Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Du Nữ

Saikaku Và Thế Gian Đa Tình "Con người là những hiện thân ma quái”, đó là nhận xét của Ihara Saikaku, văn hào Nhật Bản thế kỷ XVII. Đó không phải là một lời phê phán về đức lý mà chỉ miêu tả tài tình bản tính của con người bằng một mệnh đề ngắn gọn. Những hiện thân ma quái, ôi con người, đó là hữu thể khó nắm bắt nhất, khó định tính nhất. Đó là một sinh vật đa chiều. Nhận xét của Saikaku tình cờ phù hợp và như thể là cộng hưởng với lời thơ Hy Lạp trong khúc hợp xướng thứ nhất từ vở bi kịch Antigone của Sophocles: “Nhưng không gì vượt qua nổi con người Trong sự kỳ lạ của nó!” Chính bản thân Saikaku cũng là một hiện tượng lạ trong văn học Nhật, người có thể được so sánh với Rabelais của văn học Pháp về một tiếng cười chói lọi mà cả hai đã ném vào đời sống. CHÂN DUNG CỦA “VẦNG TRĂNG PHÙ THẾ” Ihara Saikaku (1641 – 1693) là người cùng thế hệ với thi hào Basho dù hai người ít có điểm chung nào về tâm hồn lẫn cuộc sống. Tuy nhiên, trong 26 năm sáng tác đầu tiên (Saikaku bắt đầu viết văn vào tuổi 14) ông chuyên tâm làm thơ, nhất là thơ haiku. Ông có tài làm thơ nhanh đến mức nổi danh là “Nimano” (Nhị Vạn Ông). Vì trong một cuộc thi thơ, Saikaku đã đọc hầu như liên tục hơn hai vạn bài haiku, chính xác là 23.500 bài, trong khoảng thời gian một ngày (đúng 24 giờ đồng hồ) vào năm 1684 trước ngôi đền Sumiyoshi ở Osaka. Đó là một kỷ lục thơ ca không thấy ai tìm cách vượt qua. Khả năng sáng tác thần tốc ấy không mấy thích hợp cho thơ trữ tình – hàng vạn bài haiku (hay haikai theo cách gọi thời đó) mà ông làm rồi ra sẽ không còn vương lại trong trí nhớ ai. Tuy vậy vào năm 1672 Saikaku cũng đã là nhân vật trung tâm của một nhóm nhà thơ tiên phong đi theo phái Danrin. Và tác phẩm đầu tiên của Saikaku được ấn hành nằm trong tập thơ haiku của nhóm này xuất hiện vào năm 1673. Cho dù sau này nổi tiếng là một tiểu thuyết gia lỗi lạc, Saikaku cũng dành cho thơ không ít thời gian. Tính đến cuối đời, ông xuất bản chừng khoảng 12 tập thơ và tác phẩm phê bình thơ. Nuôi ba đứa con, trong đó có một đứa con gái mù. Ông không tục huyền bao giờ và năm 1677, làm lễ thí phát, một cử chỉ khá thông thường của các nghệ sĩ thời đó khi muốn dành cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ thuật hoặc đi tu. Năm năm sau, vào tuổi 40, ông đạt được thành công lớn khi quay ngòi bút sang văn xuôi với cuốn tiểu thuyết Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko). Cuốn sách ấy mở đầu cho hàng loạt tác phẩm “Phù thế thảo tử” (Ukiyo zoshi) của ông, ảnh hưởng đến cả thời đại. Và Saikaku trở thành tiểu thuyết gia hàng đầu, linh hồn của thời Phục hưng Nhật Bản. Saikaku tuy không phải là người sáng tạo ra văn chương phù thế, tức “Phù thế thảo tử” nhưng ông đã đem lại cho nó một màu sắc huy hoàng, tựa như tranh khắc gỗ, vẽ lại cuộc sống đa tình của thế gian, kể cả những hiện thân ma quái của nó. Phù thế, ấy là Ukiyo, là cõi người ta. Uki là “ưu” (ưu sầu) nhưng cũng là “phù” (trôi nổi). Cuộc đời hẳn nhiên là phù ảo nhưng cuộc đời cũng là phiêu lãng. Phiêu lãng là sống. Là đi. Là yêu. Là ôm ấp trần gian. Là mộng. Là bay đi theo hương. Là phong ba. Là cát bụi. Là không chết trong khi sống. Là cười cho cả tiếng. Là khóc cho khô lệ. Là một hiện thân tràn đầy của từng khoảnh khắc. Văn chương phù thế, mà Saikaku là người dẫn đầu, là văn chương của những ngọn sóng náo nức, mãnh liệt, lúy túy, nén mình về phía trước mà quay lưng lại với những thần linh xưa cũ. Sống là sóng, là nổi sóng, là thay đổi, là trôi, là dâng tràn. Và con người đô thị, những thị dân Edo chợt khám phá ra tiếng nói của chính mình nơi Saikaku. Khác với võ sĩ đạo, các thị dân ấy đã có con đường của riêng mình gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo). Các nhân vật của Saikaku, cả nam lẫn nữ, đều phiêu lãng trên con đường ấy, cuồng nhiệt và liều lĩnh, ngây thơ và sành sõi, đa tình và tuyệt vọng, thường vấp phải sai lầm nhưng tất cả đều không sợ sống. Sau đó ít năm, Saikaku thử bút trong lãnh vực sân khấu, viết kịch bản cho múa rối (Joruri). Cũng như trong thơ, ông không đọ nổi với Basho thì trong sân khấu, ông chẳng bì được với Chikamatsu. Vở kịch ông soạn vào năm 1685 chỉ là một thất bại. Ngoài ra ông cũng viết một số bài phê bình về kịch nghệ Kabuki. Và với năng lực tài hoa của mình, Saikaku còn đi vào hội họa, vẽ minh họa cho một số tập thơ và tiểu thuyết của chính ông. Các minh họa phù thế thảo tử của ông được yêu thích và nhiều nhà phê bình đánh giá khá cao. Chưa hết, Saikaku còn là một nhà thư pháp có tiếng. Do thành công của cuốn truyện đầu tay, Saikaku tiếp tục viết tiểu thuyết. Từ đó, đến cuối đời, cứ trung bình mỗi năm ông cho ra hai tác phẩm. Đặc biệt, vào năm 1688 sức sáng tạo của ông lên đến tuyệt đỉnh, hoàn thành tất cả 5 tác phẩm dài. Như vậy, viết tiểu thuyết trong khoảng 10 năm cuối đời, ông đã có không dưới 25 bộ sách. Saikaku mất vào tuổi 51. Trước đó ông soạn bài haiku từ biệt thế gian: “Vầng trăng phù thế Hai năm dài tôi đã Dõi đôi mắt nhìn theo.” Di cốt tro tàn của Ihara Saikaku được chôn cất trong chùa Seigan ở Osaka. Saikaku theo sự mô tả của thời ấy có một mái đầu thanh tú và lãng mạn, một dáng dấp trẻ trung. Chân dung ông do nhà thơ Haga Issho đương thời vẽ cho thấy một con người có vóc dáng nhỏ bé đầu cạo trọc, ngồi trầm tư trên sàn với tấm áo choàng truyền thống, đôi tai mở lớn như đang chăm chú nghe, đôi mắt đang nhìn chăm chú một điều gì đó, đôi bàn tay đặt lên nhau trên đầu gối thì rất nhỏ nhưng gân guốc. Toàn thể chân dung ấy toát lên một tính cách mãnh liệt, tràn trề sinh lực, một cái nhìn sắc sảo tinh anh, một hài hước sành đời và một lòng bao dung đầy hiểu biết. Đó là chân dung của một vầng trăng trầm lặng nhưng nồng nàn. Sự trộn lẫn giữa bóng tối và ánh sáng. CHỦ ĐỀ ĐA TÌNH Tiểu thuyết của Saikaku có thể chia làm hai đề tài lớn: Sắc dục và tiền tài. Trước hết là các tác phẩm về sắc tình, gọi là Koshokubon (Hiếu sắc bản). Thứ hai là các tác phẩm về đời sống thực tiễn hàng ngày của thị dân gọi là Choninmono (Đinh nhân vật) hầu như lúc nào cũng liên quan đến tiền tài. Tiểu thuyết những năm đầu thường tập trung vào đề tài sắc dục. Càng về sau Saikaku càng chú ý đến đời sống kinh tế của thị dân. Đa tình, hay “hiếu sắc”, là chủ đề đặc biệt đã làm nên danh tiếng của Saikaku và cũng là yếu tố từng làm cho người ta loại trừ ông trong một thời gian dài. Những tác phẩm hiếu sắc – gọi như thế vì chữ Koshoku (hiếu sắc) được Saikaku đưa vào nhan đề nhiều tiểu thuyết ban đầu của ông: ▪ Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko: Hiếu sắc nhất đại nam, 1682) ▪ Người đàn bà đa tình/ Đời du nữ (Koshoku ichidai onna: Hiếu sắc nhất đại nữ, 1686) ▪ Năm người đàn bà đa tình (Koshoku gonin onna: Hiếu sắc ngũ nhân nữ, 1686) Và ngay cả những tác phẩm mà nhan đề không có chữ “Koshoku” thì trong thời kì đầu ấy vẫn xoay quanh đề tài sắc tình. “Koshoku” ám chỉ tình yêu lẫn sắc dục trong mọi phương diện của nó, có khi bao gồm cả những mối quan hệ yêu đương đồng tính – Các nhân vật ấy thường đa tình đến cực điểm, cả nam lẫn nữ. Hiếu sắc có thể là lần lượt có nhiều người tình khác nhau trong cuộc đời. Nhưng hiếu sắc cũng có thể là chung tình đến cực điểm, có thể cùng nhau chết (tự sát đôi) để bảo vệ tình yêu. Hiếu sắc có thể là nỗi đam mê với trần gian muôn màu, niềm vui sống (Joie de vivre) lúy túy trào dâng. Thế gian xuất hiện trước mắt Saikaku là một thế gian đa tình. Hay trong ông là cả thế gian ấy, là cả người đàn ông, là cả người đàn bà. Con người trở thành nhan sắc của chính cuộc đời chứ không phải chỉ có vẻ đẹp của hoa đào, hoa mơ, hay trăng, nước. Ngắm hoa ư? Được. Ngắm trăng ư? Được. Nhưng con người, đó chính là hoa, là trăng của thời đại mới. Ngắm đi. Nâng niu đi. Ôm ấp đi. Phố xá bỗng nhiên trở thành những bài thơ mới và con người trở thành những bức tranh mới. Một truyện ngắn của Saikaku bắt đầu như thế này: “Tôi chán những đám mây hoa đào đến độ xa lánh kinh đô suốt cả mùa xuân”. Xưa nay, với người Nhật chẳng có gì đẹp bằng hoa anh đào. Thế mà ở đây, chẳng những nó mất hết vẻ quyến rũ mà còn gây buồn phiền khó chịu. Không phải Saikaku tấn công vào hoa đào và thiên nhiên. Nhưng ông thấy rõ thời đại của “hoa” đang nhường lại ngôi vị ưu tiên cho thời đại của “người” với tất cả cái đẹp và cái xấu của nó. Sau chiến tranh, con người đang tận hưởng tự do và những lạc thú mới. Họ trở nên phóng