Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Không Mật Mã - Kinh Hồng

Trong sự pha trộn phức tạp giữa trắng và đen, trong sự giày vò của tình yêu. Tô Cẩm phải làm như thế nào? Cô đã gặp rất nhiều bế tắc trong công việc, tình cảm với nhiều đau khổ và tuyệt vọng, có lúc tưởng như không còn con đường sống cho mình nữa, nhưng trải qua tất cả những điều đó, cô đã hiểu ra được ý nghĩa của cuộc sống và giá trị đích thực của tình yêu. Từ một cô gái yếu đuối, có đôi mắt trong sáng ngây thơ như trẻ con, cô đã trưởng thành hơn và tìm được hạnh phúc thật sự cho mình. Có lẽ mỗi người đều trải qua những phút giây như thế, mặc dù đau khổ nhưng không thể không đối mặt. Chỉ có như vậy, mới không bị mây mù làm mờ mắt, mới có thể nhìn rõ được phương hướng mà mình muốn tiến tới. *** Từng tờ tiền mới tinh được đếm ào ào qua ngón tay, ngay cả không khí cũng có mùi vị đặc biệt. Đôi tay đếm tiền là của một người đàn ông, ngón tay rất trắng, móng tay có màu hồng khỏe mạnh, được cắt sửa gọn gàng. Đây là đôi tay của một cậu ấm. Lần đầu tiên Tô Cẩm nghe bạn bè gọi như thế, trong lòng cảm thấy không thoải mái. Cô luôn cảm thấy mặc dù gia thế của Ngạc Lâm rất khá, bản thân anh cũng thích mặc quần áo hàng hiệu, thích đi ăn ở những nơi cao cấp nhưng đánh giá phẩm chất con người qua thói quen sinh hoạt thì thật là không công bằng. Ai đã nhìn thấy cậu ấm có xe ô tô mà không đi, tự đạp xe đạp đến chỗ làm? Liệu có cậu ấm nào chịu làm ở một nơi vừa nguy hiểm vừa khổ cực như cục cảnh sát sáu, bảy năm trời? Vì thế, mỗi khi nghe bạn bè gọi đùa anh ấy là “cậu ấm”, Tô Cẩm luôn nắm chặt tay lại, thay Ngạc Lâm bảo vệ hình ảnh của anh. Tuy nhiên, lúc này, cách một bàn bày đầy ắp thức ăn, Tô Cẩm chậm rãi ngắm nhìn anh, từ kiểu tóc thời trang, đến mấy chiếc hoa tai lấp lánh, sợi dây chuyền cũng sáng bóng trên cổ, chiếc áo sơ mi không đoán được giá, chỉ biết đó không thể là một chiếc áo rẻ tiền, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc đồng hồ Rolex kiểu mới trên cổ tay. Tô Cẩm không thể không thừa nhận, Ngạc Lâm khi không mặc cảnh phục thì đích thị là một cậu ấm thực thụ. Chỉ tiếc là bản thân từ trước đến giờ không phát hiện ra, hay thành thật mà nói, cô luôn không chịu thừa nhận điều này. Có lẽ khi bắt đầu quen biết, Ngạc Lâm đã để lại trong cô ấn tượng vô cùng sâu đậm, đến mức, cho dù sau này anh có thay đổi như thế nào đi chăng nữa thì hình ảnh của anh trong cô vẫn giống hệt như ấn tượng lúc ban đầu. Tô Cẩm vẫn nhớ đó là một ngày mùa hè, khoảng thời gian nóng nhất trong năm, sau khi hoàn thành bản báo cáo thực tập tại một đơn vị, cô và các bạn đang ngồi ăn kem ở bên đường, đột nhiên có tiếng ồn ào từ ngõ nhỏ phía sau vang lên. Miệng vẫn ngậm thìa kem, Tô Cẩm vô tình quay đầu lại và nhìn thấy anh ấy. Anh mặc bộ quân phục cảnh sát đẫm mồ hôi, đang đứng bên đường quát đám trẻ mới lớn vừa đánh nhau một trận. Mũ anh đội hơi lệch, cổ áo phanh ra không đúng với quy định, nhìn giống như một cảnh sát có dáng vẻ hơi ngông nghênh… Khi Tô Cẩm vẫn đang ngẩn ngơ hồi tưởng, thì Ngạc Lâm đã đếm xong tiền, cất vào phong bì rồi tiện tay ném lên mặt bàn. Tô Cẩm bị tiếng động nhẹ phát ra từ chiếc phong bì khiến cho bừng tỉnh, hỏi: “Đếm xong chưa?”. Ngạc Lâm khuấy khuấy ống hút trong cốc nước lạnh, lông mày anh nhíu lại có vẻ hơi mất kiên nhẫn, “Em lại làm sao thế? Động một tý lại lấy năm mươi ngàn tệ này ra để dọa anh. Anh đã nói rồi, sau này lương của anh được bao nhiêu anh cũng đưa hết cho em…”. Tô Cẩm cúi đầu, sống mũi hơi cay. Cô có nên nhẫn nhịn hay không? Đây luôn luôn là vấn đề tồn tại giữa hai người. Ngạc Lâm vươn tay qua bàn xoa đầu cô, giọng nói trở nên dịu dàng hơn, “Được rồi, được rồi! Khi mình bắt đầu tiết kiệm tiền, mặc dù đã thỏa thuận là ai đề nghị chia tay trước thì số tiền này sẽ thuộc về người kia, nhưng em đừng tức giận một chút là lại đưa số tiền này ra để dọa anh, động một tý lại nói chia tay, em không thấy chán sao?”. Tô Cẩm nghiêng người ra sau để tránh bàn tay của anh, “Trước ngày hôm nay, em từng nói với anh là chia tay rồi sao? Ngạc Lâm, anh nhớ nhầm em với ai rồi?”. Ngạc Lâm bất giác lặng người, ánh mắt lộ rõ sự ngạc nhiên, giống như anh đang đứng trước một đứa trẻ làm ầm ĩ một cách vô cớ, “Rốt cuộc là thế nào? Có phải là việc tìm nhà khiến em không vừa ý? Anh đã nói trước rồi, tìm nhà là một việc vất vả, em không nên quá vội vàng…”. “Không thế nào cả”, Tô Cẩm tránh ánh mắt của anh, buồn bã cúi đầu, “Em muốn mua nhà là muốn yên ổn để sống. Không phải… không phải đợi đến lúc làm vợ lẽ của ai đó”. Tay Ngạc Lâm cứng lại, “Em nói lung tung gì thế?”