Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trên Đường

Cuốn tiểu thuyết từng nằm trong danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh vĩ đại nhất giai đoạn 1923- 2005 của tờ Time này gần như một cuốn tự truyện tiêu biểu cho làn sóng tự do tiên phong thời kỳ hậu Thế chiến II. Được xếp vào các tác phẩm văn học cổ điển Mỹ cùng Huckleberry Finn của Mark Twain, tác phẩm đã khai thác chủ đề tự do cá nhân và những thử thách từ cái gọi là “Giấc mơ Mỹ”. Qua những chuyến đi và trải nghiệm của nhân vật chính và những mối quan hệ đan xen trong truyện, Trên đường là một bằng chứng của một giai đoạn trong lịch sử nước Mỹ và của một phong trào trí thức mà nếu không có nó có lẽ sẽ không ai lý giải. Cuộc phiêu lưu xuyên Mỹ của Sal Paradise và Dean Moriarty trong truyện được dựa trên chuyến đi có thật của Jack Kerouac và Neal Cassady. Về thực chất, đó chính là hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và sự trải nghiệm đích thực. Được viết bằng sự pha trộn giữa cái nhìn buồn bã ngây thơ với sự phóng túng cuồng nhiệt, giữa tình yêu sâu sắc của Kerouac với nước Mỹ, lòng trắc ẩn của ông với con người và cảm thức về ngôn ngữ, coi nó như nhạc jazz, Trên đường là một điển hình cho cách nhìn Mỹ về tự do và hy vọng, đặc biệt trong bối cảnh “Giấc mơ Mỹ” bắt đầu tan vỡ. Với Trên đường, Jack Kerouac đã bắt đầu phát triển một cách viết mà ông gọi là “Văn xuôi bột phát” (Spontaneuos Prose) với đặc điểm gồm rất nhiều các câu dài, kết cấu hình thức phóng khoáng, được viết ra ngay khi ý tưởng ập đến trong đầu, mang tính cá nhân rất cao. Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây ra không ít tranh cãi, nhưng bất chấp những tranh cãi đó, Trên đường vẫn được đa số công nhận là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi của nền văn học Mỹ nói riêng và thế giới nói chung.   Nhận định   “Nếu như Mặt trời vẫn mọc của Hemingway trong thế kỷ hai mươi được coi như cuốn Kinh thánh của Thế hệ bỏ đi thì Trên đường của Jack Kerouac cũng đóng một vai trò như vậy với Thế hệ Beat. (…) Thế hệ beat sinh ra đã vỡ mộng. Họ coi những nguy cơ xảy ra chiến tranh, sự trì trệ của hệ thống chính trị, thái độ thù địch của cộng đồng là hiển nhiên. Sự giàu có không làm họ ấn tượng. Họ không biết mình đang tìm kiếm nơi nào để nương tựa, nhưng họ vẫn không ngừng tìm kiếm.” - Gilbert Millstein, New York Times Book Review   “(…) Văn phong xuất sắc. (...) Phong cách độc đáo, mãnh liệt mà giản đơn, sắc sảo đến dị thường. - The Atlantic Monthly. “Trên đường là một tiểu thuyết sẽ khiến độc giả của nó muốn ngay lập tức lên đường, chộp lấy tháng ngày hiện tại và sống, sống, sống đến tận cùng!” -  Anna Hassaghi, Đại học Hiram *** Nếu bạn ở trên đường, đi qua bụi mù và đơn độc, thì Jack Kerouac sẽ ở bên bạn. Không buồn đâu, không cô độc, chỉ có những con đường ngoài kia, trẻ mãi, vui mãi và yêu đương khôn xiết. Lần đầu tiên tôi đọc “Trên đường” là lúc tôi ngồi một mình trong Angkor Wat. Tới bây giờ với tôi, cảm giác ấy vẫn là một sự rung rinh dịu dàng. Tôi nghĩ mình đã yêu, yêu đền đài trước mặt và yêu bàn chân mà Sal Paradise đã đi. Cuốn sách này đơn giản lắm, nó là hằng hà sa số những cuộc đi tới đi lui của anh nhà văn trẻ Sal Paradise – sau khi “khám phá” ra trên đời này có một gã tên là Dean Moriarty. Sal viết: “Dean Moriarty đến là bắt đầu một chương mới trong đời tôi, có thể đặt tên cho nó là “đời tôi trên những con đường”, hay “Về chuyện ngao du trên đường thì Dean là típ người hoàn hảo, bởi vì hắn được đẻ ra ngay trên đường, trong một cái ôtô xập xệ, khi bố mẹ hắn đi ngang qua Salt Lake City để về Los Angeles năm 1926.” Rồi từ ấy trở đi, cuộc đời họ trở thành các vì sao, lao nhanh vào vũ trụ của các con đường, không quỹ đạo, không ngần ngại, không cả những toan lo vớ vẩn mà bất cứ ai trên đời này. Những trang viết là dòng chảy khấp khởi của các ý nghĩa, sự hưng phấn không chịu nổi của tình yêu, vẻ đẹp các quãng đường, những cơn mê cuồng dại trong vẻ đẹp của một cánh đồng, của mùa đông, của một quãng đường dài khủng khiếp đầy gió bụi. Phong cách viết của Jack Kerouac là điển hình cho thế hệ Beat. Với đầy đủ những đặc trưng của dòng chảy này: Coi những tự sự trần trụi, tươi mới là hạt mầm của sáng tạo. Ở bất cứ đâu trong “Trên Đường”, bạn đều có thể bắt gặp những câu viết nhanh, hưng phấn tột cùng trong ý nghĩ, xúc cảm tươi rói, không bó buộc chút gì trong các quy tắc ngôn ngữ thông thường: “Trong một thoáng, tôi đã đạt tới cực điểm cảm xúc mà bấy lâu nay tôi hằng ao ước, hoàn toàn bước qua ranh giới của thời gian vật chất sang vùng bóng tối phi thời gian, kinh ngạc trước sự lạnh lẽo của cõi hữu hạn, cảm giác như cái chết đang đuổi theo sát gót buộc mình tiến về phía trước, theo sát nó lại là một bóng ma khác, và chính tôi đang vội vàng chạy về nơi các thiên thần vỗ cánh bay vào khoảng không thiêng liêng vô cùng tận, nơi ánh sáng giác ngộ phi thường không sao lý giải nổi trong Bản thể Nhận thức chói loà, biết bao cõi bình an mở ra trong ánh sáng diệu kỳ từ thiên đường rọi xuống. Tôi có thể nghe thấy tiếng gầm gào náo động không sao miêu tả nổi không những trong tai tôi mà còn ở khắp nơi và cứ mặc kệ những âm thanh đó. Tôi nhận ra là mình đã chết đi và sống lại đến ngàn lần nhưng không sao nhớ nổi chính xác bởi lẽ bước nối tiếp từ sự sống sang cái chết thật quá dễ dàng, chỉ là một phép thần của hư vô, chỉ như thiếp đi rồi lại đứng dậy đi lại hàng triệu lần, hoàn toàn  bình thường và chẳng ai hay biết. Tôi nhận ra rằng nhờ tính ổn định của Nhận thức thực chất mà sự sống và cái chết mới diễn ra như làn sóng, như cơn gió lay động mặt nước hồ trong vắt, yên ả, phẳng lặng như gương. Tôi cảm thá6y hạnh phúc ngọt ngào, ngây ngất như vừa tiêm vào động mạch chủ một mũi heroin; như một chầu rượu cuối chiều và bỗng thấy mình run rẩy. Chân tôi như có kiến đốt. Tôi nghĩ bụng có lẽ mình chết đến nơi rồi. Nhưng tôi không chết và lại cuốc bộ bốn dặm đường, nhặt được mười đầu mẩu thuốc lá mang về phòng của Marylou, nhét số thuốc còn lại trong đó vào tẩu rồi châm lửa hút…” Cũng ở đoạn văn trên, người đọc có thể thấy thêm một đặc trưng nữa của trào lưu Beat: “Ý thức của nghệ sĩ được mở rộng ra vô hạn trong những hỗn loạn của giác quan” – và cách hầu hết những nhà văn như JackKerouac sử dụng để tạo ra cảm xúc bất thần là nương nhờ vào cơn say ma tuý. “Trên đường” chứa hàng trăm đoạn văn mà khi đọc bạn cảm thấy mình ở trong đó, phân vân vì từng đồng bạc lẻ trước khi lên đường, hú hét điên dại trong cơn hứng chí giữa con đường ngập tuyết, điên lên vì yêu đương, ghen tuông, rủa xả rồi lại lao vào nhau giữa những cuộc làm tình không bờ bến. Đọc quyển này, cứ như ta uống hoài, uống hoài, uống cho đã cái hơi men tuổi trẻ mà Jack Kerouac đã vắt vào, ném lên trời, hệt như các vì sao tả tơi trong đêm tối hoang dại. Các chàng trai cô gái trong sách cứ dâng lên trong ngày tháng không bờ bến của họ, làm tất cả những gì mình muốn, bất chấp thế giới đổi thay, và thỉnh thoảng có người gục ngã không chút ngần ngại. Dean yêu Marylou, rồi Dean đi lấy Camille, còn Marylou đi lấy một gã thuỷ thủ, rồi họ lại lao vào nhau trên đường. Sal yêu Terry trên nông trại, rồi rời bỏ nàng vì con đường vẫy gọi. Họ đến, rời đi, bỏ lại những mái nhà để kiếm tìm khoái cảm vô tận của tuổi trẻ… Tôi không phải người nghe nhạc Jazz nên không rành lắm. Nhưng cũng trong quyển này, có một “nhân vật” quan trọng là: nhạc Jazz, hiện hữu đầy rẫy trong các quán bar, trong căn phòng tối cả đám phê thuốc, trong cuộc nhảy múa điên cuồng với tay chơi kèn thần sầu. Có những đoạn viết kiểu như vầy: “Tay saxo đội mũ đang trong trạng thái ứng tác kỳ thú, lặp lại điệp khúc trầm bổng từ “II –ya!” dến âm điệu phá cách hơn “II-đe-li-ya!”, cứ thế hoà điệu cùng tiếng trống dồn dập của một tay trống da đen có cái cổ to như cổ bò, gã này bất cần mlọi thứ, chỉ quan tâm đến mỗi cái dàn trống của gã, đập, gõ , đập. Âm nhạc cuồng nhiệt, tay saxo đã tạo nên điều đó và mọi người đều biết chính gã đã tạo nên điều đó. Dean ôm lấy đầu, chen chúc trong đám đông như đang phát điên. Tất cả mọi người đang cổ vũ tay saxo cữ giữ mãi đoạn đó, họ la hét với những đôi mắt như điên dại, gã lại đứng thẳng lên sau cú gập người lấy hơi rồi lại chùng người xuống, tiếp tục khúc nhạc trong tiếng hò hét thán phục. Một phụ nữ da đen gầy nhẳng cao lêny khênh đang lắc lưu chạm đống xương của cô ta vào cây kèn của gã, gã chẳng quan tâm, cứ thế thúc cây kèn vào cô ta, “Ii! Ii! Ii!” …. “Hắn xoa ngực xoa bụng, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt. Gã đánh trống đẩy tiếng trống xuống thật thấp rồi dồn dập tăng nhịp và cường độ lên bằng đôi dùi hay chết người của gã. Một gã to béo nhảy lên bục biểu diễn, làm cái bục lún xuống và kêu cót két. “Yo!” Tay piano lướt trên phím đàn bằng cả mười ngón tay xoè rộng, tạo ra những hợp âm nhanh trong lúc gã saxo vĩ đại đó lấy hơi cho một cao trào mới – những hợp âm kiểu kinh kịch Trung Quốc khiến từng đường dây thớ gỗ của cây piano rung chuyển. Rồi từ trên bục, tay saxo nhảy xuống, đứng giữa đám đông, vung kèn ra cho bốn hướng thổi, mũ sụp xuống mắt; ai đó đội lại mũ cho gã, Gã ngả người ra sau, lại nghỉ lấy hơi, giậm chân xuống sàn và tung ra những nốt trầm khàn, rồi lại lấy hơi, nâng kèn lên thổi những giai điệu thanh thoát, mênh mông, xé tan bầu không khí. Dean đang đứng ngay trước mặt gã, mặt nghiên xuống gần sát bàn kèn, tay vỗ nhịp, mồ hôi rỏ tong tong lên phím kèn, gã nhìn thấy, thế là gã thổi vào tiếng kèn một tràng cười dài như điên dại, và mọi người cũng cười theo, lắc lư người liên tục. Cuối cùng tay saxo quyết định lên đến đỉnh điểm, gã quỳ mọp xuống, ngận dài mãi một nốt đô chói tai trong khi mọi thứ như vỡ toác hết và khán giả gào thét mỗi lúc một to thêm.” Trong cách viết này, câu từ lặp đi lặp lại để thể hiện cái chết bên trong của một thứ khác, vượt qua giới hạn của giác quan, chiêm ngưỡng khoái lạc, về sự sung mãn lạ thường của cuộc sống. Và ở giữa các đoạn văn, người đọc có thể thấy được những âu lo, nỗi buồn thầm kín, những đổ vỡ của con người của “Thế hệ đã mất” sau chiến tranh thời Kerouac: đôi lúc chán ghét cuộc sống đến thù hằn, rồi lại đau đớn yêu thương nó vì sự rực rỡ quá đỗi của các cung bậc bay bổng ngoài kia. Linh hồn của Dean Moriarty có lẽ là linh hồn của một con đường. Gã đi như mây gió, gã kéo theo Sal, kéo theo cô tình nhân Marylou xinh xẻo ngu ngốc, rồi gã sẵn sàng vứt bỏ họ bên đường, vứt bỏ mái nhà, vứt bỏ Sal, vứt bỏ tất cả, để chạy theo con đường. Dean không có lỗi. Chỉ là Dean không dừng lại được. Có lẽ, nếu l1uc Dean ngừng lại, gã sẽ chết vì u buồn và đơn điệu, sẽ chết giống như một người đang cần khí thở liền bị ai đó bóp cổ vậy. Trong một chặng đường ở Mexico, Dean đã bỏ lại Sal khi đang bị kiết lị. Hắn nói: “Sal tội nghiệp, Sal tội nghiệp, ông bị ốm rồi. Stan sẽ chăm sóc ông. Cố nghe tôi nói đây, dù ông đang bệnh: tôi vừa nhận được ở đây giấy tờ ly hôn với Camille, tối nay tôi về New York với Inex, nếu cái xe còn đủ sức.” “Lại từ đầu à?” tôi kêu lên, … Sal đã nghĩ về điều đó như một sự phản bội, nhưng cũng ngay lúc đó Sal hiểu ra rằng Dean phải chạy đua với cuộc đời ngột ngạt này, vứt bỏ mọi thứ để lại được ở trên đường, lái xe và đi khắp thế gian của hắn. Hắn là tuổi trẻ, là sự huy hoàng duy nhất còn lại trong bóng tối già nua bủa vây và nỗi buồn rũ rượi…. Jack Kerouac “Trên đường” là một tuổi trẻ ngây ngất cho những ai đang đeo balô và đi xa, đang du hý đâu đó, đang đơn độc tận hưởng cõi đời này, hãy nhai bánh mì nhạt, uống cà phê và đọc một đoạn. Đó là một niềm vui lộng lẫy bé xíu xiu thôi…. và mình không thể nào cưỡng lại. Khải Đơn Review *** Sal Paradise là một nhà văn trẻ mới ly dị vợ và thấy mọi thứ đang tan nát hết cả. Anh đã vô tình gặp Dean Moriarty – một con ngựa hoang với những đam mê bản năng nhất, một thiên thần với tâm hồn thánh thiện, nhưng cũng là một ác quỷ điên cuồng có khả năng làm xáo trộn mọi nơi hắn đi qua – người đã mở ra chương mới trong cuộc đời của Sal, “cuộc đời trên những con đường”. Họ gặp nhau vào mùa đông năm 1947 và chia tay vào mùa xuân cùng năm đó để chuẩn bị cho những chuyến lên đường riêng.  Để kiếm tìm trải nghiệm cho những áng văn chương của mình, Sal lên kế hoạch đi về Bờ Tây bằng cách xin đi quá giang mọi phương tiện xe cộ trên đường. Sal được tụ hội với Dean cùng những chiến hữu, cũng là những nhà văn, nhà thơ trẻ nổi loạn, Carlo Marx, Chad King, Tom Snark, Tim Gray…tại thành phố Denver cổ kính và đã có những “cuộc vui quên tháng ngày”, tưởng chết đi được trong những quán bar đặc mùi khói thuốc và ồn ĩ tiếng nhạc jazz phóng khoáng, hay những buổi đàm đạo sôi nổi xuyên đêm tới sáng mà bản thân người tham gia không hiểu  mình đang nói gì… Cứ thế, cả tiểu thuyết là những lần gặp rồi chia tay, chia tay rồi gặp lại của Sal và Dean trong vài năm sau đó. Hai con người ấy đã cùng nhau lang thang, rong ruổi trên những con đường khắp chiều dài nước Mỹ, từ Đông sang Tây, và ngược lại, không biết bao nhiêu lần. Một tình bạn bền chặt kì lạ dần được xây đắp nên giữa hai gã đàn ông này, nối kết với nhau bằng những sợi dây ý thức rối rắm mà người ngoài không thể hiểu nổi. Họ cùng nhau tận hưởng cảm giác lang bạt, gặp gỡ và kết bạn mới, chìm đắm trong những cuộc tình mới, say khướt với những bữa rượu túy lúy bất kể giờ giấc, tiếp thu những kinh nghiệm sống phi vật chất với thái độ bất cần đời. Dean có thể phóng xe bạt mạng vượt mấy nghìn dặm chỉ để gặp Sal, cũng như Sal sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, xách vali và nhảy lên xe để đi cùng Dean đến bất cứ phương trời bất định nào.  Nhân vật Sal cứ liên tục hỏi những cô gái anh ta gặp “Em chờ đợi gì ở cuộc đời này?” nhưng chính bản thân anh cũng chẳng rõ “Đi đâu? Làm gì? Nhằm mục đích gì?..” và những “cái bọn khùng này lại cứ muốn lao về phía trước”, suy ngẫm và tìm kiếm ĐIỀU ĐÓ, thứ gì đó thần thánh mà họ không cắt nghĩa rõ được. Họ đơn thuần là những nhà văn trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tự giải phóng mọi ràng buộc, thoát khỏi sự gò bó bởi lý trí, logic, đạo đức, tôn giáo… để tìm về với bản ngã sơ khai. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó khi Sal, Dean và người vợ đầu tiên của hắn, Marylou, “trút bỏ hết gánh nặng quần áo”, khỏa thân lái xe dưới cái nắng gió của miền Tây nước Mỹ, tận hưởng khoảng trời tự do đã cho họ trải qua những trạng thái vui sướng, tuyệt vọng, trống rỗng và bi đát – nỗi buồn đặc thù trên đất Mỹ mênh mông. “Trên đường” được dựa trên câu chuyện có thật của Jack Kerouac cùng người bạn Neal Cassady, hai trong số những nhân vật quan trọng của thế hệ Beat (Beat Generation) của nước Mỹ những năm 50, là cánh chim đầu đàn khởi xướng ra phong trào Hippy và tạo cảm hứng cho những người theo chủ nghĩa Bohemian. Tiểu thuyết này được viết ra trong vòng chưa đến ba tuần lễ trong năm 1951, theo lối viết sáng tác bột phát trên một cuộn giấy teletype, thể hiện một phong cách tươi mới với câu văn dài lan man dựa trên kết cấu rời rạc của nhạc jazz mà theo J.Kerouac đã nhấn mạnh “Không có ‘sự chọn lọc’ trong diễn đạt mà cứ đi theo sự liên tưởng của tâm trí, chìm vào những biển suy tư vô bờ bến với chủ đề triền miên.”.  Tác phẩm đề cao sự tự do trong tâm hồn, hoài bão sống trần trụi, niềm đam mê với những chuyến đi phiêu bạt và coi “con đường đó chính là cuộc đời họ”. Khẩu hiệu nổi tiếng “Make love, not war” cũng được ra đời trong thời kỳ này. Và từ một nhóm nhỏ những người bạn say mê văn chương, thế hệ Beat đã bất tử trở thành một huyền thoại văn hóa của nước Mỹ. Hình ảnh nhân vật trong tiểu thuyết mang ba lô và vẫy tay xin quá giang dọc đường đã tạo cảm hứng cho rất nhiều thanh niên thời kỳ đó cũng như bây giờ bắt chước theo.  Hãy lên xe cùng Sal và Dean, biết đâu bạn sẽ tìm thấy mình ở đâu đó trên con đường dài ấy! Thi Nga Review   Mời các bạn đón đọc Trên Đường của tác giả Jack Kerouac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phía Núi Bên Kia