đãng, lao vào sắc dục như những con thiêu thân. Và cái gì quá độ mà chẳng có nguy cơ lố bịch. Saikaku thấy rõ thời đại mới đã đánh mất các cảm thức tinh tế của ngày xưa, thấy rõ sự dung tục đang lan tràn trong lối sống thị dân. “Người ta đến rừng mơ ở Kitano hay viếng hoa tử đằng ở Otani nhưng không phải để ngắm hoa mà để vò xé nó. Người ta nhìn làn khói hùng vĩ tuôn trào từ đỉnh Toribe để chỉ thấy nó không khác nào khói ống điếu!” Trích đoạn trên nằm trong Người đàn ông đa tình. Đó là câu chuyện về cuộc đời phóng đãng của một chàng trai tên là Yonosuke, có nghĩa là “con người của thế gian”. Đứa con trần thế ấy có mặt trong tất cả các chương sách với những phiêu lưu tình ái. Nó theo đúng số chương sách của Truyện Genji do nữ sĩ Murasaki viết từ đầu thế kỷ XI dù nó là một cuốn tiểu thuyết ngắn chứ không phải một tác phẩm trường thiên như kiệt tác cổ điển kia. Và khác với Truyện Genji, nó thuộc vào một thời đại mà người ta bộc lộ nhục cảm một cách táo bạo. Nhục cảm koshoku đã thay thế cho niềm bi cảm aware thời cổ điển. Đúng ra, cái gọi là tình ái ở đây chỉ là những cuộc ăn chơi phóng đãng qua các thành phố Edo, Osaka, Kyoto… và cái đó gọi là “tự do”: “Hơn bất kỳ điều gì khác trên đời, Yonoseko yêu tự do”. Như thế, Yonoseko là một mẫu người dục tính, khác với Hoàng tử Genji là con người lãng mạn. Con người lãng mạn đi tìm cái đẹp, cứu vớt cái đẹp và sáng tạo cái đẹp. Cỏ hoa, bóng trăng, nhan sắc và tâm hồn được tái tạo và huyễn hóa. Con người dục tính thuộc về thế gian này, khoảnh khắc này, nhục thể này. Nó tìm kiếm hoan lạc khắp nơi. Nó lấy thực làm mộng, nó không vỡ mộng nhưng lại làm vỡ thực tại với dục vọng của mình. Và khi con người dục tính làm “tiên tri” thì nó chỉ có thể là tiên tri giả. Yonoseko từng đóng vai một nhà tiên tri thần đạo mà hát to trên đường rằng “ngọn gió thiêng sẽ thổi và tàn sát tất cả các cô gái nào ở tuổi mười bảy đôi mươi mà vẫn còn trinh trắng”! Vậy mà Người đàn ông đa tình vẫn còn chút ít màu sắc lãng mạn nếu đem so sánh với tiểu thuyết viết sau đó bốn năm là Người đàn bà đa tình, tức Đời du nữ. Nhân vật trung tâm lần này là một du nữ và đây là câu chuyện của thân xác nàng. Đó là một thân xác liên kết mọi biến cố trong đời nàng và vì vậy trở nên một thân xác “có tính cách”. Nàng là nhân vật tiểu thuyết được tạo dựng sinh động nhất của Saikaku, một chân dung mang nhiều màu sắc hiện thực tâm lý nhất của văn học Nhật Bản đương thời. Các chương của tác phẩm kể theo ngôi thứ nhất trong truyền thống “Sám hối vật ngữ” (Zange monogatari) tức loại truyện tự thú, tự bạch. Tên thật của nhân vật không hề được nêu lên. Xuất thân từ một gia đình tử tế, nàng làm thị nữ cho một phu nhân ở triều đình. Nhưng sau đó bị đuổi đi vì tội vụng trộm tình ái lúc mới 12 tuổi. Không bao lâu, gia đình nàng sa sút, nàng bị bán vào “thành phố không đêm” Shimabara ở Kyoto. Những thành phố không đêm (Fujajo: bất dạ thành) là các khu vực vui chơi thời ấy. Vừa là chốn ăn chơi, vừa là trung tâm của đời sống xã hội nghệ thuật. Đó là các khu phố Yoshiwara ở Edo, Shimabara ở Kyoto và Shinmachi ở Osaka. Những khu phố ấy bao gồm các thanh lâu, nhà tắm, lữ quán, sân khấu… chứa đựng đông đảo các du nữ, vũ nữ, vai hề, diễn viên cùng với những người hầu, phục vụ và buôn bán. Chính các thị tứ của lạc thú ấy đóng một vai trò quan trọng làm nên văn hóa thời Tokugawa (1600 – 1868). Bởi vì là nguồn đề tài bất tận cho nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả thơ. Nhân vật chính của các thành phố không đêm là du nữ (Yujo: gái làng chơi, các ả đào). Họ đàn hay, múa giỏi và nghệ thuật ứng xử, trò chuyện khéo léo… Những thị tứ như vậy được gọi là Yukaku (du quách). Shimabara chính là một Yukaku, ở đó bắt đầu cuộc đời lưu lạc khắp xứ của người đàn bà đa tình. Nàng lần lượt là du nữ, là tình nhân của một nhà sư, là thầy dạy viết thư, hầu phòng, hầu gái, ca nữ, gái nhà tắm, trà thất và khi xuống tận đáy, làm cả gái điếm đường. Có một số yếu tố khách quan từ hoàn cảnh gia đình và xã hội nhưng vẫn không mạnh bằng bản chất “Koshoku” (hiếu sắc) ở nàng. Nàng không hề là một nhân vật lãng mạn. Nàng đến với đàn ông bằng thân xác chứ không bằng tình yêu và giấc mơ. Nàng tống khứ cả tôn giáo ra khỏi ngày lễ của nó, ra khỏi tâm hồn một sư già đang mặc tăng bào, cầm kinh khí tượng A di đà. Có lúc nàng hóa thành lang thang trên đường và hát theo vũ khúc xưa: “Ta cần một người đàn ông! Ta cần một người đàn ông!”. Về già, khi không còn có thể tìm thấy lạc thú nào nữa, đứng trước dãy tượng Ngũ Bách La Hán ở chùa Đại Vân nàng vẫn đầy ắp trong tâm cuộc sống hoan lạc cũ. “Khi đứng yên lặng ngắm nhìn năm trăm vị Phật này, Tôi cảm thấy rằng từng vị một gợi cho tôi nhớ đến mỗi người đàn ông mà tôi đã từng giao hoan trong quá khứ.” Ngay cả Phật cũng không thoát khỏi sự cảm nhận của nàng bằng thân xác là đàn ông, là nam và nàng là người nữ, dường như đó là điều nàng quan tâm trong suốt cuộc đời. Về cuộc đời, nàng ngỡ rằng mình đã thoát khỏi “những đám mây ảo vọng của chính mình”. Nàng lầm. Người đàn bà đa tình là nàng, là du nữ trong bản chất, là cư dân vĩnh viễn của những thành phố không đêm. CON ĐƯỜNG CỦA THỊ DÂN Đề tài thứ hai mà tiểu thuyết của Saikaku thường khai thác là tiền tài. Biết sử dụng tiền tài là một trong những yếu tố của Chonindo (Đinh nhân đạo). Những câu chuyện về thị dân và tiền tài thuộc về chủ đề Choninmono (Đinh nhân vật) mà Saikaku bắt đầu với bộ Kho tàng vĩnh cửu (Nippon Eitaigura: Nhật Bản vĩnh đại tàng, 1688). Đó là một tập sách gồm 30 truyện diễn tả các phương cách kiếm tiền và tiêu phí nó của thị dân. Cuốn sách được xem là bộ cẩm nang làm giàu và vì thế đã trở thành kinh thánh của thế kỷ XVIII. Giá trị của Kho tàng vĩnh cửu chính là bức tranh hiện thực về thế giới thị dân dưới ảnh hưởng của tiền tài. Saikaku có lẽ là tác giả đầu tiên ở Nhật đề cập đến đời sống kinh tế một cách cụ thể, linh hoạt và đầy đủ đến như vậy. Saikaku cũng là nhà văn đầu tiên vạch ra đường lối sống của thị dân, có thể gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo), khác với tính cách cứng nhắc của võ sĩ đạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ông đồng tình với việc làm giàu bằng mọi giá. “Những cách làm tiền bỉ ổi” bị ông vạch ra trong Kho tàng vĩnh cửu với lời kết luận như sau: “Chỉ người nào mưu sinh bằng những phương tiện đàng hoàng mới đáng gọi là người. Đời sống của con người có lẽ chỉ là giấc mơ, nhưng dù chỉ kéo dài độ năm mươi năm thì chọn một công việc tử tế trong thế gian này hẳn là cũng tìm được thôi”. Ảnh hưởng của tiền tài trong đời sống thị dân còn có thể tìm thấy trong nhiều tác phẩm khác của Saikaku, đáng kể hơn cả là cuốn sách ấn hành vào khoảng cuối đời, mang tên Nợ nần thế gian (Seken Munesanyo, 1692). Đây cũng là tập truyện ngắn. Những câu chuyện xoay quanh ngày cuối năm, thời điểm phải lo thanh toán mọi nợ nần. Đời sống tối tăm đầy lo buồn của những thị dân hiện lên trên các trang sách này khác hẳn với đời sống xa hoa của những nhân vật mà Saikaku phác họa trong thời kỳ đầu. Không phải là những cá nhân đào hoa mà là những tập thể lầm than. Cũng không còn vấn đề làm giàu như trong Kho tàng vĩnh cửu nữa mà chỉ còn là vấn đề trả nợ trong địa ngục năm tàn. “Mùa cuối năm đầy những chuyện mà người đứng ngoài cũng thấy nát lòng!”