. “Ngạc Lâm!” Tô Cẩm nghẹn ngào một lúc, cúi đầu hỏi anh: “Anh luôn nghĩ em là đứa rất ngốc phải không? Thế nên mới lấy em ra để trêu đùa. Anh được nhiền fan hâm mộ quá nên lấy em ra làm lá chắn. Đợi đến bao giờ anh gặp được người anh thích sẽ đem em cất vào kho để dự trữ phải không?”. Ngạc Lâm không thể giữ được bình tĩnh, đặt cốc nước sang một bên. Nước mơ hồng là loại đồ uống ưa thích của phụ nữ, thứ đồ uống ngọt ngào như vậy không hợp với người đàn ông to lớn này nhưng anh lại rất thích, đến mức mà mỗi lần đi ăn với anh, người phục vụ đem đồ uống đến đều đặt thứ nước đó trước mặt Tô Cẩm. Tô Cẩm lặng nhìn thứ nước màu hồng trong cốc, lần đầu tiên nhận thấy rằng, người đàn ông thích loại đồ uống này vẫn giống một đứa trẻ chưa lớn. “Dạo này anh hơi bận, bên đơn vị vẫn phải làm thêm giờ.” Giọng của Ngạc Lâm bắt đầu mất bình tĩnh, “Ngày lễ của phương Tây đâu phải là vấn đề, nếu em chán thì chúng ta đi về thôi. Không phải là em cũng muốn ra ngoài sao? Thu đồ xong chưa?”. Hai tay của Tô Cầm để dưới khăn trải bàn nắm chặt lại. Anh ấy nói không sai, ngày lễ Tình nhân vốn dĩ là của phương Tây. Nhưng trong một ngày như thế này - Tô Cẩm chỉ ngẩng đầu là có thể nhìn thấy phía ngoài cửa, rất nhiều người đang đi trên đường, phần nhiều là các cô gái tay khoác người yêu, tay ôm hoa hồng. Một ngày như thế này - ngay cả không khí cũng mang hương vị của hoa hồng, làm sao cô có thể tiếp tục giữ những điều vốn dĩ đã không tồn tại để tiếp tục dối lừa chính mình? Cuối cùng, sau rất nhiều giằng co, cuộc đấu tranh giữa nhẫn nhịn và không nhẫn nhịn đã nghiêng về một phía. Tô Cẩm hít một hơi thật sâu rồi chầm chậm ngẩng đầu, “Vâng, chúng ta đều rất bận, vì thế hôm nay em gọi anh đến đây, ngoài việc trả tiền, chỉ muốn hỏi anh một câu: Ngày mùng 6 tháng sau, lúc 10 giờ sáng, tại khách sạn Hyatt, người đặt hai mươi mâm cỗ đính hôn có phải là anh không?”. Khi hỏi xong câu đó, Tô Cẩm cảm thấy tim mình như thắt lại. Cô biết cô nên ngẩng đầu và nhìn thẳng vào mặt anh. Nhưng khi nói được một nửa, cô lại hụt hơi, thế là câu hỏi thốt ra từ miệng thay vì một lời chất vấn hùng hồn lại không bằng một lời yêu cầu chứng thực yếu ớt - ngay cả bản thân cô cũng thấy rõ sự bất lực trong tiếng nói của mình, thật đáng thương. Tô Cẩm rất muốn tát mình một cái, nhưng sự ảo não nhanh chóng biến thành sợ hãi trước vẻ trầm mặc của Ngạc Lâm. Con người này vốn hơi có chút ngông nghênh, ham chơi, vừa hút thuốc vừa uống rượu… Nhưng từ lúc cô thực tập tốt nghiệp đến lúc chạy khắp nơi nộp đơn xin việc, từ khi tìm thuê phòng khắp nơi đến khi chuyển đến làm việc ở đây, anh đã chứng kiến những trải nghiệm quan trọng nhất trong cuộc đời cô, anh cũng là người bạn trai chính thức đầu tiên của cô. Mắt của Tô Cẩm đỏ lúc nào không hay, “Thế là đúng rồi?”. Ngạc Lâm bực bội vò đầu, “Em à, em cũng biết quê của mẹ anh ở Tứ Xuyên mà, vì thế bà rất thích có cô dâu ở quê. Sức khỏe của bà lại không tốt, anh không thể…”. Nghe thấy anh lại đem mẹ ra làm lá chắn, không biết vì sao, sự buồn bã trong lòng Tô Cẩm trở nên quyết liệt, “Thật vậy sao? Nhưng con gái của phó thị trưởng Trần sinh ra ở thành phố T, lớn lên tại thành phố T, bố là người Bắc Kinh, mẹ là người Thượng Hải. Gia đình họ và gia đình anh là… đồng hương từ đời trước sao?”. Anh bỗng nhiên lừa cô? Hay vẫn lừa cô từ trước mà cô không hề biết? “Ngạc Lâm, anh là đồ khốn nạn.” Nước mắt của Tô Cẩm chảy ra, “Thiếp mời của nhà anh đã phát đi rồi, anh còn dùng những lời này lấp liếm tôi? Anh thật sự chỉ muốn che giấu tôi để tôi làm vợ bé của anh?”. “Kỳ thực…”, Ngạc Lâm đưa tay ra định nắm lấy tay cô bị cô tránh né đành hậm hực thu lại, “Kỳ thực anh luôn muốn nói với em, nhưng…”. “Nhưng cảm thấy không cần thiết, phải không?” Tô Cẩm vò nát chiếc khăn giấy trong tay. Vốn dĩ không muốn khóc, nhưng khi cô ngẩng đầu lên, nước mắt vẫn chảy ra không sao dừng được, “Cho dù anh muốn nói sao thì nói, anh nghĩ rằng tôi không thể sống thiếu anh, phải không?”. “Sức khỏe của mẹ anh không tốt, em cũng biết…”, Ngạc Lâm nhìn xuống, lòng dạ rối bời, “Chúng ta đã ở bên nhau hơn hai năm, nếu anh không thực sự muốn sống cùng em thì sao lại muốn giao tiền lương cho em giữ?”. Tô Cẩm nhìn bàn tay của cậu ấm, nghẹn lời hỏi lại: “Sống cùng nhau như thế nào? Tôi cứ vờ không biết, mua một căn phòng sống với anh, đợi khi nào vợ anh ngủ rồi thì anh đến với tôi để mua vui sao?”