Xuân Sách (4 tháng 7 năm 1932 – 2 tháng 6 năm 2008) tên thật là Ngô Xuân Sách, ngoài ra ông còn bút danh Lê Hoài Đăng, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được biết tới khi là tác giả phần lời các ca khúc nổi tiếng Đường chúng ta đi (dựa trên tứ thơ của Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên), Cùng anh tiến quân trên đường dài (nhạc Huy Du), đặc biệt nổi bật qua tập thơ Chân dung nhà văn. Cuốn sách Phía Núi Bên Kia nói về câu chuyện của một cậu bé thường nhìn về phía rặng núi xanh mờ của quê mình mà đoán xem phía núi bên kia ấy có những gì. Tác giả viết về những biến cố lịch sử đất nước năm 1945, nhất là nạn đói Ất Dậu, qua con mắt của một chú bé - vừa thương vừa không buồn thảm, lại rất thực. Rồi theo chân bố, cậu cũng đi kháng chiến, phục vụ trong đoàn Văn công thiếu nhi. Hai bố con gặp lại nhau ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. *** K hi có điều gì không bằng lòng về tôi, mẹ tôi thường nói: - Tao nuôi mày ba sống một chết, qua năm lần bảy bận khốn đốn gian nan. Tôi sinh năm con hổ. Nhưng tôi ra đời lại như một con mèo ốm. Bà mụ cắt rốn tôi bằng cái lưỡi hái, tắm tôi trong cái bầu đài bằng mo cau. Bà trao cái thằng bé dăn dúm đỏ hỏn cho mẹ tôi: “Trời cho chị một thằng cu, nhưng chị sẽ vất vả vì nó.” Tôi khóc, khóc ngày này qua đêm khác. Đầy cữ, đầy tháng, đầy năm tôi vẫn khóc. Bú được chút sữa mẹ nào, tôi đều biến thành nước mắt. Khó nói hết nỗi vất vả cực nhọc của mẹ tôi. Sau này khi lớn lên, nhìn những nếp nhăn trên mặt mẹ, vẻ gầy guộc dầu dãi của mẹ, tôi vẫn nghĩ đó là dấu vết những năm tháng mẹ nuôi tôi, những năm tháng mà “nước mắt mẹ dài hơn nước mắt con”. Tôi sống quặt quẹo cho đến năm lên ba thì bị giáng một trận ốm kịch liệt. Một buổi chiều tháng mười ảm đạm, bệnh tôi đã hết phương cứu chữa. Mẹ bế tôi từ trong buồng ra đặt trên cái chõng kề cửa sổ. Tôi thôi khóc, mắt lờ đờ và mồm ngáp như cá đớp mồi khan, bụng chướng lên như cái trống. Chị Lụa năm ấy lên sáu, thấy tôi há mồm liền cầm củ khoai chấm vào: - Em ơi dậy chị cho ăn khoai. Mẹ tôi ngồi canh chừng ủ rũ. Bố tôi lặng lẽ sắp sẵn một manh chiếu, ba cái lạt tre, cái thuổng cái cuốc dựng đầu hè cùng với một bó đuốc. Chờ tôi tắt thở là bố mượn người đưa tôi đi. Trên lớp da bụng căng như mặt trống, ông bác tôi viết vào một chữ “Sát”, chữ nho có nghĩa là giết. Làm vậy là khi tôi chết rồi biến thành ma thì cũng tìm đường cuốn xéo đừng quay lộn về đầu thai vào gia đình làm khổ cha mẹ nữa. Vào thời ấy ở một làng quê hẻo lánh, chuyện thuốc thang thật khó khăn. Bố mẹ tôi đã bán một sào ruộng hiếm hoi của mình để cứu tôi, nhưng lúc này thì coi như tôi sắp vỡ nợ cha mę. Vào đúng lúc ấy, trời nhá nhem tối, có một người lạ vào nhà tôi. Ông khách kỳ dị mặc bộ quần áo nâu cũ, vai khoác cái bị cói, đầu đội cái nón rách úp sụp xuống mặt. Trông chẳng khác gì một người ăn mày, thuở ấy ăn mày không thiếu. Ông khách vào ngõ là đi sục luôn vào nhà. Bố tôi sửng sốt, nhưng khi chủ khách nhận ra nhau thì lập tức khép kín cửa lại. Ông khách thăm tôi rồi nói vội: - Cho tôi cái bát và ít nước. Ông moi trong người ra một khúc gỗ đen bóng bằng đầu ngón tay cái, rồi mài vào bát nước vối. Bố tôi lấy đũa cả ngáng mồm tôi cho ông khách đồ bát nước ấy vào. Ông khách lấy tay xoa nhẹ bụng tôi. Cái bàn tay mầu nhiệm của ông khách bí ẩn đã làm cho cái bụng căng cứng của tôi bỗng chốc mềm ra và sôi lên ùng ục như biển động. Rồi tất cả những thứ gì chứa trong cái bụng ấy được tống ra ngoài làm nồng nặc cả ba gian nhà. Cái thằng tôi do quá thiết tha với cuộc đời đã cựa mình, mở mắt và cất tiếng khóc. Có lẽ đó là tiếng khóc mà bố mẹ tôi nghe một cách sung sướng kể từ sau tiếng khóc chào đời của tôi. Chị Lụa níu tay mẹ tôi: - Không chôn em nữa chứ mẹ? Mẹ tôi mắng chị qua nước mắt: - Mày chỉ dại mồm dại miệng. Chị vui lên, em sẽ sống và ăn khoai với chị. Bố tôi bê nồi cơm nguội và một đĩa thức ăn xoàng xĩnh bày mâm mời ông khách ăn. Ông vừa bỏ nón để lộ cái đầu trọc, ngồi lên giường bê bát cơm thì nghe phía nhà lý trường có hồi trống thúc gọi tuần đinh một cách hối hả, ông khách đặt bát cơm xuống nhìn bố tôi. Bố tôi nói khẽ: - Để lắng xem thế nào đã anh. Ông khách ngần ngừ một lát rồi vớ vội cái nón: - Tôi phải đi. Bố tôi lo lắng vặn nhỏ ngọn đèn. Ông khách đeo bị, đưa cho bố tôi cục gỗ mài cho tôi uống ban nãy: - Anh cầm lấy. Đây là miếng kỳ, vị thuốc quí của gia đình tôi còn lại, anh giữ lấy mà dùng cho cháu. Mẹ tôi xúc động: - Ơn anh đã cứu cháu. - Tôi chịu ơn anh chị nhiều, dịp khác tôi lại về. Bố tôi còn kịp đổ ít cơm nguội vào trong bị và đưa ông khách ra cửa sau. Trước khi từ giã, ông nói: - Dạo này bọn chó đánh hơi gớm lắm, anh phải cần thận. Bố tôi mở rào cho ông khách đi ra, xóa vết chân rồi quay vào nhà, chưa kịp nói gì thì lý trưởng đến. - Chào cụ lý. - Bố tôi lễ phép mời lão ngồi. - Nhà có chuyện gì đấy ? - Lý trưởng vừa hỏi vừa đảo mắt nhìn khắp nhà. Biết ông khách đã đi thoát, bố tôi bình tĩnh. - Dạ thưa cụ, nhà có thằng cháu ươn người, đã tưởng là không qua được, nhưng may mà bệnh cháu đã chuyển. - Thuốc gì mà chuyển? Mẹ tôi đã bưng lên một đĩa trầu, đỡ lời: - Thưa cụ, cùng quá cũng vơ nhăng vơ quàng mớ rễ mớ lá, may nhờ phúc cụ lý nó lại hợp với bệnh cháu. - Tôi làm gì mà phúc với đức. - Lão lý vẫn chân ngồi chân đứng, tai ngóng ra ngoài ngõ, lão vớ miếng trầu nhai rồi nói lúng búng: - Đêm hôm tôi cũng đi dạo một vòng, thấy nhà có việc tôi ghé vào, thôi tôi về. Bố tôi tiễn lý trưởng ra ngõ. Lão nói nhỏ: - Anh phải biết rằng nếu tôi không đánh hồi trống gọi tuần đinh thì sự việc đã khác. Tại sao tôi lại đánh trống, anh hiểu chứ ? - Đội ơn cụ. - Ơn huệ gì. Liệu đấy, đầu anh không giữ được đã đành, mà tôi rồi cũng không còn chỗ đội nón vì anh đấy. Quá lắm thì tôi không thể dung được đâu. - Dạ. - Dạo này có túng bấn lắm không? - Sống ra sao mà cụ chẳng biết, cũng cố chèo chống cho qua. - Này, Nhật vào Đông Dương rồi anh biết không ? - Dạ. - Làng trên đã có truyền đơn của Việt Minh rồi đấy, bao giờ thì đến lượt làng này? - Dạ. - Ối giời ơi! - Lão lý phát cáu - Anh cứ vờ vờ vịt vịt. Thời buổi rối như mớ bòng bong, chẳng biết đâu mà lần. - Cụ lại nhà.   Sau trận ốm ấy, tôi thay đổi hẳn. Tôi khỏe lên và ăn trả bữa. Bây giờ thì bố mẹ lại vất vả lo cho tôi ăn. Tôi ăn không biết no, biết chán. Lúc nào cũng ăn được, lúc nào cũng quấy khóc đòi ăn. Lên năm, lên sáu vẫn thế. Ăn ở nhà, rồi mò đi ăn chực hàng xóm. Ăn chực một bát lại đòi hai. Trẻ con trong xóm cho em ăn thường dọa: “Mày không ăn, thằng Đen đến nó ăn hết bây giờ”. Thằng Đen chính là tôi. Tên tôi là Hòe kia, nhưng vì tôi đen nên người ta gọi như thế. Sau này người ta vẫn gọi tôi là thằng Hòe đen. Bố tôi đi làm thuê, hôm nào làm ở trong làng mà tôi biết, tôi cũng mò đến. Mùa gặt, tối về bố tôi trục lúa cho nhà chủ, tôi đến nằm ở gốc rơm đánh một giấc, và lạ lùng thay khi làm lúa xong, thợ gặt dọn mâm bát ăn cơm là tôi vùng dậy ngay, tỉnh như sáo mon men kiếm một bát cơm. Một lần ăn xong, hai bố con về nhà, tôi nói líu ríu, bố tôi giận: - Lần sau tao cấm mày đi. - Sao thế bố ? - Sao nữa, lần sau mày theo đi tao đập chết. - Rồi bất ngờ bố tôi thở dài dịu giọng - miếng ăn nhục nhã lắm con ơi!   Mời các bạn đón đọc Phía Núi Bên Kia của tác giả Xuân Sách.