. Ở đây hầu hết các nhân vật không có tên mà chỉ có những danh từ chung để chỉ các quan hệ xã hội: ông chủ, bà chủ, người thâu tiền, thư ký, người nghèo, người vợ, người con… Ngoài hai chủ đề trên, Saikaku còn viết các tạp thoại bao gồm những truyện truyền kỳ, truyện võ đạo và cả truyện trinh thám. Nổi bật trong loại này là Truyện các xứ (Shokoku banashi, 1685). Qua Truyện các xứ, Saikaku muốn thám hiểm “cuộc đời trong tất cả chiều rộng của nó”. Nó gọi ta nhớ đến Truyện mười ngày của Boccaccio vào thời Phục hưng ở Ý. Vẻ đẹp và thói xấu của con người trong các tác phẩm ấy đều có vẻ lý thú. Đó chính là hình ảnh con người như “hiện thân ma quái”. Đó là con người trong một thế gian có muôn màu kỳ diệu, có hoan lạc, có đau khổ, có bất trắc, có bình an… nghĩa là một thế gian đa sự, đa tình. Cái hiện thực căng đầy ở Saikaku thường đi đôi với sự trào lộng. Như chính cuộc đời, ngay cả trong những cảnh bi đát, Saikaku vẫn để lóe lên tia sáng nghịch thường. Theo Hibbett đó là “nghệ thuật đan xen ánh sáng và bóng tối” của Saikaku và cho rằng: “Bằng cách trộn lẫn trào tiếu với trang nghiêm, Saikaku đã sáng tạo ra một phong cách hiện thực châm biếm đầy chất thơ để có thể miêu tả cả phương diện vui thú lẫn buồn phiền của cõi phù thế”. Tính chất hiện đại của Saikaku đã làm dậy lên một phong trào khôi phục ông vào cuối thế kỷ XIX sau khi ông bị lãng quên gần hai thế kỷ. Người ta chợt nhận ra rằng, hóa ra ngay từ thế kỷ XVII, văn học Nhật đã biết đến một chủ nghĩa hiện thực tràn trề sự sống. Với Saikaku, “những con người phù thế khám phá ra rằng các câu chuyện kể về những rồ dại và mê cuồng của họ cũng hứng thú như bất kỳ truyện kể nào nhập từ Trung Quốc sang hay của ngày xưa truyền lại. Gái hồ ly, võ sĩ và các tiểu thư vẫn còn là thời thượng văn chương đấy nhưng đã có vẻ sáo mòn, khác với các nhân vật phù thế như chàng tuổi trẻ phóng đãng, như các du nữ tài sắc quyến rũ hoặc người vợ bướng bỉnh ngang tàng” (Hibbett, The Floating in Japanese Fiction, Tokyo 1992). Những gì Saikaku sáng tạo vào cuối thế kỷ XVII giữa một xứ Phù Tang đóng kín đến nay vẫn còn tràn đầy một niềm vui sống say nồng. Con người thời đại, cho dù ở xa Nhật Bản, vẫn tìm thấy hình bóng mình trong các tác phẩm của Saikaku, cả vẻ đẹp lẫn thói xấu, cả sắc lẫn tình, cả chơi đùa và bán buôn, cả trang trọng và khôi hài. Và nhất là đọc ông, ta chợt nhận ra thế gian quanh ta đa tình biết mấy! NHẬT CHIÊU *** Thời đại Edo (1603 – 1867) dưới sự lãnh đạo của Mạc phủ Tokugawa kéo dài 264 năm có thể xem là một trong những thời kỳ êm đềm nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với chính sách bế quan tỏa cảng, người Nhật dựa vào nội lực của chính mình để phát huy đặc tính văn hóa trên tất cả lĩnh vực từ cá tính dân tộc, tay nghề, mỹ thuật… Giai cấp samurai được khuyến khích coi trọng văn hơn võ; giai cấp thương gia ngày càng trở nên giàu có. Thêm vào đó nhờ vào sự phổ cập các trường tư thục, trường dạy trong chùa (terakoya 寺子屋) và kỹ thuật in ấn phát triển, sách in bằng bản khắc gỗ ra đời nên dân thường có điều kiện tiếp xúc với văn chương. Văn học được đại chúng hóa và văn hóa trở thành văn hóa của thị dân (Chonin bunka 町人文化). Sinh vào đầu thời Edo, Ihara Saikaku (Tỉnh Nguyên Tây Hạc 井原西鶴) (1642 – 1693) là nhà thơ haiku và tác gia tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết “phù thế thảo tử”. Phần lớn cuộc đời ông viết về cuộc sống thị dân Edo với những mối quan tâm về tiền bạc và sắc tình. Với khả năng quan sát nhạy bén và tài năng đa dạng, Saikaku đã khắc họa tinh tế bản chất con người trong một xã hội của kim tiền và sắc dục. Những tác phẩm của ông vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay vì cho dù có văn minh đến đâu nhưng tâm lý con người ngàn năm nay vẫn không hề thay đổi. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là “Năm người đàn bà si tình” (Hiếu sắc ngũ nhân nữ 好色五人女). Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành 上田秋成) (1734 – 1809) vốn là con hoang của một kỹ nữ, sau được một thương nhân nhận nuôi để nối nghiệp nhưng cuối cùng lại chuyển sang nghề y. Ueda có niềm tin sâu sắc về những truyện huyền bí. “Vũ nguyệt vật ngữ” (雨月物語 Truyện kể trong mưa và trăng) đúng như tên gọi được viết xong vào đêm mưa tạnh trăng mờ năm 1768. Tuy viết về chuyện yêu ma quỷ quái nhưng lại ẩn chứa rất nhiều bài học về thế thái nhân tình. Hai tác phẩm tiêu biểu “Năm người đàn bà si tình” và “Vũ nguyệt vật ngữ” đặt song song và tương chiếu với nhau giúp chúng ta thấy được cuộc sống và quan niệm nhân sinh của người dân Nhật Bản thời Edo một cáchsống động và chân thực và từ đó có thể rút ra bài học cho chính mình trong cuộc đời hôm nay. Đặc biệt là lời cảnh tỉnh về sắc dục và ái tình. Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu tấn tuồng đời diễn ra với mùi vị của kim tiền. Chính tiền bạc và sắc dục đã biến con người trở thành yêu ma, yêu ma vì tình mà trả thù người, người và yêu ma lẫn vào nhau, chung sống với nhau. Như xà tinh trong truyện “Con rắn tà dâm” vì tình mà uổng phí công tu luyện ngàn năm, nhà sư trong truyện “Chiếc khăn trùm đầu màu xanh” của “Vũ nguyệt vật ngữ” vì tình yêu với chú tiểu mà biến thành một con yêu quái. Chính Ueda Akinari cũng thừa nhận: “Trên núi ái tình mà bản thân Khổng Tử cũng trượt ngã, người đời dễ quên đi nghĩa vụ của mình và cả bản thân mình nữa”[1]. Còn truyện “Năm người đàn bà si tình” thì kết thúc hầu hết là bi thương, nhân vật chính không chết thì cũng đi tu. Ái tình đã biến thành nghiệp chướng. Cả hai tác phẩm này đều đã có bản dịch tiếng Việt dù không đầy đủ. “Năm người đàn bà si tình” của Ihara Saikaku được Phạm Thị Nguyệt dịch, Nhà xuất bản Tiền Giang ấn hành năm 1988. Còn “Vũ nguyệt vật ngữ” được Nguyễn Trọng Định dịch với tên “Hẹn mùa hoa cúc” do Nhà xuất bản Kim Đồng in năm 2000. Những trích dẫn trong bài của chúng tôi là lấy từ hai bản dịch này. ... Mời các bạn đón đọc Đời Du Nữ của tác giả Ihara Saikaku.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Oskeola Thủ Lĩnh Da Đỏ
TIỂU THUYẾT Số trang: 385 Khổ sách: 13x19cm NGUYỄN ĐỨC QUYẾT dịch NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KIÊN GIANG - 1989 NGUYÊN BẢN Tiếng Anh Thomas Mine Reid “Oskeola, the Leader of Seminols” LỜI GIỚI THIỆU Tiểu thuyết Oskeola đến tay các bạn khi nó vừa tròn 130 tuổi. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, nhưng dư âm cuộc chiến hào hùng và bi thiết của một dân tộc thượng võ, yêu tự do chống tại xâm lăng da trắng bạo tàn và xảo quyệt vẫn dội lên trong trang sách của Thomas Reid. Thomas Mine Reid sinh năm 1818 tại Irland xác xơ, nghẽo đói. Là một người rất giàu nhân ái, Reidcăm thù tận xương tủy bạo lựcvà độc tài trên đất nưóc mình, từ bỏ sắc áo thầy tu tin lành mà cha ông đã định trước. Hai mươi hai tuổi. Reid vượt biển sang Mỹ Châu, bắt đầu cuộc sống mới đầy phiêu lưu sóng gió. Trước khi trở thành cây bút bênh vực các cựu chủ nhân bất hạnh trên Tân lục địa, tác giả của những “Kỵ sĩ không đầu'’. “Thiếu nữ Cvarteron “Thủ lĩnh trắng”. “Chiếc vòng vàng”. “Trườn trên vách đá... lừng danh thế giới. Reid đã trải khá nhiều nghề.. Dạy học, buôn bán, làm nhà báo, diễn viên... Đặc biệt, chính Reid một thời cũng đã từng là lính, trong một trận đánh ngập máu với người da đỏ ông bị trọng thương, vùi giữa đống xác người và đã bị báo tử trên báo chí. May thay. “Con người một đời hai lần chết” (theo cách gọi của chính Reid.) ấy đã không sớm giã biệt,cuộc đời, nếu không hậu thế hẳn đã phải chịu thiệt thòi - thiếu những tác phẩm đầy hào khí da đỏ của ông. Trước Reid đã không ít người viết về chiến tranh da đỏ. Nhưng những cuốn sách sặc mùi thực dân của họ. Thôngqua các captivity (tù binh của người da đỏ) và Indian hater (kẻ thù địch, bài xích người da đỏ)đã bóp méo lịch sử, trơ tráo bôi đen danh dự, đạo lý, phẩm cách của các dân tộc da đỏ. Thomas Reid đã không làm như vậy. Tác phẩm của ông thấm đượm thiên cảm nồng nhiệt và kính phục chân thành đối với một dân tộc cao thượng, quả cảm, khẳng khái, giàu tình yêu, nhưng lịch sửbất công đã đang tâm áp đặt số phận hẩm hiu. “Oskeola” là một tiểu thuyết sử thi, với thủ lĩnh huyền thoại mà lịch sử và nghệ thuật đã và còn truyền tụng. Trong cuộc đấu tranh bền bỉ, không cân sức của các dân tộc da đỏ chống lại người Mỹ da trắng tàn bạo, Oskeola nổi lên như một thủ lĩnh kiệtxuất. Là một người yêu nước nhiệt thành, một nhàquân sự tài ba, một nhà ngoại giao xuất sắc, một chiến binh quả cảm, một tâm hồn cao thượng, thủy chung... Oskeola đã trở thành linh hồn cho cuộc kháng chiến, là niềm tin yêu, kính trọng của cả cộng đồng, là mối khiếp sợvà nể phục đối với kẻ thù xâm lược cùng lũ tay sai phản bội đồng bào và là mối cảm hoài đầy thi hứng cho các thế hệ sau. Trong cuốn tiểu thuyết không phải tất cả mọi chi tiết đều trung thành với sự thật lịch sử. Song điều có thật ấy là kẻ thù đã phải nhỏ lệ khi vĩnh biệt người con lỗi lạc của núi rừng da đỏ. Trước ngày Oskeola qua đời, lòng kính trọng sâu sắc đối với anh đã thôi thúc họa sĩ Jorge Ketlin hoàn tất chân dung chàng thủ lĩnh kiêu hùng lưulại cho hậu thế. Cuốn tiểu thuyết có một sức lôi cuốn kỳ lạ. Bạn đọc không những chỉ quan tâm đến kết cục cuộc chiến vô cùng gian khổ và kiêu dũng của người da đỏ xeminol, mà còn nóng lòng muốn biết số phận trung úy Jorge Rendolf cùng mối tình đầu đằm nàn, nồng thắm của chàng đối với nàng tiên da đỏ mà nữ thần ái tình Aphrodite phải ngậm ngùi nhường nhan sắc - Maiuymi, em gái Oskeola; số phận của Virginia, tiểu thư da trắng “trái tính trái nết”, em gái Jorge