. “Em đừng nói như vậy…”, sắc mặt Ngạc Lâm nghiêm lại, không suy nghĩ gì, nắm chặt lấy tay cô, “Em nên hiểu anh…”. “Anh đừng như vậy.” Tô Cẩm rụt tay khỏi tay anh, sắc mặt đanh lại, “Việc này tôi đã do dự rất lâu, tôi luôn nghĩ về tình cảm giữa chúng ta… làm thế nào để giành lại. Nhưng càng nghĩ lại càng cảm thấy… không đáng. Ngạc Lâm, anh cứ kết hôn đi. Bữa cơm này coi như bữa cơm chia tay, tôi mời”. “Tô Cẩm!” Đây là lần đầu tiên Ngạc Lâm gọi tên cô như thế này. Nhưng, cho dù là muốn nói những lời giả dối để an ủi cô hay là chính thức xin lỗi, Tô Cẩm cũng không muốn nghe. Ngoài hai điều này, cô không còn nghĩ ra anh có thể nói nói gì với cô nữa. Vẫy tay gọi người phục vụ, Tô Cẩm xòe ra mấy tờ tiền bảo anh ta lấy thêm vài chai bia. Ngạc Lâm không chịu đựng được, chau mày. Anh biết cô có thể uống được rượu, nhưng trong tình trạng uống từng chai từng chai một như thế này… Tô Cẩm rót đầy cốc rượu của mình, không ngẩng đầu lên, xua tay với Ngạc Lâm, “Cảnh sát Ngạc Lâm, tôi biết anh là người rất bận rộn, tôi không làm lỡ thời gian của anh nữa. Dẫu sao hôm nay cũng là Lễ tình nhân, để vị hôn thê làm thêm giờ là không tốt”. “Tô Cẩm, em nghe anh nói…”, không chờ anh nói hết câu, Tô Cẩm cầm lấy điện thoại ra, vội vàng gọi cho Lâm Chi Chi. Dường như chuông vừa kêu một tiếng đã có người nhận điện thoại. Giọng của Lâm Chi Chi có lẽ còn căng thẳng hơn, “Thế nào rồi, cậu đã hỏi chưa? Anh ta nói sao?”. Ánh mắt của Tô Cẩm liếc nhìn điện thoại của Ngạc Lâm đang rung trên bàn rồi nhanh chóng bị anh tắt máy, “Cảnh sát Ngạc có việc đi trước rồi, cậu đến ăn tối cùng mình đi. Vẫn chỗ cũ”. Ngạc Lâm ngồi đối diện thở dài, “Được, em cứ ngồi với Chi Chi. Tối anh sẽ gọi điện cho em”. Tô Cẩm giả như không nghe thấy lời anh nói, vứt điện thoại sang một bên, nhấp từng ngụm bia nhỏ. Thứ nước đắng chát lành lạnh chảy qua cuống họng, giống như kim châm đi vào dạ dày và bùng cháy ở trong đó khiến cô đau đớn. Điện thoại lại rung đầy thúc giục. Ngạc Lâm bối rối nhìn Tô Cẩm, do dự giây lát, rồi đứng dậy rời đi. “Đợi đã!” Tô Cẩm giật giọng gọi anh, cô đẩy phong bì tiền trên bàn, “Cầm tiền đi!”. Ngạc Lâm thở dài, “Em à, em có nhất thiết phải làm như vậy…”. Ánh mắt của Tô Cẩm sắc như dao, “Tôi gửi trả anh đấy, đừng làm phiền tôi nữa”. Sắc mặt của Ngạc Lâm trở nên rất khó coi, anh cầm chiếc phong bì không nói một lời, quay đầu bước đi không ngoảnh lại. Ánh mắt của Tô Cẩm xuyên qua cốc thủy tinh trong suốt, thấy bóng dáng bị bóp méo trên đó của anh bước ra khỏi khách sạn, biến mất vào bóng đêm ngoài cửa. Từ trước đến giờ, anh ấy vẫn luôn không quay đầu lại. Tô Cẩm uống một hơi hết sạch bia trong cốc. Đột nhiên cô nghĩ đến trong đêm chia tay này, cô đã quên làm một việc vô cùng quan trọng. Trước cuộc hẹn, Lâm Chi Chi đã dặn cô, nếu thực sự phải chia tay, cho dù thế nào thì cũng phải tát anh ta một cái để trút giận, nếu không trong lòng sẽ lưu lại ám ảnh bị người yêu bỏ rơi, ảnh hưởng đến việc đi tìm hạnh phúc sau này. Nhưng cô đã quên mất việc quan trọng đó. Tô Cẩm đau đớn nghĩ: Chi Chi đến nhất định sẽ mắng cô vô dụng. Cô biết Lâm Chi Chi luôn không tôn trọng Ngạc Lâm, luôn nói là anh ấy ngông nghênh, về cơ bản không phù hợp với mình… Nhưng đến bây giờ, phù hợp hay không cũng vậy, đều hoàn toàn không liên quan gì nữa… Tô Cẩm đặt chai bia xuống, uống từng ngụm nhỏ. Rất đắng, nhưng đối với cô, lạnh và đắng như thế này vẫn chưa đủ. Tô Cẩm gối đầu lên cánh tay, chầm chậm xoay cốc bia. Ánh đèn từ đỉnh đầu chiếu xuống thứ dung dịch màu vàng trong cốc bia trong suốt với những bọt khí nhỏ lấp lánh. Tô Cẩm biết tửu lượng của mình. Hoặc là cô luôn luôn đánh giá cao tửu lượng của mình. Thế là, trong đêm lạnh lẽo nhất của một năm ở thành phố này, Tô Cẩm đã không do dự uống cho đến say. Nhận thức mơ hồ, nhưng có nhiều khoảnh khắc lại ghi nhớ rất rõ ràng: Khi Chi Chi dìu cô ra khỏi cửa khách sạn, gió đêm thốc vào mặt cô lạnh buốt; trong căn phòng lạ lẫm ánh sáng mờ ảo, cô bổ nhào đến chiếc bồn vệ sinh nôn thốc, tay Chi Chi vỗ đều đều lên lưng cô. Chi Chi dìu cô đến bồn tắm, nước nóng nhanh chóng vây lấy cơ thể lạnh giá của cô… Ngoài ra, cô không còn nhớ gì nữa. Vì thế, khi cô được ánh sáng buổi sớm đánh thức, mơ màng mở mắt, hoàn toàn không biết là mình đang ngủ ở đâu. Ga gối màu trắng, rõ ràng không phải là họa tiết Mickey ở nhà mình, cũng không phải là họa tiết hoa nhỏ ở nhà Lâm Chi Chi, giống như là… Tô Cẩm ngồi bật dậy, hoảng hốt nhìn quanh, đúng là… phòng khách sạn. Quần áo đã được xếp ngay ngắn đặt trên giường, hình như đã được giặt sạch. Trong phòng không có dấu tích gì, chỉ ngoài… một xấp tiền màu hồng bắt mắt đặt trên chiếc tủ ở đầu giường. Trong đầu Tô Cẩm dội lên một tiếng động lớn, cô run rẩy cầm xấp tiền, bên dưới quả nhiên có một tờ ghi chú. Là một tờ ghi chú của khách sạn, trên mặt giấy ngà vàng có viết dòng chữ to rắn rỏi: Rất hài lòng với dịch vụ của cô, xin nhận tiền thưởng. Ngoài ra phòng sẽ được trả lúc 12 giờ trưa, bữa sáng phục vụ tại phòng. Ở chỗ ký tên góc dưới bên phải là một khẩu súng được phác vô cùng đơn giản. Nhìn thấy hai chữ “tiền thưởng”, đầu Tô Cẩm như bị nổ tung, vội vàng nhìn lại mình, quả nhiên cô chỉ mặc một chiếc áo tắm của khách sạn. Trong chiếc áo choàng… không cần kiểm tra cũng biết là không hề mặc gì. Tô Cẩm nắm chặt cổ áo tắm, hoàn toàn sững sờ. Lẽ nào mình đã say thật? Lẽ nào lại uống say như thế, người đón mình không phải là Lâm Chi Chi sao? Không phải là Lâm Chi Chi… thì là ai?! Tô Cẩm hoàn toàn sửng sốt. Không thể? Không thể? Không thể?! Mình chỉ là bị thất tình, rồi uống rượu, sau đó thì trinh tiết… mà bản thân cũng không biết là xảy ra chuyện gì, lại mất mà thần không hay quỷ không biết?! Cô không những không nhớ bất kỳ điều gì mà còn không biết người này như thế nào - tám chín mươi phần trăm đó chỉ là một khách làng chơi bỏ tiền để mua vui. Cũng có nghĩa là lần đầu tiên của mình đã trao cho một kẻ không có nhân phẩm một cách vô thức? Kẻ này chắc rất cao tay, không biết là đã hại bao nhiêu con gái nhà lành, mà… mà… không biết anh ta có bị nhiễm bệnh gì không… Nếu mà thực sự như thế… Tô Cẩm càng nghĩ càng tuyệt vọng, ôm đầu nằm vật xuống, chỉ muốn chết. Kẻ cặn bã này trả cho cô năm vạn tệ, bằng đúng số tiền mà cô đã đưa cho Ngạc Lâm. Số tiền này cũng như tiền khách sạn mà cô ở khiến Tô Cẩm không hề hoài nghi là có chuyện gì đã xảy ra vào đêm đó. Nếu không, làm gì có ai lại trả một số tiền lớn như thế này cho người lạ? Tô Cẩm cố gắng hết sức cũng chỉ nhớ được mình đã nôn khủng khiếp như thế nào, hình như có người đưa cho cô một cốc nước ấm và vỗ nhẹ vào lưng. Cố gắng nhớ tiếp, cũng chỉ lờ mờ biết có người dìu vào bồn tắm, nước nóng bao bọc lấy cơ thể rất thoải mái và dễ chịu. Tất cả ký ức đêm qua chỉ dừng lại ở đó. Tô Cẩm nhìn vô thức lên chiếc đèn chùm trên đỉnh đầu, trong tay vẫn cầm tờ ghi chú có ký tên là “khẩu súng” - Khẩu súng này có ý nghĩa gì không? Là biểu tượng của việc tham gia băng đảng nào đó, hay là ám thị anh ta có quyền có thế để mình không dám chống lại? Cũng có nghĩa, anh ta đưa mình đến khách sạn là biết mình không phải gái làm tiền? Vậy… giá của một cô gái cuối cùng là bao nhiêu? Tô Cẩm với lấy điện thoại của mình trên tủ ở đầu giường, lướt qua một dãy dài các cuộc gọi lỡ, cô gọi cho Lâm Chi Chi. Thật bất ngờ, điện thoại của Lâm Chi Chi tắt. Lâm Chi Chi tự nhiên tắt điện thoại. Tô Cẩm như muốn đổ sụp xuống. Chỉ qua một đêm, không những cuộc sống của cô bị đảo lộn, mà ngay cả Lâm Chi Chi điện thoại luôn mở hai tư tiếng cũng bắt đầu chơi trò chơi tắt máy? Hay là lúc này cô ấy đang có việc gấp ở công ty? Tô Cẩm xem lại danh bạ trong điện thoại, khung lựa chọn màu xanh da trời nhạt dừng ở số điện thoại của sư phụ. Tô Cẩm do dự giây lát rồi gửi một tin nhắn: “Sư phụ, một cô gái trong thành phố chúng ta có giá bao nhiêu?” Đợi đến khi tin nhắn đã gửi đi, Tô Cẩm bắt đầu ân hận, giận mình không biết giữ miệng. Quả nhiên, ngay lập tức có điện thoại của Hàn Hiểu, giọng vừa hiếu kỳ, vừa buồn cười: “Sao thế? Có chuyện gì không?” “Không có gì.” Tô Cẩm ấp úng không biết giải thích như thế nào. “Em chỉ… tiện hỏi thế.” “Chị nghe nói, à, nhưng chỉ là nghe nói chứ chưa từng gọi họ”, Hàn Hiểu cười, “Nghe nói từ vài chục đến vài chục nghìn đều có. Nếu qua đêm ở một nơi sang trọng thì khoảng vài vạn”. Tô Cẩm cười đau khổ: Hóa ra mình được coi là hàng quý. Hàn Hiểu nói tiếp: “Tô Tô, lần này để em rời văn phòng xuống công trình, rồi chị lại không thể đi cùng với em, thật sự là chị thấy ngại quá”. Hàn Hiểu và Tô Cẩm đều là kỹ sư của bộ phận giám sát kỹ thuật ở Hải Công. Khi còn ở văn phòng, do Tô Cẩm là nhân viên mới của công ty nên được Hàn Hiểu chỉ dạy rất nhiều, vì thế mặc dù về danh nghĩa Tô Cẩm là trợ lý của Hàn Hiểu nhưng Tô Cẩm luôn gọi Hàn Hiểu là “sư phụ”. Sau tết, những người đã có gia đình như Hàn Hiểu được bị điều về làm dự án ở gần thành phố, Tô Cẩm cũng đi cùng. Nhưng không ngờ, khi chưa khởi công, Hàn Hiểu vì có bầu nên xin nghỉ trước hạn. Thế là, dự án vốn dĩ do hai người phụ trách giờ chỉ còn một mình Tô Cẩm tự lo liệu. Thiết bị luyện ba mươi lăm vạn tấn dầu một năm của dự án luyện dầu thành phố C là một hệ thống lớn, đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của dự án. Theo sắp xếp tiến độ tổng thể của dự án luyện dầu thành phố C, tiến độ của hệ thống này phải song song với hệ thống sản xuất hydro. Theo thường lệ, khi thi công, hai hệ thống cần có hai nhân viên kỹ thuật điều hành. Nhưng Hàn Hiểu đột ngột nghỉ phép, bộ phận giám sát kỹ thuật cũng không có thời gian tìm thêm người, thế là công việc của hai người đều trút lên vai Tô Tô. Hàn Hiểu xin lỗi là vì như