Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Án Mạng Mười Một Chữ

Tình cờ phát hiện những điều bất thường sau cái chết thảm khốc của người yêu, nhân vật “tôi”, một nữ nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám đã cùng bạn mình, Hagio Fuyuko, cũng là biên tập viên phụ trách sách của “tôi” quyết định điều tra về cái chết này. Trong quá trình điều tra hai người phát hiện người yêu của “tôi” đã từng gặp tai nạn lật thuyền trong chuyến du lịch đảo một năm trước. Và khi họ tìm tới những người cũng tham gia chuyến đi đó để tìm hiểu thì những người này cũng lần lượt bị sát hại. Cuối cùng “tôi” buộc phải tự mình phán đoán, điều tra để tìm ra chân tướng sự việc. Án mạng mười một chữ cũng đã được chuyển thể thành phim truyền hình vào năm 2011. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Review Mọt Mọt:   Án mạng mười một chữ: Higashino Keigo – Những kẻ vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ Khi một vụ án chẳng ai là người trong sạch. Khi tình bạn bị lợi dụng cho mục đích cá nhân. Khi sự thật được phơi bày khiến tất cả đều thương tổn. Bên tình, bên lý, biết chọn bên nào? Án mạng mười một chữ, nỗi đau quá khứ, kéo dài tới hiện tại, lạnh lùng, tàn nhẫn mà đắng cay, chua chát. Cuốn tiểu thuyết mang âm hưởng của trinh thám cổ điển Ra đời vào năm 1987, có thể nói, Án mạng mười một chữ được Higashino Keigo xây dựng rất khác so với các tác phẩm sau này: ngắn gọn, súc tích, tập trung nhiều hơn về mặt tình tiết, quá trình điều tra, phá án. Từ đấy, ông đã đưa sáng tác tiến gần hơn với thể trinh thám cổ điển. Xét về mặt dung lượng, tiểu thuyết Án mạng mười một chữ chỉ gói gọn trong 258 trang truyện, ngắn hơn nhiều khi đặt cạnh hàng loạt các tác phẩm về sau của Keigo-sensei như Bí mật của Naoko, Đơn phương, Bạch dạ hành hay Phương trình hạ chí… Bởi thế, dòng sự kiện của tác phẩm được chú trọng vào cốt truyện chính: quá trình một nhà văn chuyên viết truyện trinh thám đi tìm lời giải đáp cho cái chết đầy bí ẩn của người đàn ông cô yêu. Và trong quá trình đó, cô gái ấy khám phá ra hàng loạt bí ẩn cả trong quá khứ lẫn hiện tại, cả các bí mật về những con người cô vốn không quen biết tới người bạn cô vốn tưởng đã rất thân quen. Từ đấy, Keigo tiên sinh tạo lên kết cấu truyện lồng truyện, sự việc này nối tiếp, là nhân quả cho sự việc kia: Bí ẩn hôm nay, liên đới với cái chết năm xưa; hành động trả thù cho quá khứ, làm nên án mạng trong hiện tại. Một khía cạnh nữa khiến cho Án mạng mười một chữ trở lên gần gũi với các tác phẩm trinh thám cổ điển còn nằm ở yếu tố: Keigo-sensei đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng tình tiết và tạo dựng những cuộc đối thoại, tương tác giữa các nhân vật. Nói như thế không có nghĩa Án mạng mười một chữ thiếu đi các phân cảnh miêu tả nội tâm hay sự biến đổi tâm trạng nhân vật. Vẫn có những day dứt, những hối hận, những mệt mỏi, những sợ hãi… của một con người theo đuổi đến cùng hai chữ chân lý, của một cô gái lần đầu vướng vào những bí ẩn liên hoàn đã cướp đi người đàn ông cô yêu, người bạn thân của cô, thậm chí bản thân cô thiếu chút nữa cũng đã mất mạng. Nhưng trong cuốn sách 258 chương, tình tiết liên tiếp, dồn dập diễn ra; cùng với đó là bản thân nhân vật tôi gặp gỡ hàng loạt nhân vật khác, những người liên đới trực tiếp tới vụ án; vì thế tần suất của các cuộc đối thoại cũng trở nên dày đặc. Không chỉ vậy, trong Án mạng mười một chữ, tác giả còn kết hợp sử dụng nhiều câu văn ngắn, điều đó càng góp phần đẩy mạnh nhịp truyện cũng như tiến trình sự kiện diễn ra nhanh hơn nữa. Nhưng tất cả, đều nằm trong một trục quá trình: Hành trình tìm kiếm sự thật của nữ nhà văn viết truyện trinh thám, đang tự đặt mình vào vai thám tử trong câu chuyện cuộc đời của chính cô. Đồng thời, tác giả cũng khước từ việc gắn Án mạng mười một chữ với những vấn đề quá mức đao to búa lớn trong xã hội. Cho nên tác phẩm dẫu mang hình thức truyện lồng truyện, một án mạng không đứng độc lập mà luôn gắn với bí ẩn phía sau – động cơ gây án của hung thủ và án mạng có thể tiếp nối án mạng mãi chẳng dừng nếu hận thù con người chẳng dứt thì cốt truyện của Án mạng mười một chữ vẫn rất gọn. Từ đó mà làm cho cuốn tiểu thuyết trở nên gần gũi hơn với trinh thám cổ điển. Những kẻ, vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ. Mặc dù mang nội dung, cốt truyện và cách triển khai cốt truyện gần với trinh thám cổ điển thì Án mạng mười một chữ vẫn là một tác phẩm trinh thám chứa đựng những yếu tố trinh thám hiện đại do Higashino Keigo sáng tạo lên. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm – xưng tôi, tự kể lại trải nghiệm của bản thân về vụ án, về quá trình cô điều tra, phá án để đi tới được ánh sáng ẩn sau bức màn. Nhưng nhân vật ấy lại không phải thám tử hay điều tra viên chuyên nghiệp. Cô chỉ là một nhà văn tự do viết tiểu thuyết trinh thám mà thôi. Vì thế bản thân cô hẳn chưa khi nào tưởng tượng tới việc chính mình lại trở thành nhân vật chính cho tấn bi kịch kéo dài với đủ plot twist như một cuốn truyện trinh thám như vậy. Cũng bởi không phải người điều tra chuyên nghiệp, tiếp cận vụ án với tâm thế của người đến sau, bị động nên “tôi” không tránh khỏi những hành động, suy đoán có phần nghiệp dư, nhẹ dạ, thậm chí ngây thơ. Và đây hoàn toàn là tâm lý tự nhiên của con người khi phải ứng phó với một hoàn cảnh bất ngờ, khi phải đối diện trước sự phức tạp của sự việc lẫn lòng người như thế. Sáng tạo lên một nhân vật chuyên sáng tác trinh thám đồng thời đặt nhân vật đó một tác phẩm trinh thám để giải quyết vụ án chính nhân vật vướng phải, đây vừa là sáng tạo, cũng vừa là cách thức Keigo-sensei phần nào tái hiện hiện thực: sự khác biệt rất lớn giữa đời sống với trang văn. Bên cạnh đó, ngoài hình thức truyện lồng truyện, Án mạng mười một chữ còn mang kết cấu đa thanh, đa bội ngôi kể, đa dạng điểm nhìn ở từng chương truyện. Đó là sự đan xen của bốn màn độc thoại ngắn vào mạch truyện chính. Ở đó, người độc thoại không phải nhân vật “tôi” – nữ nhà văn trinh thám mà là một “tôi” khác, theo sát bước chân nhân vật chính đồng thời tham gia trực tiếp vào hàng loạt vụ án mạng trong hiện tại. Tất nhiên, nếu độc giả là một người đã quá quen thuộc với dòng truyện trinh thám thì không thật khó khăn để biết được, tôi trong bốn màn độc thoại ngắn kia là ai. Nhưng sáng tạo lên một cái “tôi” bí ẩn, Keigo-sensei đã tạo lên tính phức hợp, phức điệu cho cuốn tiểu thuyết chỉ hơn 200 trang của ông. Ở đấy, có sự đa thanh của lời kể, đặt độc giả vào những dòng tự sự khác nhau, qua những điểm nhìn khác nhau để từ đó, người đọc có được cái nhìn tổng quan, toàn diện, đa chiều về hệ thống nhân vật cũng như toàn bộ câu chuyện ông xây dựng. Để từ đó, người đọc nhận ra, Án mạng mười một chữ gần gũi với trinh thám cổ điển, cũng dễ đoán biết hung thủ của những vụ án liên hoàn là ai, song đây không phải một cuốn tiểu thuyết được tạo dựng lên một cách đơn giản. Mà trong câu chuyện đó, trong tấn bi kịch kéo dài mãi từ quá khứ cho tới hiện tại và có thể vẫn tiếp nối tới tương lai, là muôn vàn gương mặt: vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ, không ai hoàn toàn trong sạch song cũng không ai lại đáng trách hoàn toàn. Kẻ là nạn nhân hôm nay, trong quá khứ khi xưa đã từng là hung thủ của một vụ ám sát đầy tàn độc. Hung thủ trong hiện tại, lại là nạn nhân của bi kịch quá khứ. Nạn nhân trong quá khứ, phần nào lại trở thành hung thủ khi đặt trên sự phán xét của khía cạnh đạo đức. Kẻ như đứng sau tất cả bi kịch, lại bỗng trở thành nạn nhân nếu toàn bộ sự thật bị phơi bày… Ai cũng có động cơ riêng, ai cũng có nỗi khổ tâm riêng đẩy người ta vướng vào tội ác. Xây dựng lên những khuôn mặt đó, Keigo-sensei lần nữa, đưa tác phẩm của ông tiến gần tới hiện thực cuộc sống. Bởi cuộc sống đa diện và phức tạp, phải – trái, trắng – đen, đúng – sai,… vốn đâu thể lúc nào cũng có thể phân định rạch ròi. Vì thế, sự thật vốn được giấu trong chiếc hộp Pandora, khi người ta nhất quyết khai mở, chạm vào đó chỉ là nghiệt ngã, khổ đau, day dứt. Và con người, đứng trước hiện thực tàn nhẫn, chỉ có thể lựa chọn cách giải quyết để xoa dịu tâm hồn, để bản thân không phải hối hận về sau. Giống như một phương trình có vô số nghiệm, người ta chỉ có thể lựa chọn nghiệm tối ưu cho cuộc đời mà thôi. Và ở khía cạnh này, Higashino