Rendolf và là người để Oskeola chôn chặt một khối tình vô vọng: số phận đại úy Gallaher yêu đời, chân thành và máu mê đấu súng: số phận Jec Đen trung thành, can đảm cùng nàng Viola xinh đẹp ; số phận ông lão săn cá sấu Hicmen... Và dĩ nhiên, độc giả rất muốn biết và nóng lòng chờđợi giờphút trừng phạt tên Jec Vàng phản phúc, lòng lang dạ thú mà cá sấu đớp không chết, cũng nhưgãArens Ringgold đểu cáng, thâm hiểm... Sau “Oskeola” đã có không biết bao nhiêu tiểu thuyết về người da đỏ bằng đủ các thứ tiếng khác nhau. Nhiều cuốn trong số đó đã từng vang bóng một thời, nhưng theo thời gian đã lùi dần vào quên lãng và an phận trong thư tịch, Riêng “Oskeola” cùng những tác phẩm tuyệt vời khác của Thomas Reid - những bài ca bất tuyệt về ý chí tự do, lòng nhân ái, và phẩm cách cao quí của con người - vẫn tràn đầy sinh lực, khỏe khoắn vượt qua bụi bặm của thời gian, đến với độc giả để chắc chắn chiếm lĩnh một góc tâm tư trân trọng và mến mộ. 1-1989 NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KIÊN GIANG *** Thomas Mayne Reid là một tiểu thuyết gia người Mỹ gốc Scotland. Thomas Mayne Reid đã chiến đấu trong Chiến tranh Mỹ-Mexico. Nhiều tác phẩm của ông là về cuộc sống của người Mỹ. Trong các tác phẩm này, tác giả đã mô tả chính sách thuộc địa ở Hoa Kỳ, nỗi kinh hoàng của lao động nô lệ và cuộc sống của người da đỏ Mỹ. *** Bố tôi là chủ một đồn điền indigo - trồng chàm. Ông tên là Rendolf, và tôi cũng tên như vậy: Jorge Rendolf. Tôi mang trong mình dòng máu pha trộn với người da đỏ, bố tôi nguyên thuộc về dòng họ Rendolf vùng sông Roanoc, dòng dõi của công chúa Pocakhontas*. Ông rất tự hào về gốc gác da đỏ của mình, gần như kiêu hãnh nữa là khác. Có lẽ một người châu Âu bình thường sẽ cảm thấy điều đó có vẻ kỳ quặc, nhưng rõ ràng ở châu Mỹ những người da trắng, có tổ tiên da đỏ lại rất tự hào. Là một người metis* không phải là điều sỉ nhục, nhất là nếu anh ta có tài sản kha khá. Hàng trăm cuốn sách ca ngợi lòng cao thượng của người da đỏ cũng không thuyết phục bằng một sự thực giản dị là tất cả chúng tôi không một ai cảm thấy ngượng ngùng khi nhận mình là con cháu họ. Hàng trăm gia đình da trắng hiện giờ vẫn khẳng định họ là dòng dõi của công chúa miền Virginia ngày xưa. Nếu như những tự hào, gắn bó với họ là xác đáng thì công chúa Pocakhontas xinh đẹp thuở ấy hẳn phải là một kho báu vô giá đối với ông chồng. Tôi nghĩ rằng bố tôi đích thực là con cháu của công chúa. Chí ít thì ông cũng xuất thân từ một gia đình thuộc địa danh giá cũ. Hồi trai trẻ ông đã có hàng trăm nô lệ da đen, nhưng lòng hiếu khách và tính hoang tàng đã làm ông tán gia bại sản. Không chịu được tình cảnh sa sút khốn khổ, ông nhặt nhạnh mớ tài sản còn sót lại rồi đi xuống phía nam, làm lại cuộc đời. Tôi ra đời trước khi xảy ra biến cố đó, và quê hương tôi vẫn là Virginia, nhưng khi tôi bắt đầu nhận thức được thì gia đình tôi đã ở bên bờ sông Xuoni xinh đẹp, miền đất Florida*. Tuổi ấu thơ của tôi đã êm đềm trôi qua tại đây, cũng tại đây tôi đã đón nhận những niềm vui sướng đầu tiên của tuổi trẻ, đã ngất ngây, rạo rực với mối tình đầu. Giờ đây tôi vẫn nhớ như in ngôi nhà gỗ sồi xinh xắn sơn màu trắng, vẫn thấy rõ những tấm rèm xanh bên khung cửa sổ. Quanh nhà có gác hiên với những cột gỗ khắc chạm công phu đỡ mái. Bên phải khu nhà là rừng cam, bên trái là cả một khu vườn mênh mông. Xa xa, phía ngoài bãi cỏ là khu rừng thưa xanh rì chạy thoai thoải tới tận bờ sông. Dòng sông tới đúng chỗ này thì gấp khúc, trông giống như một mặt hồ khá rộng với những cù lao nho nhỏ, hai bên bờ thấp thoáng rừng cây. Quanh hồ vô số chim chóc bay lượn rợp trời, từng bầy thiên nga nô giỡn ào ào trên mặt nước. Dải rừng thưa cạnh nhà mọc đủ thứ cây - những cây cọ với những tàu lá dài nhọn hoắt, những cây dải quạt lá xòe rộng bản, những bụi mộc liên, bụi hồi trổ bông thơm ngát, những khóm dây cầu vồng sặc sỡ. Trong rừng còn có một cây sồi khổng lồ, cành cây mọc ngang thân với tán lá dầy xanh tốt quanh năm, che mát cả một khoảng rộng dưới bãi cỏ. Tôi nhìn thấy dưới bóng sồi một cô bé xinh đẹp bận váy mỏng mùa hè. Chiếc khăn trắng trùm đầu không che kín những lọn tóc xoăn dài vàng óng. Đó là Virginia, em út và em gái duy nhất của tôi. Mớ tóc vàng óng ấy Virginia thừa hưởng của mẹ, nhìn mái tóc không ai có thể nghĩ rằng cô có gốc gác da đỏ. Cô đang giỡn với hai con thú yêu quí của mình - con hươu dama và chú hươu con bé xíu có bộ lông sặc sỡ. Virginia bóc cam cho hai mẹ con hươu ăn, chúng rất thích cam. Cạnh đó còn một con vật nữa mà Virginia cũng rất yêu - chú sóc đen lông mượt láng với cái đuôi luôn ngúc ngoắc. Chú sóc hiếu động nhảy thoăn thoắt, mỗi lần nhảy là mỗi lần làm hươu con hoảng sợ, nép sát vào hươu mẹ hay chay lại nhờ em gái tôi che chở. Quanh nhà rộn tiếng chim lanh lảnh. Rồi tiếng chó sủa, tiếng mèo kêu, ngựa hí. Phía sau nhà là một cảnh tượng hoàn toàn khác, có thể không hấp dẫn bằng nhưng không kém phần sôi động. Mọi người đang làm việc. Sát nhà là một khoảng rộng, rào kín bằng cọc sắt. Chính giữa là một mái che khổng lồ tựa trên những dãy cột gỗ to và khỏe. Dưới mái che thấy rõ hàng dãy máng ngâm bằng gỗ trắc bá. Các máng ngâm xếp thành ba tầng, nối với nhau qua hệ thống vòi mở. Đó là nơi người ta ngâm chàm để chế phẩm nhuộm màu xanh. Phía xa là những nếp nhà nhỏ xíu xếp thành dãy của người da đen. Những ngôi nhà bé nhỏ ấy dường như cố co lại, giấu mình trong khu rừng cam. Không khí thơm ngát mùi hoa rộ vàng, rồi mùa trái chín. Phía trên những mái nhà cũng lại những thân cọ đường bệ vươn cao hay ngả mình xòe lá giống hệt như ở bãi cỏ trước nhà. Bên trong bức tường vây có mấy dãy nhà nữa, trông thô kệch, tường ghép gỗ súc sù sì, mái ván. Đó là khu chuồng ngựa, kho ngũ cốc và nhà bếp. Từ nhà bếp có một hành lang ngỏ ăn thông lên tòa nhà chính, mái hành lang lợp ván, cột đỡ dựng bằng gỗ bá hương. Ra sau tường vây tới cánh đồng bát ngát, chạy tít tắp tới những viền rừng trắc bá che khuất chân trời. Đây chính là khu vực trồng chàm. Tuy vậy ở đây cũng có ngô, lúa, khoai tây, mía. Các loại lương thực đó chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tại chỗ chứ không bán. Indigo trồng thành hàng lối thẳng tắp. Rừng chàm mọc không đồng bộ: chỗ thì vừa mới trồng, lá nhỏ xíu giống như cỏ chĩa ba, chỗ đã trưởng thành, cao đến hơn hai foot*, hoa nở rộ. Đôi khi hoa chàm nở giống hệt như những con bướm nhỏ, nhưng người ta không để cho chúng nở hết độ. Chúng phải chịu một số phận khắt khe: người ta sẽ cắt nghiền những cánh hoa màu huyết dụ không thương tiếc. Bên trong bức tường vây và ngoài ruộng chàm hàng trăm người tất bật với công việc. Ngoại trừ một, hai người trong số họ, số còn lại đều là nô lệ người Phi. Đông nhất là dân đa đen, trong đó kể chung cả dân mulat, xambo, tertxeron, cvarteron*. Tuy nhiên, ngay những người thuần túy gốc Phi cũng không phải ai cũng đen cả, nhiều người da màu đồng. Một số trông khá dị hình - môi dày, trán thấp, mũi tẹt và dĩ nhiên không thể có vóc dáng cân đối. Nhưng số khác thân hình, khá đẹp, thậm chí có nhiều người trông rất hấp dẫn. Nhiều cô gái cvarteron trong số họ trông gần như da trắng. Tất cả mặc quần áo lao động. Đàn ông mặc quần vải gai mỏng, sơ mi màu rực rỡ, đội mũ đan bằng lá cọ. Dăm ba người ăn bận khá bảnh, một số lại cởi trần trùng trục, nước da đen bóng láng dưới nắng trưa trông như phiến gỗ lim. Phụ nữ ăn mặc sặc sỡ hơn, họ mặc váy sọc hoa và quấn khăn vải kẻ ca rô. Nhiều người mặc váy thêu rất đẹp. Mái tóc quấn như khăn xếp càng làm cho họ có một vẻ đẹp đặc biệt. Cả đàn ông và đàn bà đều làm việc ở đồn điền indigo. Họ cắt chàm và bó thành bó, tốp thợ khác kéo chàm về dưới mái che, quăng lên máng ngâm trên cùng. Rồi lại một tốp thợ nữa tiếp tục công việc - dẫn nước vào và “ép” chàm. Số thợ còn lại dùng xẻng gạt chất bột lắng vào cửa kênh tháo, chuyển xuống khâu cuối cùng là sấy khô và đổ khuôn. Mỗi người làm một việc nhất định, và phải nói là họ làm khá vui vẻ. Họ cười nói, đùa giỡn, hát hò suốt buổi. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều là nô lệ của bố tôi. Bố tôi đối xử với họ rất tốt, rất hiếm khi ông dùng đến roi vọt, có lẽ vì thế mà đám thợ luôn vui vẻ và thoải mái. Những hình ảnh dễ chịu ấy đã in sâu vào trí nhớ tôi. Chính nơi ấy tôi đã đi qua những tháng năm thơ bé, chính nơi ấy tôi đã khởi đầu cuộc sống có ý thức của mình.   Mời các bạn đón đọc Oskeola Thủ Lĩnh Da Đỏ của tác giảe Thomas Mayne Reid.