vậy. Tô Cẩm vội nói: “Sư phụ đừng nói như vậy. Chị đã giúp em điều chỉnh tất cả mọi thông số của hai hệ thống, em cũng đã nhàn hơn nhiều rồi. Chị cứ yên tâm ở nhà nghỉ ngơi, đừng bận tâm lo lắng điều gì”. Hàn Hiểu liền dặn dò cô vài câu rồi tắt máy. Tô Cẩm gọi lại cho Lâm Chi Chi, nhưng máy vẫn tắt. Tắm rửa, ăn bữa sáng mà khách sạn phục vụ tận phòng xong, Tô Cẩm cúi đầu buồn bã rời khỏi khách sạn. Tuyết vẫn rơi, tuyết trên đường bị người qua lại giẫm đạp thành một mớ hỗn độn. Cỏ cây hai bên đường cũng bị tuyết phủ trắng. Trên quảng trường phía xa, đám trẻ con đang chơi ném tuyết, cười nói ầm ĩ. Tô Cẩm đứng trên thềm khách sạn, mặc áo lông có mũ, xấp tiền vẫn để trong túi áo, cộm lên qua chiếc áo mỏng bên trong khiến cô thấy đau. “Mình đã mất bạn trai.” Tô Cẩm hé mắt nhìn thế giới bên ngoài vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, buồn bã nghĩ, “Khi mình tự buông thả bản thân, muốn mượn rượu để giải sầu thì lại mất mát nhiều thứ hơn…”. Nghĩ vậy, Tô Cẩm không tránh khỏi cảm giác đau đớn, lạnh lẽo. Không phải đó chỉ là một người đàn ông sao? Không phải chỉ là một cuộc tình chết yểu sao? Vì sao lại phải đau khổ như vậy? Từ góc độ này thì việc xảy ra trong khách sạn rõ ràng là tự tạo ra một điều nghiệt ngã. Còn gã đàn ông kia không biết có mắc bệnh truyền nhiễm gì không… Đó cũng là mình làm mình chịu thôi. Tô Cẩm dụi dụi mặt, cố gắng vực dậy tinh thần. Cho dù nói như thế nào thì giây phút khó khăn nhất cũng đã qua rồi. Quay về phòng trọ ở Hải Công, cô bạn cùng phòng Thanh Thanh vẫn chưa về. Tô Cẩm thu dọn xong hành lý của mình, gọi điện cho Lâm Chi Chi, điện thoại vẫn tắt máy. Tô Cẩm hết cách, đành gọi điện thoại cho Bành Tiểu Ngôn. Ở thành phố T, hai người này là bạn tốt nhất của Tô Cẩm. Bành Tiểu Ngôn đang trong giờ làm, nghe cô hỏi Lâm Chi Chi, lập tức giống như thùng thuốc nổ bị châm ngòi, “Con nhỏ Chi Chi đó chẳng thèm kiêng nể gì, trắng trợn lừa mình. Nó nói nó có việc gấp, bảo mình đến khách sạn đón cậu. Khi mình chạy đến khách sạn, chả thấy ma nào ở đấy cả. Gọi điện cho nó thì lại tắt máy, gọi cho cậu thì cũng không nghe máy. Hai người đang chơi trò gì vậy? Làm lỡ mất cuộc hẹn vào đêm có tuyết của mình, hôm qua là lễ Tình nhân, mỗi năm chỉ có một lần…”. Tô Cẩm ngắt những lời trách móc của cô, “Chi Chi có nói nó có chuyện gì không?”. Bành Tiểu Ngôn rên lên một tiếng, “Giọng nó nghe có vẻ rất gấp gáp, nhưng không nói là chuyện gì. Đúng rồi, lúc gọi điện, mình nghe thấy tiếng còi ô tô, có lẽ nó đang ở trên đường. Có phải là chuyện của công ty không?”. Lâm Chi Chi là trưởng bộ phận an ninh của tập đoàn Hưng Hòa, có thể là việc của công ty thật… “Gọi điện thoại đến công ty rồi phải không?”, Tô Cẩm hỏi, “Công ty nói thế nào?”. “Gọi rồi!” Giọng của Bành Tiểu Ngôn có vẻ rất ấm ức, “Người ở công ty nói là không thể tùy tiện tiết lộ cho người ngoài”. “Vậy à…”, Tô Cẩm nhìn những bông tuyết rơi trên ngọn cây ngoài cửa sổ, bất giác chau mày, “Ngày mai mình phải đi làm dự án rồi, lần này ít nhất cũng phải hai tháng. Việc của Chi Chi… đợi cô ấy về nhất định bắt cô ấy phải giải thích rõ với cậu”. Bành Tiểu Ngôn đáp: “Cứ yên tâm đi đi, có việc gì nhất định mình sẽ thông báo cho cậu”. Tắt máy, Tô Cẩm xem lại nhật ký điện thoại tối hôm trước, ngoài hai cuộc gọi của Ngạc Lâm, còn lại đều là số điện thoại của Lâm Chi Chi. Tô Cẩm vô cùng ân hận. Chỉ vì một người đàn ông khốn nạn mà làm lỡ bao nhiêu việc. Lòng đầy ân hận, Tô Cẩm vỗ trán, rồi tự thề với lòng: Một là, từ bỏ Ngạc Lâm, xem con người bội bạc đó rốt cuộc thế nào; hai là, không bao giờ để rượu làm ảnh hưởng đến mình nữa. Nếu vi phạm lời thề thì cô sẽ trở thành kẻ không ra gì suốt đời. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Không Mật Mã của tác giả Kinh Hồng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Thu Hoạch Xương
Haiti và Cộng hòa Dominicana, hai quốc gia láng giềng trên cùng một hòn đảo vùng Ca-ri-bê, năm 1937, Amabelle sống cuộc đời bình lặng của một cô hâu gái người Haiti cho cô chủ Valencia, một gia đình Dominicana thuợng luu. Cuộc sống thường nhật của cô và chàng trai đồng hương Sebastien hẳn sẽ tiếp tục trôi qua trên những ngọn đồi giữa những cánh đồng mía nếu độc tài Trujillo không bắt đầu cuộc thảm sát "Cây mùi tây" nhắm vào người Haiti ở Dominicana. Bị đẩy vào một cuộc vuợt biên đầy nguy hiểm, Amabelle buộc phải đối mặt với việc lựa chọn giữa mất mát và sống còn, giữa những bóng đen trong quá khứ và tương lai. Quan trọng hơn, liệu cô có đủ dũng cảm để tiếp tục sống như một trong "những người trở về từ cõi chết" trên chính quê hương của mình? "Nhưng tôi muốn mọi người biết rằng tôi hiểu. Tôi nhìn