu. Những con đò xứ Huế, nặng nề, bề thế, chắc chắn cùng thú vui đẫm ướt dục tình được mở ra thoả thuê trong đêm. Thuấn, người lạ ở xa đến, người Bắc, quê hương xa khuất ở cuối trí nhớ, quê hương trên bát bún thang, chiếc ảnh hồ Hoàn Kiếm, cây cầu gỗ chênh vênh trên mặt nước lung linh vòng cây phượng. Quê hương được nhớ lại ở trang sách bất chợt trong đó nhắc đến dáng dấp của lão Tàu bán lạc rang, mụ Béo bán bánh tôm ở bờ hồ… Những hình ảnh thoáng qua như ngọn lửa đầu que diêm yếu ớt. Thuấn không nhớ nổi. Quê hương, một chốn không còn. Thuấn từ Sài Gòn đến đây theo chiến dịch, nửa đất nước đi qua, đi và đến từ hai tỉnh đối đầu của quê hương bị cắt. Thuấn đã khởi hành và đến hai cực điểm của một đau đớn vô hình. Huế, thành phố không giống một nơi nào đã đi qua. Pha trộn giữa e thẹn câm nín và xôn xao đột khởi cơn lặng lẽ, bỗng chốc thành giông bão, thành phố của dịu dàng như cảnh giấc mơ và tồi tàn luộm thuộm của đời ẩn ức. Thành phố của lãng mạn và bi phẫn. Thuấn ở Huế được ba tháng, thời gian của những cuộc hành quân ngắn hạn. Từ Huế đi về hướng Bắc, qua chiếc phà, con nước xanh rêu không sông, bên kia bờ sông luỹ tre mờ mịt sương giăng, sáng mùa đông im lìm không mặt trời, con gà nhỏ lông sũng nước cố rít lên tiếng gáy, tiếng gáy của loài gà tre nghe the thé phiền muộn. Quân qua sông, đổ bộ lên bến, cợn đất sét màu vàng ứa ra từ phiến đá khi chân người lính giẫmlên tản theo dòng nước. Lính đi băng qua những khu rừng trống ẩm ướt, chuối, thanh trà, ổi chen chúc đứng khép vào nhau trong im lặng nặng trĩu. Một trái bom vừa nổ, mảnh gang trắng ghim vào thân cây chuối ứa mủ, đống bẹ chuối tươi non nằm hỗn độn trên lớp đất bu nhiều tung tóe, đất dính từng tảng nhỏ trên phiến đá bầm dập như những hạt máu khô đọng trên cánh tay gãy. Mảnh gang của quả bom theo đà bay phá vỡ khoảng tường vôi để lộ phiến gạch tươi, màu đỏ thớ thịt sau nhát dao chưa kịp ứa máu. Ba tháng hay chính xác hơn bảy mươi ngày, Thuấn đi qua những căn nhà kỳ quái, nhà không vách, không cột, không nền. Nhà là căn hầm sát xuống đất, sâu hun hút lạnh lùng, tối thăm thẳm. Nắp hầm được đắp cao bằng đất cứng, chắc chắn như nấm mồ, trên mặt mồ vĩ đại đó người dân úp cái mái bằng lá gồi hay tranh và người ta chui từ hầm lên nhà, bò từ nhà xuống hầm, không ai có thể ngồi thẳng lưng trong loại nhà hoang tàn kỳ lạ này. Người dân ngồi cong lưng đầu kẹp giữa hai gối, người dân ngồi im lìm, trẻ con cũng không khóc, đứa trẻ đã mất thói quen được khóc, khóc vì đói, vì lạnh hay ẩm ướt nước tiểu. Đứa trẻ đã quen với bóng tối, quen im lìm nặng trĩu. Tiếng động chỉ có ở những cánh quạt trực thăng chém gió lượn vòng trên cây cau, hay tiếng nổ của quả đạn súng trọng