Đầu Xanh Tuổi Trẻ
Review Nguyễn Hữu Cát:   Không hiểu sao khi đọc xong “Crôtcaia” – một truyện ngắn giả tưởng của Dostoevsky, tôi cứ luôn ao ước (như Pautopsky) được nhìn vào đôi mắt của nhà văn, nơi câu chuyện được sinh ra. Chẳng biết khi đặt bút viết những lời kết, có dòng lệ nào lăn chảy trên gương mặt gày gò của ông hay không và đôi mắt màu nâu xám có ánh lên tia nhìn buồn bã, thương cảm và bàng bạc niềm u uẩn không? Chỉ biết rằng nếu được nhìn vào đôi mắt ông, có thể tôi sẽ hiểu được nhiều điều bên dưới những con chữ kia. Phải, truyện ngắn này gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt, một xúc cảm mạnh mẽ và một chấn động kinh hoàng. Nó giống như một cơn mộng mị mà khi tỉnh dậy ta còn bàng hoàng không biết là thực hay là mơ? Dostoevsky thích tạo ra mâu thuẫn và những điều bí mật, thậm chí “những điều kỳ quặc” trong kết cấu tiểu thuyết của mình và cho rằng không nhất thiết một tác phẩm phải trình bày tuần tự, sáng rõ để người ta hiểu ngay từ lúc ban đầu. Ông có thiên hướng kích thích người đọc phải săn tìm những điều bí mật ẩn sâu trong tác phẩm. Chính vì thế, ông thường tạo kịch tính ngay ở đầu, ngay ở phần mở đầu tiểu thuyết với những câu hỏi hóc búa. Ông cũng làm như thế với những truyện ngắn của mình. Từ hình thức tự do không giới hạn của tiểu thuyết chuyển sang hệ thống chặt chẽ và khép kín của truyện ngắn, Dostoevsky đã đạt đến đỉnh cao mới của nghệ thuật viết truyện. “Crôtcaia” (hay “Người đàn bà nhẫn nhịn”) là một truyện ngắn bi kịch có sức mạnh phi thường, nó đạt tới độ tự chiếu sáng, vừa trong sáng, mực thước như một họa phẩm chân dung của Rembrant thời Phục hưng, vừa sâu sắc, súc tích như một thi phẩm tình yêu của Puskin. Đọc truyện “Crôcaia” ta có cảm giác như bước vào một căn phòng tối, xa lạ, không nhìn thấy gì và không biết gì hết. Đến khi quen với bóng tối, mắt ta trở nên tinh hơn và bắt đầu nhận biết được các sự vật. Dostoevsky đã phá hủy hình thức bền vững của truyện ngắn cổ điển, ông đưa người đọc đến ngay một sự cố bất thường rồi sau đó phát triển số phận và nhân cách của nhân vật trong giới hạn của sự căng thẳng tinh thần mà nhân vật phải đối đầu. Nói cách khác, nội dung và tính kịch của truyện ngắn được khép kín trong vòng tròn độc nhất của “tai biến nội tâm”. Tất cả được tập trung, xâu chuỗi, đắp nổi cho hình tượng nhằm làm nổi bật cái chấn động tinh thần dữ dội ở nhân vật. Tấn bi kịch của câu chuyện được nhà văn gỡ nút ngay từ sự gợi mở ban đầu: Một người chồng đau khổ, trên bàn của anh ta là thi thể người vợ, trước đó mấy giờ cô ấy lao mình ra ngoài cửa sổ tự tử. Anh ta đang trong cơn bối rối, hoảng loạn, và muốn hiểu chuyện gì đã xảy ra, cố gắng “tập trung mọi ý nghĩ vào một điểm”. Đoạn kết của câu chuyện được đặt thành đoạn mở đầu đã xác định cấu trúc vòng tròn của truyện ngắn. Đó là kiểu “truyện ngắn xoáy trôn ốc”, các đường xoáy của nó tách ra dần điểm xuất phát nhưng điểm gỡ nút ở cuối đường xoáy lại được đặt ngay lên phần đầu. Chương đầu tiên có tên gọi: “Tôi là ai và nàng là ai”. Nhà văn bắt đầu đưa người đọc dõi theo tiểu sử của nhân vật nữ chính trong truyện, số phận bất hạnh của cô cùng tính cách của một tâm hồn non trẻ bị xúc phạm và đè nén trước những bước đi thô bạo của cuộc đời. Mồ côi cha mẹ từ năm mười hai tuổi, cô phải sống trong sự ghẻ lạnh của hai bà dì và gần như trở thành nô lệ cho họ. “Chẳng có tội gì họ cũng đánh đập nàng, cũng đem miếng cơm, manh áo ra mà chửi nàng. Kết cục là họ có ý định đem bán nàng đi”. Thế là Crôtcaia lúc bấy giờ sắp bước sang tuổi mười sáu phải tìm mọi cách thoát thân bằng việc đăng báo tìm việc làm hoặc chốn nuôi ăn. Để có tiền trả công quảng cáo, cô đã phải đem đến tiệm cầm đồ những vật rẻ tiền của cha mẹ: một đôi hoa tai bạc mạ vàng, một cái huy chương bong nước mạ, một viên đá chạm, bức tượng thánh cổ có cái khung bằng bạc… Trong những thứ đó, bức tranh thánh là một hình ảnh nghệ thuật đầy sức ám ảnh mà chúng ta sẽ thấy trong phần cuối cùng của vở bi kịch và đóng vai trò quyết định trong việc hình thành ý đồ sáng tác của Dostoevsky. Đan lồng với câu chuyện số phận của nhân vật nữ là câu chuyện tiểu sử của ông chủ hiệu cầm đồ – sau này là chồng của cô và là người kể lại toàn bộ tấn bi kịch. Đó là một người đã luống tuổi, nghiêm nghị và lãnh đạm với mọi người. Ông ta bị đuổi khỏi trung đoàn và bị sỉ nhục là hèn nhát, không dám nhận lời thách đấu với kẻ thù đã nói xấu cấp trên của mình. Nhưng bản thân ông ta không chấp nhận sự xúc phạm này, dũng cảm coi thường dư luận và sự kết tội bạo ngược. Thế là “từ một người cao thượng ông ta trở thành một người cho vay nặng lãi”. Toàn bộ không gian câu chuyện đều dành hết cho hai nhân vật này. Mặc dù kết cấu của truyện ngắn là tính cô đọng nhưng hai nhân vật này đều được miêu tả khá cặn kẽ qua bút pháp của nhà văn. Như một nghệ sĩ nhiếp ảnh bậc thầy, Dostoevsky nắm bắt những khoảnh khắc đáng ghi nhớ ở nhân vật, làm sống động những vẻ đẹp chợt hiện ra. Ông đặc biệt chú ý đễn những biểu hiện đa dạng trên nét mặt con người, bởi “chỉ trong những khoảnh khắc hiếm hoi, nét mặt con người mới thể hiện rõ đặc điểm cơ bản của mình” (tiểu thuyết ” Đầu xanh tuổi trẻ”). Trên nét mặt Crôcaia thể hiện một nỗi u uẩn, sự kinh ngạc nhiều khi thành hãi hùng trước những cơn bão tham tàn của cuộc đời và cả sự cao thượng của một tâm hồn thơ trẻ. Vóc dáng bề ngoài của cô không quá đặc biệt nhưng vẫn gây chú ý và thiện cảm tới người đọc: vóc người mảnh dẻ, tóc vàng, đôi mắt màu xanh, to đẹp, và trầm ngâm. Cái nhìn nhiều khi nghiêm khắc và nụ cười luôn chứa đựng hoài nghi. Toàn bộ con người Crôtcaia cho tôi cái cảm giác về một sự lắng đọng và chưa định hình của đường nét. Nó giống như bức tranh vừa được phác thảo bằng bút chì. Bên cạnh đó, chân dung tự họa của nhân vật kể chuyện giúp ta hình dung rõ nét hơn mặc dù chỉ là những nét khái quát: đó là một sĩ quan về hưu của một trung đoàn lừng danh, một người có vóc dáng cân đối, cao đẹp và có học thức. Cái nút lãng mạn của câu chuyện mà từ đó tấn bi kịch xảy ra chính là mối quan hệ của người cho vay nặng lãi với cô gái nghèo đáng thương. Cô gái lấy người cho vay nặng lãi. “Thực ra cô ta chẳng biết nhờ cậy vào ai”. Cái ý nghĩ “năm nay tôi bốn mươi mốt tuổi còn nàng vừa đến tuổi mười sáu” đã mê hoặc người kể chuyện – “đó là cảm giác không cân đối, ngọt ngào quá, ngọt ngào quá”. Thế nhưng thực tế, cuộc sống vợ chồng của họ thì ra sao? Có ngọt ngào không? Chính trong lúc bắt đầu một cuộc sống mới với người vợ trẻ, ông ta đòi hỏi một tình cảm lớn, phác thảo những suy nghĩ, mở ra những ý định và những dự kiến thầm kín. Ông ta “tạo ra cả một hệ thống”, một sự nghiêm khắc, giá lạnh, kìm hãm niềm hăng say của tuổi trẻ, một quá trình tính toán nhưng điều độ, lịch thiệp nhưng hết sức tiết kiệm. Và điều quan trọng nhất chính là sự tiết kiệm, ông ta cần có ba chục ngàn để đến sống vĩnh viễn ở Crưm. Tuy nhiên, câu chuyện về cuộc sống vợ chồng của họ tự nó “đi bước đầu tiên”. Một sự im lặng bao trùm, một sự lạnh lung khó hiểu, ngoài những cơn cãi cọ thì giữa họ là một khoảng lặng. “Nổi loạn và độc lập” – đó là những gì bắt đầu manh nha trong tâm tính Crôtcaia, “nàng phản kháng không phải là sự nghèo khổ, mà dường như là tính tằn tiện trong việc tiết kiệm” của chồng. Mối bất hòa của họ tăng lên khi nàng đột nhiên nghĩ ra cách trả tiền theo cách riêng của mình, đánh giá các đồ gửi cao hơn giá trị và đã không được sự chấp nhận của chồng, vốn là người tiết kiệm và ghét thói xa xỉ. Thế là Crôtcaia nổi loạn. Dostoevsky đặt tiêu đề cho chương này là “Người đàn bà nhẫn nhịn vùng lên”. Cô ta quyết định trả thù người làm ơn nhưng cũng là người làm khổ cô ta. Để trả thù, cô tìm đến người bạn cũ của chồng, viên sĩ quan Ephimovich, kẻ khởi xướng việc đuổi chồng cô ra khỏi trung đoàn và đã hẹn hò với hắn ta. Nhưng ngay trong buổi hẹn hò đầu tiên của họ, người chồng đã theo dõi họ từ gian phòng bên cạnh với khẩu súng lục trong túi. Dostoevsky đã diễn tả một cách ngắn gọn và hàm súc cuộc gặp gỡ này như một đoạn phim ngắn. Nhân vật nữ “trong phim” đã tạo ra cao trào khi chính cô đã tỏ ra là một người cao thượng, một kẻ vô tội, “cơn thịnh nộ làm cho trái tim nàng thốt ra những lời cay độc” trước tên Ephimovich. Điều này đã khiến người chồng tin tưởng vào sự trong sạch của nàng. Anh ta phá ngang vở kịch bằng cách mở tung cửa và đưa Crôtcaica đi. Thế nhưng, bi kịch lại nối tiếp bi kịch, một xung đột mới tiếp ngay sau sự kết thúc của xung đột trước. Đỉnh điểm của câu chuyện bắt đầu khi người thiếu phụ trẻ dí mũi súng vào thái dương người chồng đang ngủ. Nhưng thực ra ông ta không hề ngủ. Ông ta biết hết chuyện gì đang diễn ra. “tôi nghe thấy tất cả, mặc dù lúc đó là thứ im lặng chết chóc, nhưng tôi nghe thấy thứ im lặng đó”. Mắt họ đã giao nhau chính trong khoảng khắc chết người đó. Một hành động co giật đã khiến ông ta mở mắt và bốn mắt họ gặp nhau. Tại sao ông ta không chống cự lại? “Cuộc sống của tôi còn để làm gì nữa sau khi con người mà tôi say đắm đã nâng khẩu súng chĩa vào tôi?”