thấy tất cả những thứ đó. Chỉ có điều tôi đã tưởng rằng chúng sẽ không nhìn thấy tôi. Tôi những tưởng rằng chúng sẽ không tìm ra tôi. Chỉ đến khi Mimi và Sebastien bị bắt đi thì tôi mới nhận ra rằng dòng sông máu đã chảy tới trước cửa nhà mình, rằng nó vẫn luôn ầm ào chảy ngay trong nhà của tất cả chúng tôi." *** Kế ấy, Jephthah hiệp lại hết thảy dân Gilead, giao chiến cùng Ephraim. Người Gilead chiếm hết những chỗ cạn để vượt sông Jordan dẫn vào Ephraim. Và khi một người Ephraim sống sót nào nói rằng, “Xin để cho tôi đi qua”, thì những người Gilead nói rằng : “Ngươi có phải người Ephraim chăng ?” Nếu anh ta nói, “Không,” chúng bèn nói cùng người đó rằng, “Thế thì, hãy nói ‘Shibboleth.’” Nếu người đó nói “Sibboleth”, vì anh ta không thể phát âm chính xác chữ đó được, chúng sẽ bắt và giết họ tại chỗ cạn của sông Jordan. Khi đó, đã có bốn mươi ngàn người Ephraim bị sát hại. Kinh Judges 12:4-6 Dâng kính lên người, Metrès Dlo, Bà mẹ của Những dòng sông Amabelle Désir *** T ên anh ấy là Sebastien Onius. Gần như đêm nào anh cũng đến để dập tắt cơn ác mộng mà tôi luôn thấy về cái ngày cha mẹ tôi chết đuối. Trong lúc tôi kháng cự lại giấc ngủ, anh thì thầm bảo “nằm yên trong lúc anh đưa em trở lại.” “Trở lại đâu?” Tôi hỏi mà không cảm thấy môi mình động đậy. Anh trả lời, “Anh sẽ đưa em trở lại hang đá phía bên kia con suối.” Tôi loạng choạng rướn người về phía anh, gắng gượng để đứng lên. Anh giúp tôi giữ thăng bằng với những đầu ngón tay dài mà cong, những ngón tay sống động trườn mò về phía tôi. Tôi bám vào người anh, đầu tôi suýt chạm tới giữa vòm ngực anh. Anh đẹp một cách hào sảng trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu thốt nốt, mặc dù gương mặt đen bóng của anh đầy rãnh sẹo đan xen do những thân mía để lại. Cánh tay anh lớn bằng cả vòng đùi tôi. Chúng là những thanh thép, tôi luyện bởi bốn năm thu hoạch mía. “Nhìn em này,” anh vừa nói vừa nâng mặt tôi lên bằng bàn tay rộng lớn hình bát úp, nơi lòng bàn tay đã mất đi chỉ tay do những con dao chặt mía. “Em ngời sáng như một ngọn đèn lồng Giáng sinh, ngay cả với làn da màu tro tàn của gỗ vụn trong mưa.” “Đừng nói với em kiểu đó,” tôi lẩm bẩm trong lúc vẫn đang giằng co với bóng đen của giấc ngủ. “Nói chuyện kiểu này làm em thấy trần trụi.” Anh đưa bàn tay vuốt ve dọc theo lưng tôi. Lòng bàn tay thô ráp và chai sần của anh day miết như muốn bào mòn da thịt tôi, trong khi chiếc vòng đeo tay làm từ những hạt cà phê màu vàng của anh lăn qua lăn lại và mơn trớn sống lưng tôi mềm mại. “Hãy cởi váy ngủ của em ra,” anh gợi ý, “và thực sự trần trụi đi. Khi đã trút bỏ hết rồi, em sẽ biết rằng mình đang hoàn toàn tỉnh táo và anh có thể ngắm nhìn em trong vui sướng.” Nói rồi, anh lướt về phía bên kia phòng và quan sát mọi cử động của da thịt tôi trong lúc tôi cởi bỏ áo quần. Anh ở trong một góc phòng cách xa ngọn đèn, một vùng tối nơi anh nhìn thấy tôi rõ hơn là tôi thấy anh. “Sẽ tốt cho em nếu em hiểu và tin rằng anh luôn ở gần bên em ngay cả khi mắt em không thể nhìn thấy anh,” anh nói. Câu nói này khiến tôi bật cười lớn, quá lớn vào thời khắc nửa đêm. Bây giờ thì tôi đã hoàn toàn khỏa thân và tỉnh táo. Tôi nhanh chóng ngã vào vòng tay anh với bộ váy ngủ còn vướng quanh mắt cá chân. Với thân hình gầy gò như anh hay nói, tôi sợ mình sẽ dễ dàng gãy làm đôi và biến mất. Tôi sợ phải sống nhút nhát, tách biệt, và lạnh lẽo. Tôi sợ rằng mình sẽ ngừng tồn tại khi anh không ở đó. Tôi như một hòn cuội ở biển hút ngược màu sắc của mình vào bên trong và không còn trong trẻo nữa một khi bị mang ra ngoài ánh nắng mặt trời và rời xa bọt sóng. Khi anh không ở đó, tôi sợ tôi sẽ không còn biết ai và cũng chẳng còn ai biết tôi. “Quần áo em che đậy đâu chỉ da thịt em,” anh nói. “Chúng biến em thành một thứ đồng phục gò bó. Bây giờ em mới là em bằng xương bằng thịt.” Tôi hoặc phải ở trong một cơn ác mộng, hoặc không ở bất kỳ nơi nào cả. Nếu không, tôi chỉ trôi lơ lửng trong những ký ức này, xót xa cho tôi của quá khứ, và hơn hết là cho tôi của hiện tại. Nhưng những đau buồn này tôi để dành khi không có anh ở bên. “Hãy nhìn khuôn mặt nhỏ nhắn hoàn hảo của em này,” anh nói, “dáng hình nhỏ nhắn hoàn hảo của em, cơ thể nhỏ nhắn hoàn hảo của em, một người thiếu nữ đang lớn với nước da đen thăm thẳm. Tất cả các gam màu tối hiện hữu trong em, những thứ chúng ta nhìn thấy và không nhìn thấy, cái thiện và cái ác.” Anh lướt tay trên người tôi nhẹ tựa lông hồng, như thể anh cũng sợ rằng tôi sẽ tan biến đi mất. “Mọi thứ trên khuôn mặt em đều nằm đúng chỗ,” anh nói, “mũi em cũng nằm ở vị trí của nó.” “Ôi, wi1, thật thê thảm biết bao,” tôi đáp, “nếu mũi em nằm ở dưới