pháo. Tiếng nổ và sự im lặng trì trợm đã làm tê giác quan đứa trẻ. Không còn tiếng khóc trẻ thơ trong xóm làng Thuấn đi qua. Thuấn đã đi qua một lần, hai lần, những lần sau không đếm được. Đi qua để thấy người dân vùng Thừa Thiên đâu đâu cũng chừng đó thế ngồi, cũng chừng đó lối hò, cũng những âm thanh rít lên khó nhọc, hiu hắt phiền phiền xô đẩy nhau trả lời khi người lính hỏi đến… "Da, dạ…" những tiếng dạ liên hồi mở đầu chen trong câu chuyện, nghe nhức nhối như vết thương nung mủ bị bóp vỡ giữa hai lưỡi dao kẹp chặt. Thế nhưng người dân vẫn tiếp tục sống. Thuấn cũng tiếp tục sống, tiếp tục sống để sau mỗi cuộc hành quân cùng với một lũ bạn chen chúc lên chiếc xe đi về thành phố như hôm nay… "Đi đâu bây giờ?" "Đi đâu?" Thuấn quay đầu sang nhìn Minh, kẻ vừa hỏi, giọng Huế phẳng lì như phiến lá mít. Thuấn ngừng xe, xoay hẳn người ra đằng sau "Đi đâu?" Sáu đôi mắt nhìn nhau không nói. "Hay đi uống cà phê?" Đề nghị rụt rè không thành hình khối. Lạc nói nhỏ. "Cà phê?" Minh hỏi cao giọng. "Tao đã uống sáng nay hai lần cà phê rồi, nhưng thôi, cà phê phát nữa cũng được. Thuấn xoay người trở lại, quanh xe về quán cà phê giữa thành phố. "Đến chỗ Lạc Sơn ngồi nhìn thiên hạ, chiều hôm nay thứ Bảy". Không có tiếng ai trả lời câu nói của Minh. Ba người ngồi quanh chiếc bàn, ba bàn tay khuấy tròn những chiếc muỗng quanh vành ly gây tiếng động dễ chịu trong không khí cứng đặc. "Tụi mình đi hành quân được ba tháng rồi". "78 ngày". "Sao mày nhớ kỹ vậy?" "Nên tao thích ngồi ở đây, nhìn những người gánh củi đi qua, xúc động lúc nhỏ tự nhiên trở về như sống lại thời gian trước". "Mày vớ vẩn thấy mẹ". Lạc vòng tay bó lấy đầu gối ngồi ưỡn người trên nệm xe. "Minh, mày leo lên ngồi với tao, ở đây đâu còn Quân Cảnh, ngồi đằng sau xe xóc, chết cái mông".   Mời các bạn đón đọc Dựa Lưng Nỗi Chết của tác giả Phan Nhật Nam.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ông Hoàng Hollywood
Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald Mời các bạn đón đọc Ông Hoàng Hollywood của tác giả F. Scott Fitzgerald & Tô Hoàng (Dịch).
Điệp Khúc Cơn Đói
Paris 1931. Một cuộc đời được dựng nên qua các mảnh ký ức. Cô bé Ethel thăm triển lãm thuộc địa cùng ông chú họ. Cuộc sống đầy đủ trong gia đình dân gốc đảo Maurice. Chủ nghĩa Đức quốc xã. Gia đình sa sút. Mối tình đầu. Chiến tranh. Cuộc trốn chạy về miền Nam nơi cơn đói khát hiện hữu. Tất cả đẩy một thiếu nữ, dù không muốn, trở thành anh hùng khi vừa tròn đôi mươi. Lối viết thi vị nhưng tái hiện đầy sức nặng hình ảnh nước Pháp trước ngưỡng cửa một đoạn lịch sử cùng cực, đã khiến Điệp khúc cơn đói trở thành một trong những tác phẩm đặc biệt nhất, gây xúc động nhất của nhà văn giành giải