Giang Hồ Hiểm Ác
Móng Vuốt Quạ Đen luôn đứng đầu danh sách bán chạy của tuần báo New York Times, được vinh danh trong nhiều danh sách giải thưởng, hạng mục bình chọn quốc tế. Tác phẩm kể về một thế giới có phép thuật - nơi một nhóm những kẻ bất hảo tình cờ bị cuốn vào một phi vụ giải cứu đầy hiểm nguy, có khả năng xoay chuyển vận mệnh của thế giới. Đây là series tiểu thuyết Fantasy lừng danh được đón đọc trên khắp thế giới và làm nên tên tuổi của nhà văn Leigh Bardugo. Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Một tên trộm tài năng với những cuộc đào thoát không tưởng." Họ có thể cứu thế giới khỏi sự hủy diệt Nếu như họ không giết lẫn nhau trước Đây là thế giới của các Grisha, gián điệp, tù nhân, thiên tài tội phạm - với những cuộc đào thoát không tưởng. *** Hồi kết của series Fantasy kịch tính MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN!! Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới. *** Bộ sách gồm có Móng Vuốt Quạ Đen:  Móng Vuốt Quạ Đen - Sáu Kẻ Bất Hảo - Tập 1 Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4 *** INEJ Khi đêm xuống, khu vực kho bãi của Ketterdam dường như lột xác và khoác lên mình một hình hài mới. Những dãy nhà lụp xụp ở rìa phía đông nhộn nhịp hẳn lên, trong khi những con phố của nó lại trở thành chốn không người, chỉ được lui tới bởi các vệ quân đang canh gác và những thị tuần đi làm nhiệm vụ. Inej và Nina neo thuyền tại con kênh chính rộng lớn chạy ngang qua trung tâm của khu vực, trước khi đi xuôi theo bờ kè yên tĩnh, nép sát vào các dãy nhà kho và tránh xa những ngọn đèn đường nằm dọc bờ nước. Hai người đi ngang qua những con thuyền đầy ắp gỗ xẻ và các sà lan chở đống than đá cao ngất. Chốc chốc họ lại thấy những người đàn ông làm lụng dưới ánh đèn lồng, nhấc bổng những thùng rượu rum hoặc kiện bông vải. Người ta không thể bỏ mặc những thứ hàng hoá có giá trị như vậy suốt cả đêm. Khi đi đến gần Bãi Ngọt, họ thấy hai người đàn ông dỡ thứ gì đó từ một xe hàng lớn đậu bên cạnh con kênh, dưới ánh sáng xanh lét của một ngọn đèn độc nhất. “Đèn tử thi đấy,” Inej thì thầm, và Nina rùng mình. Những ngọn đèn xương được làm từ xương nghiền của những loài cá biển sâu cho ánh sáng xanh lục, còn đèn tử thi thì cháy bằng nhiên liệu khác, nó toả ra thứ ánh sáng xanh lam đáng sợ, cho phép người ta nhận ra những chiếc sà lan chở xác của các đạo tì. “Đạo tì làm gì ở khu Nhà kho này?” “Người ta không muốn thấy các thi thể trên đường phố hay dưới dòng kênh. Khu vực kho bãi gần như vắng bóng người vào ban đêm, do vậy đây là nơi bọn họ mang các thi hài đến. Sau khi mặt trời lặn, họ đi thu gom xác chết và đưa đến đây. Đạo tì làm việc theo ca và theo khu phố. Họ sẽ rời đi vào lúc trời sáng, cùng với chuyến hàng của mình.” Ra đảo Tử Thần để hoả thiêu. “Sao họ không xây một nghĩa trang tử tế?” Nina hỏi. “Hết đất rồi. Em nghe nói từng có bàn luận về việc mở cửa lại Mạng Đen cách đây khá lâu, nhưng tất cả đều chấm dứt khi trận dịch Thị Nữ bùng lên. Mọi người quá sợ bị lây bệnh. Nếu gia đình có điều kiện, họ sẽ đưa chị đến một nghĩa trang hoặc nghĩa địa bên ngoài Ketterdam. Còn nếu không thì…” “Không ai đổ lệ,” Nina nghiêm giọng. Không đổ lệ, không quan tài. Một cách khác để chúc may mắn. Nhưng nó còn mang một ý khác. Một cái nháy mắt rầu rĩ với viễn cảnh sẽ không có đám ma tốn kém chờ đợi những người như họ, không một tấm bia đá để ghi nhớ tên tuổi, cũng chẳng có vòng hoa tang nào dành cho họ. Inej đi trước khi họ tới gần Bãi Ngọt. Những ngọn tháp xi-lô đáng sợ to lớn như các vị thần canh gác, được trang trí bằng chiếc lá nguyệt quế đỏ của công ty Van Eck. Chẳng bao lâu nữa, mọi người sẽ biết biểu tượng đó mang nghĩa gì: sự hèn hạ và dối trá. Cụm tháp xi-lô của Van Eck được bao quanh bởi một hàng rào cao bằng sắt. “Dây thép gai,” Nina lưu ý. “Không thành vấn đề.” Nó được sáng chế để giữ cho gia súc ở yên trong chuồng. Nó sẽ không làm khó được Bóng Ma. Hai người nấp quan sát bên một bức tường gạch đỏ vững chắc của một nhà kho, chờ đợi để xác nhận lịch trình của các vệ quân chưa thay đổi. Đúng như Kaz đã nói, đám lính gác mất gần mười hai phút để đi tuần trọn một vòng rào. Khi bọn họ ở phía đông của khu đất, Inej sẽ có khoảng sáu phút để vượt qua hàng rào. Khi đi sang phía tây, các vệ quân sẽ rất dễ dàng phát hiện Inej nếu cô đang đi trên sợi dây căng giữa các xi-lô, nhưng gần như không thể phát hiện được nếu cô ở trên mái. Trong sáu phút đó, Inej sẽ phải xoay sở để đưa mọt hạt vào trong xi-lô, rồi tháo sợi dây. Nếu có mất nhiều thời gian hơn sáu phút, cô sẽ phải đợi đám lính gác đi khuất. Cô sẽ không thể quan sát được bọn họ, nhưng Nina có một cái đèn xương trong tay. Chị sẽ ra hiệu bằng một tia sáng xanh khi cô có thể băng từ tháp này sang tháp kia một cách an toàn. “Mười xi-lô,” Inej lên tiếng. “Chín lần đi dây.” “Nhìn gần mới thấy chúng cao hơn ta tưởng rất nhiều,” Nina nói. “Em có sẵn sàng làm chuyện này không?” Sự đáng sợ của chúng đúng là không thể chối cãi. “Dù núi có cao đến mấy thì việc trèo lên cũng như nhau cả thôi.” “Về kĩ thuật mà nói thì không hẳn thế. Em cần dây thừng, móc…” “Chị đừng có giống như anh Matthias.” Nina hoảng hốt đưa tay bịt miệng. “Chị sẽ ăn gấp đôi bánh ngọt để quên chuyện này.” Inej gật gù. “Nghe hay đấy.” Tốp tuần tra lại lên đường sau khi đi qua chốt gác. “Inej,” Nina vội nói, “em nên biết điều này, năng lực của chị không còn như trước nữa, kể từ lúc dùng parem. Nếu chúng ta phải chiến đấu…” “Đêm nay thì không. Chúng ta phải hành động như những bóng ma.” Inej siết vai Nina. “Và em không biết chiến binh nào quả cảm hơn chị, dù có hay không có năng lực Grisha.” “Nhưng…” “Nina, đám vệ quân.” Tốp tuần tra đã khuất dạng. Nếu không hành động ngay bây giờ, hai người sẽ phải chờ đến vòng tuần tra kế tiếp và bị chậm so với kế hoạch. “Làm thôi,” Nina nói và tiến về phía chốt gác. Chỉ trong vài bước chân đưa chị vượt qua khoảng cách giữa nhà kho và mảng sáng bao trùm chốt gác, cung cách của Nina đã thay đổi hẳn. Inej không biết phải giải thích như thế nào, nhưng những bước chân của chị trở nên dè dặt hơn, đôi vai chị hơi chùng xuống. Chị dường như co rút lại. Nina không còn là một Grisha được huấn luyện bài bản nữa, chị đã trở thành một cô gái tị nạn căng thẳng, mong chờ một chút lòng thương. “Xin lỗi anh?” Nina nói với chất giọng đặc sệt âm sắc Ravka. Người vệ quân giương súng trong tư thế sẵn sàng, nhưng có vẻ chẳng mấy bận tâm. “Cô không nên ở đây vào ban đêm.” Nina khẽ nói gì đó và ngước đôi mắt to tròn màu lục lên nhìn anh ta. Inej không hiểu bằng cách nào chị có thể tỏ ra ngoan hiền đến thế. “Chuyện gì?” Người vệ quân hỏi và tiến lại gần hơn. Inej ra tay. Cô châm đoạn ngòi dài của quả bom sáng cỡ nhỏ mà Wylan đã đưa cho họ, rồi chạy tới hàng rào, cẩn thận tránh xa vùng ánh sáng, và lặng lẽ trèo lên. Cô gần như ở ngay sau lưng, phía trên đầu người vệ quân và Nina, cô có thể nghe thấy tiếng nói của hai người trong lúc dễ dàng luồn lách qua những vòng dây thép gai. “Tôi đến tìm việc,” Nina nói. “Sản xuất đường.” “Chúng tôi không làm đường ở đây mà chỉ trữ nó thôi. Cô sẽ phải đi tới một trong những xưởng luyện đường.” “Nhưng tôi cần việc làm.Tôi… tôi…” “Ồ, coi kìa, đừng khóc. Nào, nào.” Inej cố nén tiếng cười và khẽ khàng buông mình xuống mặt đất ở phía trong vòng rào. Cô có thể thấy những túi cát mà Kaz đã nhắc đến. Chúng được chất đống dựa vào bức tường phía sau của chốt gác. Cô cũng trông thấy một góc của tấm lưới mà anh định để cho cô sử dụng. “Cả… ờm… bạn trai cô cũng đang tìm việc à?” Tay vệ quân hỏi. “Tôi đâu có… Anh nói sao nhỉ? Bạn trai à?” Mời các bạn đón đọc Giang Hồ Hiểm Ác của tác giả Leigh Bardugo & Hoàng Anh (dịch).