gan bàn chân.” 1 Ừ, đúng. Tiếng Creole ở Haiti. Lần này thì chính anh là người bật cười. Nhìn gần hơn, tiếng cười làm khuôn mặt anh nhăn lại và hai vai anh nhấp nhô lên xuống không đều nhịp. Tôi không bao giờ dám chắc rằng anh đang cười hay vừa cười vừa khóc, mặc dù tôi chưa bao giờ thấy anh khóc. Tôi choàng tay qua người anh và chìm lại vào giấc ngủ. Anh sẽ biến mất trước khi tia nắng ban mai đầu tiên đượm mùi sả ló dạng. Nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của anh ở đó trong căn phòng vuông vức nhỏ bé của mình. Tôi có thể ngửi thấy mùi mồ hôi anh, đặc quánh như mật mía khi anh phải vắt sức quá nhiều. Tôi vẫn có thể nếm náp khuôn miệng anh, với phần lợi thẫm màu cà tím có vị ngọt nhầy của sữa dê đun nóng đến quyện đường và mùi của những củ khoai tây màu vàng mù tạt. Tôi cảm nhận những móng tay thô dày của anh vun đôi má tôi lên cao, và vòng đeo tay của anh cứa vào hai hõm nhỏ bên dưới xương gò má để lại một giọt máu khô hình trăng khuyết hoàn hảo. Tôi tận hưởng cách lưỡi anh âu yếm lần theo huyết mạch trên sống lưng tôi và để lại những đường ẩm ướt, những dấu tay hằn mờ trên hông tôi nơi anh bám vào quá chắc, có lẽ trong những giây phút khi anh cảm thấy tôi đang tuột dần đi. Và tôi vẫn có thể đếm những hơi thở của anh, đôi khi gấp gáp hơn cả nhịp tim anh. Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường dành hàng giờ chơi đùa với cái bóng của mình, trò chơi mà cha tôi luôn cảnh báo rằng sẽ khiến tôi gặp ác mộng, những cơn ác mộng nơi ta thấy những giọng nói xoáy thành cơn lốc đủ sắc cầu vồng và nghe những vật với đủ hình thù kỳ dị trỗi dậy cất tiếng nói khẳng định chính mình. Chơi đùa với bóng của mình giúp tôi, một đứa con một, cảm thấy bớt cô đơn. Mỗi khi tôi có bạn chơi cùng, tôi đều cảm giác họ không có thật hay không hiện diện. Tôi coi họ chỉ như vật thế chỗ cho cái bóng của tôi. Và trong quãng đời sau này, tôi còn gặp nhiều cái bóng khác. Đôi khi Sebastien Onius bảo vệ tôi khỏi những cái bóng. Đôi khi anh lại là một trong số đó. *** Edwidge Danticat (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1969) là một tác giả có hai quốc tịch Haiti và Hoa Kỳ, người có những tác phẩm văn học nhấn mạnh cuộc sống của người phụ nữ và mối quan hệ của họ. Những trải nghiệm cuộc sống của riêng bà đã cung cấp nền tảng và cảm hứng cho các tác phẩm của bà. Truyện ngắn và tiểu thuyết của bà tập trung vào các chủ đề mang tính chất tuần hoàn như di dân, tình dục, giới tính và lịch sử . Cha mẹ của bà đã di cư đến New York mà không đem theo bà đi và bà lớn cùng với cô chú của mình. Trong những năm sớm của cuộc đời, bà bị ảnh hưởng bởi lối kể chuyện của người Haiti và phát triển mối quan tâm đến việc viết lách. Khi được 12 tuổi, bà sống cùng với ba mẹ mình tại Brooklyn nhưng không cảm thấy thoải mái khi phải thích nghi với lối sống và văn hóa của thành phố này và chỉ tìm thấy sự bình yên trong các tác phẩm văn học. Sau khi nhận được bằng tốt nghiệp về văn hóa tiếng Pháp tại Học viện Barnard, bà còn nhận được bằng Bậc thầy Nghệ thuật khi, với luận đề của bà, xây dựng những nền tảng của tiểu thuyết đầu tay của bà Hơi thở, Ánh mắt, Kỷ niệm. Bà đạt được những thành công chưa từng có như một người viết truyện ngăn và tiểu thuyết bằng những tác phẩm nhận được những lời khen từ giới phê bình. Bà cũng là một người đấu tranh các vấn đề ảnh hưởng đến người Haiti ở trong và ngoài nước. Với những trải nghiệm như một người có hai quốc tịch Haiti và Hoa Kỳ, bà viết về một trong những nền văn hóa ít nổi bật nhất trong văn hóa Hoa Kỳ sử dụng phong cách mang tính chất thơ và sôi nổi. Tác phẩm của bà đã được dịch sang một số ngôn ngữ như tiếng Hàn, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Bà được xem xét một cách rộng rãi như là một trong những tác giả tài năng nhất của Hoa Kỳ hiện nay. Vào năm 1994, bà đã xuất bản tiểu thuyết đầu tiên mang tên Hơi thở, Ánh mắt, Kỷ niệm dựa trên luận đề su tốt nghiệp của bà có tiêu đề Sự chuyển của tôi trong lửa - một tiểu thuyết rút gọn. Các truyện ngắn của bà đã được xuất bản trong 25 tạp chí định kỳ và đã được tập hợp trong một số lần. Tác phẩm đã được chuyển dịch sang các ngôn ngữ khác nhau như tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Bà là một giáo viên về sáng tác sáng tạo tại Đại học New York và Đại học Miami. Bà cũng làm việc trong một số dự án về nghệ thuật Haiti và các phim tài liệu về Haiti. Các tác phẩm đã được xuất bản của bà là: The Farming of Bones (1998) The Book of the Dead (1999) Behind the Mountains (2002) Brother, I'm Dying (2007) Ghosts (2009) Create Dangerously: The Immigrant Artist at Work (2010) Claire of the Sea Light (2013) Quality Control (2015), cuốn truyện ngắn mới nhất của bà Mời các bạn đón đọc Mùa Thu Hoạch Xương của tác giả Edwidge Danticat.
