Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ghi Đơ Môpatxăng (Isaac Babel)

Isaac Babel (1894 - 1941) được đánh giá là nhà văn Do Thái đầu tiên bước vào văn đàn Nga với tư cách là một tác giả văn xuôi Nga. “Babel đã trải qua thời thơ ấu và thời thanh niên ở Odessa, chịu đựng cảnh đau khổ trong ghetto (khu vực cư trú dành riêng cho người Do Thái). Babel học giỏi, từ nhỏ cho đến khi 16 tuổi ông đã học tiếng Do Thái, tiếng Pháp, Kinh Thánh, Kinh Talmut. Babel đến với văn chương từ rất sớm. 15 tuổi ông đã viết những truyện ngắn đầu tiên bằng tiếng Pháp. Giống Gogol, 1915 ông đến Peterburg ôm ấp mộng văn chương. 1916 đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời Babel khi nhà văn gặp được Gorky. Gorky đồng ý in truyện ngắn của Babel. Nhà văn lão thành khuyên Babel đi thực tế để có vốn sống và viết. Thế là từ một chàng công tử Do Thái Babel đã trở thành một người lính của Quân đoàn Kỵ binh số Một, tham gia vào các công tác cách mạng (làm việc trong các ủy ban quân sự cách mạng, làm phóng viên, làm ở nhà in…).

Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời năm 1926 - là tập hợp những truyện ngắn Babel viết về cuộc sống, chiến đấu của Quân đoàn Kỵ binh số Một trên mặt trận truy quét quân Ba Lan và Bạch vệ thời kỳ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Ngay từ khi mới ra đời tác phẩm đã tạo ra hai luồng dư luận trái chiều: một ủng hộ Babel, ca ngợi Tập đoàn quân Kỵ binh; còn một phê phán, lên án kịch liệt tác phẩm này, thậm chí còn buộc tội tác giả của nó. Tương phản trở thành một thủ pháp được sử dụng hữu hiệu trong các tác phẩm của Babel, nhất là Tập đoàn quân Kỵ binh nhằm tạo ra muôn vàn khuôn mặt cách mạng, chiến tranh và những suy ngẫm về sự sống, cái chết…

Trong 25 năm cầm bút Babel để lại không nhiều tác phẩm: hai vở kịch (Hoàng hôn, Maria), ba tập truyện ngắn (Tập đoàn quân Kỵ binh, Truyện ngắn Odessa, Truyện ngắn); nhưng những tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao, đặc biệt là truyện ngắn. Nhưng 13 năm sau thời điểm Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời (1939) Babel cùng nhiều nhà văn khác bị bắt một cách bí mật, bị ép buộc phải nhận những tội danh vô lí trong đó có tội “phản bội Tổ quốc”. Ông bị đưa ra xét xử trước tòa án quân sự vào ngày 26/ 1/ 1940 và bị hành quyết ngày 17/ 3/ 1941, khi ông 47 tuổi. Suốt 15 năm sau đó, tên ông bị xoá hẳn trong sách vở văn chương của Liên Xô. Từ năm 1954, các tác phẩm của ông mới được công nhận.

Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt

- Babel I.E: Tuyển tập (Nguyễn Thụy Ứng dịch từ tiếng Nga, I. Erenburg và Nguyễn Thụy Ứng giới thiệu). Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2000.*** Tìm mua: Ghi Đơ Môpatxăng TiKi Lazada Shopee

Mùa đông năm mười sáu tôi nương náu ở Petecburg với tấm căn cước giả và không một xu dính túi. Người cho tôi ở nhờ là một anh giáo dạy văn học Nga tên là Alecxây Kazansev.

Anh sống ở Peski, một khu phố lạnh lẽo, vàng xỉn, hôi hám. Anh kiếm tiền để phụ vào số tiền lương còm bằng cách dịch tiếng Tây Ban Nha; thời ấy Blasko Ibanes đang nổi như cồn.

Kazansev chưa từng đặt chân đến Tây Ban Nha, dù chỉ là đi ngang qua, nhưng tình yêu xứ ấy xâm chiếm toàn bộ con người anh. Anh biết hết mọi lâu đài, công viên, sông ngòi ở Tây Ban Nha. Ngoài tôi ra, chỗ Kazansev còn cả một lô nhưng kẻ bị bật ra khỏi cuộc sống ngay lành. Chúng tôi sống rất đói rách. Thảng hoặc, mấy tờ báo lá cải mới dành vài dòng chữ nhỏ đăng những mẩu tin vặt của chúng tôi.

Sáng sáng tôi la cà ở những khu nhà xác và đồn cảnh sát.

Người hạnh phúc hơn trong bọn vẫn là Kazansev. Anh còn có Tây Ban Nha là Tổ quốc.

Tháng mười một, tôi được giới thiệu một chân thư lại ở nhà máy Ôbukhôv, một chỗ làm không đến nỗi tồi tránh cho tôi khỏi phải vào lính.

Tôi đã từ chối không làm một gã thầy ký.

Ngay từ lúc ấy - mới hai chục tuổi đầu - tôi đã tự nhủ: thà đói khát, tù đày, lang bạt còn hơn ngồi lỳ ở phòng giấy suốt mười giờ đồng hồ mỗi ngày. Chẳng phải có gì táo tợn lắm trong lời nguyền ấy, nhưng tôi đã và sẽ không đời nào vi phạm nó. Tôi vẫn giữ được cái phong tục của ông cha: Chúng ta sinh ra trên đời là để tận hưởng thú vui làm lụng, đánh nhau, yêu đương, chúng ta sinh ra là cho những việc ấy chứ không phải vì cái gì khác.

Nghe tôi lý sự, Kazansev cứ xoắn mãi cái chỏm tóc vàng hoe ngắn ngủn trên đầu. Nỗi sợ hãi trong ánh mắt anh pha lẫn vẻ thích thú.

Đến hôm lễ Giáng sinh thì chúng tôi gặp may. Luật sư Benderski, chủ sở hữu nhà xuất bản “Ansiona” có ý định xuất bản một tác phẩm mới của Môpatxăng. Việc dịch do Raisa, vợ ông, đảm nhiệm. Cái trò chơi quý tộc chẳng đi đến đâu.

Người ta hỏi Kazansev, người dịch tiếng Tây Ban Nha xem anh có biết ai giúp việc được cho Raisa không. Kazansev ra lệnh cho tôi.

Hôm sau, khoác một cái áo vét đi mượn, tôi đến nhà Benderski. Họ sống ở góc đường Nevski và Môika, trong một ngôi nhà xây bằng đá hoa cương Phần Lan, bên ngoài có ốp những hàng cột giả màu hồng, lỗ châu mai và gia huy chạm đá. Những tay chủ nhà băng mất gốc, mới cải đạo và phất lên nhờ nghề chạy hàng đã cho xây lên ở Pêterburg trước ngày có chiến tranh hàng lô thứ lâu đài chướng mắt, ngạo nghễ đến lố bịch ấy.

Cầu thang trải một tấm thảm đỏ. Ở chiếu nghỉ cầu thang có đặt những con gấu nhung đứng chồm hai chân lên.

Trong những cái mõm há hốc của chúng các núm thủy tinh lóe sáng.

Vợ chồng nhà Benderski sống trên tầng ba. Ra mở cửa là một cô hầu gái đội mũ mào, ngực cao. Cô ta đưa tôi vào gian tiếp khách bày biện theo lối Slavơ cổ. Trên tường treo những bức tranh gam xanh lơ của Rerikhơ - những tảng đá và quái vật thời tiền sử. Khắp các góc nhà - đặt trên bệ, bày la liệt các tượng thánh kiểu cổ. Cô hầu gái có bộ ngực cao diễu khắp phòng một cách trịnh trọng. Cô ta người cân đối, mắt cận thị, vẻ kiêu kỳ. Trong cặp mắt xám mở to của cô lộ rõ vẻ phóng đáng trơ trẽn. Cô đi lại chậm chạp. Tôi thoáng nghĩ rằng khi yêu chắc hẳn cô ả vần vũ cuồng nhiệt và sành sỏi lắm. Tấm rèm gấm treo nơi cửa ra vào chợt lay động. Bước vào phòng, mang một bộ ngực đồ sộ là một phụ nữ tóc đen có cặp mắt màu hồng. Chẳng cần nhiều thời gian cũng nhận ra là bà Benderski là thuộc loại phụ nữ Do Thái làm cho người ta say mê, đến đây từ Kiev và Pôntava, từ những miền thảo nguyên, những thành phố sung túc trồng đầy dẻ và keo. Tiền của do các đức ông chồng khéo xoay xở được những người đàn bà này chuyển hóa thành lớp mỡ hồng hào nơi bụng, gáy, trên đôi vai tròn lẳn. Cái khóe cười mỉm ngái ngủ, mướt mịn của họ khiến các chàng sĩ quan đồn trú mê mẩn như bị hớp hồn.

- Môpatxăng là niềm say mê duy nhất của đời tôi, - Raisa nói với tôi.

Cố giữ cho cặp đùi đồ sộ đừng đong đưa quá, chị ta ra khỏi phòng rồi trở lại với bản dịch “Cô Garriet”. Trong bản dịch ấy của chị ta không còn để lại chút dấu vết nào câu chữ của Môpatxăng, cái giọng văn khoáng đạt, mượt mà, nghe như có tiếng thở dài say đắm. Những câu văn của bà Benderski đúng văn phạm đến mức khó chịu, tẻ ngắt và thô kệch - hệt lối viết tiếng Nga ngày trước của dân Do Thái.

Tôi đem tập bản thảo về nhà và trong gian gác áp mái của Kazansev - giữa đám người đang ngủ say - suốt đêm cặm cụi gọt đẽo bản dịch của người. Kể ra thì công việc ấy cũng không đến nỗi buồn tẻ như tôi nghĩ. Câu cú được sửa sang vừa hay lại vừa dở cùng một lúc. Bí quyết là ở sự xoay chuyển khó nhận thấy được. Cây đòn bẩy phải ở trong tay và ấm nóng lên. Và chỉ được xoay tay đòn một lần, chứ chớ đến hai.

Sáng ra, tôi đem đến bản thảo đã sửa xong. Raisa đã thật lòng khi nói chị mê Môpatxăng. Chị ngồi bất động suốt thời gian đọc lại bản dịch, tay đan chéo vào nhau: hai cánh tay mịn màng buông thõng, vầng trán trắng nhợt, viền đăng ten giữa hai bầu vú bị dồn ép xô lệch đi, hết dâng lên lại hạ xuống.

- Anh đã làm cách nào vậy?

Lúc ấy tôi đã nói về văn phong, về đội quân từ ngữ, đội quân mà trong đó sử dụng đủ loại khí giới. Không có thứ sắt thép nào có sức làm tê buốt trái tim người ta bằng một dấu chấm câu đặt đúng chỗ. Chị ta lắng nghe, đầu cúi, đôi môi thoa son hé mở. Một ánh đen sáng lên trên mái tóc chải dầu bóng và để ngôi. Đôi bắp chân mang tất ôm khít, khỏe và thon duỗi trên tấm thảm trải sàn.

Cô hầu gái đưa cặp mắt dâm đãng trơ trẽn nhìn sang phía khác, bưng mâm dọn bữa sáng lên.