Nobel 2008. *** Ở Việt Nam, J. M. G. Le Clézio được biết đến từ những năm 1960 với các tập truyện ngắn và tiểu thuyết đã được dịch (trong tổng số hơn 60 tác phẩm) như: Vòng xoáy Người chưa bao giờ thấy biển Những nẻo đường đời và những bản tình ca khác Sa mạc Điệp khúc cơn đói Bão Lũ mục đồng ... Từ tác phẩm đầu tiên Le Procès-verbal (Biên bản) cho đến khoảng cuối thập niên 1970, Le Clézio từng có một thời theo đuổi lối viết thể nghiệm về hình thức, gần gũi với phong trào “Tiểu thuyết mới”, không dễ đọc. Nhưng dõi theo con đường viết của ông, nhất là những tập truyện gần đây, thì càng ngày càng nhận thấy sự thay đổi rõ rệt trong lối viết. Hướng đến sự giản dị, chân phác về hình thức kể chuyện, giữ được sự tinh tế trong ngôn từ song vẫn không ngừng nuôi dưỡng những tầng sâu xúc cảm, triết lí. Tám câu chuyện của Lũ mục đồng giống như những câu chuyện cổ tích, đôi khi lan man chảy trôi trong dòng xúc cảm sống tuôn trào mãnh liệt của tâm hồn thơ trẻ, dường như không hướng đến một sự kết thúc khô cứng nào. Con chữ ngưng lại, trang giấy đóng vào, nhưng đâu đó trong những giấc mơ, dòng xúc cảm ấy vẫn âm thầm chảy, bầu khí quyển trong thế giới của những đứa trẻ vẫn âm thầm ôm ấp, xoa dịu, làm ấm lòng. Riêng có chất thơ lãng mạn bay bổng là hồ như xuyên suốt những trang viết của ông. Có thể bởi, với Le Clézio chất thơ đã trở thành một tâm thế để sống, để cảm và là phương thức gần gũi, giản dị nhất để chia sẻ những giấc mơ. Cũng như biển, chất thơ trong cốt tủy đời sống tự nguyên thủy chưa từng thay đổi. Khi trao giải Nobel năm 2008 cho Le Clézio, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã ca ngợi ông là “tác giả của những hành trình mới”, “người khai phá cái nhân văn bên dưới và vượt ra ngoài nền văn minh thống trị”. Nhưng có lẽ nên nói rằng, bởi những giấc mơ đe dọa đến lí trí và trật tự đạo đức, nên bị kiểm duyệt và khuôn phép xã hội “khóa chặt trong nhà ngục của sự câm lặng, bị ném vào hầm tù của ký ức. Những giấc mơ là ngọn lửa bị giấu kín mà con người phải tìm cách lấy lại để phát lộ phía khác của bản ngã chính mình, để đạt đến một sự tự do đích thực. Nhà văn hiểu rằng, đơn giản mình chỉ cần làm một điều, đó là trả lại cho việc mơ sự tự do mà chúng cần có. Cả nhà văn, nhân vật, cũng như người đọc đôi khi chẳng khác nào đang làm một chuyến vui chơi nho nhỏ “đi ngắm nhìn phía bên kia quả đồi” đấy thôi. *** Ethel. Cô bé đang đứng trước lối vào công viên. Bây giờ là buổi chiều tối. Ánh sáng dìu dịu, màu ngọc trai. Có lẽ sắp có giông trên sông Seine. Cô bé nắm thật chặt tay ông Soliman. Cô bé vừa tròn mười tuổi, vẫn còn thấp bé, đầu Ethel mới chỉ cao ngang hông người đàn ông, là ông trẻ của cô bé. Phía trước