. Hóa ra ở thẳm sâu tâm hồn người cho vay nặng lãi nghiêm khắc và lãnh đạm này vẫn ẩn giấu một tình cảm lớn lao, câm lặng và vô vọng. Dostoevsky đã tạo dựng một tấn bi kịch nghẹt thở ngay ở điểm trung tâm của câu chuyện. Một bước ngoặt bất ngờ của một mưu đồ đã được vẽ ra nhưng mờ khuất trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của những biến động nội tâm. Và từ đây, câu chuyện đột ngột rẽ sang một hướng khác. Đúng hơn là rơi vào một khoảng ngưng dài mà tính kịch của nó chỉ tiếp tục khi có sự bột phát và chấn động mới ở tâm hồn nhân vật. Phần thứ nhất của câu chuyện dừng lại ở cuộc ly hôn giữa đôi vợ chồng trẻ. “Cô ta đã thắng nhưng không được tha thứ”. “Yêu đời vì đời, và mơ mộng vì tình yêu thực tại“, làm khổ mình vì mình và yêu thương kẻ khác cũng vì mình, nhân vật của Dostoevsky nhiều khi khiến chúng ta không thể hiểu nổi. Họ hiền hậu, vô tâm, lãnh đạm, hoặc ác nghiệt chăng? Không hoàn toàn! “Họ là những người của sự bắt đầu lại“(Xvaig). Họ luôn bị kích động và rối loạn. Họ như đến từ thế giới khác, họ thờ ơ với tất cả, coi khinh tất cả và chẳng trông mong điều gì. Dường như Dostoevsky đã không thể như các nhà văn khác ( Dicken chẳng hạn) chỉ ra cho các nhân vật của mình cái thi vị dưới lớp tro của cuộc sống hàng ngày đơn điệu và bắt họ hãy an lạc trong chính bản thân mình. Các nhân vật của ông thường hay nổi loạn, “ý chí của họ phủ nhận cõi hạ giới này và ngang nhiên bất bình với cuộc đời trước mắt” và điều đáng sợ hơn là họ chối bỏ những gì là thân thiết với mình, sẵn sang bùng cháy như một ngọn lửa. Ở hai nhân vật chính của câu chuyện này, ta có cảm giác niềm căm phẫn luôn giống tình yêu và tình yêu luôn giống niềm căm phẫn. Với họ, mỗi oán thán là một lỗi lầm, và mỗi nhún nhường là một biểu hiện yếu đuối. Họ ngấm ngầm đối đầu nhau, không ai phục ai, không ai nhường ai. Tuy nhiên, cuộc giằng co này đã bị phá vỡ ở phần tiếp của câu chuyện trong một xung đột tâm lý mới. Đỉnh điểm của tấn bi kịch sẽ hòa lẫn với đoạn kết của nó. Tình yêu của người chồng đối với Crôtcaia là sự căm phẫn đã được biến đổi, là lòng thương hại chuyển hóa từ nỗi khỉnh bỉ, là sự hờn dỗi, báo thù, hành hạ, song xen vào tất cả, có một thứ tình cảm ấm nóng nguyên sơ, một tình yêu say đắm chân thành vẫn luôn im lìm, ấp ủ nhựa sống bên trong con người ông ta. Chính hạt giống tinh thần ấy đã đánh vỡ sự lạnh lùng đông cứng trong tâm hồn người cho vay nặng lãi. Ông ta “không thể kìm hãm cơn hào hứng đã sôi động trong trái tim”, “toàn bộ con người tôi xốn xang và thế là tôi té xỉu dưới chân nàng. Đúng là tôi đổ vật vào chân nàng. Nàng đứng phắt dậy, nhưng tôi đã huy động một sức mạnh phi thường dang cả hai tay ôm chặt nàng lại”. Hành động của người chồng là biểu hiện “đầy say mê đến mức độ đau khổ” những cơn dằn vặt đầy ẩn ức đã chất chứa trong lòng ông bấy lâu. Ông ta cứ nhắc đi nhắc lại từng phút một: “anh sẽ không đòi hỏi bất cứ điều gì nơi em, em không phải trả lời anh bất cứ câu gì, em hoàn toàn không phải để mắt đến anh, chỉ cần cho anh được đứng nơi góc nhà nhìn em là đủ, em hãy biến anh thành một thứ đồ vật, thành một con chó con của em”. Rồi ông ta rủ cô đi về miền Nam, đi Pháp, “mà cái chủ yếu là phải đi Bulônnhơ, đi Bulônhơ!”. Ông ta tin rằng Bulônnhơ là tất cả, rằng ở đấy sẽ có một cái gì kết thúc trọn vẹn, và “tình hình sẽ khác hẳn“. Thế nhưng chính trong cái thời điểm ông ta đang cao hứng, đang tràn trề hi vọng, đang tin tưởng một cách nhiệt thành rằng “màn khói sắp rơi xuống” thì tai họa cuối cùng chín muồi, mọi thứ đột nhiên sụp đổ. Cơn bộc phát nội tâm và niềm say mê muộn màng của người chồng đã chẳng đem đến một tia sáng nào. Crôtcaia đã từ chối những tình cảm mãnh liệt đến với mình. Nàng cầm trong tay vật thiêng liêng – bức tranh thánh mà cha mẹ để lại – nhảy qua cửa sổ giữa đôi tay giang rộng của Thần chết. Vụ tự tử này nằm trong sự tương phản nội tại của sự kiện, sự kết hợp bất thường giữa nỗi tuyệt vọng và niềm tin, giữa hủy diệt và cơ hội phục sinh, giữa cái chết và tình yêu. Cái kết cục bi kịch đã tháo tung ra mọi quan hệ thầm kín và rắc rối. Người chồng gắng sức biện bạch bằng sự ngẫu nhiên. Chính điều này là lý do mà ngay từ sự xuất hiện ban đầu, ông ta đã đem lại cho tôi ấn tượng về sự ngu dại. Tuy nhiên, sau đó tôi phải thay đổi ngay cách nhìn của mình, chính sự ngẫu nhiên cay đắng đã đẩy ông ta vào cơn đau khổ cùng cực, khiến cho tâm hồn ông ta bị vỡ tung ra thành nhiều mảnh. “Điều chủ yếu, điều đáng giận là tất cả những chuyện ấy lại là ngẫu nhiên, một thứ ngẫu nhiên đơn giản, dã man và hủ lậu!”. Ông ta gào lên: “Ôi man rợ, man rợ! Vô lý! Không có lẽ! Không thể thế được!” Sự trùng hợp quái ác nào đây, cơn điên loạn cùng cực nào đây, địa ngục tăm tối nào đây, lỗi lầm mù quáng nào đây? Hay tất cả chỉ là trò chơi tàn nhẫn của định mệnh, là sự trêu cợt cố ý của tạo hóa? Nhân vật gần như phát điên, ông ta đang trong sự đày ải của ý thức, trong những đau khổ giằng xé, trong những cơn sốt, những cơn co thắt. Kẻ cô đơn giờ đây đã mất hết mọi thứ, ông ta chẳng còn thiết tới những luật lệ nữa, tự nguyện dứt bỏ mọi quy luật của cuộc sống. “Người ta bảo rằng mặt trời làm sống dậy vũ trụ. Bao giờ mặt trời mọc lên, các vị thử nhìn mà xem, đó chẳng phải là một xác chết hay sao? Tất cả đều chết, khắp nơi là những xác chết”. Đối với con người đang vấp phải những chấn động dữ dội trong tinh thần thì mọi cái đều đã tiêu ma. Còn gì níu kéo nữa đâu? Thiên nhiên, tín ngưỡng, đạo đức, tình yêu, lòng vị tha…? Cái gì có thể lấp đầy sự trống rỗng của tâm hồn ta khi người con gái ta yêu đã rời bỏ ta, rồi ta sẽ ra sao? Ta đã chết niềm tin vào cuộc sống với những nguyên tắc và quy luật của nó, ta còn có thể làm gì đây, còn có thể làm gì khi chính chúng đã xúc phạm ta??? Có thể nói,”Crôtcaia” là một mẫu mực xuất sắc về độc thoại nội tâm của Dostoevsky. Thông qua quá trình nhận thức mọi biến cố đã xảy ra bằng cách “cố gắng tập trung mọi ý nghĩ vào một điểm” và cách lập luận, suy nghĩ biện chứng phức tạp của người kể chuyện, nhà văn đã ghi lại tư tưởng hỗn loạn, tuyệt vọng của con người đau khổ khiếp sợ trước sự cô độc của mình. Ở đây có một cái gì thầm lặng và khó đoán định. Một cái gì gần như là chân lý. Sự khủng hoảng thế giới quan, những chấn động tư tưởng và sự sụp đổ tinh thần phải chăng là tấn bi kịch muôn đời của con người? Muốn viết được một câu chuyện có sức hấp dẫn nghệ thuật đặc biệt, nhà văn “cần phải dự trữ một hoặc một vài ấn tượng mạnh mẽ mà con tim tác giả đã thể nghiệm thực sự” (Dostoevsky). Tất cả những gì được truyền tải qua các hình tượng nghệ thuật đều mang trên mình nó dấu ấn những xúc động, tình cảm, khát vọng của nhà văn, những cơn “lắng đọng trong câm lặng” và cả “những giây phút hào hển của những khoảnh khắc bi tráng”. Nhà văn phải hóa thân thành hình