Keigo đã gặp gỡ tác giả Agatha Christie, khi bà viết lên Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông cũng với những gương mặt vừa là hung thủ, vừa là nạn nhân như vậy. Nhưng với lối tạo dựng cốt truyện, cách tạo dựng hệ thống nhân vật và khắc họa từng cá nhân, mỗi cái “tôi” khác nhau mà Keigo-sensei đã tạo lên Án mạng mười một chữ thật sự là của riêng bản thân ông, một tác phẩm, vừa cổ điển cũng vừa hiện đại. Dẫu sự thật ra sao, cuộc sống vẫn tiếp tục chảy trôi không ngừng. Có lẽ, cách kết truyện của Án mạng mười một chữ với một hiện thực phơi bày: ai cũng là nạn nhân, ai cũng là hung thủ và chẳng kẻ nào phải trả giá trước pháp luật là một cái kết khó chiều lòng tất cả độc giả, đặc biệt những ai muốn có sự rạch ròi, muốn kiếm tìm sự trắng – đen phân minh trong một tác phẩm trinh thám. Nhưng như đã nói, cuộc đời vốn không phải lúc nào cũng thể phân rõ phải – trái, đúng – sai và dẫu sự thật có ra sao, người ta chọn cách sống thế nào, thì thời gian vẫn tiếp tục chảy trôi, cuộc đời vẫn tiếp tục diễn tiến và con người vẫn phải tiếp tục hướng đến tương lai. Chỉ là, hận thù chắc chắn không thể giải quyết bằng hận thù, kéo dài đau thương, bi kịch chỉ khiến cho tâm hồn thơ dại, trong sáng của những đứa trẻ vô tội như cô bé Yumi càng thêm đau khổ mà thôi. Vậy tại sao, mỗi người không buông bỏ thù hằn, như nhân vật “tôi”, đã chấp nhận sự phức tạp của cuộc đời để có thể đối diện với tương lai bằng thái độ bình thản nhất: “Nhưng từ giờ mọi chuyện ra sao cũng được, tôi sẵn sàng đón nhận. Vì tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Dù ngày mai có xảy ra chuyện gì, thì hôm nay cứ đi ngủ cái đã.” *** Anh đang bị đưa vào tầm ngắm đấy.” Anh nghiêng ly rượu bourbon. Những viên đá trong ly lanh canh nhảy múa. “Bị đưa vào tầm ngắm?” Nghĩ anh đang đùa, tôi nhếch môi cười, hỏi lại. “Nhưng cái gì… bị ngắm cơ?” “Tính mạng anh.” Anh trả lời. “Hình như ai đó đang muốn giết anh.” Tôi vẫn cười. “Tại sao người đó lại muốn giết anh?” “À thì…” Anh im lặng chốc lát rồi tiếp tục. “Anh cũng không biết. Tại sao vậy nhỉ?” Giọng anh nặng nề quá đâm tôi không cười nổi nữa. Ngắm nghía khuôn mặt nhìn nghiêng của anh một hồi, tôi quay qua nhìn gương mặt người pha chế đang đứng quầy, rồi nhìn lại tay mình. “Tức là anh không biết tại sao, nhưng linh cảm thế à?” “Không chỉ linh cảm thôi đâu.” Anh nói. “Anh đang gặp nguy hiểm thật đấy.” Rồi anh gọi thêm một ly bourbon nữa. Tôi nhìn quanh, để chắc chắn không ai để ý, rồi mới quay sang gương mặt nhìn nghiêng của anh, cất lời: “Anh có thể giải thích rõ hơn được không? Rốt cuộc đã có chuyện gì?” “Thì đấy…” Anh uống cạn ly rượu, rồi châm lửa hút thuốc. “Anh đang gặp nguy hiểm. Vậy thôi.” Rồi anh nói khẽ: “Anh cũng thật là… Không định nói với em, mà lại lỡ lời. Chắc do ảnh hưởng của câu chuyện hồi trưa.” “Chuyện hồi trưa?” “Không có gì đâu,” anh lắc đầu. “Nói chung em không cần biết chuyện này.” Tôi chăm chú nhìn cái ly trong tay mình. “Vì em có biết cũng chẳng giải quyết được gì à?” “Không chỉ vì mỗi lý do đó.” Anh nói. “Em biết chỉ thêm lo thôi. Trong khi nỗi bất an của anh thì vẫn còn đó.” Tôi không đáp lại lời anh, chỉ bắt tréo hai chân đang để dưới quầy. “Này, tức là ai đó đang muốn hãm hại anh à?” “Ừ, cứ cho là vậy đi.” “Anh có thấy gì khả nghi không?” “Em hỏi lạ quá!” Lần đầu tiên anh bật cười kể từ lúc bước vào quán bar này. Làn khói màu trắng bồng bềnh phả ra từ kẽ răng. “Em nghĩ có ai đang yên đang lành lại kêu tính mạng mình đang bị đe dọa không? Em thì sao?” “Ừ thì…” tôi ngập ngừng. “Có thể không mà cũng có thể có. Vì em nghĩ chủ ý sát nhân xét cho cùng cũng giống với quan điểm sống thôi.” “Anh cũng nghĩ vậy.” Anh khẽ gật đầu. “Vậy là anh thấy gì đó khả nghi đúng không?” “Không phải tự mãn đâu, nhưng anh tìm được manh mối ở nhiều việc lắm.” “Nhưng anh lại không thể nói ra.” “Vì anh có cảm giác nếu nói ra rồi, thì những hoài nghi ấy sẽ trở thành sự thực.” Rồi anh tiếp. “Anh nhát gan lắm.” Sau đó chúng tôi im lặng ngồi uống rượu, đến khi mệt rồi thì đặt ly xuống, rời khỏi quán, thả bộ trên con đường mưa rơi. _Anh nhát gan lắm._ Tôi vẫn nhớ lời sau cùng của anh. 2 Tôi quen Kawadu Masayuki qua sự giới thiệu của một người bạn. Người bạn đó biên tập sách của tôi, tên Hagio Fuyuko. Fuyuko bằng tuổi tôi, là người phụ nữ chỉ biết đến công việc, và làm ở nhà xuất bản đã gần mười năm nay. Cô luôn đóng bộ áo vest đĩnh đạc như phụ nữ nước Anh, bước đi đầy tự tin. Tôi chơi với cô từ khi bước vào giới này, thấm thoắt cũng đã được ba năm. Nhưng khoảng hai tháng gần đây, một Fuyuko như thế bỗng nhiên lại hăng say bàn tán chuyện đàn ông nhiều hơn là bản thảo. Đúng cái hôm có thông báo quần đảo Amami sắp bước vào mùa mưa. “Tớ biết một anh chàng tuyệt lắm.” Cô nói với gương mặt nghiêm túc. “Một nhà văn tự do tên là Kawadu Masayuki. Cậu biết anh ấy không?” Tôi trả lời là không biết. Tên người cùng ngành lắm lúc tôi còn chẳng biết. Huống chi mấy nhà văn tự do. Theo lời Fuyuko kể thì anh Kawadu Masayuki đó sắp ra sách, và họ đã dần trở nên thân thiết sau vài lần tình cờ cùng tham gia mấy buổi họp xuất bản. “Anh ấy cao, đẹp trai lắm.” “Ừ.” Fuyuko mà lại nói về đàn ông cơ đấy, thật hiếm hoi làm sao. “Tớ thật muốn gặp người được Fuyuko khen hết lời như vậy một lần.” Nghe tôi nói, cô cười đáp: “Ừ, vậy để lần tới nhé.” Tôi chỉ tiện miệng nói chơi, mà hình như cô cũng chẳng cho là thật. Thế nên chẳng bao lâu sau tôi đã quên béng mất lời hẹn như mấy câu chuyện làm quà khác ấy. Nhưng sau đó vài tuần, rốt cuộc tôi cũng gặp Kawadu Masayuki. Anh tình cờ có mặt trong quán bar tôi đến cùng Fuyuko. Cùng đi với anh là một họa sĩ to béo đang mở triển lãm cá nhân tại Ginza. Kawadu Masayuki quả là một người đàn ông bảnh bao. Anh cao khoảng một mét tám, gương mặt thon gọn, rám nắng. Chiếc áo jacket màu trắng trông thật hợp với anh. Vừa nhìn thấy Fuyuko, anh liền vẫy cánh tay đang đặt trên mặt quầy gọi. Fuyuko thoải mái bắt chuyện với anh, rồi giới thiệu tôi. Đúng như tôi dự đoán, anh chưa từng nghe đến tên tôi. Kể cả khi nghe giới thiệu tôi là nhà văn viết truyện trinh thám, anh cũng chỉ gật đầu như thể đang bối rối. Hầu hết mọi người đều có phản ứng tương tự khi nghe tôi giới thiệu như vậy. Sau đó, cũng tại quán bar ấy, chúng tôi trò chuyện một lúc lâu. Giờ ngẫm lại, tôi vẫn thấy lạ, không hiểu sao chúng tôi có thể nói chuyện lâu đến vậy. Tôi cũng không nhớ nổi chúng tôi đã nói những gì với nhau. Trừ một việc là sau cuộc nói chuyện đó, chỉ có tôi và Kawadu Masayuki rời khỏi quán. Chúng tôi đi đến một quán khác, rồi rời đi sau khoảng một tiếng đồng hồ. Tôi hơi say, nhưng chưa tới mức cần anh đưa về. Mà anh cũng không gượng ép đề nghị. Ba ngày sau, anh gọi điện, mời tôi đi ăn. Tôi không có lý do nào để từ chối, sự thực thì anh là một người đàn ông không tồi, nên tôi cũng chẳng mấy do dự, cứ thế nhận lời. “Tiểu thuyết trinh thám hay ở điểm nào vậy?” Anh hỏi khi chúng tôi đang nhâm nhi chút rượu vang ở nhà hàng trong khách sạn. Tôi không nghĩ ngợi gì, chỉ máy móc lắc đầu. “Nghĩa là cô không biết?” anh hỏi. “Tôi mà biết thì sách của tôi đã bán chạy hơn rồi,” tôi đáp. “Thế anh nghĩ nó hay ở điểm nào?” Anh vừa gãi gãi mũi vừa nói, “Hay ở điểm người ta đã tạo ra nó chăng?” “Những vụ án trong đời thực nhiều khi không phân định rạch rời trắng đen. Ranh giới giữa cái đúng và cái sai rất mơ hồ. Vậy nên dù vấn đề được đặt ra rồi, nhưng người ta lại không thể mong chờ một kết luận tương xứng. Bởi vì nó chỉ là một phần của cái gì đó lớn lao mà thôi. Nhưng ở điểm đó thì tiểu thuyết lại làm trọn vẹn. Đó là một dạng kết cấu. Và tiểu thuyết trinh thám chẳng phải là thể loại kỳ công nhất trong việc xây dựng kết cấu đó hay sao?” “Có lẽ là vậy,” tôi nói. “Anh đã bao giờ phải trăn trở trước ranh giới giữa cái đúng và cái sai chưa?” “Có chứ.” Anh nhếch môi. Tôi nghĩ anh không nói dối. “Rồi anh có đem nỗi trăn trở ấy viết vào sách không?” “Cũng có,” anh đáp. “Nhưng phần lớn là tôi không thể làm được.” “Tại sao lại không thể?” “Vì nhiều lý do lắm.” Gương mặt anh hơi khó chịu, nhưng chỉ một loáng sau anh đã lấy lại vẻ hiền lành vốn có, và rồi bắt đầu nói về tranh vẽ. Tối hôm đó anh đến căn hộ của tôi. Căn hộ vẫn còn vương lại mùi của người chồng cũ. Thoạt đầu trông anh có vẻ hơi lúng túng nhưng chỉ một lát sau anh lập tức quen