họ, nom như có một thành phố nằm giữa những cây đại thụ của khu rừng Vincennes, người ta trông thấy nào tháp, nào tòa, nào vòm. Trên những đại lộ vây quanh, đám đông chen chúc nhau. Đột nhiên, cơn mưa rào ập xuống, cơn mưa ấm nóng làm bốc lên một làn hơi nước bao trùm thành phố. Chỉ trong chốc lát, hàng trăm cây dù màu đen bật mở. Người đàn ông quên không đem theo cây dù của mình. Trong khi những giọt mưa lớn bắt đầu rơi xuống, ông lưỡng lự. Nhưng Ethel vẫn kéo tay ông, và hai ông cháu cùng nhau băng qua đại lộ, chạy về phía mái vẩy của lối vào, đứng trước những cỗ xe ngựa chở khách thuê và dãy ô tô. Cô bé kéo tay trái ông, ông cụ dùng tay phải giữ cho chiếc mũ màu đen ngay ngắn trên cái đầu nhọn của mình. Khi ông chạy, chòm râu xám bên má bay phất phơ theo từng nhịp bước khiến Ethel bật cười. Thấy cô bé cười, ông cũng bật cười theo, đến mức phải dừng lại trú dưới một cây dẻ. Đó là một nơi rất tuyệt. Ethel chưa từng nhìn thấy, cũng chưa từng mơ đến thứ gì tương tự. Đi hết lối vào, bước qua cửa ô Picpus, họ men dọc theo tòa nhà viện bảo tàng, đằng trước có đám đông đang chen lấn. Ông Soliman không quan tâm. “Viện bảo tàng thì xem lúc nào chả được”, ông bảo vậy. Ông đã có sẵn trong đầu một dự định. Chính vì thế ông muốn đến đây cùng Ethel. Cô bé đã cố gắng tìm hiểu, từ nhiều ngày qua em đã gặng hỏi ông. Cháu láu lỉnh lắm, đó là câu ông đã nói với cô bé. Em biết cách dò hỏi khéo léo. “Nếu đó là một điều bất ngờ, ta biết nói gì với cháu bây giờ? Nói ra thì còn gì là bất ngờ nữa?” Ethel lại tiếp tục nài nỉ. “Ít ra ông cũng cho cháu đoán thử xem.” Sau bữa tối, ông ngồi trên ghế bành hút xì gà. Ethel thổi bay đám khói xì gà. “Cái đó có ăn được không ạ? Có uống được không? Một chiếc váy dài tuyệt đẹp chăng?” Nhưng ông Soliman vẫn cương quyết không tiết lộ. Ông hút xì gà và uống rượu cô nhắc như mọi tối. “Ngày mai cháu sẽ biết.” Ethel, sau cuộc nói chuyện đó, không thể chợp mắt. Cả đêm em trằn trọc trở mình trên chiếc giường nhỏ bằng kim loại kêu kèn kẹt. Mãi đến buổi bình minh em mới thiếp đi và khó khăn lắm mới thức dậy được vào lúc mười giờ, khi mẹ em tới đón qua nhà các cô dùng bữa trưa. Ông Soliman vẫn chưa thấy tới. Thế nhưng đại lộ Montparnasse không xa phố Cotentin là mấy. Cách có mười lăm phút đi bộ, mà ông Soliman lại đi bộ rất cừ. Ông bước rất thẳng, chiếc mũ đen bắt chặt vào đầu, cùng cây can mũi bịt bạc không hề chạm đất. Bất chấp tiếng ồn ào ngoài phố, Ethel nói em nghe thấy tiếng chân ông từ đằng xa, tiếng động nhịp nhàng của đôi gót ủng bằng sắt gõ trên vỉa hè. Em bảo tiếng động ấy giống như tiếng vó ngựa. Em thích so sánh ông Soliman với ngựa, và điều đó cũng không khiến ông phật ý, thi thoảng, bất chấp cái