Ánh nắng Peterburg lấp lánh rọi xuống tấm thảm trải sàn mấp mô bột màu. Hai mươi chín tập sách của Môpatxăng xếp chật cái giá nhỏ phía trên bàn viết. Tia nắng lung linh nhảy nhót vuốt ve những gáy sách bọc da, nấm mộ tuyệt vời của một trái tim người.

Cà phê sáng đem lên cho chúng tôi đựng trong những cái tách màu xanh lơ, và chúng tôi bắt đầu dịch “Idillia” (“Khúc đồng dao”). Ai mà chẳng nhớ truyện ngắn kể về anh chàng thợ mộc bú bầu sữa đang căng tức của cô nhũ mẫu đẫy đà. Chuyện ấy xảy ra trên một chuyến tàu chạy từ Nisơ đến Macxây, vào một buổi trưa oi ả, ở xứ hoa hồng, quê hương của hoa hồng, nơi mà những cánh đồng trồng hoa tràn xuống tận mép biển…

Tôi ra khỏi nhà Benderski với hai mươi lăm rúp tạm ứng trước. Cái hội của chúng tôi ở Peski tối ấy say ngất ngư chẳng khác gì đàn ngỗng no căng nước. Chúng tôi đã dùng thìa mà xúc món trứng cá tầm và nhắm nó với món giò lòng. Khi đã chếnh choáng, tôi quay ra bỉ nhạo Tônstôi:

- Cụ hãi rồi, cái cụ bá tước của các anh ấy, cụ nhát cáy… Tôn giáo của cụ là sợ hãi… Hãi đói, hãi già, thế nên ngài bá tước bèn may cho mình một cái áo bằng đức tin…

- Rồi sao nữa? Lắc lắc cái đầu chim, Kazansev hỏi tôi.

Chúng tôi lịm luôn bên chân giường. Tôi mơ thấy Katia, chị thợ giặt đã bốn chục tuổi, sống ở dưới nhà. Sáng sáng chúng tôi thường xuống chỗ chị ta xin nước sôi. Ngay đến mặt chị ta tôi cũng còn chưa kịp nhìn cho kỹ, ấy thế mà trong mơ có trời biết tôi và Katia đã làm những trò gì. Chúng tôi đã quần nhau hôn hít đến mệt nhoài. Sáng hôm sau, không cầm lòng được, tôi đã ghé xuống chỗ chị ta xin nước sôi.

Đón tôi là một người đàn bà dáng ủ ê, vai vắt khăn choàng, mớ tóc xám màu tro rối tung và đôi tay sưng mọng vì dầm nước.

Kể từ hôm ấy, sáng nào tôi cũng ăn ở đằng nhà Benderski. Trong căn gác áp mái của bọn tôi có thêm được một cái bếp lò mới, cá trích hộp, sô-cô-la. Hai lần Raisa còn đưa tôi ra đảo chơi. Không đừng được, tôi đã kể cho chị ta nghe về thời thơ ấu của mình. Câu chuyện kể nghe thảm đạm đến chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Từ dưới viền mũ bằng lông điêu thử, đôi mắt sợ hãi long lanh nhìn tôi. Hàng mi hung khẽ chớp đượm vẻ thương xót.

Tôi đã làm quen với chồng Raisa - một tay Do Thái mặt bủng, đầu hói trụi và người dẹt lét, nhìn nghiêng cứ như chực dướn lên bay. Nghe đâu ông ta là chỗ thân cận với Rasputin. Những khoản lợi tức ông ta thu được nhờ chạy hàng quân nhu khiến ông ta có vẻ như một kẻ bị ma ám. Mắt ông ta lơ láo, với ông, tấm màn che thực tại đã rách nát rồi. Raisa thường ngại ngùng khi phải giới thiệu với chồng những người quen mới của mình. Vì còn non nớt nên hàng tuần sau tôi mới nhận ra điều đó.

Sau Tết, nhà Raisa có hai người em gái từ Kiev lên chơi. Đâu như tôi có mang tới tập bản thảo truyện “Lời thú nhận” và vì không gặp Raisa nên đến tối mới trở lại. Mọi người đang dùng bữa trong phòng ăn. Từ phía ấy vọng ra tiếng cười lanh lảnh như ngựa hý của đàn bà, và tiếng ồm ồm của đàn ông đang cơn hứng. Ở những nhà giàu không có nền nếp, người ta ăn uống rất ồn ào. Thứ tiếng ồn rất Do Thái, rộ lên từng đợt và về cuối trở nên du dương. Rai sa ra đón tôi trong bộ váy áo dạ hội hở lưng. Chân đi giày láng bóng, bước vụng về.

- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ - Rồi chị chìa cho tôi đôi tay đeo đầy những chuỗi bạch kim và những ngôi sao hồng ngọc.

Tấm thân chị đong đưa, dướn cao như con rắn ngóc lên theo tiếng nhạc. Chị ta lắc lắc cái đầu uốn quăn làm cho mớ vòng khuyên kêu lanh canh, rồi bất thần ngã vật ra chiếc ghế bành trạm trổ kiểu Nga cổ. Trên khoảng lưng trần xoa phấn của chị hằn rõ những vết tím bầm.

Phía sau tường lại vang lên tiếng phụ nữ cười. Hai cô em có ria mép từ phòng ăn đi ra, cũng vú to, người phổng phao y hệt Raisa. Ngực các cô ưỡn ra, tóc đen xõa tung. Cả hai đều lấy chồng người trong họ Benderski của mình. Căn phòng tràn ngập tiếng phụ nữ cười đùa, lối đùa cợt của những người đàn bà đã trưởng thành. Hai ông chồng ủ ấm cho các cô bằng áo bành-tô da hải sư, khăn choàng Ôđenbuốc, đi cho họ giày da cao cổ; sau lớp lông tuyết xù lên của vành khăn chỉ còn thấy đôi má đỏ lựng, chỏm mũi trắng như sứ và ánh mắt cận thị của dân Seemit. Đùa chán, họ đi đến nhà hát hôm ấy đang diễn vở “Judith” với Saliapin sắm vai chính.

- Tôi muốn làm việc, - Raisa thì thầm, dang hai cánh tay trần, chúng ta đã bỏ phí mất cả tuần nay rồi…

Nàng sang phòng ăn lấy một cái chai và hai cốc lớn. Bộ ngực không mang nịt núng nính qua lần áo, hai núm vú hằn rõ qua nền lớp lụa mềm.

- Thứ quí, - Raisa vừa nói vừa rót rượu ra, - loại nho xạ năm 83 đấy nhé, chồng tôi mà biết thì ông ấy giết tôi…

Tôi chẳng có việc gì với thứ nhục đậu khấu năm 83, và cũng không hề có ý định nốc cạn ba vại liền. Chúng lập tức lôi tuột tôi đến những hẻm phố chập chờn những đốm lửa màu da cam và vẳng nghe có tiếng nhạc.

- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ… Hôm nay ta làm gì đây?

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghi Đơ Môpatxăng PDF của tác giả Isaac Babel nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Giai Thoại Tình Yêu Hades - Persephone (Tứ Nguyệt Thiên Đường)
Đây là câu chuyện về vị thần cai quản địa ngục [1] thần bí, lạnh lùng, trang nghiêm trong thần thoại Hy Lạp. Tương truyền hắn là vị nam thần chuyên tình [2], hay cùng nữ thần tình yêu Aphrodite trêu đùa, lại đi bắt con gái của nữ thần nông nghiệp - Persephone, bắt ép nàng trở thành vợ của mình. Do tác động từ mẹ của mình, Văn Nhã Lệ thích nhất là câu chuyện cổ - Thần thoại Hi Lạp. Cô thích những câu chuyện thần thoại nhưng không hề nghĩ đến khi cô xuyên qua lại xuyên đúng người mà cô thích nhất - vợ của Hades - Persephone. Đây là trò đùa của ông trời với cô sao? Đáng chết! [1]Trong bản cv là “Minh vương” nhưng tôi để thành “Vị thần cai quản địa ngục” cho thuần Việt cũng như phù hợp với phong cách của Hi Lạp. [2] chuyên tình: theo tôi biết là chỉ yêu một người. Tìm mua: Giai Thoại Tình Yêu Hades - Persephone TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giai Thoại Tình Yêu Hades - Persephone PDF của tác giả Tứ Nguyệt Thiên Đường nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Giải Ngải Ký (Yamiyugi Atemu)
Câu chuyện mang sắc màu tâm linh, kể về quá trình phiêu lưu tìm hiểu những điều thần bí, kinh dị giữa chốn đô thị phồn hoa, bên cạnh đó tác giả vẫn không quên tạo ra những tiếng cười giúp độc giả bớt "căng não".***11h tối, tôi ngồi lặng lẽ trong viện, chán nản ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, ánh đèn tuýp ảm đạm chiếu vào mắt không đủ khiến tôi phải cau mày. Thở dài. Tôi có thằng bạn tên Cường, cậu ta vừa bị tai nạn xe máy, có người gọi cho tôi lúc hơn 9h. Ngay khi nghe điện, tôi đã có một linh cảm xấu, người ta hỏi tôi có phải là Minh, người gọi cuộc gọi cuối cùng cho nạn nhân này không, “nạn nhân” cái từ này nghe nặng nề quá, tôi chỉ vội đáp vâng, đầu dây bên kia tiếp, nạn nhân là một nam thanh niên tuổi từ 22 tới 24, vừa bị tai nạn xe máy, hiện đang nằm trong bệnh viện huyện, cần người quen tới gấp để xác nhận thông tin… Sau khi nghe loáng thoáng được những từ cuối, tôi ghi lại số phòng và lập tức phóng xe tới bệnh viện, lúc đó đầu tôi trống rỗng, không phải do lo lắng, chỉ là tôi bất ngờ quá thôi. Cường là thằng bạn cùng phòng với tôi, chúng tôi làm cùng một công ty gang thép, trụ sở đặt tại Thái Nguyên, trong phòng còn có hai thằng nữa, đều là người khác quê, ở cùng nhau cũng đã được tám chín tháng. Chúng tôi ai cũng biết tính thằng Cường, tên như người, cậu ta to cao nhưng không phải dạng cục mịch, tôi thấy thằng này hay đi trêu các cô bán thực phẩm, hay mấy em gái người dân tộc thỉnh thoảng ghé qua chỗ chúng tôi chơi. Nhưng tuyệt nhiên không bao giờ thấy cậu ta gây gổ với ai, vì tính Cường cẩn thận, không quá chén, không hút thuốc lá trước mặt phụ nữ, không phóng nhanh vượt ẩu, đặc biệt là đi đêm, thằng này cẩn thận có tiếng. Cũng vì thế mà cậu ta chưa bao giờ nghĩ tới chuyện vượt rào với các em gái ở đây, sợ là yêu không cưới rồi nó bỏ bùa cho thân bại danh liệt. Thế mà Cường bị tai nạn, lúc chiều thằng này lấy xe máy đi chở một em gái từ công ty về làng, đi tới mãi 8h thì tôi gọi để nhờ có qua quán tạp hóa thì mua cho anh em bao thuốc lá. Lúc đấy cậu ta chỉ bảo là nhà em gái giữ lại ăn cơm, tôi biết vậy, còn nghĩ là sướng cái thân mày nhé, dễ bố mẹ em nó ưng cái bụng mày rồi, làm rể miền núi này cũng không tệ, há há. Hơn 9h Cường bị tai nạn, chắc trên đường về thì gặp chuyện. Tìm mua: Giải Ngải Ký TiKi Lazada Shopee Tới viện, việc đầu tiên tôi làm là chạy tới phòng trực hỏi cô y tá xem người bị tai nạn xe máy nằm phòng 301 đi lối nào. Cô y tá chỉ dẫn tận tình và không quên hỏi tôi có mang tiền đi đóng viện phí cho nạn nhân không. Tôi gật đầu, giờ còn tiền nong gì, bạn tôi đang nằm kia không biết sống chết thế nào, tôi phải qua xem tình hình đã. Lên tầng 3, phòng đầu tiên, bên trái hành lang. Vì giờ đã vào đêm lên trong viện vắng hoe, cả dãy tầng 3 chỉ có hai phòng duy nhất sáng đèn, một là phòng 301, hai là một phòng ở cuối dãy. Tôi mở cửa bước vào, cảm giác đầu tiên là cái ớn lạnh kỳ lạ từ trong phòng thổi vào người, tiếp theo tới thứ mùi gây gây pha lẫn giữa mùi máu và mùi thuốc sát trùng, cuối cùng là nụ cười rất thân thiện của chị y tá đang đứng kiểm tra cho Cường. Chị y tá không xinh, nhưng cười rất hiền, ít nhất là vẫn dễ nhìn hơn người đang nằm trên giường kia. - Anh là người nhà của bệnh nhân? Chị y tá mở lời. - Vâng, tôi là bạn của cậu ta. - Anh này vừa được chúng tôi khâu 11 mũi ở chân trái, tình hình vết thương không nghiêm trọng, lúc nhập viện anh ta còn tỉnh táo, người đưa anh ta tới viện nói là gặp anh ta tông vào dải phân cách trên dốc Đèo Cái. - Ngoài khâu 11 mũi ra thì cậu ta có bị gì nữa không thưa chị? - Đầu và mặt không có thương tích, tay trái bị xước do ma sát với mặt đường, chân bị mảnh kim loại đâm qua, ngoài ra chỉ là những vết trầy không đáng ngại. - Vâng, thế giờ cậu ấy đang ngủ thưa chị? - Chúng tôi tiêm một mũi gây mê và truyền nước cho anh ta, giờ thuốc vẫn còn tác dụng, có lẽ 2 3 giờ nữa sẽ tỉnh, anh ngồi đây trông tới khi nào bạn anh tỉnh thì gọi chúng tôi tới kiểm tra. Nói xong chị y ta lại cười hiền hậu, tôi yên tâm rồi, thấy tôi không hỏi gì nữa chị y tá liền rời đi. Giờ tôi mới nghĩ tới việc nhìn vào cái người đang nằm trên giường kia, đúng là mặt không thấy có thương tích gì, tay thì bị băng bó kín mít, kiểu này chắc là lúc xòe thì cho tay lên đỡ mặt. Người đưa Cường tới bảo thằng này đâm vào dải phân cách, đường dốc Đèo Cái to như đường quốc lộ, không ngoằn nghèo, không gấp khúc, đi thế nào mà đâm được vào đấy mới tài. Chẳng lẽ là ở nhà em gái uống rượu nếp cẩm nhiều quá nên choáng, có khi thế thật. Nhưng mà lúc đưa tới đây thằng này vẫn còn tỉnh táo, thế quái nào mà uống rượu đâm vào dải phân cách không ngất luôn đi, vậy tức là đầu óc thằng này lúc trước khi bị tai nạn hoàn toàn bình thường? Tôi ngồi xuống ghế, mặt phân vân, không biết thằng này bị cái gì mà đi đứng cẩu thả thế, tội cho cái xe, chủ nó rách chân rách tay thế này, nó không biết còn thương tích tới đâu nữa. Mài yếm, mài bô xuống đường thì may ra chỉ xước, nặng hơn có thể là vỡ yếm, thằng Cường nó làm như trâu để kiếm tiền mua xe cho bố mẹ ở nhà mát mày mát mặt, giờ cái xe có mệnh hệ gì chắc thằng này nó không thiết sống nữa. Tôi nhìn thằng bạn đang nằm trên giường, mặt nhăn dúm lại, mồ hôi túa ra, chắc đau hay là gặp ác mộng gì đó, thấy cũng tội mà thôi cũng kệ, khi nào cậu ta tỉnh, tôi sẽ tìm mấy lời tốt đẹp nhất mà an ủi, dù lỗi là do ai thì bị thương như này cũng không thể mắng chửi được. Lúc sau tôi mới lấy điện thoại di động ra xem có trò gì hay hay giết thời gian. Ngồi chơi một lúc, tới khi điện thoại báo hết pin, tôi mới ngẩn ra, giờ là 10h43, vậy là cũng ngồi đây được một tiếng rồi, thằng Cường vẫn nằm im thở khì khì, mặt vẫn nhăn nhúm. Chán rồi đấy, tôi rời khỏi ghế, lúc này tâm trí tôi cần tìm một cái gì đó để giải khuây, tôi nhìn rộng ra khắp phòng, đây là một phòng ghép, có ba cái giường trống nữa ở bên kia. Do cuối tuần người ta về hết nên phòng này còn mỗi giường chúng tôi, không biết các phòng cạnh đây có còn người không, tôi thấy cả dãy tối om hay là do họ tắt đèn đi ngủ hết rồi. Lúc tôi tới có để ý là phòng ở cuối dãy hành lang vẫn sáng đèn, chắc phòng ấy cũng có bệnh nhân. Nhìn mấy chiếc giường giăng vải trắng tinh, đầu giường nào cũng đặt một chiếc tủ sắt, cảm giác lúc này trống trải và im ắng kỳ lạ. - TRÁNH! Tôi giật mình, quay đầu nhìn thấy Cường há miệng, cậu ta vừa rồi hét cái gì vậy? -TRÁNH! TRÁNH! … Cường lại hét lên, hai mắt vẫn nhắm nghiền, có cái gì đó đang hiện lên trong đầu cậu ta, là cảnh tượng lúc diễn ra tai nạn? -Dừng lại!