ngay. “Anh ấy từng là nhà báo,” tôi nói về chồng cũ. “Anh ấy hiếm khi ở nhà. Rồi rốt cuộc cũng chẳng còn lý do nào để trở về ngôi nhà này nữa.” “Và thế là anh ta không quay lại đây nữa?” “Vâng.” Trên chiếc giường chồng cũ từng ôm ấp tôi, Kawadu Masayuki đã cho tôi những khoái cảm dịu dàng hơn rất nhiều so với người chồng cũ. Làm tình xong, anh còn vòng tay ôm vai tôi, đề nghị, “Lần sau em đến chỗ anh nhé?” Chúng tôi gặp nhau khoảng một, hai lần một tuần. Hầu hết là anh đến chỗ tôi, nhưng cũng đôi khi tôi tới nhà anh. Anh độc thân, hình như cũng chưa từng kết hôn, vậy mà phòng ốc lại ngăn nắp như thể phòng của người đã lập gia đình. Tới mức tôi còn tưởng tượng hay là có ai đó dọn dẹp phòng giúp anh? Rồi chẳng mấy sau đó, mối quan hệ của chúng tôi bị Fuyuko phát hiện. Số là Fuyuko đến chỗ tôi lấy bản thảo đúng lúc anh đang có mặt ở đó, nên tôi không thể bịa ra được lý do nào để giải thích. Mà thật ra tôi cũng đâu cần phải giải thích điều gì. “Cậu yêu anh ta à?” Fuyuko hỏi lúc chỉ có hai người chúng tôi. “Tớ thích anh ấy,” tôi trả lời. “Thế cậu có định kết hôn không đấy?” “Làm gì có chuyện.” “Vậy à.” Fuyuko thở phào như trút được gánh nặng, đôi môi khẽ nở một nụ cười duyên dáng. “Thấy hai người thân thiết, người bắc cầu như tớ đây cũng vui lắm. Nhưng cậu đừng sa đà quá. Cứ duy trì mối quan hệ như hiện tại thôi.” “Không sao đâu. Tớ đã có bài học nhớ đời rồi mà,” tôi nói. Rồi hai tháng trôi qua. Mối quan hệ giữa tôi và Kawadu Masayuki vẫn được duy trì đúng mực như lời hứa với Fuyuko. Ngay cả hồi tháng Sáu, khi chúng tôi đi du lịch cùng nhau, may thay anh cũng không đả động gì tới chuyện kết hôn. Bằng không hẳn tôi phải bối rối lắm. Nhưng nghĩ lại, dẫu anh có nhắc đến chuyện kết hôn thì cũng chẳng có gì là lạ. Anh đã ba mươi tư tuổi, tính chuyện lập gia đình cũng là lẽ đương nhiên. Hay là anh cũng đang cố duy trì một mức độ nhất định nào đó trong mối quan hệ với tôi? Nhưng nếu cứ mải bận tâm đến điều đó e là tôi sẽ làm mất đi ý nghĩa của mối quan hệ này mất. Thế rồi khi chúng tôi quen nhau được hai tháng. Thì Kawadu Masayuki chết ngoài biển. 3 Vào một ngày tháng Bảy, cảnh sát đến thông báo cho tôi về cái chết của anh. Anh ta điềm tĩnh, song vẻ ngoài tầm thường hơn nhiều so với những cảnh sát tôi vẽ ra trong tiểu thuyết của mình. Có thể dùng từ “có sức thuyết phục” để miêu tả về người này. “Sáng nay, người ta phát hiện một thi thể nổi trên vịnh Tokyo. Khi vớt thi thể ấy lên, từ di vật còn sót lại chúng tôi xác định đó là anh Kawadu Masayuki.” Vị cảnh sát nhỏ nhắn nhưng có vẻ khỏe mạnh gần bốn mươi tuổi thông báo. Bên cạnh anh ta là một cảnh sát trẻ khác. Anh này thì chỉ yên lặng đứng đấy. Tôi mất vài giây không thốt nên lời, sau đó nuốt nước bọt. “Vậy là các anh xác định được danh tính rồi ạ?” “Vâng,” vị cảnh sát thu cằm lại. “Nạn nhân quê ở Shizuoka. Em gái anh ta đã đến nhận dạng thi thể, ngoài ra chúng tôi cũng đã giám định răng và chụp X quang.” Rồi vị cảnh sát nhấn mạnh thêm, “Kết quả cho thấy đó là anh Kawadu Masayuki.” Thấy tôi vẫn im lặng, anh ta tiếp, “Có thể phiền cô bớt chút thời gian để chúng ta thong thả trao đổi không?” Cánh cửa trước sảnh ra vào vẫn đang mở. Tôi đề nghị họ đợi ở quán cà phê gần nhà, nghe vậy hai vị cảnh sát khẽ gật đầu rồi rời đi. Nhưng đến khi họ đi khuất, tôi vẫn đứng ở cái sảnh ấy, lơ đễnh nhìn ra bên ngoài, mãi sau mới thở dài, đóng cửa, đi về phòng ngủ, thay đồ để ra khỏi nhà. Đứng trước bàn trang điểm để tô chút son mà tôi như ngừng thở. Gương mặt phờ phạc của tôi phản chiếu trong tấm gương. Trông tôi có vẻ mệt mỏi ngay cả với việc biểu lộ cảm xúc. Tôi rời mắt khỏi cái gương, lấy lại nhịp thở, rồi nhìn lại khuôn mặt mình trong gương. Lần này có vẻ khá hơn rồi. Tôi gật gù hài lòng với biểu cảm ấy. Tôi thích anh ấy. Nhưng anh đã chết, tôi buồn là lẽ đương nhiên. Vài phút sau, tôi đã ngồi đối diện hai vị cảnh sát trong quán cà phê mình vẫn thường hay lui tới. Ở đây còn bán cả bánh ngọt nữa. Bánh ở đây tươi, vị ngọt thanh. “Anh ta bị sát hại,” vị cảnh sát nói như tuyên bố. Nhưng tôi không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Vì đó là lời mà tôi đã lường trước. “Anh ấy bị sát hại như nào vậy ạ?” tôi hỏi. “Cực kỳ khủng khiếp,” vị cảnh sát nhăn mặt. “Gáy bị đập mạnh bởi một vật cùn. Thi thể thì bị vứt lại bên cạnh vịnh. Chỏng chơ như rác.” Người yêu tôi đã bị người ta vứt ở đó như một đống rác. Vị cảnh sát ho một tiếng. Tôi ngẩng mặt lên. “Vậy nguyên nhân tử vong là do xuất huyết bên trong não hay là…?” “Không phải.” Anh ta ngắt lời, nhìn lại gương mặt tôi rồi nói tiếp. “Hiện tại chúng tôi chưa thể khẳng định chắc chắn điều gì. Tuy có dấu vết bị đập vào gáy, nhưng chừng nào chưa có kết quả giải phẫu thì tất cả chỉ là phỏng đoán.” “Vậy ạ?” Nghĩa là có khả năng anh ấy bị sát hại bằng một phương thức khác, nhưng sau đó hung thủ còn đập mạnh vào gáy và vứt anh đi ư? Nếu đúng như vậy, thì tại sao hung thủ phải tàn bạo đến mức đó? “Còn chuyện này…” Vị cảnh sát gọi tôi, chắc do thấy tôi lơ đễnh quá. “Hình như cô cũng gần gũi với anh Kawadu Masayuki nhỉ?” Tôi gật đầu. Chẳng có lý do gì để phủ nhận điều đó. “Cô là người yêu của anh ấy à?” “Tôi nghĩ vậy.” Vị cảnh sát hỏi quá trình chúng tôi gặp gỡ. Tôi trả lời thành thật. Tôi cũng sợ sẽ phiền đến Fuyuko nhưng cuối cùng vẫn nhắc đến tên cô. “Lần cuối cùng cô nói chuyện với anh Kawadu là khi nào?” Tôi suy nghĩ giây lát rồi trả lời. “Tối hôm kia. Anh ấy gọi tôi tới.” Chúng tôi dùng bữa ở nhà hàng, sau đó uống rượu ở quán bar. “Hai người đã nói những chuyện gì?” “Chúng tôi nói nhiều chuyện lắm… trong đó…” Tôi cúi mặt, mắt nhìn cái gạt tàn bằng thủy tinh. “Anh ấy có nói rằng mình đang bị ai đó nhắm.” “Bị nhắm sao?” “Vâng.” Tôi kể những điều mình đã nghe từ anh trong buổi tối hôm kia. Đôi mắt vị cảnh sát bỗng sáng lên lấp lánh. “Và anh Kawadu cũng thấy có điều gì khả nghi?” “Tôi không dám khẳng định.” Vì anh cũng không khẳng định chắc chắn điều đó. “Nhưng cô thì không thấy có gì khả nghi à?” Tôi gật đầu. “Vâng.” Sau đó vị cảnh sát hỏi về quan hệ bạn bè và công việc của anh. Tôi hầu như không biết gì. “Tiện đây xin hỏi tối qua cô đã ở đâu vậy ạ?” Câu hỏi cuối cùng của anh ta nhằm mục đích xác nhận chứng cứ ngoại phạm của tôi. Họ không hỏi thời gian cụ thể hẳn là do chưa xác định được thời gian tử vong chính xác. Nên dù tôi có đưa ra thời gian cụ thể thì cũng chẳng giúp ích gì cho chứng cứ ngoại phạm của mình cả. “Hôm qua tôi ở nhà cả ngày,” tôi trả lời. “Tôi làm việc.” “Nếu có ai làm chứng được cho cô thì tốt.” Vị cảnh sát ngước lên nhìn tôi với vẻ kẻ cả. “Tiếc là không có,” tôi lắc đầu. “Việc đó e là không thể. Vì tôi ở nhà một mình, cũng chẳng có ai đến chơi cả.” “Tiếc thật. Cuộc đời đúng là có nhiều chuyện đáng tiếc quá.” Sau đó vị cảnh sát xin lỗi vì đã làm phiền tôi rồi đứng dậy. Đúng như tôi đoán, chiều tối hôm đó Fuyuko tới. Cô thở gấp như thể đã chạy như bay đến nhà tôi vậy. Khi ấy tôi đã mở sẵn văn bản để soạn thảo, dù chưa đánh được chữ nào, và đang uống bia. Trước khi uống bia tôi đã khóc. Khóc mệt nên tôi mới uống bia. “Cậu nghe rồi chứ?” Vừa nhìn thấy tôi, Fuyuko lập tức hỏi. “Cảnh sát tới đây rồi,” tôi đáp. Cô có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng chấp nhận điều hiển nhiên ấy. “Cậu có thấy gì khả nghi không?” “Tớ không, chỉ biết là anh ấy bị người ta nhắm đến thôi.” Đôi mắt Fuyuko tròn xoe, miệng há hốc vì ngạc nhiên, tôi kể cho cô chuyện hôm kia. Cô ấy lắc đầu tiếc nuối y chang vị cảnh sát đó. “Chẳng nhẽ không có cách gì để ngăn chặn sao? Như là báo cảnh sát chẳng hạn.” “Tớ cũng không biết. Nhưng chắc anh ấy có lý do riêng nên mới không làm vậy.” Cô lại lắc đầu. “Vậy nghĩa là cậu không thấy có gì khả nghi à?’ “Không. Thật ra…” tôi ngập ngừng, rồi tiếp tục, “Tớ hầu như chẳng biết gì về anh ấy cả.” “Thế à?” Fuyuko nghe chừng thất vọng lắm. Biểu cảm của cô y hệt vị cảnh sát đến đây hồi trưa. “Từ nãy tới giờ tớ cứ nghĩ về anh ấy mãi,” tôi nói. “Nhưng mà tớ không biết gì cả. Có một đường kẻ được vạch ra giữa tớ và anh ấy, cả hai đều cố để không xâm phạm đường kẻ ấy. Mà vụ án lần này lại xảy ra bên vùng của anh ấy.” Tôi hỏi Fuyuko có muốn uống gì không, cô gật đầu nên tôi vào bếp mang bia ra. Giọng Fuyuko vang lên từ sau lưng tôi. “Trong số những chuyện anh ấy nói, có chuyện nào để lại ấn tượng với cậu không?” “Dạo gần đây bọn tớ không chuyện trò với nhau nhiều.” “Nhưng cũng phải nói chuyện gì chứ. Chẳng lẽ gặp nhau là lên giường ngay à?” “Cũng gần như là vậy đó,” tôi nói, má hơi rúm lại. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Mười Một Chữ của tác giả Higashino Keigo & Phương Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mê Cung Đỏ
Con người ta luôn luôn đòi hỏi những câu chuyện. Trong đó, câu chuyện miêu tả cái chết thường gây kích thích hơn cả. Anh thất nghiệp, lang thang tìm việc, đi phỏng vấn rồi một ngày nọ thức dậy ở nơi xa lạ. Khung cảnh kì quái với núi đá dày đặc những khía ngang thân, không gian thảy đều nhuốm đỏ, lửa đỏ, chiều đỏ, đất đỏ, đến núi đá cũng đỏ lòm. Từ máy trò chơi ai đó để sẵn bên cạnh, anh nhận được thông điệp, "Chào mừng đến với mê cung sao Hỏa. Những người đến đích và an toàn thoát khỏi mê cung sẽ nhận được tiền thưởng và trở về Trái Đất. Trò chơi bắt đầu!" Tin vui là không chỉ có mình anh gặp tình cảnh tương tự, còn tám người nữa cũng tỉnh dậy sau một giấc ngủ kì quặc và được đưa tới đây. Bọn họ bị cô lập giữa thiên nhiên hoang vắng này và muốn thoát ra, họ buộc phải tham gia trò chơi của kẻ giấu mặt. Ban đầu chẳng ai hay biết, muốn trở về được, họ phải tiêu diệt người chơi khác để bản thân trở thành kẻ duy nhất sống sót. Đáp án tàn khốc ấy sẽ từ từ hé lộ sau mỗi chặng hoàn thành nhiệm vụ. Trò chơi dần dần biến thành cuộc chiến sinh tồn, cuộc đuổi bắt giành giật sự sống, và cuối cùng đi đến nấc cao nhất trong cầu thang tiến hóa: giẫm lên xác đồng loại để sống, hi sinh mình cho người khác sự sống, hay đoàn kết với nhau để cùng được sống. Tất cả trông chờ vào tỉ lệ giữa lòng tin và nghi ngờ, bác ái và tàn nhẫn, vào sự lựa chọn của nhân cách con người… *** Review Mê Cung Đỏ - Kishi Yusuke Review của một bạn xin giấu tên về cuốn tiểu thuyết đã có mặt ở Việt Nam 2 năm tuổi rồi nhé :D Mê Cung Đỏ kể về câu chuyện của một người đàn ông tên là Fujiki, khoảng tầm 40 tuổi. Sau một khoảng thời gian trên đỉnh cao sự nghiệp, anh ta tụt dốc và bây giờ đang vật vờ khắp nơi. Nhưng rồi thật kỳ lạ, anh ta bị đưa đến một vùng mà không hề ai biết đến. Khung cảnh kì quái với núi đá dày đặc những khía ngang thân, không gian thảy đều nhuốm đỏ, lửa đỏ, chiều đỏ, đất đỏ, đến núi đá cũng đỏ lòm. Tất cả những gì anh biết là một máy trò chơi mà cho thông tin về trò chơi. "Chào mừng đến với mê cung sao Hỏa. Những người đến đích và an toàn thoát khỏi mê cung sẽ nhận được tiền thưởng và trở về Trái Đất. Trò chơi bắt đầu!" Thực chất đây là vùng Bungle Bungle ở Australia. Fujiki và 6 người chơi nữa cũng được đưa đến đây. Nhiệm vụ ban đầu dường như là chỉ cần đi đến hết các trạm kiểm soát là sẽ thắng. Nhưng càng về sau thì trò chơi càng khiến người chơi bộc lộ bản chất khi chính họ phải giết hại lẫn nhau để có thể sinh tồn được. Khi 7 người chơi gặp nhau ở trạm kiểm soát số 1, thì đã được chia làm bốn hướng, và mỗi hướng sẽ được cung cấp những thứ khác nhau, bao gồm dụng cụ phòng thân, thức ăn, vũ khí và thông tin. Vậy Fujiki sẽ chọn hướng nào, và liệu anh ấy có sinh tồn được không? Cuối cùng cá người chơi bước đến nấc cao nhất trong cầu thang tiến hóa: giẫm lên xác đồng loại để sống, hi sinh mình cho người khác sự sống, hay đoàn kết với nhau để cùng được sống. Tất cả trông chờ vào tỉ lệ giữa lòng tin và nghi ngờ, bác ái và tàn nhẫn, vào sự lựa chọn của nhân cách con người… Nếu đã đọc cuốn Nhà đen, đừng bỏ lỡ Mê Cung Đỏ nhé! ♥️ *** KISHI YUSUKE Sinh năm 1959 tại Osaka, tốt nghiệp khoa Kinh tế học Đại học Kyoto. Năm 1996, tác phẩm ISOLA - Nhân cách thứ 13 của ông đoạt giải xuất sắc Tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản. Sau đó, các tác phẩm khác của ông như: Nhà đen (1997), Búa thủy tinh (2004), Tân Thế Giới (2005), Giờ học của ác quỷ (2008) cũng lần lượt được nhận các giải thưởng văn học khác nhau. Một anh nọ làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ, chuyên môn thẩm định tiền bồi thường tử vong. Một ngày kia, anh ta được khách gọi đến tận tư gia, và bất ngờ trở thành người đầu tiên phát hiện ra thi thể treo cổ của đứa con trai nhà ấy. Qua thái độ của bố mẹ chúng, anh ngờ rằng đây không phải là tự tử, mà là giết con để lấy tiền bảo hiểm, nên khi đơn yêu cầu bồi thường được gửi tới, anh đã âm thầm tiến hành điều tra. Từ đó, ác mộng dồn dập tấn công cuộc sống của anh. Nỗi khủng hoảng triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn quanh nghi can sát nhân. Và hơn hết thảy, cái chết của những người vô tình hoặc cố ý đã nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Một truyện dài bất tận dẫn vào địa hạt của bất nhân và run rẩy… Nhà đen đoạt giải Nhất tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản năm 1997. *** Nhánh củi bùng lên trong ngọn lửa… Âm thanh đơn điệu, không theo bất cứ trật tự nào ấy cứ vang vọng trong đầu. Rồi nguồn gốc phát ra âm thanh từ từ di chuyển ra thế giới bên ngoài. Thang âm cao thêm một chút, kể cả tiếng vang và tiếng ồn nho nhỏ cũng trở nên rõ ràng, nghe chẳng khác gì âm thanh của đường rải lạo xạo trên mặt báo trải rộng. Không khí chạm vào da nóng ẩm, nhớp nháp. Thỉnh thoảng có cơn gió lạnh phả qua đầu, mang theo hơi nước rét buốt. Mũi ngửi thấy mùi đất ẩm. Ra là trời đang mưa… Cuối cùng, một ý nghĩ cũng hình thành trong cái đầu đang hỗn độn. Fujiki cố cử động thân thể khi nhận ra có gì đó là lạ. Sống lưng và vai có cảm giác cồm cộm, không giống với cảm giác nằm trên tấm đệm quen thuộc chẳng bao giờ gấp ở căn hộ chung cư tồi tàn. Có vẻ đêm qua anh đã trực tiếp ngủ trên nền đất ẩm, hơn nữa còn trên một mặt sỏi gồ ghề. Đây là đâu? Trong đầu chẳng có câu trả lời nào cho câu hỏi hiển nhiên ấy. Quả thật có mấy lần say túy lúy về được nhà, rồi sáng hôm sau cố thế nào cũng không nhớ nổi những chuyện xảy ra trong đêm trước, nhưng đây là lần đầu tiên anh không biết mình đang ở đâu. Có lẽ anh nên uống ít rượu lại. Anh tự biết mình không thể uống một cách vô độ như ngày xưa, cũng chẳng hề có ý định ganh đua với bóng dáng tuổi trẻ. Nhưng, cứ cho là say rượu đi chăng nữa, tình huống này… Fujiki từ từ mở mắt, cố gắng ngồi dậy. Cơn chóng mặt ập đến bất ngờ, mắt hoa lên khiến tầm nhìn càng lúc càng hẹp lại, cảnh vật xung quanh mờ dần đi. Anh lập tức nhắm mắt, đợi tuần hoàn máu phục hồi như cũ. Rốt cuộc thì chuyện gì đã xảy ra với anh? Cảm giác gần như hoảng loạn trào lên. Thân thể bải hoải, miệng khô khốc như vừa ốm dậy. Anh thử thè lưỡi ra liếm thì thấy môi nứt nẻ, nước bọt có vị đắng nghét tựa vị senburi*. Lạ thật. Trạng thái này không bình thường. Có chuyện gì đó đã xảy ra. Chắc chắn có một chuyện mà anh không ngờ tới đã xảy ra. Một loại thực vật của Nhật vị rất đắng, thuộc họ Long đởm, thường được dùng làm thuốc và trà. (Các chú thích trong sách đều của người dịch và Ban Biên tập tiếng Việt). Anh nơm nớp lo sợ, mở mắt ra lần nữa. Một thế giới nhuốm màu đỏ thẫm kì quặc xuất hiện trong tầm nhìn. Mọi thứ trông thật hư ảo qua màn mưa dày đặc. Chuyện quái gì thế này? Fujiki thẫn thờ nhìn chằm chằm vào cảnh tượng trước mắt. Đó là một nơi trông như hẻm núi, hai bên bị bó hẹp bởi hai vách đá hình thù quái dị. Chỗ anh đang nằm là một hốc đá lõm vào một bên vách, nhờ vậy mà anh không bị ướt mưa. Anh chưa từng thấy, cũng không thể tưởng tượng được rằng trên Trái Đất lại tồn tại một nơi có phong cảnh lạ lùng thế này. Đá kết thành từng cụm tròn nằm san sát với kích cỡ khác nhau, trông giống những sinh vật mọc thành chùm như nấm hay bí ngô hơn là những tảng đá vô tri vô giác. Màu và hoa văn của chúng lại càng kì lạ hơn. Tất cả núi đá trong tầm mắt anh đều có sắc đỏ thắm, lấp lánh dưới mưa. Trên bề mặt, các đường sọc ngang đen giống hệt nhau chẳng khác gì vòng tuổi của cây đại thụ, nhìn kĩ hơn một chút còn có thể thấy cả những họa tiết phức tạp hình thành từ vô số đường gân mảnh màu trắng. Anh không nghĩ mình đã hóa điên, bởi cảnh vật trước mắt quá sống động để có thể coi là ảo giác. Thính giác, thị giác, xúc giác đều đã chấp nhận hiện thực và liên tục truyền tải thông tin cho não bộ, chẳng qua nơi đó vẫn chưa thể cho ra một lời giải thích hợp lý nào. Fujiki bỗng thấy khát cháy cổ. Tuy tình huống khó tin hiện giờ khiến anh điên cả đầu, nhưng trước nhu cầu sinh lý của cơ thể, anh vẫn phải tạm thời dẹp nghi vấn sang một bên. Gần