tuổi tám mươi của mình, ông nhấc bổng em lên vai để đi dạo trong công viên, và bởi ông rất cao lớn, em có thể chạm tới những cành cây sà xuống thấp. Cơn mưa đã tạnh, họ nắm tay nhau bước tới bờ hồ. Dưới vòm trời xám xịt, hồ có vẻ rất rộng, cong cong, trông giống một đầm lầy. Ông Soliman thường nhắc đến những cái hồ và miền đất trũng khi xưa ông đã tới, tận bên châu Phi, thời ông còn là bác sĩ quân y đóng quân tại phần lãnh thổ Công gô thuộc Pháp. Ethel thích nghe ông kể chuyện. Ông Soliman cũng chỉ kể chuyện cho mình em nghe. Tất cả những gì em biết về thế giới này đều thông qua những chuyện ông đã kể cho em. Trên mặt hồ, Ethel nhận thấy vài con vịt, một con thiên nga lông ngả vàng có vẻ buồn chán. Họ đi qua trước một hòn đảo bên trên có xây một ngôi đền Hy Lạp. Đám đông chen lấn để vượt cây cầu gỗ và ông Soliman hỏi, nhưng rõ ràng chỉ để yên tâm: “Cháu có muốn…?” Quá đông đúc, và Ethel kéo tay ông trẻ. “Không ạ, không ạ, chúng ta hãy lập tức đến Ấn Độ thôi!” Họ đi men theo bờ hồ theo hướng ngược lại với dòng người. Đám đông rẽ ra trước người đàn ông cao lớn vận áo khoác dài, đầu đội mũ kiểu cổ, và cô bé tóc vàng diện cái váy dài xếp nếp, mang giày cao cổ. Ethel hãnh diện khi đi cùng ông Soliman. Em có cảm tưởng đang đi cùng một người khổng lồ, một người có thể khai thông lối đi trong bất cứ sự hỗn loạn nào của thế giới. Lúc này, đám đông di chuyển theo chiều ngược lại, về phía cuối hồ. Vươn cao trên những rặng cây, Ethel nhìn thấy những tòa tháp lạ mắt, màu xi măng. Em chật vật lắm mới đánh vần được cái tên ghi trên một tấm biển: “Ang… kor… - Vat! ông Soliman nói nốt. Angkor Vat. Đây là tên một ngôi đền của Campuchia. Trông có vẻ giống đấy nhưng trước hết, ta muốn chỉ cho cháu thấy cái này.” Ông đã có sẵn trong đầu một dự định. Vả lại, ông Soliman không muốn đi cùng hướng với đám đông. Ông dè chừng những chuyển động mang tính tập thể. Ethel thường được nghe người khác nói về ông trẻ em: “Một người thật kỳ quặc.” Mẹ em bênh vực ông, chắc chắn bởi ông là chú ruột của bà: “Ông cực kỳ dễ mến.” Ông đã nuôi dạy bà rất nghiêm khắc. Khi cha bà qua đời, chính ông đã nhận bà về nuôi. Nhưng bà không gặp ông thường xuyên, ông luôn ở xa, tận đầu kia thế giới. Bà quý mến ông. Có lẽ bà còn cảm động hơn bởi người đàn ông già cả này vô cùng yêu chiều Ethel. Như thể bà được chứng kiến trái tim ông rốt cuộc đã rộng mở, vào đoạn cuối của một cuộc đời đơn độc và chai sạn. Cạnh đó, một con đường dẫn ra xa khỏi bờ sông. Người đi dạo mỗi lúc một vãn đi. Một tấm biển đề: CÁC THUỘC ĐỊA CŨ. Bên dưới là những cái tên, Ethel chậm rãi đọc: RÉUNION   Mời các bạn đón đọc Điệp Khúc Cơn Đói của tác giả J. M. G. Le Clézio & Bằng Quang (dịch).