tượng đã tưởng tượng ra. Điều này không hề dễ dàng. Ở tác phẩm này, Dostoevsky đã phải hóa thân vào hai nhân vật, khi là cô gái nhu mỳ mười sáu tuổi với tâm lý thơ trẻ, với những cơn bộc phát cảm xúc, thốt nhiên bừng giận, thốt nhiên hổ thẹn, khi thì trở thành người đàn ông cho vay nặng lãi với những cơn kịch biến trong tư tưởng và tâm hồn. Trong những lần hóa thân ấy, cái được nhận thức và cái được thể nghiệm đã kết thành một hợp chất hữu cơ. Tuy nhiên, phạm vi của cái được nhận thức và chiều sâu của cái được thể nghiệm nhiều khi không hề trùng khớp với nhau. Chính điều này đã tạo nên vẻ bí mật cho các nhân vật của Dostoevsky mà chính ông cũng không thể lường hết được rốt ráo cái chiều kích khôn lường của tâm hồn nhân vật và chụp cho nó cái khung. Bóng dáng của chúng không phải khoan thai bước từng bước vững chãi trên “đại lộ của đời thương” mà chập chờn trong cuộc dấn thân miên man vào “mê lộ của cái khác thường”, trong bóng tối, ảo giác, với những nỗi ám ảnh, những cơn khô kiệt, những cuộc hủy diệt, nổi dậy, tan rã. Ở Crôtcaia và người đàn ông cho vay nặng lãi, chúng ta nhìn thấy một sự bùng cháy bên trong, sự bùng cháy tưởng như có thể đè nát ý thức nhân vật và ở đỉnh điểm của nó có khả năng đưa đến nỗi đau khổ vô bờ bến. Mọi thể chế, quy phạm của truyện ngắn cổ điển dường như đánh mất mình ngay trong tác phẩm này của Dostoevsky. Ông đã đặt toàn bộ cuộc đời con người vào hình thức nhỏ bé của truyện ngắn, chỉ ra ranh giới giữa vĩnh cửu và thân xác phù sinh của họ, thông qua những mâu thuẫn, giằng xé để đi đến đường biên tột cùng của sự nổi loạn. Và tất cả được thể hiện bằng những phương pháp và nguyên tắc sáng tạo cao nhất của nhà văn. “Crôtcaia” đã đem đến cho tôi nhiều suy nghĩ mới mẻ, nhiều ấn tượng lạ lẫm về cuộc sống và chiều sâu thế giới tinh thần con người. Tác phẩm đã không cho phép tôi quên tình cảm cao thượng của sự nhún nhường, những đày ải của sự câm lặng và nỗi đau có thể đến từ những điều ta không thể ngờ. Có lẽ chưa từng có truyện ngắn nào khiến tôi phải thổn thức nhường ấy, nào biết đó là nỗi thổn thức của riêng tôi hay là nỗi thổn thức của cả cuộc sống đây…? (24/01/2013) *** Dostoievski: tiếp tục Ngập ngừng, tôi định viết tiếp bài ở kia, rồi tôi lại thôi, chờ đợi tiếp. Chờ đợi cái gì thì tôi không rõ. Cuốn tiểu thuyết Thằng ngốc là một trong những gì gây choáng ngợp nhất mà Dostoievski từng viết, sự choáng ngợp bắt đầu từ dòng đầu tiên, khi đoàn tàu hỏa từ hướng Vacsava bắt đầu chạy vào địa phận Saint-Petersburg. Một cuốn tiểu thuyết Nga khác cũng mở đầu bằng đoàn tàu: Anna Karenina, nhưng tất nhiên cuốn sách ấy rất khác so với Thằng ngốc. Dostoievski đã đọc, dường như rất kỹ, Anna Karenina, và có ghi lại vài điều; chưa bao giờ Dostoievski và Tolstoy gặp nhau: họ từ chối gặp nhau. Tôi cũng ngập ngừng, sau ba tập sách dày (xem ở kia), tức là đến 1864, mãi không quyết định được là có tiếp tục không. Nếu tiếp tục, thì tức là sau (ngay sau) Balzac, tôi sẽ đọc (trong đó một số là đọc lại, nhưng cũng có những thứ lần đầu tiên đọc: điều này rất quan trọng, tôi sẽ còn trở lại sau) hết sạch Dostoievski. Nếu "theo" các bản dịch của André Markowitz, cụ thể là theo ấn bản trong tủ "Thesaurus" của nhà xuất bản Actes Sud, thì tổng cộng có năm tập to; sau khi xơi tái xong ba tập đầu, tôi đã đi đến quá nửa. Tôi ngập ngừng rất lâu (lâu hơn "mức bình thường" của tôi nhiều). Vả lại, vì trước đó tôi đã đọc "lẻ" Karamazov (trong ấn bản cũng của Actes Sud nhưng không thuộc hệ thống năm tập "Thesaurus") nên thành thử tôi đã đi xong đoạn đầu và cuốn tiểu thuyết lớn nhất của đoạn cuối: ta nhớ Karamazov in năm 1880, đó chính là tác phẩm lớn cuối cùng của Dostoievski, sau đó chỉ còn một "đít cua", một bài phát biểu về Pushkin nữa, rồi Dostoievski chết. Cuối cùng, tôi cũng quyết định. Tôi quyết định nhảy xuống nước. Tôi đọc (lần này, vẫn là đọc lại) cuốn tiểu thuyết lớn ngay trước Karamazov: Trong tiếng Việt, tác phẩm này hay được gọi là Đầu xanh tuổi trẻ. Đây là cả một sự kinh dị lớn lao. L'Adolescent (Đứa thiếu niên) là một niềm kinh dị. Đọc lại nó, tôi bắt đầu hiểu tại sao tôi (từng) ngập ngừng đến thế. Tôi đã dự cảm được, ở lần đọc lại cuốn tiểu thuyết này, tôi sẽ thấy. Thấy gì? Đứa thiếu niên là một sự hội tụ của một điều rất quan trọng. Điều này liên quan đến cả Dostoievski lẫn độc giả siêu hạng nhất của Dostoievski: Bakhtine. Đứa thiếu niên (1874-1875) cho thấy một điều đối với tôi đã tường minh hơn bao giờ hết: thời điểm viết cuốn tiểu thuyết này, Dostoievski đã nhìn thấy. Đã nhìn thấy điều then chốt nhất, chính là điều làm cho Dostoievski trở nên quan trọng như vậy (tôi muốn nói: gây phiền nhiễu lớn đến vậy; bởi vì không nhà văn nào gây nhiều trắc trở cho đọc như Dostoievski; đọc Dostoievski chính xác là độ không của đọc: tôi nghĩ là tôi nhìn thấy một điều rất quan trọng, có biểu nghĩa rất lớn, ở việc trong suốt cuộc đời Roland Barthes hết sức tránh nhắc đến Dostoievski; bởi vì phải tránh thôi). Tôi hình dung Bakhtine cũng nhìn thấy như vậy; nói đúng hơn, Bakhtine đã theo chuyển động của Dostoievski (chuyển động thuộc loại khó hình dung nhất - chính vì vậy văn chương Dostoievski gây phiền nhiễu khủng khiếp đến vậy) và đến chỗ chuyển động trở nên tường minh, nói ngắn gọn, đến chỗ chuyển động chạm đến cấu trúc. Những điều tôi vừa nói chắc chắn trông có vẻ trừu tượng (nhưng cả ở đây, tôi cũng thấy chúng hết sức cụ thể), tôi sẽ còn quay lại, một cách kỹ càng: cụ thể hơn nữa, tôi sẽ dựng lại câu chuyện Bakhtine đọc Dostoievski. Bakhtine đã nhìn thấy gì? Đứa thiếu niên, trước hết, là khi Dostoievski nghịch với một điều: sự trùng tên. Ai từng đọc cuốn sách này còn nhớ thằng bé nhân vật chính khi đi học rất khốn khổ vì trên giấy tờ nó mang họ "Dolgorouki" tức là giống họ một gia đình "ông hoàng" cực kỳ danh giá; không một ai không hỏi nó có phải là "prince" hay không, nhưng về danh nghĩa nó lại là con của một cựu nông nô (mặc dù sự thật thì nó là con một người danh giá hơn nhiều, Versilov). Chưa hết, Dostoievski còn tạo ra hai gia đình cùng là "prince" nhưng hoàn toàn không liên quan gì đến nhau, và đều có họ Sokolski. A, nhưng tại sao lại có lắm "prince" như thế? Ta nhớ, nhân vật chính của Thằng ngốc cũng chính là một "prince", và các "prince" xuất hiện ở khắp mọi nơi trong (gần như) mọi tác phẩm của Dostoievski. Đó là vì xã hội Nga hồi đó rất nhiều "prince". Tôi đã phải đọc hàng đống thứ để cố tìm hiểu tại sao lại có lắm "prince" Nga như vậy; ở một khía cạnh khác, một nhân vật trong Karamazov (chuyện "một nhân vật" là hết sức quan trọng, tôi sẽ còn quay trở lại) cũng phát biểu đầy khinh miệt rằng người Ba Lan quái nào cũng là "bá tước" hết: điều này rất đúng: trong một câu chuyện của Balzac nhân vật chính là một quý tộc Ba Lan, Laginski, và đó cũng là một bá tước (xem ở kia). Tôi nhắc ngay đến Balzac là vì Đứa thiếu niên, trong mắt tôi, là cuốn tiểu thuyết rất Pháp (cuốn tiểu thuyết "rất Anh" của Dostoievski, chắc nhiều người biết, là Những kẻ tủi nhục); thậm chí tôi còn nghĩ là tôi thấy âm hưởng Balzac trong Đứa thiếu niên: một nhân vật phụ, bạn học của thằng bé nhân vật chính tên là Lambert, một học sinh, và tên là Lambert, đương nhiên ta nghĩ đến Louis Lambert của Balzac, không những thế, trường mà bọn trẻ con theo học trong Đứa thiếu niên tuy ở Nga nhưng lại là trường của một người Pháp, Touchard; nếu điều tôi vừa nói là "quá yếu" thì vẫn còn một điều nữa tuyệt đối không thể chối cãi: Đứa thiếu niên có (một trong những) chủ đề chính là chủ đề không thể balzacien hơn: tiền. Nói thêm về sự trùng tên: suýt thì ta còn có thêm một sự trùng tên quái đản nữa, nếu nhân vật (phụ) Akhmakova được Dostoievski viết thành (Anna) Akhmatova. Nhảy xuống nước rồi, tôi thấy không có lý do gì để không tiếp tục. Dưới đây là một tác phẩm ngắn, nó nằm xen vào giữa Đứa thiếu niên và Karamazov: Mời các bạn đón đọc Đầu Xanh Tuổi Trẻ của tác giả Dostoievski.