chỗ anh, trừ màn mưa mịt mùng ngoài kia ra, chẳng còn nơi nào có nước nữa cả. Ngay cả lúc phải vất vưởng ở khu Shinjuku, anh cũng chưa từng uống nước mưa, vì trong ấy thường hòa lẫn những chất bẩn gây ô nhiễm khí quyển nên tốt nhất là không uống. Có điều, lúc này không phải lúc để kén cá chọn canh. Anh vừa đứng dậy bằng đôi chân run lẩy bẩy thì lập tức mất thăng bằng, ngã chống tay xuống đất. Cảm giác có thứ gì đó chạm vào đầu ngón tay, anh nhìn xuống và thấy một bình đựng nước hình tròn, màu xanh lá cây. Ngoài ra, bên cạnh còn có một hộp đựng cơm màu đỏ để trong túi nhựa trong suốt và một cái túi nhỏ màu bạc. Thật lạ là đến tận bây giờ, anh mới nhận ra chúng nằm ở đấy. Bình nước nặng trịch. Anh mở nắp bình, thứ bên trong có vẻ là nước. Lý trí mách bảo Fujiki nên xác nhận tính an toàn của nó trước, song, anh chẳng còn đủ sức làm điều đó. Anh đưa lưỡi liếm thử miệng bình rồi bắt đầu tu ừng ực. Nước nặng mùi kim loại nhưng anh thấy ngon không sao tả được. Anh uống một mạch gần nửa bình, giữa chừng còn bị sặc hai, ba lần. Cơn khát vừa dịu đi, cảm giác đói bụng đã ập tới. Đầu óc choáng váng cho anh biết mình đang khẩn thiết cần bổ sung glucose. Sau khi có nước vào, dạ dày teo cứng bắt đầu hoạt động trở lại khiến anh có cảm giác sâu sắc rằng, hình như đã mấy ngày… không, phải một tuần rồi anh chưa được ăn gì. Fujiki lôi hộp đựng cơm từ túi nhựa ra, nhẹ nhàng mở nắp. Bên trong xếp đầy thực phẩm dinh dưỡng dạng thanh. Anh cầm lấy một thanh, do dự vài giây rồi cắn thử một góc. Chúng có vị như bột bánh quy, hình như đã nằm trong hộp khá lâu vì đã ỉu hết cả. Tuy vậy, anh vẫn cứ bốc từng thanh một lên ăn ngon lành. Đến lúc nhận ra thì anh đã ăn hết hàng đầu tiên rồi. Fujiki lập tức đếm số thanh còn lại, ba hàng, mỗi hàng tám thanh, tổng cộng là 24. Anh vội vã rụt tay về, trực giác cho rằng lúc vẫn chưa hiểu được chuyện gì đang xảy ra thì phần lương thực này rất quan trọng. Khi đầu óc tỉnh táo trở lại, Fujiki quan sát xung quanh thêm lần nữa, tự hỏi trước khi tới đây thì mình đã ở đâu. Anh vừa phóng tầm mắt ra xa vừa cố gắng khơi gợi lại kí ức. Trước lúc mất ý thức, nơi cuối cùng anh ở là… Anh có cảm tưởng như một phần nào đó trong kí ức của anh đang bị một màn sương mờ che phủ, cứ như thể đã bị cho uống thuốc gì đó, hoặc anh đã thực sự bị đánh thuốc. Anh nhớ rõ tên mình. Fujiki Yoshihiko. 40 tuổi. Cho đến năm ngoái, anh vẫn là nhân viên của một công ty chứng khoán lớn. Thời kì bong bóng là khoảng thời gian huy hoàng nhất của anh. Gần như đêm nào anh cũng đến Ginza, uống Moêt & Chandon hay Veuve Clicquot* bằng tiền của công ty và tự mãn trong tiếng nịnh nọt của các cô tiếp viên. “Giám đốc điều hành trẻ,” anh thấy sung sướng mỗi khi được gọi bằng cái hư danh ngu ngốc ấy. Thế nhưng, tất cả chỉ là ảo ảnh. Fujiki đã nhận ra điều đó sau khi công ty phá sản và bản thân trở thành một kẻ thất nghiệp. Cả hai đều là tên các nhãn hiệu Champagne nổi tiếng và lâu đời của Pháp. Từ tiểu học, cấp hai cho đến cấp ba, dù chưa từng dốc hết tâm sức cho việc học, anh cũng chưa từng bê trễ mà vẫn cần mẫn đi học thêm. Cuối cùng, bằng thành tích tầm trung, anh bước vào một trường đại học cũng tầm trung nốt. Vì thế, anh chẳng có gì đặc biệt để gợi nhớ về thời thanh xuân cả. Có điều, nhờ cái bằng đại học đó mà anh kiếm được việc ở một công ty lớn và ổn định. Bấy giờ anh nghĩ như thế thật. Nói gì thì nói, nó cũng là công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo. Đã được bảo đảm vững vàng, đáng lẽ đến lúc anh nghỉ hưu, nó vẫn không phá sản mới đúng. Nào ngờ chuyện tưởng như không thể lại xảy ra. Ba ngày trước khi bị đuổi khỏi kí túc xá của công ty, vợ anh - Kyoko, đã bỏ nhà ra đi. Giờ nghĩ lại thì ngay từ thời điểm công ty bắt đầu sa sút, chắc chắn cô đã định làm thế rồi. Không đi ngay lúc ấy, có lẽ chỉ vì cô bận tâm đến điều tiếng xung quanh. Dù sao thì anh với Kyoko cũng chưa có mụn con nào, hơn nữa, vốn dĩ vợ chồng anh cưới nhau không phải vì tâm đầu ý hợp. Cô chỉ bị cám dỗ bởi ảo ảnh tương lai ổn định cùng thu nhập ở thời kì đỉnh cao của anh mà thôi. Sau đó, anh dao động giữa thất nghiệp và vô gia cư rồi may mắn dừng lại ở dạng đầu tiên. Nhờ việc này mà anh hiểu ra rằng, không có một ranh giới rõ ràng nào để phân chia hai loại người ấy, bởi chẳng hề tồn tại một thứ như vòng dây tokudawara* cho những kẻ vốn đã thất bại. Vòng dây thừng giới hạn trong môn sumo, ra khỏi vòng tròn sẽ bị loại. Anh vẫn nhớ được mọi chuyện tính đến thời điểm đó, nhưng tiếp theo thế nào thì chịu. Mảnh kí ức cốt lõi có thể giải thích một cách rành mạch tại sao anh lại ở nơi kì dị này dường như đã biến mất. Anh thậm chí còn không thể nhớ nổi anh đã ở đâu trước khi mất ý thức. Cảm giác về thời gian bị nhiễu loạn khiến anh không thể xác định được đâu là điểm cuối cùng của kí ức. Phòng trọ tồi tàn có bếp và phòng ngủ để sống qua những tháng ngày thất nghiệp. Bờ sông có thể thoải mái tản bộ lúc chạng vạng mà không cần để ý đến ánh mắt của người khác. Văn phòng giới thiệu việc làm. Quán cà phê có giấy dán tường màu kem bong tróc bán những bữa sáng rẻ. Quầy ăn bằng gỗ ép hơi bẩn của quán nhậu, nơi duy nhất mang lại chút niềm vui. Những hình ảnh ấy hiện lên trong đầu, lộn xộn, rời rạc, và vẫn không thể tìm được mắt xích nào kết nối với hiện tại. Mất trí nhớ… Vừa nghĩ đến điều ấy, Fujiki rùng mình. Nhưng nghĩ kĩ thì đó là lời giải thích hợp lý nhất, vì có phải phim Miền ảo ảnh đâu mà có chuyện anh đột nhiên vượt qua không gian, thời gian để xuất hiện ở một nơi kì quặc thế này. Chắc chắn là anh đã đánh mất mảng kí ức về những việc xảy ra trước khi bị đưa tới đây. Chỉ cần lấy lại được chúng, mọi sự sẽ hoàn toàn sáng tỏ. Chứng mất trí nhớ ngược chiều. Đó là cụm từ anh nghe bác sĩ nói khi tới bệnh viện thăm người đồng nghiệp vào công ty cùng đợt ở Phòng Kinh doanh. Anh ta bị tai nạn giao thông trong lúc đi gặp khách hàng, đầu bị đập vào đâu đó nên những thông tin cơ bản như tên và nhân thân thì vẫn nhớ, song kí ức về tất cả những chuyện đã trải qua cho đến khi bị tai nạn lại chẳng còn đọng lại mảy may. Nguyên nhân khiến con người mất trí nhớ không chỉ bởi phần đầu bị tổn thương, một số loại thuốc nhất định cũng có thể gây ra tình trạng tương tự sau khi tiêm vào. Tuy nhiên, dù vì lý do gì thì cũng rất hiếm có trường hợp bệnh nhân quên đi những kí ức cơ bản như địa vị xã hội và tên tuổi. Bởi các thông tin ấy đã bị lặp đi lặp lại vô số lần và khắc sâu vào tiềm thức nên dẫu một phần của não bộ có bị mất chức năng hoạt động đi chăng nữa, họ vẫn có thể lấy chúng ra từ bản lưu dự trữ. Quả là trong đầu anh có ghim “bản sao” về sự thật anh thất nghiệp, hệt như mấy hình vẽ lăng nhăng ở nhà vệ sinh, Fujiki nhếch mép cười khẩy, bởi anh đã không ngừng dằn vặt bản thân mình về điều đó trong suốt thời gian qua. Nhưng, cứ cho là anh đã bị ngã rồi mất một phần kí ức đi, anh vẫn chẳng tìm được lời giải thích hợp lý nào cho khung cảnh lạ lùng trước mắt. Fujiki vừa chăm chú nhìn những dãy núi tròn quái dị vừa cảm nhận nỗi sợ hãi đang dần dâng lên trong lòng. Anh bắt đầu thấy hoang mang, vì đây không đơn giản chỉ là mất trí nhớ. Dù anh có cố gắng tưởng tượng chuyện đã xảy ra với bản thân trong kí ức bị thiếu sót kia là một chuyện hoang đường thế nào đi chăng nữa, vẫn chẳng có giả thiết nào thích hợp cho tình huống hiện tại. Bất chấp cái nóng ẩm ngột ngạt, toàn thân anh túa đầy mồ hôi lạnh. Có gì đó không đúng đến từ xúc giác. Nóng ẩm ngột ngạt… Anh sực nhớ ra một chuyện. Cuối cùng anh cũng tóm được một mảnh trong phần kí ức bị mất. Mùa đông. Đúng, không thể sai được. Tuyết phủ trắng xóa. Đây tuyệt đối không phải Tokyo, cái lạnh như cắt da cắt thịt… Nơi cuối cùng anh ở chắc chắn đang vào giữa đông. Thử nhìn xuống trang phục trên người, trên dưới đều là vest, cổ đeo cà vạt, bên trong mặc sơ mi trắng dài tay. Đồng hồ đeo tay hiển thị 5 giờ 16 phút, rất có thể là buổi chiều. Kim giây vẫn đang chạy bình thường. Fujiki thấy ân hận khi đã chọn Rolex, loại đồng hồ kiểu cổ mang dấu vết của thời kì bong bóng. Đây là loại đồng hồ cơ lên dây cót tự động, có độ chính xác không thua gì thạch anh. Chỉ cần kim vừa dừng, đồng hồ sẽ tự động lên dây cót và tiếp tục chạy. Dù sao thì cũng không thể tin tưởng hoàn toàn vào giờ đang hiển thị được. Mời các bạn đón đọc Mê Cung Đỏ của tác giả Kishi Yusuke.