Ân Sủng Của Đời
"Ân sủng của đời" là một trong những tiểu thuyết mới nhất của Daniel, trong đó, tác giả tiếp tục gây ấn tượng với lối viết vừa hài hước vừa ý nhị, duyên dáng. Thông qua câu chuyện về nhân vật chính Geri, tác giả viết về tình cảm cha - con, thể hiện trách nhiệm của Geri với cậu con trai 14 tuổi của mình, cũng như bàn về vai trò của người làm báo trong thế giới đương đại vô vàn áp lực. Mượn góc nhìn của Geri, những vấn đề xã hội như: nhập cư trái phép, tị nạn, thất nghiệp, đói nghèo... được Daniel Glattauer đề cập tới bằng ngòi bút gây cười, cái cười giúp người ta hiểu có thể tiếp cận những vấn đề nóng trong xã hội theo nhiều cách khác nhau. *** Kệ tôi có được không Đời ? (đọc tiếp...) Đời: không :]]] Mình chưa bao giờ có ý niệm về văn học Áo sẽ như thế nào. Rồi lại tình cờ phát hiện ra một trong những cuốn sách hiếm hoi ở Việt Nam đến từ một tác giả Áo. Đây đúng là “ân sủng của đời” ! ---------------------- ????Geri, 43 tuổi, nhà báo hạng "xoàng" viết cho tờ báo lá cải Everyday, một kẻ thất bại. Mà chính ông còn nhận mình là như vậy nữa chứ. Cuộc đời ông lộn xộn như cái căn hộ bừa bộn mà thứ luôn đầy đủ là bia, cuộc sống chỉ xung quanh bia rượu. Mới đầu mình nghĩ? Nhân vật chính cái kiểu gì thế này ? Nhưng cuộc đời đã cho ông một cơ hội để tìm lại con người của mình. Từ một thất bại đến người quan trọng. Tất cả bắt đầu từ những "của nợ" "rơi" từ đâu xuống. Đứa con bất ngờ Manuel(trái ngược hoàn toàn với ông bố rơi- một học sinh được nhiều bạn bè yêu quý, học sinh xuất sắc) đến và thức tỉnh những giá trị tốt đẹp của Geri. Đừng đùa với anh???? Đột nhiên, những bài báo về những hoàn cảnh khó khăn của Geri lại được một nhà hảo tâm để ý. Những nhân vật tổ chức được nhắc đến sẽ được gửi 10.000 euro. Ban đầu với tư tưởng bất cần đời Geri đã mặc kệ vì nghĩ nhưng muốn gây ấn tượng với thằng cu Manuel nên Geri viết tiếp và giúp đỡ nhiều hơn nữa. Hóa ra ông cũng từng là nhà báo viết cho những tờ lớn nhưng do vài chuyện nên quyết định sống vât vờ. Những bài viết của Geri cũng phải có sự đăc biệt riêng trong cách viết thì mới phù hợp với mong muốn của nhà hảo tâm chứ. Được mời làm công tác viên cho cả tờ báo lớn nữa. Xã hội phức tạp lắm ???? Qua những bài báo của Geri, Daniel Glattauer khéo léo đề cập đến những vấn đề nhức nhối của xã hội: Quan hệ của gia đình thời hiện đại, vượt biên, nhập cư trái phép, tị nạn, thất nghiệp, cán cân giàu - nghèo, trách nhiệm của nhà báo,... Geri bị coi thường khi chưa dính dáng đến nhà hảo tâm. Từ khi sự nghiệp đi lên thì mọi người lại bắt đầu để ý đến vì tiền mà ông có thể đem đến cho họ :]]] Trách nhiêm của người bố, của người cầm bút✍️ Bản năng làm bố trong Geri được đánh thức và ông làm bố theo cách riêng. Không bắt ép con cái mà có lúc còn như thông đồng với chúng. Điều này lại khiến con cái dễ trải lòng với Geri. Bây giờ thì báo chí thường đi theo những phong trào và xu hướng đánh mất giá trị thực sự của nghề này. Phản ánh cuộc sống một cách trung thực. Geri từng nghĩ về nhà báo như vậy nhưng nghề này lại quá chú trọng đến những tin tức giật gân, danh tiếng. Ai xé mất đoạn cuối rồi ????????????????