Muốn Khóc Thật To
Muốn Khóc Thật To là tiểu thuyết mới của Sơn Paris - một hot boy 9x hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật được đông đảo bạn trẻ biết đến. Cuốn sách là lời tự sự dành cho tất cả những trái tim cô đơn và khao khát yêu thương. Muốn Khóc Thật To là tiểu thuyết tình yêu chất chứa nhiều cung bậc cảm xúc khiến trái tim người đọc tan chảy. Từ hạnh phúc tới đau thương, tất cả chỉ cách nhau một ranh giới bé nhỏ. Tình yêu vốn là thứ tài sản tuyệt vời nhất của con người, nhưng cũng chính là bể khổ mà bất cứ ai cũng phải nếm trải. Tuổi thanh xuân qua đi nhanh chóng, chỉ còn quá khứ và hoài niệm về một câu chuyện tình yêu đẹp và đau đớn sẽ ở lại vĩnh viễn. Muốn Khóc Thật To đề cập đến nhiều góc khuất trong đời sống của giới trẻ như tình yêu đồng tính, quan hệ tình dục trước hôn nhân… Những trang viết ấy chân thực nhưng không hề trần trụi và sống sượng. Ngược lại, Sơn Paris đã biết cách biến những gì “chai sạn” nhất trở nên thật mềm mại và giàu cảm xúc. Người đọc sẽ bị cuốn theo cuộc hành trình đi tìm kiếm chính mình của Phong và những người bạn của anh. Đó là cuộc hành trình đầy chông gai, nhuốm màu buồn, không ít cám dỗ và cũng đầy rẫy đau thương. Nhưng đó là thử thách cuộc sống mà bất cứ ai - đặc biệt là những người trẻ trong xã hội hiện đại đều phải trải qua. Cốt truyện lôi cuốn và hấp dẫn, cách giải quyết tình huống hợp lý, thắt mở nút biến hóa tài tình, Sơn Paris đã chứng tỏ một bước trưởng thành vượt bậc qua tiểu thuyết Muốn Khóc Thật To. *** Vân Hugo nhận xét: “Sơn là một chàng trai đặc biệt. Một cá tính lạ. Một tài năng luôn khát khao được bung trổ. Văn của em sâu sắc, trần trụi và thật, cái thật ấy đi vào tim tôi”. “Muốn khóc thật to” là tiểu thuyết mới của Sơn Paris - một hot boy 9x hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật được đông đảo bạn trẻ biết đến. Cuốn sách là lời tự sự dành cho tất cả những trái tim cô đơn và khao khát yêu thương. "Muốn khóc thật to" là tiểu thuyết tình yêu chất chứa nhiều cung bậc cảm xúc khiến trái tim người đọc tan chảy. Từ hạnh phúc tới đau thương, tất cả chỉ cách nhau một ranh giới bé nhỏ. Tình yêu vốn là thứ tài sản tuyệt vời nhất của con người, nhưng cũng chính là bể khổ mà bất cứ ai cũng phải nếm trải. Tuổi thanh xuân qua đi nhanh chóng, chỉ còn quá khứ và hoài niệm về một câu chuyện tình yêu đẹp và đau đớn sẽ ở lại vĩnh viễn. “Chúng ta rồi sẽ tìm thấy một người, một người mà chúng ta sẵn sàng dành cả tuổi thanh xuân của mình để theo đuổi, một người khiến chúng ta từ chối tất cả những người đến sau, một người mà chúng ta vẫn luôn tin rằng, tuổi thanh xuân sẽ chẳng còn nghĩa lý nếu không cùng ở cạnh” (Trích: "Muốn khóc thật to"). "Muốn khóc thật to" đề cập đến nhiều góc khuất trong đời sống của giới trẻ như tình yêu đồng tính, quan hệ tình dục trước hôn nhân… Những trang viết ấy chân thực nhưng không hề trần trụi và sống sượng. Ngược lại, Sơn Paris đã biết cách biến những gì “chai sạn” nhất trở nên thật mềm mại và giàu cảm xúc. Người đọc sẽ bị cuốn theo cuộc hành trình đi tìm kiếm chính mình của Phong và những người bạn của anh. Đó là cuộc hành trình đầy chông gai, nhuốm màu buồn, không ít cám dỗ và cũng đầy rẫy đau thương. Nhưng đó là thử thách cuộc sống mà bất cứ ai – đặc biệt là những người trẻ trong xã hội hiện đại đều phải trải qua. Cốt truyện lôi cuốn và hấp dẫn, cách giải quyết tình huống hợp lý, thắt mở nút biến hóa tài tình, Sơn Paris đã chứng tỏ một bước trưởng thành vượt bậc qua tiểu thuyết "Muốn khóc thật to". Ngay khi chưa ra mắt, "Muốn khóc thật to" đã được MC Thanh Vân Hugo ưu ái nhận xét: “Sơn là một chàng trai đặc biệt. Một cá tính lạ. Một tài năng luôn khát khao được bung trổ. Văn của em sâu sắc, trần trụi và thật, cái thật ấy đi vào tim tôi. Tôi mất bốn ngày để đọc hết tiểu thuyết này. Những cảm xúc rất lạ cứ đan xen, vừa yêu đời lại vừa bi quan, những cặp đôi tôi thích lại không đến được với nhau, vừa đọc vừa tiếc vừa đau đáu... Có lẽ chính sự bất ngờ và dang dở lại khiến người ta trăn trở về tác phẩm này... Một tiểu thuyết đáng phải suy ngẫm…” "Muốn khóc thật to" đính kèm phụ bản Cho buồn bay theo gió và CD nhạc sách cùng tên do nhạc sĩ, ca sĩ Tăng Nhật Tuệ sáng tác. Cuốn sách do NXB Văn học ấn hành. *** Đôi tập làm quen với chữ “Quen” khi bắt gặp nhiều người. Họ đều không giống nhau. Có người cao hót vót, có người lại thấp hơn tôi. Kỳ quặc thật! Tôi vẫn thường tự hỏi, tại sao bà mụ lại sáng tạo đến thế, nặn nên hàng triệu người mà chẳng ai giống ai. Nếu có giống cũng chỉ là hao hao một nét nào đó. Chợt nghĩ, chắc lúc ấy bà bí bách quá, không còn nghĩ ra cái gì mới lạ để nặn nữa. Thành ra có người thì xấu hoắc, có người lại đẹp như tranh vẽ, từng nét đều cuốn hút vô cùng. Nhưng trái khoáy thay, chẳng ai là hoàn hảo. Người mà đẹp như tranh vẽ thì lại khiếm khuyết một vài thứ gì đó, hoặc là tính cách không đẹp như người, hoặc là chậm hiểu hay thiểu năng chẳng hạn. Cái tài đôi khi lẩn khuất sau một vỏ bọc sần sùi, thô ráp. Nhờ vậy mà họ đẹp lên. Tôi nghĩ, người ta bắt đầu “quen” nhau phải tính từ thời điểm có cuộc trò chuyện đầu tiên. Tức là hai người đối diện và đối thoại với nhau. Khi tiếp xúc rồi, tôi nhận thấy, tính cách con người không đa dạng như vẻ bề ngoài. Chắc chỉ có tới vài trăm tính từ để miêu tả tính cách của họ. Tôi thì thường nghĩ, ở mức độ quen, tính cách người ta chia ra làm ba loại: Dễ gần, khó gần và chẳng thể gần vì không cùng đẳng cấp. Tôi quen khá nhiều người. Có lần tôi ngồi và thử tính xem mình quen được bao nhiêu người. Con số đó lên tới khoảng vài trăm. Cho tới giờ, tôi vẫn coi đó là việc làm ngớ ngẩn và điên rồ nhất từ bé đến lớn của mình. Thật sự ngớ ngẩn. Nhưng nhờ đó mà tôi biết được trí nhớ của mình ở mức độ nào và chẳng hạn như khi tôi kết hôn, tôi sẽ ước chừng được khoảng bao nhiêu khách tới dự. Kể ra thì cũng không vô nghĩa cho lắm. Trong lần làm quen đầu tiên. Tôi không thích cho người khác biết tên thật của mình. Cũng chẳng có lý do gì đặc biệt. Chỉ là tôi thích như thế. Hãy cứ gọi tôi là Gió. Và tôi là con trai. 1. Tôi bước vào tuổi 16 giống như bao đứa con trai khác. Chất giọng ồm hơn khiến tôi hát chán hơn hẳn, mặc dù mẹ luôn giơ ngón tay cái khen tôi “đỉnh của đỉnh” mỗi lần nghe tôi hát. Có lần là khi bước ra từ nhà tắm, có lần ở phía cánh gà của sân khấu cực bự cấp trường. Tôi bắt đầu có thêm nhiều vùng lông rậm rạp. Cũng ra dáng đàn ông ghê rồi đấy chứ. Tôi cũng bắt đầu phải làm quen với việc cạo râu trước khi đi học, tò mò những câu chuyện cộp mác 16+, không kiểm soát được một số chỗ khi tivi chiếu cảnh hai người say đắm hôn nhau. Và tôi cũng thích thể hiện mình hơn. Sinh nhật tuổi 16. Cũng là dịp tôi vào ngôi trường mới. Nhiều thứ khác lạ. Tôi cũng khác lạ. Quà sinh nhật năm nay của tôi cũng khác. Tôi nhớ rõ nhất là bộ sữa rửa mặt và lăn khử mùi của nhóm bạn cùng lớp. Hồi ấy, lớp tôi có một loại quỹ riêng, đến sinh nhật của thành viên nào trong lớp thì sẽ được lớp trưởng trích ra một phần để mua quà tặng. Khi đó, với tôi, lớp trưởng còn to hơn cả bố. Được vào lớp hay không khi đến muộn cũng phụ thuộc vào tay nó. Đến cả việc tặng quà gì dịp sinh nhật của tôi cũng là nó quyết định. Lộng quyền thật mà. Tôi đâu có nhắc nó tặng tôi món quà ấy chứ. Mẹ mời cả lớp dùng cơm. Chúng nó vui lắm. Tính mẹ tôi hiếu khách và cũng cực kỳ chân thành. Mẹ chuẩn bị từ sáng sớm, dù phải đợi khi tan học thì cả lũ mới kéo nhau tới nhà tôi. Nhiều đứa đi học xa bố mẹ, chúng vui lắm khi tới dự sinh nhật của tôi. Có đứa còn làm diện với bộ quần áo tươm tất nhất. Có đứa thì ngồi ngay vào bàn ăn, nghe mùi khói thơm bay lên nức mũi. Tất cả các món ăn đều do mẹ tự tay làm, và đương nhiên, chúng cũng rất ngon. Buổi chiều hôm ấy, tôi cùng đứa bạn thân nhất đi lượn lờ vài cửa tiệm thời trang để sắm một bộ quần áo mới. Tôi dùng tiền mà bà ngoại và bố mừng ngày kỷ niệm 16 năm có mặt trên đời của mình để ra oai. Cảm giác có tiền trong tay rồi thích mua gì thì mua, công nhận đã thật. Tôi rất thích mặc áo trắng với một chiếc gi-lê đen bên ngoài. Tôi học được phong cách này từ những ca sĩ trên tivi. Giờ 16 tuổi rồi, mặc diện, mặc điệu một chút cũng chẳng hề hấn gì. Nghĩ vậy, tôi và nó bắt đầu công cuộc truy tìm chiếc áo như trong tưởng tượng của tôi. Dĩ nhiên là cuộc truy tìm thành công.   Mời các bạn đón đọc Muốn Khóc Thật To của tác giả Sơn Paris.