Nhà Đen
Nhà Đen từng đoạt giải Nhất Tiểu thuyết Kinh dị Nhật Bản năm 1997. Một truyện dài vô tận dẫn vào địa hạt của bất nhân. … Wakatsuki làm việc tại một hãng bảo hiểm, công việc chuyên môn là thẩm định tiền bảo hiểm tử vong. Hằng ngày anh phải tiếp xúc với rất nhiều thành phần khách hàng, trong đó có cả những kẻ lừa đảo rắp tâm chiếm đoạt tiền bảo hiểm. Sau một lần tư vấn quá mức chân tình cho khách, anh bị lợi dụng, bị biến thành nhân chứng đầu tiên cho một cái xác thiếu niên treo lủng lẳng. Tuy bố mẹ cậu bé khẳng định là con mình tự tử, nhưng trực giác mách bảo Wakatsuki rằng đây là một vụ giết người. Do gián tiếp ngăn cản việc chi trả tiền bảo hiểm, chuỗi ngày tiếp theo của anh không còn yên bình như trước. Các màn khủng bố triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn, và hơn hết thảy, thi thể không toàn vẹn của những người hoặc vô tình hoặc cố ý nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Bất chấp tất cả, Wakatsuki vẫn bền bỉ khai quật sự thật, nhưng anh không ngờ mình phải đối mặt với quá nhiều sững sờ và run rẩy. Trong ngôi nhà đen ngập ngụa hôi thối, từ điểm bắt đầu là cái xác treo cổ, Wakatsuki đã đào lên cả một ổ dòi… *** Review NHÀ ĐEN - Kishi Yusuke Người dịch: Nguyệt Phùng #Nhà_Đen #Kishi_Yusuke #TrinhthamNhatBan ------------------------- Một tác phẩm khác của Kishi Yusuke. Mình không biết review này có thiên vị hay không nhưng vì mình quá thích Mê cung đỏ nên cuốn này cũng sẽ khen không ngoại lệ. Mình đọc xong lâu rồi nhưng giờ mới viết. Giọng văn của Kishi đặc biết đến cái độ mà dù không biết cùng một tác giả, một khi đã đọc được một tác phẩm của tác giả này rồi thì dễ dàng nhận ra văn phong đặc trưng của ông trong những tác phẩm sau. Kỳ lạ, lôi cuốn, hồi hộp. Nếu như Mê cung đỏ là một chuyến phiêu lưu thì Nhà đen chính là một án mạng kinh hoàng. Nhưng nó đáng sợ không phải những màn dọa ma hay jumpscare kinh dị, nó đáng sợ từ chính những con người. Câu chuyện kể về Wakatsuki - một nhân viên chịu trách nhiệm kiểm định các hợp đồng bảo hiểm, bỗng một ngày được khách hàng mời đến nhà và chứng kiến thằng con trai treo cổ tự sát. Dẫn theo sau đó là những vụ giết người kinh tởm mà thủ phạm là một kẻ thái nhân cách không bình thường. Đọc truyện mình có thể thấy tác giả phải nghiên cứu sâu về tâm lý học tâm lý tội phạm và tâm lý nhân vật ra sao mới có thể vẽ nên từng nhân vật đặc sắc và diễn biến nội tâm hợp lý đến thế, dù chỉ là những nhân vật phụ như trợ giảng đại học Kanaishi hay bảo hiểm đen Miyoshi. Ngoài ra truyện cho người đọc tiếp thu một lượng kiến thức khổng lồ về ngành bảo hiểm, quy trình hợp đồng và những kẽ hở lách luật hay những án bảo hiểm đầy mưu mô, tác giả có lẽ phải đọc rất nhiều mới có thể khiến tình tiết đi hợp lý đến thế. Nếu Mê cung đỏ là dùng câu chuyện kỳ ảo để nói về bản thể con người thì trong Nhà đen bản thể con người được khắc họa qua những câu chuyện vô cùng thực tế vốn tồn tại xung quanh ta. Chi tiết về con sâu bướm cuối truyện như vẽ nên một viễn cảnh về xã hội tương lai khi mà con người ta chính là đàn kiến đang sợ hãi hoang mang trước thế lực quá mới mẻ mang tên tâm lý băng hoại của loài người, không còn đến từ cá nhân, mà đến với số lượng khổng lồ. Megumi -bạn gái Wakatsuki đã nói thế này "Không, họ hoàn toàn bình thường. Có thể nói là hầu như tất cả đều bình thường. Vấn đề là họ có chung một nỗi bi quan đến mức bệnh hoạn, cả nỗi tuyệt vọng vô bờ bến đối với nhân loại nữa. Mọi thứ họ nhìn đều phản chiếu nỗi tuyệt vọng tăm tối đó. Họ tuyệt nhiên không chấp nhận một điều, rằng thiện ý và tình cảm của con người sẽ làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Cho nên, chắc chắn họ có ác cảm trên mức cần thiết đối với mọi sự việc trên đời. Họ bảo vệ bản thân bằng thứ mánh khóe vô cùng tinh tế, đó là không kết nối tình cảm và yêu thương bất cứ thứ gì để dù bị phản bội cũng sẽ không tổn thương. Và họ áp đặt thành kiến độc ác lên mọi đối tượng đe dọa sự tồn tại của họ, ngộ nhỡ có bất trắc xảy ra cũng sẽ dễ dàng rũ bỏ mà không cảm thấy đau đớn." Nói tóm lại, Nhà đen không phải truyện trinh thám, không có yếu tố thủ phạm bất ngờ, cũng không phải truyện kinh dị như kiểu The ring, đây là câu chuyện mang yếu tố hình ảnh khắc họa con người rất tốt, tính gợi cao và lối kể chuyện hấp dẫn. Giống như Ktakami Jiro đã bình về cuốn này, nó mô tả bi kịch hiện đại của một xã hội phải đối mặt với sự suy đồi đạo đức thông qua những câu chuyện phụ được liên kết phức tạp cũng như ngòi bút tạo dựng nhân vật xuất chúng, lột tả một cách cảm động sự tôn nghiêm và kỳ vọng của con người. Người viết: Ngoc Anh Pham - fb/trinhthamgroup *** KISHI YUSUKE Sinh năm 1959 tại Osaka, tốt nghiệp khoa Kinh tế học Đại học Kyoto. Năm 1996, tác phẩm ISOLA - Nhân cách thứ 13 của ông đoạt giải xuất sắc Tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản. Sau đó, các tác phẩm khác của ông như: Nhà đen (1997), Búa thủy tinh (2004), Tân Thế Giới (2005), Giờ học của ác quỷ (2008) cũng lần lượt được nhận các giải thưởng văn học khác nhau. Một anh nọ làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ, chuyên môn thẩm định tiền bồi thường tử vong. Một ngày kia, anh ta được khách gọi đến tận tư gia, và bất ngờ trở thành người đầu tiên phát hiện ra thi thể treo cổ của đứa con trai nhà ấy. Qua thái độ của bố mẹ chúng, anh ngờ rằng đây không phải là tự tử, mà là giết con để lấy tiền bảo hiểm, nên khi đơn yêu cầu bồi thường được gửi tới, anh đã âm thầm tiến hành điều tra. Từ đó, ác mộng dồn dập tấn công cuộc sống của anh. Nỗi khủng hoảng triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn quanh nghi can sát nhân. Và hơn hết thảy, cái chết của những người vô tình hoặc cố ý đã nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Một truyện dài bất tận dẫn vào địa hạt của bất nhân và run rẩy… Nhà đen đoạt giải Nhất tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản năm 1997. *** Ngày 8 tháng Tư năm 1996, thứ Hai. Ngừng bàn tay đang cầm cây bút chì xanh lại trong chốc lát, Wakatsuki Shinji khẽ vươn vai. Anh vén rèm lên, để ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ phía Đông của phòng Tổng hợp, tạo thành những đốm nắng nhỏ trên mặt bàn. Những tia sáng li ti lấp lánh trên các đồ vật nằm trong khay bút, nào nắp bút bi, con dấu, kính lúp soi dấu hồ sơ và cả com-pa nữa. Wakatsuki nhìn ra bên ngoài cửa sổ, bầu trời Kyoto trong vắt, đâu đó có những vệt mây đang lặng lờ trôi, như thể được quệt bởi đầu bút vẽ. Anh hít căng không khí trong lành của buổi sáng rồi lại tiếp tục kiểm tra số hồ sơ yêu cầu tiền bảo hiểm tử vong đang chất đống trên bàn làm việc. Một thợ mộc 48 tuổi, ho ra máu, nhập viện và bị chẩn đoán mắc ung thư dạ dày. Một nhân viên văn phòng 60 tuổi, ngất xỉu trong lúc chơi golf và bị phát hiện mắc bệnh u não. Một sinh viên đại học vừa làm lễ trưởng thành[1] năm nay, chạy xe quá tốc độ nên đâm phải cột điện ở khúc cua… Wakatsuki đang đối diện với cái chết của những con người anh chưa một lần gặp mặt. Xem ra, khởi đầu mỗi buổi sáng bằng công việc như thế này thật chẳng mấy dễ chịu. Trong vòng năm năm sau khi vào công ty, Wakatsuki được phân bổ về ban Đầu tư trái phiếu quốc tế ở trụ sở chính. Bấy giờ, trong đầu chỉ rặt những vấn đề kinh tế vĩ mô như lãi suất dài hạn của Mỹ hay tỉ giá hối đoái, thành ra anh cứ ý thức một cách mơ hồ rằng mình đã trở thành nhân viên của một cơ quan tài chính chứ nào phải công ty bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm ngoái, anh đã chuyển đến chi nhánh Kyoto làm công việc thẩm định tiền bảo hiểm tử vong. Kể từ đó, anh mới có cảm giác mình thật sự là nhân viên của một doanh nghiệp liên quan đến chuyện sống chết của con người. - Hôm nay lại có hàng tá vụ tử vong nữa nhỉ. Phó phòng Kasai Yoshio ngồi kế bên, nhìn sang bàn Wakatsuki và cất tiếng. - Đang mùa xuân mà... Tội nghiệp quá. Ngẫm lại, đúng là số người chết nhiều đến bất thường. Theo thống kê, lượng người chết nhiều nhất là vào mùa đông vì người già hay bệnh nhân sức khỏe yếu thường không vượt qua nổi giá rét. Chắc chắn phải có nguyên do nào đó mới dẫn đến quá nhiều cái chết ngay giữa mùa xuân thế này... Wakatsuki thử lật mớ hồ sơ. Ngay dưới đơn yêu cầu tiền bảo hiểm do người thụ hưởng điền đều có biên bản xác nhận tử vong của bác sĩ, bản phô tô hộ khẩu gia đình, vài trường hợp có biên bản chứng minh tai nạn giao thông. Ẩn số ngay lập tức được giải đáp. - Ồ, hồ sơ vụ hỏa hoạn ở quận Sakyo đây mà. Khoảng ba tuần trước, một xưởng mộc bị thiêu rụi khiến năm người trong gia đình thiệt mạng. Hiện tại, có tổng cộng mười lăm yêu cầu tiền bảo hiểm tử vong cùng một lúc nên thoạt nhìn, số trường hợp có vẻ nhiều hẳn lên. Già nửa số đó là những loại bảo hiểm có tính tiết kiệm cao, chẳng hạn như bảo hiểm dưỡng lão kì hạn năm năm. Chắc toàn những người không nỡ từ chối đây mà, Wakatsuki tưởng tượng. Họ đã động lòng vì lời nài nỉ “bị áp lực chi tiêu” của đám nhân viên bán bảo hiểm và cứ liên tiếp bỏ tiền ra mua giúp. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm nhân thọ của Nhật Bản cao nhất thế giới, phần lớn là nhờ công của những khách hàng như thế. - Mà này, có kẻ đốt đúng không? Biết thủ phạm chưa vậy? - Chưa anh ạ, nhưng khả năng có người thụ hưởng rất thấp nên em nghĩ việc thanh toán không vấn đề gì đâu. - Rõ thật là... Cứ phải tử hình hết cái bọn đốt nhà người khác làm vui đi cho rồi! Kami lẩm bẩm. Anh xắn tay áo sơ mi lên, để lộ cánh tay to như lực sĩ, thi thoảng lại lấy khăn mùi soa lau mồ hôi trán. Chiều cao tầm 1m75, cân nặng lên đến 120 kilogam có lẻ nên nhiệt lượng thoát ra từ anh hẳn phải lớn hơn nhiều so với người bình thường. Mới buổi sáng đầu xuân mà lưng và phần nách chiếc áo sơ mi dài tay màu xanh da trời cỡ XXL trên người anh đã ướt đẫm. Điện thoại đổ chuông. Kasai nhấc ống nghe không chút chần chừ rồi ấn chiếc nút đang nhấp nháy. Anh cố thực hiện kế hoạch chỉ đạo âm thầm đối với các nhân viên nữ rằng phải trả lời điện thoại ngay lập tức. - Bảo hiểm Nhân thọ Showa chi nhánh Kyoto xin nghe! Xin lỗi đã để quý khách chờ lâu! Giọng nam cao sang sảng của Kasai vang lên khắp phòng. - Nhờ anh nhé, chủ nhiệm Wakatsuki. Sakagami Hiromi đặt lên bàn tập hồ sơ yêu cầu tiền bảo hiểm trợ cấp nằm viện sau khi kiểm tra xong một lượt. Cô là nữ nhân viên xuất sắc đã có kinh nghiệm năm năm làm việc tại công ty. Ngoài hồ sơ mới, số hồ sơ đã được phân loại theo màu cũng nằm la liệt trên mặt bàn, nào là thanh toán bảo hiểm hết thời hạn, thanh toán bảo hiểm sinh kì, thanh toán lương hưu, vay tiền theo hợp đồng bảo hiểm, cắt hợp đồng, đăng kí con dấu, thay đổi người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng tiền bảo hiểm, đính chính địa chỉ hoặc ngày tháng năm sinh, thậm chí còn đính chính thông tin người thân hay giới tính của người mua, và cả tái phát hành bảo hiểm rủi ro chứng khoán nữa. Nói chung là muôn hình vạn trạng hồ sơ, không có thời gian mà đủng đỉnh. Wakatsuki nhanh chóng bắt tay vào kiểm tra. Ngoại trừ vụ cháy xưởng mộc, hầu hết đều là người chết do bệnh tật kinh niên, không thấy vấn đề gì. Nhưng gần đến cuối, anh phát hiện ra một trường hợp. Bảo hiểm trọn đời 10 triệu yên, tham gia bảo hiểm đã hai mươi năm. Một hồ sơ rất bình thường, nhưng đáng chú ý nhất là dòng chữ “Biên bản xác nhận tử vong” đã được thay thế bằng dòng chữ “Biên bản khám nghiệm tử thi”. Sự khác nhau của hai biên bản này nằm ở chỗ, bác sĩ lập biên bản có khám cho người đó trong vòng 24 giờ trước lúc chết hay không. Nếu là “Biên bản khám nghiệm tử thi” thì ngay từ đầu, bác sĩ đã chỉ tiếp xúc với tử thi nên chưa thể khẳng định chắc chắn nguyên nhân gây ra cái chết. Wakatsuki kiểm tra các mục theo thứ tự từ trên xuống dưới. Mời các bạn đón đọc Nhà Đen của tác giả Kishi Yusuke.