Một Nụ Cười Nào Đó
Sau “Buồn ơi chào mi” vang dội rực rỡ, Françoise  Sagan cho ra mắt thuyết thứ hai “Một nụ cười nào đó” vào năm 1956, tiếp tục khẳng định tài năng và phong cách độc nhất vô nhị. Câu chuyện xoay quanh một cô sinh viên Luật đại học Sorbonne phải lòng một người đàn ông lớn tuổi đã có vợ, oái oăm thay lại là cậu ruột của người bạn trai. Một câu chuyện giản đơn, thậm chí là tầm thường với những nỗi buồn vặt vãnh, những ray rứt trẻ con, những nghi ngờ, khám phá về mặt tinh thần lẫn thể xác mà ở thời đại đó đã bị gán cho cái mác băng hoại đạo đức, khiêu dâm. Nhưng tiểu thuyết thứ hai này cho thấy một sự ngây thơ và dễ tổn thương mà “Buồn ơi chào mi” không có được. Hơn nữa, “Một nụ cười nào đó” đằm thắm hơn, cố chấp hơn với tình yêu  để rồi vỡ mộng hơn, nhưng là một vỡ mộng không tàn bạo mà dịu dàng như một bản nhạc. Nhân vật nam chính – một người đàn ông “mắt xám, trông mỏi mệt, gần như u buồn” – là người duy nhất làm cho cô gái hạnh phúc vì chỉ hai người họ mới giống nhau và chia sẻ cho nhau nỗi chán chường cố hữu của đời sống. Nhân vật nữ chính – trung tâm của cuộc tình tay tư – là một cô nàng vô ưu, lẳng lơ, có những lúc tự nhận bản thân vô sỉ, song từ đầu đến cuối luôn bị giày vò bởi nỗi cô đơn của một đời sống vô vị và nhàm chán. Mối quan hệ lén lút giữa Dominique và Luc sẽ không khiến hai người phải ray rứt và khổ đau như họ đã cảm thấy nếu, Françoise – vợ Luc không tỏ ra là một người phụ nữ ấm áp, dịu dàng và từ ái. Françoise luôn đối xử với Dominique như một người mẹ thương con, bởi vì bà cho rằng cô sinh viên ấy cùng một bản chất với chồng bà: họ là những kẻ có đôi chút bất hạnh cần được vỗ về. Ở cuối tác phẩm, Francoise vẫn không đổi thay trong lối cư xử và trong tình cảm với tình địch dù đã biết câu chuyện dan díu, nhưng chỉ bằng một câu nói, bà đã đập tan cái cố chấp của cô gái trẻ, khiến cô không còn gì ngoài tan nát… *** Một nụ cười nào đó – Françoise Sagan Một chút nỗi buồn cũng đáng giá hơn cả vạn niềm vui, bởi nó đọng lại, day dứt, dằn vặt con người ta quá nhiều, quá sức khủng khiếp. Sagan khi chỉ mới là nàng thiếu nữ chưa trải hết mọi sự đời đã kịp nắm bắt, rồi mô tả lại từng đường nét của nỗi buồn ấy một cách tinh tế và tỉ mỉ nhất có thể. Nếu trong tác phẩm đầu tay Buồn ơi chào mi gây chấn động văn đàn Pháp của mình, Sagan để cô tiểu thư mục ruỗng Cecile gọi tên nỗi buồn khá muộn màng thì tới cuốn sách thứ hai, ra đời chỉ hai năm sau đó, nỗi buồn một lần nữa quấn quýt không rời khỏi từng câu chữ, những lúc Dominique ngơ ngẩn, những khi cô ngắm nhìn mọi thứ xung quanh, những thứ không hề khơi gợi trong cô xúc cảm mãnh liệt nào, hay thậm chí cả tận khi cô khao khát được hồi đáp tình cảm từ nhân tình, người đàn ông với đôi mắt xám u buồn đã gây ấn tượng cho cô ngay buổi đầu gặp gỡ. Chưa từng có phút giây nào nỗi buồn không hiện diện trên trang giấy. Thậm chí tới hình hài của từng nhân vật cũng nhòa dần đi theo cảm giác buồn nản chán chường nhàn nhạt ấy. Ta chỉ còn mơ hồ nhận ra, Dominique hời hợt và dễ dãi, Luc già dặn và dịu dàng, Francoise lại quá đỗi đôn hậu cùng khoan dung, Bertrand tuy đôi phần xốc nổi nhưng vẫn khá rộng lượng. Các nhân vật của Sagan quẩn quanh trong một vòng tròn vốn đã mục ruỗng từ lâu, nơi mỗi cá nhân từ phóng khoáng tới phóng túng, hoặc hiền hòa tới đáng thương. *** TRỌN BUỔI CHIỀU CHÚNG TÔI NGỒI TRONG một quán cà phê đường Saint-Jacques, một buổi chiều mùa xuân như mọi buổi chiều khác. Tôi cảm thấy hơi buồn, buồn một cách khiêm tốn. Tôi đi đi lại lại từ chỗ để cái máy quay dĩa hát đến cửa sổ trong lúc Bertrand đang bàn cãi bài giảng của Spire. Tôi nhớ có một lúc, đứng tựa máy hát, tôi nhìn cái đĩa hát được từ từ nâng lên đến nằm nghiêng bên cây kim “xa-phia”, âu yếm tựa như ta áp má vào một ai. Và, không hiểu tại sao, lúc đó lòng tôi dạt dào hạnh phúc, tôi có trực giác tràn trề một ngày nào đó tôi sẽ chết, bàn tay tôi không còn đặt trên cái cạnh tủ mạ kền nầy nữa, mắt tôi không còn đựng ánh mặt trời. Tôi quay về phía Bertrand. Anh nhìn tôi, và khi thấy tôi mỉm cười anh đứng lên. Anh không chịu được sự tôi sung sướng riêng rẽ một mình, lúc nào cũng phải có anh bên cạnh. Những phút vui sướng của tôi phải chỉ là những lúc cần thiết cho cuộc sống tay đôi của chúng tôi. Điều này tôi cũng đã biết mập mờ từ lâu, nhưng hôm đó nghĩ tới, tôi không chịu được nên quay mặt chỗ khác. Dương cầm bắt đầu chơi bản Lone and Sweet, tiếng kèn cla-ri-nét tiếp sức tiếng đàn, tôi biết rõ từng hơi thổi một. Tôi gặp Bertrand trong mùa thi năm ngoái. Chúng tôi sống cạnh nhau trọn một tuần, cả hai cùng âu lo hồi hộp, sau đó tôi về nghỉ hè tại nhà ba má tôi. Đêm chót, khi chia tay, anh hôn tôi. Rồi anh gởi thư cho tôi. Ban đầu trong thư anh chỉ nói lơ là. Nhưng về sau, giọng thư đổi khác. Tôi theo dõi sự thay đổi đó của anh mà lòng không khỏi run, thành thử khi anh viết : “Tôi thấy sự tỏ tình nầy buồn cười, nhưng có lẽ tôi đã yêu em”, thì tôi có thể trả lời anh cũng bằng một giọng như thế, rất thành thật, không dối trá chút nào : “Sự tỏ tình của anh buồn cười đó, nhưng em cũng yêu anh”. Câu trả lời nầy đến với tôi một cách tự nhiên, hay nói đúng hơn đến với tôi như một tiếng vang. Vườn của ba má tôi nằm trên bờ sông Yonne, ở đó không có gì thú vị để tôi tiêu khiển. Tôi đi xuống bờ sông, nhìn những đám rong vàng uốn mình trên mặt nước rồi nhặt những miếng đá mỏng màu đen ném cho bay lướt trên mặt sông như một bầy chim én. Suốt mùa hè đó, tôi thì thầm gọi tên Bertrand và miên man nghĩ đến tương lai. Kể ra tôi cũng thích cái lối yêu nhau và viết cho nhau như thế. Bây giờ thì Bertrand đang đứng sau tôi. Anh đưa cho tôi cái ly đang uống, lúc quay lại người tôi sát vào người anh. Anh hay làm mặt giận khi thấy tôi tỏ ý lơ đãng không chú ý đến những cuộc thảo luận giữa anh và các bạn anh. Tuy thích đọc nhưng tôi lại không ưa bàn cãi văn chương. Anh không quen được với cái tánh đó của tôi. Anh nói : - Lúc nào em cũng cho nghe điệu nhạc cũ nầy. Nhưng không hiểu sao, anh lại thích. Em có thấy thế không. Câu chót nầy anh nói bằng một giọng bình thản làm tôi nhớ lại lúc mới quen nhau lần đầu hai đứa chúng tôi đã ngồi cạnh nhau để nghe cái đĩa đó. Bao giờ tôi cũng tìm thấy ở Bertrand những lối bộc lộ tình cảm kín đáo như thế, những cái mốc đánh dấu mối tình của chúng tôi, những cái mốc mà hiện giờ tôi không còn nhớ nữa. Đột nhiên tôi nghĩ : “Đối với mình Bertrand nào có nghĩa gì. Mình chán anh ta, mình dửng dưng với mọi sự; mình không là gì, hoàn toàn không là gì cả”. Rồi cũng chính cái cảm giác vô lý nầy đã xâm chiếm trọn tôi. Bertrand nói : - Anh phải đến thăm cậu anh, ông cậu giang hồ. Em đi với anh không ? Nói xong anh quay đi trước và tôi lẽo đẽo theo sau. Tôi không quen ông cậu Bertrand và cũng không muốn quen với ông ta. Nhưng trong tôi có một cái gì thúc giục tôi đi theo sau mớ tóc cắt gọn ghẽ của một chàng trai, có một cái gì khiến tôi hóa ra thụ động để ai muốn dắt đi đâu cũng được mà không cưỡng lại bao giờ. Có những ý nghĩ vụn vặt, lạnh buốt, trơn như những con cá nhỏ len lỏi trong đầu tôi. Lúc đó tôi cảm thấy mến Bertrand lạ. Hai đứa chúng tôi đi dài theo con đường lớn trong thành phố. Bước chân hai đứa ăn nhịp nhau không khác gì xác thịt hai đứa trong những đêm hai đứa yêu nhau. Bertrand cầm tay tôi. Chúng tôi hợp thành một cặp nhân tình mảnh mai, dễ yêu, giống như những cặp nhân tình trong tranh vẽ. Suốt lúc đi trên con đường lớn và suốt lúc đứng trên chiếc xe buýt đưa Bertrand và tôi đến gặp ông cậu giang hồ tôi thấy yêu Bertrand hết sức. Xe xóc, làm tôi ngả vào mình anh, anh cười, choàng tay qua lưng tôi ra dáng che chở. Tôi dựa vào áo anh, nép sát vào vai anh, đôi vai đàn ông cứng cáp rất tiện cho tôi ngả đầu vào. Tôi hít mùi thơm của người anh, mùi quen thuộc, mùi thơm đó làm tôi cảm động. Bertrand là mối tình thứ nhất của đời tôi. Nhờ anh tôi mới biết được mùi thơm của chính người tôi. Bao giờ cũng thế, phải nhờ đến thân thể của một người khác mình mới khám phá được thân thể của chính mình, khám phá cả chiều dài, cả mùi thơm của thân thể đó. Ban đầu với đôi chút ngờ vực, về sau với tất cả sự biết ơn. Bertrand đem những chuyện về ông cậu ra kể cho tôi nghe, coi bộ anh không ưa ông cậu anh cho lắm. Anh kể những chuyện buồn cười đã xảy ra trong cuộc đời rày đây mai đó của cậu anh. Bertrand có một tật xấu : anh thích moi móc những tấn hài kịch xảy ra trong đời thiên hạ đến nỗi lúc nào anh cũng hồi hộp e có ngày thiên hạ sẽ nhìn thấy được những khía cạnh mà anh không ngờ là có thể lố bịch của đời anh. Tôi thường chế nhạo anh về điểm nầy khiến anh nổi khùng vì tôi không ít. Ông cậu Bertrand ngồi chờ Bertrand dưới mái hiên một quán cà phê. Thoạt trông thấy ông ta tôi bảo ngay với Bertrand là ông ta có một bộ dáng không đến nỗi nào. Lúc chúng tôi đến gần ông kéo ghế đứng lên, Bertrand giới thiệu : - Cháu đến với một cô bạn, cô Dominique. Còn đây cậu Luc, ông cậu giang hồ. Tôi ngạc nhiên một cách thích thú. Tôi nói thầm : “Có thể lắm. Đúng là dáng điệu một nhà đại giang hồ”. Ông ta có đôi mắt màu nâu, một vẻ vừa buồn vừa mệt mỏi. Tóm lại, có thể nói ông ta khá đẹp trai. Bertrand hỏi : - Chuyến đi vừa rồi của cậu ra sao ? Vui chớ ? - Chán chết được. Đến Boston lại phải giải quyết một vụ thừa kế rất lôi thôi. Đi đâu cũng gặp toàn những loại thầy cãi gàn đến cái mực chết người. Chán lắm. Còn cháu ? Bertrand đáp : - Hai tháng nữa là bọn nầy thi cử đến nơi. Anh nhấn mạnh khi nói hai chữ “bọn nầy”. Chính điểm đó đã khiến các cô cậu sinh viên Sorbonne cảm thấy gần nhau như vợ với chồng. Họ nói đến thi cử âu yếm như nói đến một đứa con nhỏ. Ông cậu quay nhìn tôi : - Còn cô, cô cũng thi nữa chớ ? Tôi trả lời mơ hồ : - Dạ.