☹️???? Hết. Đang gay gấn thì hết. Còn mình thì còn cả đống câu hỏi chưa được giải đáp. Nhà hảo tâm không chịu xuất hiện thứ ông để lại là vài lời nhắn, Geri không biết là có nói ra mình là bố của Manuel không trước khi thằng bé có cha dượng, chuyện giữa Geri và cô nha sĩ sẽ đến đâu, mẹ của Geri có liên quan đến nhà hảo tâm không ??? Nó có thể giống cuốn “Nỗi đau tột cùng”(sách tưởng tượng) trong “Khi lỗi thuộc về những vì sao” Cuộc sống xuất phát từ cuộc sống. Cuộc sống đem lại cuộc sống đem lại cuộc sống đem lại cuộc sống đem lại cuộc sống và cứ tiếp như vậy. [ILEARNED] ????Niềm tin vào bản thân. Đời có lúc lên lúc xuống. Sẽ có lúc ta thấy mình là một thất bại và ngừng nỗ lực. Đó cũng là lúc phải đứng lên tìm lại giá trị của chính mình. ????Đời đập đập ta vô số lần nhưng cũng giúp ta vô số lần. [Myopinion] Lý do mọi người nên đọc quyển này ????Mọi người có thể thử văn học Áo với quyển này. Cách viết của tác giả cực nhiều “muối” . Dí dỏm, hài hước, tự trào. Đố bạn không cười khi đọc luôn. ????Thử một góc nhìn về cuộc sống, về nhà báo và những khía cạnh xung quanh. ????Lối dẫn chuyện tự nhiên, những chi tiết đơn giản mà khi kết hợp vơi nhau lại tạo ra một bức tranh bất ngờ. 9.5/10sao ???? Ommis cellula e cellula Review Đỗ Đắc Hiệp *** Tôi hình dung con trai tôi khác hẳn. Thỉnh thoảng tôi rời mắt khỏi màn hình và làm ra vẻ nghĩ lung. Nhưng thực ra tôi quan sát Manuel - đúng những lúc nó cảm thấy không bị quan sát, và khi ấy cu cậu không ngông ngáo lắm. Thú thực, tôi thấy đặt cho nó cái tên Manuel là xấc xược, đối với nó và cả với tôi. Tại sao tôi không được hỏi ý kiến? Nếu biết thì tôi đã không cho phép, thì tôi đã ngăn Manuel, ít nhất là ngăn cái tên Manuel. Còn con người Manuel thì… nói sao bây giờ, đã ở dưới gầm trời này thì tránh đâu cho khỏi nắng. Ông trời của tôi thường xuyên cao hơn tôi một chút. Kỳ thực cũng chẳng sao, nếu ông ấy cứ ở hẳn trên cao ấy. Nhưng đâu được thế, một lúc nào đó ông lại sà xuống vỗ vai chào hỏi tôi. Lần này dưới dạng thằng cu mười bốn tuổi của tôi. Ngày thứ mười cùng Manuel trôi qua nhàn nhạt, tương tự mọi thứ Hai năm nay. Thực ra các thứ Ba cũng vậy. Thứ Tư thì tôi thường xin nghỉ, mấy ngày còn lại của tuần cứ thế tuần tự trôi qua. Mãi rất lâu sau tôi mới ngộ ra ý nghĩa của ngày thứ Hai này, và quả thực tôi vô cùng khâm phục trí nhớ đã bốn mươi ba tuổi và bị bia rượu làm mờ mịt đáng kể của tôi, vì lâu thế rồi mà nó vẫn đủ khả năng tái hiện vô vàn hình ảnh và câu chữ nguyên bản, đa phần của con trai tôi - lúc này đang ngồi cùng văn phòng và làm bài tập về nhà, hay ít nhất là ra vẻ như thế. “Thế nào, ổn cả chứ?” tôi hỏi. “Có gì mà không ổn chứ?” Hình như tất cả chúng nó đều khinh khỉnh thế chăng, cái bọn nhãi ranh dậy thì mười bốn tuổi với mấy sợi lông măng lún phún và chất giọng nằm đâu đó giữa vĩ cầm chùng dây và còi xe yếu điện, tôi cũng không rõ, nhưng tôi đã thấy nóng mắt. “Bác không muốn biết vì sao không ổn, bác muốn biết có ổn hay không”, tôi đáp. “Ai nói là bác muốn biết tại sao mọi chuyện không ổn?” nó hỏi. Nó hỏi thế vì nó biết tôi chắc chắn không tham gia vào một cuộc tranh luận bại não như vậy và nhờ đó cuộc đối thoại giữa hai chúng tôi chấm dứt. Manuel không ưa tôi - đó là một trong những vấn đề trong quan hệ còn khá mới mẻ giữa tôi và con trai tôi. Biết vậy để hiểu rõ những ánh mắt ngán ngẩm, vô hồn và chán chường trên cả mức ngáp ngủ mà nó dành cho tôi mười hôm nay. Ánh mắt ấy phản ánh cái mà nó nhìn thấy: Tôi. Giá mà nó biết tôi là bố nó thì có lẽ nó cũng chẳng ưa tôi, nhưng có thể nó nhân từ hơn với tôi. Nhưng nó không biết. Còn tôi thì thú thực cũng chỉ mới biết trước đây mấy tuần. Mời các bạn đón đọc Ân Sủng Của Đời của tác giả Daniel Glattauer & Lê Quang (dịch).