…Dừng…Dừ..ng… Tiếng của cậu ta nhỏ dần, tôi không nghĩ ra nên làm gì lúc này, đây là nói mớ phải không, nói mớ có nguy hiểm tới vết khâu không, có phải gọi y tá tới xem thế nào không? Tôi đâu có kinh nghiệm với việc này, bản thân chưa từng đi trông người ốm bao giờ, trước nay chỉ có bố mẹ trông tôi chứ tôi còn chưa tự trông nổi mình, đừng nói tới đi trông cho người khác. Cường không hét lên nữa, chỉ thấy cậu ta mấp máy trong miệng cái gì đấy, không rõ là muốn nói hay muốn thở. Tôi chết lặng ở cạnh giường, mấy giây sau tôi mới dám bước tới lay lay vai cậu ta, còn chuẩn bị tinh thần đợi cậu ta choàng mắt bật dậy như quỷ nhập tràng. Nhưng không, sau đó Cường lại thở đều đều, hình như là ngủ tiếp, không thấy dấu hiệu gì bất thường nữa, mặt vẫn nhăn nhúm như cũ. Tai nạn là điều khủng khiếp, chắc chắn nó ảnh hưởng tới tinh thần nhiều lắm, tôi thấy Cường ngủ lại được thì cũng thở phào, cứ ngủ cho xong đi rồi dậy la hét sau, vừa ngủ vừa la hét thế này tao sợ lắm. Đang nghĩ bất giác tôi cúi đầu xuống sàn nhà, gạch ốp sàn là loại sáng màu, ánh đèn tuýp phản chiếu trên mặt sàn tạo thành một thứ ánh sáng mờ mờ, không sáng không tối, hắt lên khung cảnh nhợt nhạt với một màu trắng đục, không có gì bắt mắt. Tôi chăm chú nhìn những viên gạch ốp sàn dưới chân mình, nó không có hoa văn, bề mặt hơi sần lên những gợn sóng nhỏ, người ta làm thế để tăng ma sát và tạo cảm giác sạch sẽ. Hết nhìn gạch tôi lại nhìn sang những rãnh nhỏ giữa hai viên gạch ốp, thoạt nhìn tôi thấy nó màu đen, nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nó là màu nâu đỏ, mà nếu tò mò cúi hẳn xuống quan sát, sẽ thấy nó thực chất là màu đỏ sẫm. Cái màu đỏ này khiến tôi liên tưởng tới máu, giống như là nó chảy lênh láng trên sàn nhà, người ta có cố lau tới đâu, thì cũng không thể sạch hết máu trong các khe này được. Vì vậy mà nó đọng lại, nhiều dần thì kết thành một tầng sẫm màu, có thể nhầm với cáu bẩn. Nghĩ cái gì vậy, trong viện thì chuyện máu chảy lênh láng là điều bình thường, đâu cần ngạc nhiên quá chứ, phải biết là mỗi ngày ở đây có bao nhiêu người ra vào, bao nhiêu người đổ máu, hoặc là bao nhiêu người…chết. Ò óe… Ò óe… Ò óe… Ò óe… Chợt tôi nghe thấy tiếng xe cứu thương, còi của nó kêu chói tai vô cùng. Tôi từng cho rằng nếu như ai sắp chết mà nghe thấy tiếng còi xe này, chắc sẽ phải bật dậy vì nhức đầu, nó có khi cũng là một cách sơ cứu trước tiên. Tiếng còi xe vẫn vang lên inh ỏi, không biết là cấp cứu ca nào đây, có nên ra nhòm thử không. Đắn đo một lúc, tôi liền mở cửa ra, tiếng ò óe lúc này càng rõ rệt, nó kêu như ngay sát bên tai tôi vậy, bình thường tôi không nghĩ nó vang được như thế. Đèn cao áp ngoài sân bật sáng trưng, khoảng sân bên dưới kia có vài chiếc xe hơi đậu, tôi không thấy có xe cứu thương nào vào sân cả. Mà tiếng còi xe vẫn kêu inh tai, chẳng lẽ nó đang chạy ngoài đường lớn, còi xe ở viện này dùng loa thùng hay sao mà kêu được vậy. Tôi ra hẳn ban công đứng nhìn xuống, không có, rõ ràng là không có xe cứu thương đậu dưới sân viện, nếu có thì phải thấy bác sĩ chạy ra, hay là nó đậu ở sân khác, khu viện này chỉ điều trị sau cấp cứu thôi, khu đối diện mới là để cấp cứu? Ò oé… Ò óe… Ò óe…. Cứ kêu như vậy thì các bệnh nhân khác sao ngủ được, đêm hôm rồi mà người ta không để ý chút sao, bác sĩ gì vô lương tâm thế. Ò óe… Hồi còi xe cuối cùng cũng tắt, cái không khí tĩnh lặng lập tức được khôi phục, gió cũng không thổi, khoảng sân trước mặt hiện lên dưới ánh sáng vàng tịch mịch, cây cối lấp trong bóng tối âm trầm, như đợi một ai đó vô tình bước trên khoảng sân kia thì lao ra vồ họ. Lạch cạch… Lạch cạch… Ồn ào… Có tiếng người nói, không nghe ra là tiếng gì, chỉ thấy xèo xèo như tiếng loa rè. Lạch cạch… Lạch cạch… Tôi có thể hiểu được đây là tiếng bánh xe lăn trên nền gạch, qua mỗi rãnh ốp sàn sẽ xóc lên một cái, bánh xe nảy lên rồi lại va xuống mặt sàn tạo ra thứ âm thanh rời rạc kia. Tiếng động mỗi lúc một gần. Ồn ào. Âm thanh hỗn độn, có tiếng của phụ nữ, có tiếng của đàn ông, họ đang rất gấp, tôi thấy được họ rồi. Trên hành lang xuất hiện một tốp người, có năm người tất cả, đang vội vã đẩy cái cán cứu thương, trên cán có người nằm, vì hành lang tối quá nên tôi chưa biết người nằm trên cán là nam hay nữ. Những người chạy xung quanh cán đều mặc đồ phẫu thuật, họ là y bác sĩ trong viện này, nhìn cách họ di chuyển, tôi có thể chắc rằng ca này rất nguy kịch. Nhóm người lao về phía tôi, theo phản xạ tôi lập tức áp sát người vào cửa để nhường lối đi cho họ. Tiếng nói vẫn xèo xèo bên tai, tôi hoàn toàn không thể nghe thấy họ nói gì, họ đang tranh luận về ca này sao, hay là họ đang phân công trước phẫu thuật? Tôi nghe không ra, khi nhóm người đó chạy tới trước mặt, mắt tôi bất