Hiệp Hai
Thiếu tướng Reinga Helen, cục trưởng cục tình báo quân sự Đức “Những đội quân nước ngoài ở phương Đông”, ngay từ năm 1944 đã đi đến kết luận rằng sự diệt vong của Hitler đã đến gần và đó là điều không thể nào tránh khỏi. Trong tình trạng hoảng loạn bao trùm lên cả nước Đức hồi đó, Helen là một trong số rất ít người không hoảng sợ trước nguy cơ bị trả thù, mà biết bắt đầu hành động. Helen đã thảo một bản kế hoạch luân chuyển và rút lui các nhân viên tin cẩn nhất vào hoạt động bí mật. Kế hoạch được Himmler tán thưởng rồi đưa trình lên Hitler và Helen được phong lên cấp bậc trung tướng. Theo kế hoạch này, trong những điều kiện vô cùng cẩn mật, một cuộn micro phim dài hàng ngàn mét được gấp rút chuẩn bị để chụp danh sách các điệp viên của cục tình báo do Helen chỉ huy. Cuộn phim được cuộn vào trong những chiếc hộp nhỏ bằng kim loại và niêm phong cẩn thận. Vào một đêm tối trời tháng hai năm 1945, dưới tiếng đệm của những làn đạn đại bác, từ thị trấn nhỏ Sosen, ngoại thành Berlin, nơi đóng quân của bộ chỉ huy các lực lượng lục quân phát xít, ba chiếc xe tải bịt kín mít và một chiếc xe bọc thép hộ tống từ từ đi ra. Đoàn vận tải bí mật này vượt qua những quãng đường núi lởm chởm ổ gà một cách dễ dàng rồi đến vùng thượng lưu Bavaria, ở đây, ba chiếc xe tải cùng với chiếc xe bọc thép vượt biên giới. Một đoàn người ăn mặc giống hệt các vận động viên leo núi khoác lên vai những chiếc túi nặng rồi biến vào núi. Đoàn người đến một căn cứ nằm sâu trong núi, một túp lều gọi là Elenslam, vào một đêm giông tố bão bùng. Ở đây, trưởng đoàn, không phải ai xa lạ, mà chính là Reinga Helen cùng với hai sĩ quan SS cận vệ dồn những hộp kim loại kia vào những chiếc thùng dài rồi đem giấu vào chiếc hầm bí mật đã được đào sẵn từ trước. Sau bữa ăn tối, điều mà sau này mới rõ, hai sĩ quan cận vệ “đột nhiên” cảm thấy khó chịu và mấy phút sau lăn ra chết. Xác họ bị quẳng xuống một vực sâu gần đấy. Ở Elenslam, những “nhà du lịch” còn sống sót tiếp tục sống hơn hai tháng. Ở đây, hàng ngày, đài và vô tuyến điện thông báo cho chúng biết tình hình cục diện chiến tranh. Được tin chiến cuộc kết thúc, Helen liền hạ lệnh cho các nhân viên của hắn xuống núi và ra đầu hàng nhưng chỉ được đầu hàng quân Mỹ! Còn chính hắn và một số tay chân thân cận khác thì mấy ngày sau mới xuống. Có mặt trong đoàn thiết giáp thuộc quân đoàn bảy của Mỹ, Helen yêu cầu, phải lập tức đưa hắn về quân đoàn bộ. Tại đây, hắn yêu cầu phải nhanh chóng đưa hắn về bộ chỉ huy của cục tình báo Mỹ. Không phải chờ đợi lâu, một chiếc xe quân cảnh có hộ tổng cẩn thận được phái đến. Chiếc xe này được lệnh phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của người Đức bí ẩn này. Và đây, bước cuối cùng của cuộc chạy đua: Helen được tướng Paterson, một thủ lĩnh của CIC, cơ quan tình báo bảo vệ an ninh cho quân Mỹ ở Đức, tiếp. - Ngài Helen, tôi hy vọng ngài đã không gặp khó khăn gì trên đường đi? - Paterson hỏi hai người bạn đồng nghiệp Đức. - Cảm ơn tướng quân, mọi việc đều hoàn toàn thuận lợi! - Thế thì tuyệt! Bây giờ ngài đi nghỉ đi. Tôi sẽ không quấy rầy ngài. Chúng ta nói chuyện sau. - Chân thành cảm ơn ngài đã che chở cho chúng tôi. Nếu có thể, nhờ ngài chuyển tới Tổng thống Truman lòng biết ơn sâu sắc nhất của chúng tôi. Chúng tôi biết và nhớ rằng chính ngài Tổng thống đã nói: “Nếu thấy quân Nga sắp thắng, chúng ta sẽ giúp đỡ quân Đức”. - Than ôi! - Paterson khoa hai tay lên trời - Ngài nên nhớ rằng tất cả những gì đã xảy ra sau chiến dịch Stalingrad và sau này, lúc cuộc chiến tranh sắp kết thúc, hoàn toàn không nằm trong kế hoạch của chúng tôi… Sáng hôm sau, được biết cấp bậc của “tên tù binh” Đức, Allen Dalles, cục trưởng cục tình báo châu Âu, sau này là kẻ cầm đầu CIA, đã đáp máy bay đến Visbac. Việc này càng tăng thêm tốc độ của các sự kiện kế tiếp. Ngay ngày hôm đó, Helen và một số nhân viên tin cẩn khác cùng với những tài liệu quan trọng nhất của cục tình báo phát xít, đáp chuyến máy bay đặc biệt đi Washington. Và lại những cuộc gặp gỡ thân mật nữa. Trong phạm vi rất hạn chế của các nhà lãnh đạo tình báo Mỹ, mà cụ thể là: Cục trưởng cục tình báo chiến lược Mỹ - tướng Wiliam Donovan, cục phó Magrude, nhà lý thuyết cục tình báo Mỹ - giáo sư Sheman Kent và một nhân vật quan trọng khác, Helen đã báo cáo về những “kho báu” của mình, và đã làm cho các ông chủ mới phải hoa mắt bởi những hiểu biết sâu rộng về nghiệp vụ và những tài liệu phong phú về Liên Xô của hắn. Để kết thúc, Helen đề nghị thành lập ngay những cơ quan tình báo gián điệp tại Đông Âu để tiến hành các hoạt động phá hoại chống các nước này và thu thập các tài liệu có liên quan đến Liên Xô. Các nhà lãnh đạo tình báo Mỹ từ lâu chỉ biết mơ ước về một đề nghị như thế, nên đã không do dự, đồng ý đề nghị này của Helen. Còn về phía mình, ngoài những điều kiện khác, hắn đã đưa ra những yêu cầu sau: - Toàn bộ nhân viên, mà trước hết những nhân vật lãnh đạo của các tổ chức tình báo gián điệp đã được thành lập, phải là người Đức, trừ những điệp viên được tuyển dụng và huấn luyện ngay ở các nước mục tiêu. - Không ai có quyền giao những nhiệm vụ nhằm chống lại “những quyền lợi của nước Đức” cho Helen và bất kỳ nhân viên nào của hắn, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Và những quyền lợi này phải do chính Helen xác định. Một khi Tây Đức trở thành một quốc gia độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, Helen và cơ quan của hắn sẽ trở lại phục vụ cho nước Đức mới. Thế là trong những ngày, khi mà những người đứng đầu của bốn cường quốc ngồi lại xung quanh chiếc bàn tròn trong điện Saesilenchov ở Postdam để vĩnh viễn kết liễu chủ nghĩa phát xít, quét bỏ nguy cơ chiến tranh ở châu Âu, thì ờ Washington, một thành viên của bộ tứ - Tổng thống Hari Truman, đã làm một bước đầu tiên cho cuộc “chiến tranh lạnh”. Và hơn thế nữa, cuộc chiến tranh thầm lặng bí mật nhằm chống lại Liên Xô và các nước đang có ý định xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều tên quân phiệt và tội phạm chiến tranh có nhiều tội ác, không những không bị trừng phạt mà còn trở lại tiếp tục hoạt động, bất chấp cả lời khuyên của Helen, và không chỉ tuân theo mệnh lệnh của hắn… *** - Tôi mời anh đến đây là để hỏi xem anh đã nghỉ ngơi thế nào và đã chuẩn bị xong cho chuyến đi Brussels chưa? - Cảm ơn tướng quân! Tôi đã chuẩn bị đâu vào đấy. Công việc đào đất và cái yên tĩnh đồng quê, dĩ nhiên, bao giờ cũng làm cho thần kinh bớt căng thẳng, song phải thú thực rằng những ngày gần đây tôi đã sống với công tác trước mắt… nhiều lúc tôi muốn được ngồi lên xe để vù ngay đến Rensburg. - Nghĩa là anh đã sẵn sàng? Rất sung sướng được nghe anh nói như thế. Tôi tin tưởng anh sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ý tôi muốn nói những kinh nghiệm của anh, và cả việc anh đã từng ở đấy. Hồi đó là năm… - Mùa hè năm 1956, cùng với vị thủ tướng đã quá cố. Người Nga là những người hết sức mến khách. Họ đã để cho chúng tôi nghỉ lại ở khách sạn Xô viết, một trong những khách sạn tốt nhất Moscow. Họ tham quan quanh thành phố. Tuy vậy, chúng tôi còn có thời gian để đi bách bộ, mà cái đó đặc biệt có lợi… - Thế còn thứ ngoại ngữ ấy ra sao rồi? Tôi muốn nói đến trình độ hiểu biết tiếng Nga của anh? - Chuyến đi hồi đó làm cho tôi sung sướng. Tôi đã đến được cả những vùng Baltic. Song, việc lợi dụng sự có mặt ở Moscow để làm những việc quan trọng hơn đã không thành. Bộ chỉ huy cho rằng chúng tôi bị cơ quan phản gián Nga theo dõi nên đã chỉ thị cho chúng tôi phải tuyệt đối thận trọng, và chuyển tôi sang kiểm tra hoạt động của các sĩ quan thuộc cục A-I và A-III. - Còn bây giờ anh sẽ phải giữ một vai trò khác. Trước tiên, đây là một công việc độc lập và có mục tiêu rõ ràng. Tôi chưa kịp làm quen với các chỉ tiết của kế hoạch, song cảm thấy rằng mục tiêu mà các bạn đồng nghiệp của ta ở Đại Tây Dương đang quan tâm. Anh đã xác định được cách tiếp cận thuận lợi rồi thì phải. - Vâng, đúng thế. Một nhân viên của tôi đã làm được một số việc. - Vâng, tôi đã xem qua báo cáo của anh. Anh đã quyết định đến đó bằng cách nào chưa? - Theo tôi, con đường thuận lợi nhất vẫn là qua Bắc Âu. Sau khi ở lại Brussels một vài ngày, tôi sẽ đi Oslo và Stokholm và sau đó đến Moscow. - Tuyệt lắm! Anh có muốn hút thuốc không? - Không, thưa tướng quân. Chỉ còn ít lâu nữa là tròn hai mươi ngày kể từ ngày người bạn đồng nghiệp của tôi - Paul Kad - mất. Hồi anh ấy còn sống, tôi đã thề là sẽ không bao giờ hút thuốc. Còn rượu thì chỉ uống trong những trường hợp hết sức cần thiết. Và tất cả những cái đó là để giữ gìn sức khỏe cho cuộc đấu tranh vĩ đại của chúng ta. Cho đến nay, như tướng quân thấy, tôi vẫn giữ trọn lời thề đó. - Có phải anh nói cái đó là có nhã ý khuyên tôi từ bỏ những thói đáng yêu đó không? Nhưng dù sao, tôi cũng vẫn thành thật cảm phục nghị lực của anh. Thôi, chúc anh thành công, và mong anh sẽ sớm đưa đến cho tôi những tin tức đáng mừng. - Vâng, thưa tướng quân…   Mời các bạn đón đọc Hiệp Hai của tác giả Alesandr Taradankin & Igor Phesenco.