Mãi Yêu Em
Một câu chuyện '' kinh dị '' khoác áo diễm tình, kể về Judith - cô chủ tiệm bán đèn thông minh, xinh đẹp, song bị xếp vào diện ''quá lứa lỡ thì'' tình cờ gặp được một chàng kiến trúc sư lịch lãm với hành tung bí ẩn. Tác phẩm đã để lại ấn tượng đẹp với độc giả về giọng văn hóm hỉnh của Daniel Glattauer, khắc họa câu chuyện tình yêu giữa nàng Judith 37 tuổi, chủ hiệu bán đèn với chàng kiến trúc sư Hannes, 42 tuổi. Phía sau câu chuyện tình yêu ấy là nỗi sợ tình yêu cưỡng áp, dẫu nó được ngụy trang bằng muôn vàn yên ấm, để rồi qua đó, tác giả truyền tải thông điệp trong tình yêu phải có sự tôn trọng từ cả hai phía, không được trói buộc. *** Cuốn tiểu thuyết “Mãi yêu em” của nhà văn Daniel Glattauer không phải là kiểu truyện tình yêu lãng mạn thông thường, mà nó còn ẩn chứa những chi tiết kì bí, lạ lùng, khiến độc giả không thể rời mắt khỏi cuốn sách. Nàng: Judith, 37 tuổi, đơn thân, chủ hiệu bán đèn. Chàng: Hannes, 42 tuổi, “không phải độc thân trở lại mà xưa nay vẫn độc thân”, kiến trúc sư. Chàng đã bước vào cuộc đời nàng thông qua cú giẫm gót đau điếng. Anh: “Xin lỗi chị lần nữa vì giẫm phải chân chị.” Cô: “Ồ, quên lâu rồi mà.” Anh: “Không, không, tôi biết, chỗ ấy đau khủng khiếp lắm.” Cô: “Cũng không đến nỗi.” Anh: “Vâng, vâng.” Cô: “Vâng.” Anh: “Chào chị nhé.” Cô: “Vâng.” Anh: “Chúc chị ngày lễ vui vẻ.” Cô: “Anh cũng thế.” Vẫn vậy, Daniel Glattauer dẫn chuyện như-không, cây bút này có tài đẩy những chi tiết nho nhỏ trong đời thành hàng trang “diễm tình” rất duyên, khiến người đọc khó mà ngừng cười tủm tỉm. Mở chuyện chẳng có gì lạ, song ta không thể đặt cuốn sách xuống được, bởi bằng một cách nào đó, Daniel Glattauer tạo cho độc giả linh tính rằng cú xoay chuyển còn ẩn kĩ ở những trang sau. Hannes: cao 1,90 mét, nặng 85 kg - về ngoại hình chàng rắn rỏi, đầy nam tính. Hannes: “cùng lúc vừa nhút nhát vừa liều mạng, ngượng nghịu và trơ trẽn, tự chủ và bộc phát, bền bỉ một cách hậu đậu. Và anh biết anh muốn gì: gần cô.” - về tính cách chàng quả là dễ thương, hấp dẫn. Nhìn chung, Judith đã phải thừa nhận: “Anh là một dạng người khác hẳn những người khác từ xưa đến nay.” Nàng (và cả các độc giả) đều ngây ngất, đều tin tưởng vào tương lai ấm áp và hạnh phúc mà chàng mang lại. Dĩ nhiên sẽ là như thế nếu Judith không rơi vào... chứng loạn thần bởi chính tình yêu nồng cháy của Hannes. Judith đáng thương phát rồ phát dại trước sự hoàn hảo nơi Hannes, điều mà cả gia đình lẫn bạn bè cô đều không tài nào hiểu nổi (thậm chí họ đứng tuốt về phe anh), trừ Bianca - con bé học nghề trong cửa hiệu bán đèn - là đứng về phía cô: “Trời ơi, hãm thế cơ chứ, cháu hiểu cô. Cháu cũng không ưa ai bám theo mình, khi cháu không yêu người ấy nữa. Và cháu chuột rút cực nhanh, khi có đứa nào làm cháu nhức đầu.” Nhưng chuyện đâu chỉ “thường thường” như vậy, Daniel Glattauer khiến bạn đọc cảm thấy rờn rợn khi đột ngột hé lộ một chi tiết đáng ngờ ở quý ông Hannes, biến tình sử thành thước phim kinh dị: Đèn nhà chàng không bao giờ sáng – điều đó chẳng phải rất bất thường trong mắt cô chủ hiệu bán đèn sao? Rốt cục, việc Hannes gặp gỡ Judith có đúng là tình cờ? Liệu anh cần gì ở cô và ở hiệu bán đèn? Nếu đã quen với những câu chuyện mang hương vị lãng mạn như “Con sóng thứ bảyhay “Cưỡng cơn gió bấc”, ta sẽ tìm thấy Daniel bản-mới trong cuốn tiểu thuyết “Mãi yêu em”: tác giả khá “tinh quái” dẫn dụ độc giả đến với nỗi sợ - nỗi sợ tình yêu đầy cưỡng áp đầy trói buộc, dẫu nó được ngụy trang bằng muôn vàn yên ấm. Vậy hạnh phúc là gì? Nhân vật Judith đã phải trở đi trở lại bệnh viện tâm thần, đấu tranh với tiếng nói ma quái của chàng Hannes vang trong đầu cô, ngụp lặn giữa hàng vốc thuốc hãm phanh thần kinh... để trả lời câu hỏi đó. Đi tới cùng, hạnh phúc nên là và phải là tự tại; nó sẽ bước ngay sang địa hạt ác mộng nếu bị gắn với một dây xích bọc đường. “Mãi yêu em” của tác giả Daniel Glattauer, được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi dịch giả Lê Quang, do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành trên toàn quốc từ tháng 5 năm 2017. Lan Phương Review *** Khi anh bước chân vào đời Judith, gót chân cô đau buốt, nhưng rồi đỡ ngay. Anh: “Xin lỗi”. Cô: “Không sao”. Anh: “Đông kinh khủng”. Cô: “Vâng”. Judith nhìn lướt qua mặt anh, tựa như đó là tít tin thể thao hằng ngày. Cô chỉ muốn biết sơ sơ mặt người đã giẫm nát bét gót chân người khác trước quầy phô-ma đông kín hôm thứ Sáu Tuần Thánh. Cô hơi ngạc nhiên, anh ta trông bình thường, như mọi người ở đây, không hơn mà cũng không kém, cũng không đặc biệt. Tại sao cả thế giới phải đổ đi mua phô-ma dịp Phục sinh? Tại sao chỉ vào một cửa hàng và cùng một lúc? Ở quầy thu ngần, anh ta, lại anh ta, xếp đồ lên băng chuyền cạnh đồ của cô. Cô nhận ra anh ta nhờ tay áo da lộn nâu đỏ có mùi da đặc trưng. Khuôn mặt anh ta thì cô quên từ lâu, à không, có nhớ đâu mà quên, nhưng cô thấy ưa động tác khéo léo, chính xác và uyển chuyển của tay anh. Kể cả trong thế kỷ hai mốt thì quả là kỳ lạ khi một đàn ông trạc bốn chục tuổi biết sắp xếp và gói ghém hàng mua trong siêu thị cứ như đã từng làm việc đó rồi. Ở cửa ra vào thì hầu như không còn tình cờ, khi lại là anh ta đứng đó để giữ cánh cửa mở ra cho cô và khoe tài nhớ mặt người của mình. Anh: “Xin lỗi chị lần nữa vì giẫm phải chân chị”. Cô: “Ồ, quên lâu rồi mà”. Anh: “Không, không, tôi biết, chỗ ấy đau khủng khiếp lắm”. Cô: “Cũng không đến nỗi”. Anh: “Vâng, vâng”. Cô: “Vâng”. Anh: “Chào chị nhé”. Cô: “Vâng”. Anh: “Chúc chị ngày lễ vui vẻ”. Cô: “Anh cũng thế”. Cô thích kiểu nói chuyện như thế ở siêu thị, nhưng bây giờ thì thế là đủ cho phần đời còn lại. Ý nghĩ, tạm gọi là ý nghĩ cuối cùng dành cho anh, là năm, sáu hoặc bảy quả chuối, một nải vàng ươm mà anh ta gói vào trước mắt cô. Ai mua năm đến bảy hoặc tám quả chuối, người ấy ắt có hai, ba đến bốn đứa trẻ đói bụng ở nhà. Dưới cái áo khoác da chắc anh ta mặc áo thun kẻ ca-rô lớn nhiều màu như cầu vồng. Một ông chủ gia đình đích thực, cô nghĩ bụng, một người biết giặt giũ phơi phóng quần áo cho bốn đến năm hoặc sáu người, có lẽ treo bít tất thành một hàng, chập từng đôi một, ai phá hỏng trật tự ấy trên dây phơi thì cứ liệu hồn. Về đến nhà, cô dán một miếng băng dính dày cộp lên gót chân đỏ ửng. May mà gân gót không hề hấn gì, mà nói chung Judith luôn cảm thấy không ai có thể làm tổn thương mình. Lễ Phục sinh như mọi năm. Sáng thứ Bảy: thăm mẹ. Mẹ: “Bố khỏe không?” Judith: “Con không biết, chiều con đến bố”. Chiều thứ Bảy: thăm bố. Bố: “Mẹ khỏe không?” Judith: “Khỏe ạ, con ở chỗ mẹ ban sáng”. Trưa Chủ nhật: về nông thôn thăm em trai Ali. Ali: “Bố mẹ khỏe không?” Judith: “Khỏe, hôm qua chị thăm bố mẹ”. Ali: “Bố mẹ lại về với nhau à?” Sáng thứ Hai sau lễ Phục sinh Judith mời các bạn đến nhà mình ăn. Thực ra mời ăn tối, nhưng từ khi ngủ dậy cô đã bắt tay vào chuẩn bị. Sáu người cả thảy: hai đôi và hai người độc thân (một người độc thân vĩnh viễn, còn người kia chính là cô). Giữa các đợt đồ ăn bưng lên, câu chuyện diễn ra ở trình cao, xoay quanh các chủ đề như cách nấu ăn không làm mất vitamin và các diễn biến mới nhất trong nghiên cứu chống cặn kết tủa trong rượu vang. Nhóm này rất thuần, thậm chí có những chủ đề mà họ sống chết không rời (chống chiến tranh, xóa đói giảm nghèo, và gan ngỗng nhồi). Bộ đèn chùm kiểu Art Nouveau tỏa sáng ấm áp lên các khuôn mặt vui vẻ. CD mới nhất của nhóm The Divine Comedy tựa như kịp thời ra đời để phục vụ dịp này. Thậm chí Ilse còn có lần mỉm cười với Roland, và anh xoa bóp vai phải của cô, phải đến hai giây chứ không ít - dù họ đã cưới nhau mười ba năm và có với nhau ba mặt con trong niềm đam mê đang chết dần chết mòn mỗi ngày. Đôi kia trẻ hơn, Lara và Valentin, vẫn trong chu kỳ tay nắm tay say đắm. Thỉnh thoảng cô lại nắm các ngón tay anh bằng cả hai tay, có lẽ để giữ anh chặt hơn khả năng thực sự của cô xét về lâu dài. Tất nhiên Gerd lại là nhân vật nhộn nhất, luôn nổi bật ở bất cứ đám nào và ngày càng nổi hơn cùng với trách nhiệm làm cho những người khô khan phải vui vẻ và lắm mồm lên. Tiếc là anh ta không đồng tính để Judith tiếp xúc riêng nhiều hơn và tâm sự những chuyện cá nhân hơn, vốn bất khả thi trong một nhóm có nhiều đôi. Cuối những buổi tối tương tự, khi khách khứa đã ra về và chỉ còn không khí đặc quánh gợi nhớ đến sự hiện diện của họ, Judith luôn thẩm định tình trạng của mình trong khung cảnh thân thuộc và giữa một núi bát đĩa rếch. Ồ có chứ, rõ ràng đó là chất lượng sống vượt trội khi đầu tư một tiếng vào bếp, mở toang cửa sổ để không khí trong lành vào phòng, hít một hơi thật sâu, uống vội một viên thuốc đề phòng nhức đầu, để rồi rốt cục được ôm cái gối thân thương và chỉ buông nó ra vào tám giờ sáng hôm sau. Rõ ràng như thế còn hơn thâm nhập vào tâm lý của một gã “bạn đời” - có khả năng (cũng) phê phê, móc mồm cả ngày không ra một tiếng, không ưa bị giữ ở nhà, lười dọn dẹp nhà cửa - để dò xem hắn ta đang nuôi hi vọng hay run rẩy lo sợ sắp lên giường. Judith tránh được tình trạng xì-trét đó, trừ một vài buổi sớm mai cô thấy thiếu một người đàn ông cạnh mình trong chăn. Nhưng đó không được phép là một người đàn ông bất kỳ, người đàn ông nào đó, mà phải là một người nhất định. Vì vậy, buồn thay, người đó không trong số những người cô quen. Judith yêu công việc của mình. Và nếu không - thường là sau các ngày lễ - cô cố mọi cách tự huyễn hoặc là mình yêu công việc. Ít nhất thì cô cũng là sếp của chính mình, dù hằng ngày cô luôn mong có một bà sếp khác xông xênh hơn, ví dụ như Bianca, con bé học nghề của cô. Bianca chỉ cần một cái gương là có đủ việc cho cả buổi. Judith có một doanh nghiệp nhỏ ở phố Goldschlag, quận 15. Nghe chữ “doanh nghiệp” có hơi hướm kinh doanh hơn thực tế, song cô yêu cửa hiệu bán đèn của mình và không đổi nó lấy bất cứ cửa hiệu nào trên thế giới. Từ nhỏ, cô thấy đó là những căn phòng tuyệt diệu nhất trần gian, bao la giữa vô vàn vì sao nhấp nhánh và những quả cầu chói lọi. Trong bảo tàng ngoài trời lấp lánh của ông ngoại, ngày nào Judith cũng được vui lễ Phục sinh.   ​​Mời các bạn đón đọc ​Mãi Yêu Em của tác giả Daniel Glattauer & Lê Quang (dịch).