giác dán vào cán cứu thương, lòng hiếu kỳ khiến tôi nảy sinh một khát khao, khát khao được thấy mặt người nằm trên đó. Lạch cạch… Thứ đầu tiên tôi thấy là cánh tay, một cánh tay trắng xanh thò ra khỏi cán, máu từ trên tay thấm vào tấm chăn phủ ngoài và cứ thế nhỏ tong tong xuống nền nhà. Mất máu nhiều vậy. Trong một khắc tôi lia mắt theo cánh tay đó, nhìn theo đường máu thấm trên mảnh chăn phủ, loang lổ. Người kia là nữ, chăn đắp tới cổ, tóc và máu dính bết vào mặt, khuôn mặt vì thế mà bị che đi ít nhiều. Nhưng khi mắt tôi nhìn tới khuôn mặt người kia, nó lập tức trở lên rõ ràng, màu da xám lại vì mất máu, môi tái nhợt, và hai mắt mở trừng trừng. Lạch cạch… Tôi bỗng chết lặng, hai con ngươi đen sẫm kia, hai hốc mắt sâu hoắm trên khuôn mặt kia, đang trừng trừng liếc tôi. Cô ấy đang nhìn tôi, giữa những sợi tóc bết máu, giữa những bóng áo y bác sĩ vụt qua, cô ấy dán hai con ngươi kia vào người tôi, hai con ngươi bất động. Tôi bất giác bám chặt hai tay vào thành cửa, tôi sợ hai con ngươi đen hun hút kia sẽ kéo tôi theo, như cảm giác được một luồng lực khổng lồ đang nắm lấy người mình, chân tôi bỗng tự di chuyển. Không! Hai con ngươi ấy cứng đờ như mắt cá, như hai hố đen đặc quánh tụ lại trên khuôn mặt vốn đã thành xác chết, nó đang muốn hút tôi vào đó. Lạch cạch… Nhóm người lao vụt qua, họ chạy rất gấp, dường như họ không thấy tôi đứng cạnh hành lang này, cứ như vậy nhóm người ấy chạy về cuối hành lang. Nơi đó có một căn phòng vẫn sáng đèn. Lạch cạch… Cửa phòng mở ra và nhóm người ấy hối hả đẩy cán vào. Kẽo kẹt. Cửa phòng tự khép lại. Xung quanh lập tức im ắng lạ thường, họ chạy qua trong giây lát, tôi không thấy rõ mặt một ai trong những y bác sĩ ấy, cũng không nghe thấy bất cứ lời nào mà họ nói với nhau, tất cả đều nhòe nhoẹt như một thước phim cũ. Thứ duy nhất tôi thấy được bây giờ là vệt máu dài của bánh xe lăn dẫn vào căn phòng cuối hành lang. CẠCH! Tôi mở choàng mắt, hai tay vung lên và người đổ về phía trước. Hóa ra là tôi vẫn đang ngồi trên ghế, hai mắt mơ hồ, ánh đèn tuýp rọi thẳng vào mắt khiến tôi phải nhắm nghiền chúng lại. Cái gì vừa rồi vậy, ác mộng, chắc chắn là ác mộng, mẹ kiếp, từ bé tới giờ đây là lần đầu tôi mơ thấy chuyện kinh khủng như vậy, dù là từng chứng kiến bao nhiêu vụ tai nạn, xem bao nhiêu phim ma tôi cũng chưa từng mơ thấy chuyện này. Tôi đã ngủ quên trên ghế lúc nào không biết. Cảm giác mơ mơ thực thực vừa rồi khiến tôi hoang mang, rõ ràng như là vừa xảy ra trước mắt, tiếng còi xe cứu thương, tiếng cán xe chạy trên nền gạch, tiếng nói chuyện ồn ào, và cả hai con mắt tối đen nhìn theo tôi kia nữa. Đấy là mơ sao, có ai mơ mà được rõ nét vậy không chứ, tôi cũng hay mơ nên tôi biết, giấc mơ nào có thể tồn tại được khi mình tỉnh dậy? Không thể nào, không thể nào… Tôi vùi mặt vào giữa hai bàn tay, một cảm giác vô lực ập tới, không thể nghĩ được gì nữa, chuyện vừa rồi thật sự kinh khủng. Chợt tôi nhớ ra là lúc mình tỉnh dậy, có cái gì đó rơi xuống thành tiếng rất lớn. Nghĩ một lát thì mới nhận ra là cái điện thoại, chắc lúc ngủ tôi cầm trên tay nên mới làm rơi như vậy. Gạt hết những điều vừa rồi đi, cùng lắm thì cũng chỉ là giấc mơ, dậy rồi là xong. Tôi cúi đầu tìm điện thoại, may mà nó rơi ngay chân ghế tôi ngồi, chỉ cần với tay xuống là nhặt được. Tách… Tách… Tiếng gì vậy? Tách… Tách… Nước chảy? Có ai làm đổ nước ra sàn? Hay thằng Cường dậy rồi? Tách… Tách… Tôi định ngẩng đầu lên nhìn xem thằng bạn đang làm gì, chợt mắt lại bị một thứ khác thu hút. Dưới nền gạch sáng trắng, một vũng máu đang loang dần ra, chảy vào các rãnh dưới nền nhà. Máu vẫn đang nhỏ xuống thành tiếng. Tách… Tách… Là từ giường của thằng Cường, tôi giật mình ngước mắt nhìn, một cánh tay thò ra ngoài mép giường, máu là từ trên cánh tay, thấm qua tấm chăn, chảy xuống mu bàn tay rồi tới ngón tay, sau cùng là giỏ thành từng giọt xuống nền nhà. Tay cậu ta băng bó kỹ lắm rồi mà! Chẳng lẽ cậu ta tỉnh lại rồi bóc lớp băng bó ra để xem vết thương trên tay sao, ai lại chơi lầy như vậy không, lúc nào xem chẳng được, người ta vừa băng bó cho mà lại đi tháo ra. Thầm mắng thằng bạn đầu tôm, tôi đứng dậy tính hỏi sao mày lại làm thế. Chợt tôi giật mình, vừa nhìn vào mặt thằng Cường, người tôi lạnh băng đi, hai mắt thằng Cường mở trừng trừng, lỗ đồng tử giãn to, mắt tối sầm lại, chỉ còn thấy hai hốc đen ngòm trên mặt nó. Mà hai cái hốc mắt ấy lại đang dán vào tôi, con ngươi bất động. Tôi gần như nghẹn thở, tim thắt lại và tay đổ mồ hôi. Sao thằng Cường lại trừng tôi như vậy. Hai con ngươi không có dấu hiệu sự sống kia cứ nhìn chòng chọc vào tôi, có thể đọc được từ đó một nỗi thâm thù cay độc, như muốn moi từ trong người tôi ra tất cả mọi thứ. Cảm giác ớn lạnh truyền từ trong ánh nhìn ấy tới mắt tôi, rồi theo các dây thần kinh chạy thẳng tới não, một giây đó tôi như thấy mặt cô gái kia hiện lên trong đầu mình. Đôi mắt đen lạnh kia là của cô ấy, chính là cô ấy. Hay là tôi còn chưa tỉnh ngủ, mẹ ơi, ai đánh cho tôi tỉnh lại đi, ai khép đôi mắt kia lại đi.