Truy Sát
Nước Mỹ đã vô thức kéo kẻ thù nguy hiểm nhất trên thế giới gần mình. Brad Thor - tác giả cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ đã cho thấy “Không khoan nhượng” vẫn chưa phải là tác phẩm trinh thám hay nhất của mình bằng một tác phẩm mới về đặc vụ chống khủng bố Scot Harvath, cựu đặc nhiệm Hải quân Hoa Kỳ, người phải một mình đối mặt với trận chiến chống khủng bố mà những nhân viên tình báo kỳ cựu nhất của cường quốc này chưa bao giờ hình dung được. Sau nhiều năm không bị tấn công, một nhóm khủng bố đã chọn kỳ nghỉ cuối tuần là Ngày Độc lập 4-7 làm mốc chấm hết cho sự yên bình trên đất Mỹ. Bằng một chiến dịch tấn công hoàn hảo, hệ thống cầu và hầm đường bộ ra vào đường đi nghỉ cuối tuần. Lợi dụng các nỗ lực tìm kiếm và cứu hộ nạn nhân khủng bố đang diễn ra, một nhóm biệt kích tinh nhuệ nước ngoài đã thâm nhập vào New York chỉ để tìm một người của họ - một đối tượng với sự nguy hiểm và ảnh hưởng lớn đến mức nước Mỹ sẽ làm mọi thứ cần thiết và bằng mọi giá để kiểm soát được. Trong tình huống đó Scot Harvath là hy vọng duy nhất của nước Mỹ. Bằng mọi cách, băng qua những con phố đổ nát và cháy sập của Manhattan, Scot thực hiện nhiệm vụ của mình, anh tìm bắt đối tượng mà chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thậm chí không chính thức công nhận sự hiện hữu. Với phong cách viết thể loại hành động đặc trưng, ly kỳ và kiến thức phong phú của mình, Brad Thor đã mang lại một tác phẩm trinh thám hàng đầu mà chắc chắn khi đọc độc giả sẽ nhiều lần phải nín thở khi lật sang trang mới. *** Thường thì người ta chỉ nhận ra được là mình đã xuất hiện nhầm chỗ, vào thời điểm không thích hợp, vào lúc đã quá muộn. Đó chính là trải nghiệm trớ trêu của Steven Cooke, vì đến tận phút chót của đời mình, Cooke vẫn nghĩ rằng mình đã may mắn trúng giải độc đắc trong nghề điệp viên tình báo. Chàng trai 26 tuổi tóc vàng và mắt xanh đã có mặt tại cuộc gặp hoàn toàn vô tình. Thật ra, Cooke chẳng có việc gì phải đến khu chợ ngoài việc cô em gái đã nhờ anh mua và mang về một chiếc áo choàng dài kiểu Thổ Nhĩ Kỳ có đai thắt ngang lưng trong chuyến về thăm nhà cuối tuần đã dự định từ lâu nhưng vẫn chưa thực hiện được. Còn cả đống việc phải giải quyết trước khi về nhưng Steven vẫn không thể từ chối yêu cầu của Alison. Hai người thân nhau thậm chí hơn cả anh em ruột và là bạn thân từ hồi còn bé. Alison thực ra là người duy nhất biết Steven làm nghề gì, thậm chí bố mẹ Steven cũng không hề biết con trai mình là một điệp viên CIA. Steven mới đến Marocco được gần một năm và cũng khá thông thạo Marrakech. Nằm tại trung tâm thành phố, khu chợ là một mê cung của những lối đi hẹp và ngoắt ngoéo. Xe lừa chất nặng hàng nằm ngổn ngang lộn xộn trên những con phố nóng nực, bẩn thỉu trong lớp bụi mờ cố hữu dày đến mức đứng trên khu quảng trường lớn cũng không thể nhìn thấy những bức tường gạch xây bằng bùn của thành phố, thậm chí người ta chẳng nhìn thấy dãy núi Atlas từ khu chợ. Cái nóng gay gắt khó chịu khiến cho Cooke cảm thấy hài lòng khi đi vào trong dãy chợ có mái che để tìm mua áo choàng cho Alison. Khi đi tắt qua những lối đi chính của khu chợ, Steven lướt mắt qua một cửa hàng nhỏ bán cà phê và đột ngột dừng ánh mắt của mình vào một người khách - một người đàn ông đã biệt tăm hai ngày trước vụ tấn công 11/09 mà nước Mỹ vẫn đang tìm kiếm kể từ đó đến nay. Nếu đúng thế thì phát hiện của anh sẽ không chỉ là một chiến công của ngành tình báo Mỹ mà còn là cơ hội để bản thân trở thành một điệp viên trẻ nổi bật. Hấp dẫn đấy, nhưng Cooke tự nhủ rằng mình gia nhập CIA để phụng sự tổ quốc trước tiên chứ không phải chỉ cố gắng để nhận khen thưởng. Steven dùng điện thoại di động gọi cho cấp trên và thông báo về những gì mình thấy, cộng thêm cả thông tin là có một đối tượng nam chưa rõ danh tính khác vừa vào quán cà phê và ngồi cùng bàn với người đàn ông đó. Vì không có ai hỗ trợ, điều khả dĩ nhất cấp trên của Steven có thể làm là yêu cầu một trong những vệ tinh do thám của mình tập trung thu thập thêm thông tin. Thế nhưng phần lớn nhất của việc thu thập thông tin lại thuộc về Steven. CIA có một loạt những câu hỏi tối quan trọng và cần Steven thu thập thông tin nhiều nhất có thể về người đàn ông trong quán cà phê cũng như những dự định của anh ta. Cảm thấy chất adrenaline chảy rần rật trong máu, cả sự sợ hãi và cả sự phấn khích, Cooke cố tập trung vào những gì mình đã được huấn luyện để tự kiềm chế bản thân. Điều Steven cần làm đầu tiên là làm sao có được dữ liệu lưu lại cuộc gặp giữa hai người đàn ông trong quán cà phê. Không thể đường hoàng bước vào quán với gương mặt da trắng đậm chất Mỹ của mình vì điều đó sẽ đánh động đối tượng, Steven cần phải kiếm cho ra một cái máy ảnh. Đi nhanh nhất với tốc độ an toàn, cuối cùng anh cũng tìm được thứ mình cần, nhưng vấn đề duy nhất là Steven không có đủ tiền. Móc túi trong chợ nhiều như rươi, bản thân thì không bao giờ mang thẻ tín dụng còn tiền mặt chỉ mang vừa đủ tiêu vặt, vật giá trị duy nhất mà Steven có là chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Kobold Chronograph và người bán hàng vui vẻ đồng ý đổi chiếc đồng hồ của anh lấy một chiếc máy ảnh kỹ thuật số Canon, loại có ống kính tương đối tốt đi kèm một thẻ nhớ dung lượng cao. Từ một vị trí trên mái nhà đối diện với quán cà phê, Steven vừa chụp ảnh, vừa quay những đoạn video ngắn với hy vọng chuyên gia phân tích của CIA ở Langley có thể giải đoán được. Lý do để người đàn ông lộ mặt ra nơi công cộng hẳn sẽ cực kỳ quan trọng không kém gì cuộc gặp này. Steven đã dùng hết thẻ nhớ dung lượng cao và chuẩn bị thay nó bằng thẻ nhớ đi kèm máy của nhà sản xuất, định sẽ dùng để chụp những bức ảnh về chiếc xe hơi của người đàn ông khi rời quán, thì nghe thấy một tiếng động sau lưng mình. Tiếng sợi dây rít lên trong không khí rồi thắt chặt vào cổ anh. Steven quờ quạng vô vọng vì một chân kẻ thắt cổ đã chẹn chặt vào lưng anh và bắt đầu cảm thấy đường thở của mình tắc nghẹn. Khí quản Steven thắt lại, chiếc máy ảnh rơi xuống mái nhà kêu lọc cọc. Kẻ ám sát không để ý đến hiện trường đổ vỡ lộn xộn khi lôi xác người điệp viên CIA trẻ ra khỏi bức tường rồi nhét cái máy ảnh và thẻ lưu dữ liệu vào túi. Điều duy nhất mà Abdul Ali quan tâm là làm sao để không có bất cứ chứng cứ gì về cuộc gặp ở quán cà phê được tồn tại. Người Mỹ sẽ sớm biết việc này và lúc đó thì đã quá muộn.   Mời các bạn đón đọc Truy Sát của tác giả Brad Thor.