Thằng Pele Bà Chiểu
Lê và Hoàng tần ngần trước một quán ăn… Chúng nó nhìn bảng giá ghi ở ngoài: “Bún bò Huế: 4.000 đồng - 5.000 đồng/tô - Hủ tiếu 5.000 đồng”… Lê quay sang Hoàng: – Tao còn đúng năm ngàn, mày còn bao nhiêu? Thằng Hoàng lục túi, đếm đi đếm lại, rồi giao cho thằng Lê: – Còn đúng bốn ngàn. Đôi mắt Lê sáng lên: – Thế là tao và mày đủ tiền mua hai đứa hai tô bún bò, còn một ngàn uống trà đá, vừa đẹp. – Lỡ họ ghi như vậy , mà bán cao hơn thì tiền đâu mà trả… tao đã bị một lần rồi… Ớn lắm. – Thì mình hỏi kỹ rồi mới ăn. Lê và Hoàng rụt rè bước vào quán, hai đứa khép nép ngồi vào chiếc bàn cạnh cửa… Bà chủ quán nhìn hai đứa, đôi mắt dò xét: – Hai đứa bay có tiền không mà vào đây? – Bác bán cho tụi cháu hai tô bún, mỗi tô bốn ngàn đồng… – Có chắc tụi bay có tiền không, hay ăn xong rồi bỏ chạy. Thằng Lê lôi tiền trong bọc ra, đếm đủ tám ngàn, rồi giao cho bà chủ quán: – Tụi cháu còn một ngàn, bác bán cho hai ly trà đá. – Trà đá thì ly nhỏ thôi đấy nhé. – Dạ. Bấy giờ là một trưa mùa hè… Suốt buổi sáng hai đứa cùng nhóm bạn khu phố tập dượt bóng đá ở một sân nhỏ gần trụ sở khu phố. Chỉ còn một tuần nữa, đội bóng thiếu nhi khu phố A sẽ gặp đội bóng thiếu nhi khu phố B để chọn cầu thủ cho đội bóng thiếu nhi Phường tranh giải đội bóng vô địch thiếu nhi Quận. Trong đội bóng chỉ có Lê và Hoàng là nghèo nhất. Lê sống với bà ngoại sau khi mẹ đi lấy chồng khác. Lê chưa bao giờ gặp cha… Theo lời bà ngoại kể, cha Lê là một ông Mỹ đen, làm hãng thầu của Mỹ tại Sài Gòn, cha Lê về Mỹ khi Lê còn nằm trong bụng mẹ… Ngày Lê chào đời, Sài Gòn giải phóng đúng một tháng… Ngày Lê lên năm, mẹ Lê gởi Lê cho bà ngoại rồi về Đà Nẵng… Một năm sau mẹ Lê có gia đình khác… Mười năm rồi Lê sống trong tình thương của bà ngoại. Mẹ Lê là con đầu. Lê còn một người cậu làm công nhân cao su ở Sông Bé, đã lập gia đình. Hai bà cháu sống trong căn nhà nhỏ trong hẻm. Một khoảng đất rộng không quá mười mét vuông trở thành địa điểm bán cà phê vợt buổi sáng. Từ bốn giờ sáng. Lê thức dậy để đun nước sôi, dọn hàng… Năm giờ thức ngoại dậy, hai bà cháu mở quán bán cho bà con lao động trong xóm khoảng tám giờ thì nghỉ. Đến trưa, sau khi ăn cơm xong, Lê ghé nhà chú Mẫn - thầu vé số - nhận một xấp vé số đi bán dạo. Mỗi ngày nếu bán hết tiền lời chỉ đủ mua gạo trong ngày cho hai bà cháu. Buổi tối Lê học bổ túc văn hóa ở trường cấp hai gần khu phố. Còn Hoàng, mẹ nó mất sớm, ở với cha… Hai cha con sống với gia đình nội, cha Hoàng làm nghề thợ điện cho một xí nghiệp ở Biên Hòa. Sáng đi thật sớm, tối mới về. Hoàng cũng đi bán vé số như Lê và học cùng lớp bảy bổ túc văn hóa như Lê. Trưa nay, bà ngoại Lê đi ăn giỗ, bà nội Hoàng bệnh, hai đứa có dịp ăn quán với số tiền eo hẹp. Thằng Lê ăn rất khỏe, ăn xong tô bún vẫn muốn ăn thêm nữa, nhưng không còn tiền, thằng Hoàng nhìn bạn, nó hiểu những mong ước của Lê. – Để hôm nào kiếm được nhiều tiền hai đứa đi xuống tiệm bà Ba Huế ăn bún bò Huế cho đã… – Thôi, có tiền mua đôi giày Bata để đá banh. – Mày khỏi mua, tao nghe nói bác Hai trưởng khu phố sẽ sắm cho mỗi đứa một đôi. – Tiền đâu mà mua ? – Nghe nói khu phố có quỹ do bà con đóng góp. – Lê, giá mà mười một đứa đều có giày Bata đá thì hay quá. – Tao không thích giày, chỉ thích có áo đồng phục thôi. Chớ không lý khi ra đá, mặc áo mai-dô không giống ai… nhiều khi phải cởi trần để khỏi lầm với đội bóng của tụi khu phố khác. – Bữa nào đá với tụi kia, thằng Minh sắp tao đi hàng giữa, còn mày đi hàng trên nhưng hai đứa đều góc mặt. – Mày có cái tật hay lừa, có banh là tìm cách giao ngay tao sút mới ăn được, mày lừa lên đến gần gôn mà sút khó ăn lắm. Câu chuyện bóng đá trên bàn ăn kéo dài hơn nửa tiếng, nếu bà chủ không nhắc khéo, có lẽ chúng ngồi còn lâu hơn nữa. Hai đứa chia tay nhau tại hẻm phố. Lê về đến nhà, bà ngoại vẫn chưa về. Căn nhà tôn vào trưa quá nóng, hình như bao nhiêu sức nóng của mặt trời trút hết xuống mái tôn nhà nó. Nóng quá không chịu nổi, Lê cởi trần nằm trên sàn nhà. Nó nhớ lại một lần ghé nhà thằng Minh cũng vào một buổi trưa, ngôi nhà mát rượi, nền gạch, phòng nào cũng có quạt, quạt trần, quạt đứng, nghĩ đến mà thèm. Nó mơ ước có tiền để mua một cái quạt cũ. Tội nghiệp cho ngoại, buổi trưa nào ngoại cũng chịu cực với cái nóng nung người như thế này… Nó ít khi có mặt buổi trưa, giờ đó nó đi lòng vòng vào các quán cà phê mời khách mua vé số. Đến ba giờ, bán không hết vé, phải đem trả lại cho đại lý, nếu ham lời bán rán thêm, bán không hết chỉ còn khóc vì lỗ. Lê không dám chơi liều, thà lời ít chắc ăn hơn. Có hôm, bán hết, trên đường về Lê ghé ngang tiệm bánh mua gói kẹo nhỏ cho bà ngoại - loại kẹo chanh - để bà ngậm lúc ho. Tuổi già sức yếu, nhiều đêm ngoại ho sặc sụa. Những lần như thế, Lê đến bên ngoại, đỡ ngoại dậy,vuốt ngực cho ngoại, mếu máo: “Ngày mai ngoại nghỉ bán, ngoại đi khám bác sĩ, ngoại mà chết bỏ con ai nuôi”. Những lần đó Lê nghĩ đến mẹ, người mẹ mà mỗi năm nó chỉ gặp một lần, vào ngày giỗ ông ngoại nó . Sáng nay, cả đội bóng tập dợt đến trưa, Lê nghỉ không bán vé số, thế là tiền thu nhập hôm nay giảm đi. May mà hai hôm trước cậu Ba nó ở Sông Bé về mang theo một bao gạo và đưa cho ngoại nó số tiền vài chục ngàn, hai bà cháu cũng đỡ lo cảnh bữa đói bữa no… Chưa bao giờ thằng Lê cảm thấy thích thú như sáng nay. Trong số những người uống cà phê có chú Nhân vừa ở xa về, sau hai năm ra miền Trung làm ăn. Điều Lê thích nhất là được nghe chú Nhân kể chuyện bóng đá và đánh quyền Anh. Qua lời kể, chú đã từng đá cho đội tuyển hạng A ở Đà Nẵng và cũng từng lên đài tranh giải vô địch. Nghe chú Nhân trò chuyện với bác Năm, vừa phụ bán cà phê Lê vừa mơ ước một ngày kia sẽ được như chú Nhân. Chú kể lại lần đội bóng đá của chú thi đấu với một đội bóng đá tỉnh khác. Hai bên huề nhau sau chín mươi phút thi đấu, phải đá thêm giờ. Chính chú là người ghi bàn ở phút thứ một trăm mười chín. Nếu không nhờ chú, có lẽ hai đội bóng phải đá luân lưu, phạt đền và chưa chắc đội chú thắng. Trận đó, đội chú được vào bán kết bóng đá khu vực miền Trung. Câu chuyện nghe hấp dẫn quá… Khi quán chỉ còn lại chú Nhân, Lê ngồi bên chú nghe chú kể tiếp về trận đấu quyền Anh, mà chú đã thắng sau năm hiệp đấu. – Cháu biết không, sau bốn hiệp đối thủ của chú vẫn chưa thấm đòn mặc dù chú đấm nhiều quả trúng đích, nhưng anh ta khỏe lắm. – Ở hiệp năm làm sao chú thắng được? Chắc chú có bùa? Nghe Lê nói, chú Nhân cười lớn: – Cái thằng này không biết gì về võ cả, làm gì có bùa. Đấu võ hơn nhau ở sức và cả trí nữa. – Thế sao con nghe nói đấu võ tự do, có nhiều người có bùa ngải nên đánh mấy cũng không bị hạ mà bất thình lình đánh lại một cú bên kia thua. – Cháu nghe họ đồn tầm bậy… Đấu võ là sự thi thố giữa tài năng, giữa cái nhanh nhẹn, sức vóc. – Cháu hiểu rồi, thế chú kể cháu nghe trận chú thắng đi. – A, cái trận đó chú phải dùng trí, qua hiệp năm chú chuyển về thủ, ông kia cứ tấn công, chú đỡ… Thình lình, chú phản công bằng một cú đia-réc, đánh ngay vào mặt thật mạnh, ông kia nằm lăn cù, bị nốc ao, thế là chú thắng. – Đia-réc, nốc ao là sao hả chú? – Đia-réc là trực tiếp, nốc-ao là đo ván. – Đo ván là sao chú? – Cái thằng này, thắc mắc quá, thôi được, để chú giảng cho cháu nghe. Đo ván là đối thủ nằm ngay đơ không dậy nổi để đấu tiếp. Nghe chú Nhân giải thích, Lê phục chú Nhân quá. Nó nhìn kỹ chú Nhân, thấy chú to quá, bàn tay rắn chắc, nó tưởng tượng nếu chú Nhân đấm nó một quả, chắc nó đi chầu trời. Như chợt nhớ ra điều gì, Lê hỏi chú Nhân: – Chú vào ở đây luôn hay lại ra Đà Nẵng? – Chú vào chơi vài tháng rồi lại ra. – Thế chú có còn đá cho đội bóng hạng A ngoài đó không? – Chú nghỉ đá vì hơn ba mươi tuổi, chạy không được nhanh . – Còn đấu quyền