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giải Ngải Ký PDF của tác giả Yamiyugi Atemu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Giải Khăn Sô Cho Huế (Nhã Ca)
TỰA NHỎ: VIẾT ĐỂ CHỊU TỘITôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình, bỏ thành phố và ra đi biền biệt. Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế: về ngay, ba hấp hối. Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chụi tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ. Sau cả tháng dài lạn lọn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thất một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tế Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những sót sa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sác nhất của một thành phố hấp hói. Tìm mua: Giải Khăn Sô Cho Huế TiKi Lazada Shopee Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sông hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế. Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào. Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế. Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chụi trách nhiệm. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hâng hái đi lùng người này, bắc người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loặt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc: - Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm. Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết. Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa rỡn cho những mũi súng hờm rẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giồng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa. Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang dèn góp giỗ. Xin mời bạn, chúng ta cùng thấp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế. Sàigon, năm Dậu.NHã CA ***Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nhã Ca":Bước Khẽ Tới Người ThươngĐường Tự Do - Sài GònGiải Khăn Sô Cho HuếHoa Phượng Đừng Đỏ NữaTruyện Ngắn - Nhã CaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giải Khăn Sô Cho Huế PDF của tác giả Nhã Ca nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Giai Điệu Cuối Của Cha (Nicholas Sparks)
Giới thiệu đến các bạn thích đọc sách một tác phẩm không thể bỏ qua của Nicholas Sparks. Nếu ai đã từng đọc truyện của tác giả này rồi thì hãy yên tâm rằng đây là một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Ai chưa biết về nhà văn này cũng nên đọc để biết thêm về một cây bút chuyên viết tiểu thuyết lãng mạn về những mối tình đầu sâu sắc, về tình cha ẩn sâu mà mãnh liệt như sóng ngầm... Đây là truyện thứ tư Sẻ dịch và chia sẻ với các bạn. Truyện này Sẻ rất thích nên bỏ nhiều công sức hơn mấy truyện trước (có edit đàng hoàng), nhưng tuy vậy chắc là không thể tránh khỏi sai sót. Bạn nào phát hiện, nhắc nhở cho Sẻ với nhé.***Nicholas Sparks được xem là bậc thầy về tiểu thuyết lãng mạn của Mỹ. Ông đã cho ra mắt 17 cuốn sách và trong số đó có 11 cuốn được Hollywood chuyển thể thành phim. Các tác phẩm của ông thường nói về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa và mang triết lí nhân văn sâu sắc. Nổi bật trong đó phải kể đến: "A walk to remember", "The Notebook", "Dear John"... Những tác phẩm của Nicholas Sparks đều mang hơi hướng lãng mạn và buồn day dứt. Cây bút tiểu thuyết đứng đầu nước Mỹ đã đem lại cho chúng ta những câu chuyện tình tuyệt đẹp nhưng đa phần đều là dang dở. Đọc tiểu thuyết của ông, bạn đọc như được sống lại một thời tình yêu, một thời thanh xuân nồng cháy và thấm đượm ra tính nhân văn sâu sắc mà ông gửi gắm.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giai Điệu Cuối Của Cha PDF của tác giả Nicholas Sparks nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.