Cô Vợ Bướng Bỉnh Của Tôi
Hắn tên Hoàng Lãnh Phong, đúng như cái tên của mình, hắn là một người vô cùng lạnh lùng, nắm trong tay quyền lực khổng lồ của thế giới ngầm, đồng thời cũng là tổng giám đốc công ty Hoàng Phong với những lĩnh vực mở rộng trên thị trường thế giới. Không chỉ có vẻ ngoài đẹp trai, phong độ, mà hắn còn rất giỏi võ, đặc biệt là cực kì thông minh, vì vậy đã thu thút rất nhiều cô gái vây quanh, nhưng hắn vốn không hề để mắt đến bất kì ai. Nó là Nguyễn Ngọc Linh, tuy bản thân là con gái cưng của tập đoàn đá quý ty Renly, tính cách vô cùng bướng bỉnh nhưng thực chất nó là một cô gái tốt bụng, và rất biết quan tâm đến mọi người. Cũng giống với Hoàng Lãnh Phong, nó theo học võ đạo từ nhỏ nên có thể chất rất tốt, IQ cũng không phải ở dạng tầm thường, nhưng chưa bao giờ tỏ ra kiêu ngạo về bản thân giống như những cô tiểu thư nhà giàu khác. Trần Hoàng Thiên là bạn thân của Hoàng Lãnh Phong. Cậu cũng đồng thời là cánh tay trái đắc lực của hắn trong thế giới ngầm, và là người thừa kế tương lai của tập đoàn Hoàng Thiên. Với vẻ ngoài hào hoa, cậu nhanh chóng có xung quanh vô số vệ tinh, tuy được cho rằng là có bản chất phong lưu nhưng thực ra cậu chỉ yêu duy nhất một cô gái là Phạm Thùy Trâm. Nhỏ là bạn thân của Nguyễn Ngọc Linh, cũng là người có hôn ước định sẵn từ bé với Hoàng Thiên. Bên cạnh đó còn là cặp đôi Trinh Minh Anh, và Nguyễn Nhật Minh, hai người này bề ngoài tỏ ra như nước với lửa nhưng mối tình cảm mến của họ thật sự quá dễ thương nha! Truyện chắc chắn sẽ mang lại cho độc giả rất nhiều tiếng cười và những giây phút thư giãn vô cùng thoải mái. Mời các bạn cùng đón đọc Cô Vợ Bướng Bỉnh Của Tôi! *** Tại pari_pháp Trên chiếc giường màu hồng có một cô gái với mái tóc máu hạt dẻ,khuôn mặt baby vô cùng dễ thương không ai khác là nó Cốc *cốc "Ngọc Linh...Ngọc Linh có dạy hay không thì bảo " giọng nói đó là của mẹ nó.Nhưng bên trong không 1tiếng trả lời. "Cạnh" Con có muốn về Việt nam không? Sau khi mẹ nói thế nó liền bật dạy chạy vào VSCN -Mama có thật là mama cho con về Việt Nam không _nó -Đúng nhưng với 1điều kiện _mama nó -là gì ạ_nó -không được bắt nạt ck con _mama nó _mama.. Con gái mama ngoan thế này mà bảo.con đi bắt nạt hắn -hy..Hy mama nói thế" con mà hiền thì..trời nó sụp từ lâu rồi"_mama nó nói thầm -vâng thôi con đi đây_nó -uk_mama nó đây là lần đâu tiên mk viết truyện mong mọi người đóng góp Mời các bạn đón đọc Cô Vợ Bướng Bỉnh Của Tôi của tác giả mummim.