Anh thì sao chú? – Thỉnh thoảng chú cũng lên đài, nhưng không còn chuyên như trước nữa. – Những chuyện chú kể là xảy ra năm nào? – Mới năm ngoái thôi. – Ước gì năm ngoái cháu ở Đà Nẵng xem chú đá bóng và đấu quyền Anh… À, có chuyện này hay lắm… Ở khu phố tụi cháu có lập đội bóng để chuẩn bị đấu với khu phố khác, nếu chú rảnh chú tập cho tụi cháu. Chú Nhân cười: – Hôm qua, bác Hai trưởng khu phố có nói chuyện đó với chú, nhưng chú vào đây bận chuyện làm ăn. Chú chỉ dám hứa sẽ dành một buổi chiều tập cho các cháu trước khi thi đấu với khu phố B. – Thích quá, thế hôm nào chú? – Nghe bác Hai nói, chủ nhật các cháu thi đấu, chú sẽ luyện cho các cháu vào chiều thứ bảy. Hôm nay thứ năm, vậy là ngày mốt, chú sẽ tập cho các cháu. – Thích quá, cháu thương chú quá… Thôi, chú khỏi trả tiền cà phê. – Tầm bậy, để chú trả, quán cháu nghèo ai lại nỡ uống không trả tiền. – Nhưng nghe chú kể nãy giờ cháu thích quá, cháu xin đãi chú một ly cà phê. – Cháu có lòng tốt, chú cám ơn, nhưng để dịp khác. Cháu tính tiền đi chú còn phải về. Khi chú Nhân ra khỏi quán, Lê vẫn nhìn theo với cái nhìn kính phục, nó ước ao chú Nhân sẽ vào Sài Gòn hoài để được nghe chú Nhân kể chuyện, để nhờ chú huấn luyện cho đội bóng thiếu nhi khu phố. Cái tin chú Nhân sẽ huấn luyện cho đội bóng khu phố trước khi ra quân được Lê loan đi rất nhanh. Ngay hôm đó cả đội bóng mười một cầu thủ nhóc đều hay tin. Trên đường đi bán vé số, Lê đã ghé ngang nhà các bạn để thông báo tin tức quan trọng này. Đứa nào cũng mừng rơn, riêng thằng Minh vẻ mặt quan trọng: – Để tao đề nghị chú Nhân chỉ tụi mình vài ngón đặc biệt… Tao nhờ chú chỉ cách huấn luyện để tao huấn luyện tụi bay. Còn thằng Phan thủ môn thì hỏi Lê: – Liệu chú Nhân có biết giữ gôn không? Lê làm ra vẻ thành thạo: – Đá banh cỡ Quốc tế như chú Nhân cái gì cũng phải biết, không giỏi thì cũng phải khá. – Mày có chắc không? – Tao đọc trong báo, tao thấy mấy cầu thủ giỏi quốc tế đá vai nào cũng được. – Chưa chắc đâu con, nhưng để hôm nào hỏi thì biết. Ngày mong đợi đã đến, trên một sân cỏ ở sau ngôi trường cấp hai của phường, chú Nhân hướng dẫn đội bóng thiếu nhi khu phố. Cả đội rất phấn khởi. Mới đầu chú hướng dẫn cách chạy, từ chạy nước rút đến chạy hàng ngang, rồi đến bài học giao bóng, sút bóng… Chú vừa giảng vừa biểu diễn, cả đội nhìn chú với đôi mắt thán phục. Riêng về vai trò thủ môn, chú hướng dẫn thằng Phan cách đón bóng, cách ra vào đúng lúc để khỏi bị hố. Chú lại chỉ cách té. Một giờ tập dợt trôi qua, mười một cầu thủ nhóc cảm thấy khoái chú Nhân. Thằng Minh chạy ra quán mua một chai nước ngọt có đá mời chú. Nó có vẻ hãnh diện với đám bạn khi chú Nhân vừa cầm ly nước vừa xoa đầu nó: – Ừ, thằng này ngoan quá, tướng cháu làm thủ quân được đấy. Thằng Phan chen vào: – Chú thấy cháu giữ gôn có được không? – Cháu còn yếu điểm là bắt bóng bay chưa chắc, nhưng nếu cố gắng cháu sẽ khá. Lê hỏi chú Nhân: – Sao hồi trước chú không giữ gôn mà đi hàng trên? Chú Nhân cười, nhìn đám học trò mới của mình, chú nói: – Ừ thì khi mới đá bóng ai cũng khoái giữ gôn vì giữ gôn dễ nổi bật giữa sân cỏ… Nhưng mỗi người có một khiếu riêng… Với chú, mới đầu chú cũng giữ gôn như cháu Phan, nhưng sau đó chú được chuyển lên đá hàng trên, khi thì đá hàng giữa, khi thì đá góc, khi thì trung phong… Thằng Hùng lùn suốt buổi tập dợt không nói một tiếng, im lặng nhìn chú Nhân với cái nhìn thán phục, bây giờ mới lên tiếng: – Thưa chú, theo chú trong đội bóng vai trò nào quan trọng nhất? – Vai trò nào cũng quan trọng ngang nhau cả, hàng trên hay nhưng hàng giữa yếu thì sẽ không nhận được bóng để sút, hàng giữa hay mà hàng dưới yếu thì đối phương sẽ tha hồ làm mưa làm gió. Thằng Minh muốn tỏ cho đám bạn biết mình cũng thạo về bóng đá, nó cãi lại chú Nhân: – Theo cháu, hai người quan trọng nhất đó là trung phong và thủ môn. Thủ môn hay có thể cứu thua các bàn trông thấy. Trung phong giỏi có thể lật ngược thế cờ… Nghe Minh nói, chú Nhân gật gù: – Cháu Minh giỏi lắm, cháu nhận xét đúng nhưng không hẳn hoàn toàn như thế, trong một đội bóng có mười một người đều như nhau vẫn mạnh hơn một đội bóng có trung phong giỏi, thủ môn khá còn các vai khác yếu. Cuộc tranh luận bóng đá kéo dài hơn nửa tiếng, nếu chú Nhân không ngăn lại có thể sẽ tranh luận đến tối. – Thôi nhé, chiều mai chúc các cháu đá tốt và thắng lợi. Nghe chú Nhân nói thế, cả độ nhao nhao: – Ngày mai chú nhớ đến, nhất định ngày mai chú phải có mặt… – Cám ơn các cháu, nhưng ngày mai chú phải về Vũng Tàu có việc nhà, chú tin các cháu sẽ giành thắng lợi trước đội bạn. Chúc các cháu thắng. Sáng chủ nhật, cả đội bóng tập dượt dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên “Minh lùn”. Khi sắp xếp lại đội hình, Minh lùn điều Lê từ hàng giữa về vị trí hậu vệ, đổi thằng Hòa mắt lồi thay Lê ở tuyến giữa. Hoà rất thích vị trí mới, nhưng Lê nhăn nhó: – Tao đi giữa quen rồi, đổi vậy khó đá lắm. Hòa mắt lồi nhìn Lê từ đầu đến chân, rồi nói: – Huấn luyện viên Minh lùn sắp mày đúng quá, mày cao lều khều, đá hàng dưới thì được, còn hàng giữa chưa được banh chắc sẽ té. Lê nổi quạu: – Sao mày dám chê tao, mày cũng như tao, mày hơn gì tao? – Nhưng tao đá vai nào cũng được… đáng lý mày cũng không được đá nữa, mày vào sân chỉ làm trò cười cho tụi nó. Lê sấn đến ngay trước mặt Hòa: – Mày nói sao, tại sao mày dám nói tao vào sân thì làm trò cười cho thiên hạ. Hòa cười ngạo mạn: – Mày là thằng Mỹ đen lọt vô đội bóng không giống ai. Cả đội cười ồ lên khi nghe Hòa nói, chỉ có Hoàng là lặng thinh, chúng nó tàn nhẫn với Lê quá. Chưa buông tha. Hòa còn nói tiếp: – Cái thứ Mỹ đen cho đi chỗ khác chơi là vừa. Một cú đấm ngay vào mặt Hòa, nó ngã xuống chưa kịp đứng dậy đã bị Lê bồi tiếp một cú nữa… Hoàng ôm chặt lấy Lê, kéo nó đi sang nơi khác. Lê vùng ra khỏi tay Hoàng: – Tao không chịu nổi nữa rồi, nó còn nói tao là Mỹ đen tao đánh cho nó một trận nên thân. Hòa lủi thủi đứng dậy, nhìn Lê với đôi mắt thù hận, nó nói trong nước mắt: – Để rồi mày coi, mày nhớ đó, mày đánh tao, rồi có ngày mày lãnh đủ… – Mày đừng dọa tao, tao cóc sợ thằng nào. Minh lùn làm thủ quân, nãy giờ chứng kiến màn giao đấu giữa hai võ sĩ nhóc, bây giờ lên tiếng: – Thôi, tao can tụi bây, hai đứa tụi bây đều ẩu cả, thằng Hòa chọc thằng Lê quá, không được. Còn thằng Lê cũng quá nóng, tụi bây đi quá mức, tao cúp, không cho hai đứa đá nữa, tao cho hai đứa trong hẻm nhà tao đá thay, hai đứa nó mới dọn về đây, trước đá cho đội banh trường Cửu Long. Lời dọa của Minh có kết quả ngay, cả Hòa lẫn Lê đều im thin thít, có lẽ chúng sợ thằng Minh loại hai đứa ra khỏi đội bóng thì uổng công tập dượt, và ước mơ trở thành các siêu sao khu phố Bà Chiểu cũng tan theo mây khói… Thôi nhịn là ăn tiền, đợi đá xong rồi hãy tính. Đội bóng tan hàng trong nỗi ấm ức của Lê, của Hòa, trong nỗi buồn và lòng thương bạn của Hoàng… Hoàng và Lê về sau cùng. Trên đường về, Lê phân trần: – Không phải tao ỷ to con hơn thằng Hòa mà đánh nó, nhưng nó nói tao là Mỹ đen, tao tức lắm. – Mày giận nó không đúng, thằng Hòa hay nói ẩu, đứa nào cũng biết, mày đánh nó lỡ tay, nó bị gì là mày phải bồi thường, phải đi ở tù, lấy ai giúp bà ngoại mầy? – Tao cũng biết tao nóng, nhưng nó làm nhục tao, tao phải đánh nó. Chia tay với Hoàng. Lê về đến nhà thì đã gần mười một giờ. Vừa đến sân, Lê đã thấy bà ngoại đợi sẵn: – Nãy giờ ngoại trông con về để ngoại lên thăm cậu Minh, cậu bị bệnh nằm nhà thương. Lê giật mình: – Ngoại nói sao? Cậu Minh bị bệnh, có nặng không ngoại? – Nghe nói cậu bị ung thư, bệnh không chữa được. Ngoại để sẵn cơm ở nồi, ăn xong trông nhà, đừng đi đâu, khoảng hai ba giờ ngoại về. Mời các bạn đón đọc Thằng Pele Bà Chiểu của tác giả Thương Ánh.