Tiếng Gọi Vĩnh Cửu
A-na-tô-li I-va-nốp (sinh năm 1928) - nhà văn Nga nổi tiếng, người được giải thưởng Quốc gia Liên Xô, đã hoạt động trong nền văn học Xô-viết hơn 30 năm. Tên tuổi ông gắn liền với việc khai thác dưới góc độ văn học vùng Xi-bi-ri cùng với lịch sử và hiện tại của nó. I-va-nốp sinh ra và lớn lên tại làng Sê-mô-na-i-kha thuộc miền đông Ca-dắc-xtan. «Ở đó đời sống Xi-bi-ri và con người Xi-bi-ri vẫn đi theo nề nếp của mình», - sau này ông đã viết về làng quê của mình như vậy. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp khoa báo chí trường đại học tổng hợp, ông đã làm việc một số năm tại các tòa soạn các báo huyện ở vùng Xi-bi-ri, Viễn Đông và đã từng đi nhiều nơi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông xuất bản năm 1956. Tiếp đó là các tiểu thuyết lớn: «Bóng đen biến mất giữa ban ngày», «Tiếng gọi vĩnh cửu» (1970) rất nổi tiếng ở Liên Xô và ở nước ngoài. Hầu hết các tác phẩm của ông đều được đưa lên màn ảnh, các bộ phim vô tuyến truyền hình nhiều tập dựa theo cốt truyện các tiểu thuyết của ông đã đạt được thành công lớn. Sự việc diễn ra trong cuốn sách này bao gồm gần nửa thế kỷ cuộc sống của một làng quê Xi-bi-ri-từ đầu thế kỷ đến năm 1942, năm thứ hai trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống bọn phát-xít Hít-le. A-lếch-xan-đrơ Ốp-tsa-ren-cô, một nhà ngữ văn học lớn của Liên Xô đã viết về cuốn tiểu thuyết «Tiếng gọi vĩnh cửu»: «...chúng ta ngập vào trong thế giới của những xung đột cực kỳ gay gắt, những tình huống vô cùng căng thẳng, những đụng độ về trí tuệ, tinh thần và thể lực ác liệt nhất. Ở đây những khát vọng sôi lên sùng sục, những con người của những niềm tin khác nhau mâu thuẫn với nhau phải dùng đến cả đại bác, tiểu liên, súng máy, súng ngắn, súng lục, nắm đấm và cả hàm răng nữa. Ở đây người ta cũng cảm thấy hơi thở của sự diệt vong gần ngang như hơi thở của sự sống... bởi vì có một thế giới đang sụp đổ và một thế giới khác đang ra đời...» *** Vào một ngày tháng Sáu năm 1908, trong phòng hỏi cung của sở hiến binh thành phố Tôm-xcơ có hai người: dự thẩm La-khơ-nốp-xki, chừng ba mươi lăm tuổi, chiếc mũi tẹt lúc nào cũng như láng mỡ, và cai ngục Cô-xô-rô-tốp, một gã đàn ông vẻ ngoài khó coi với chiếc quai hàm bạnh ra bè bè. La-khơ-nốp-xki ngồi sau bàn làm việc uống nước chè, mình chỉ mặc một chiếc sơ-mi lót trong. Trời nóng nực, áo khoác ngoài nhà binh treo trên lưng ghế tựa. Cô-xô-rô-tốp đứng phục dịch, khăn vắt ngang tay, trông hắn chẳng khác gì một tên hầu bàn ở các quán ăn. La-khơ-nốp-xki đặt chiếc cốc không xuống khay, lên tiếng: - Ta có xem bản báo cáo của anh gửi cấp trên. Anh muốn xin về nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki phải không? - Thưa ngài, đó là điều con vẫn mơ ước từ thời trẻ đấy ạ. - Mơ ước - đó là điều rất tốt. Mơ ước của con người cần phải được thực hiện. - Dạ, ngài có lần đã hứa, nếu con lập được công, ngài sẽ giúp. - Được, được, ta sẽ nói hộ. Cho anh đi thì hơi tiếc, nhưng cũng phải khen thưởng anh vì sự phục vụ tận tụy và trung thành. - La-khơ-nốp-xki đẩy chiếc khay với bộ ấm chén sang một bên. - Thôi, bây giờ ta lại bắt đầu với mấy người đồng hương từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ của anh... Làm thế nào mà anh chộp được chúng thế? - Dạ, thưa ngài Ác-nôn-đơ Mi-khai-lô-vích, hôm đó con đang đi đến rạp xem xi-nê. Khi đi ngoài phố, bao giờ con cũng chú ý quan sát xung quanh, xem có gì đáng khả nghi không? Con đang nhìn thì bỗng thấy từ một ngõ hẹp ngay trước mặt có hai người bước ra, rồi vội vã đi thẳng. Con nghĩ: có cái gì đáng nghi lắm... Vừa lúc đó, một đứa ngoái nhìn lại. Con ngạc nhiên nhận ra đó là Pi-ốt Pô-li-pốp. Đồng hương! Thế còn người đi với hắn là ai? Thôi đúng là An-tôn Xa-vê-li-ép rồi! Hai đứa hồi năm chín trăm linh năm, linh sáu đã bị giam ở nhà tù Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Lúc đó con làm cai ngục ở đấy. Con nghĩ, không biết chúng đến Tôm-xcơ để làm gì? Và thế là con thổi còi... - Thôi, được rồi, khá lắm. Dẫn từng đứa một vào đây. La-khơ-nốp-xki khoác chiếc áo nhà binh lên vai, châm lửa hút. Khói thuốc bay ra ngoài phòng theo lỗ thông hơi của chiếc cửa sổ bịt bằng lưới thép. Chưa đầy hai phút sau, Cô-xô-rô-tốp đã đẩy An-tôn Xa-vê-li-ép vào phòng. An-tôn mặc chiếc áo vét-tông nhàu nát, mấy túm tóc màu bạch kim rủ lòa xòa trước trán dưới vành mũ lưỡi trai. Đôi mắt trong và rất sáng nhìn La-khơ-nốp-xki đầy vẻ hằn học, cau có. Tên dự thẩm rít một hơi thuốc, bước đến bên cạnh An-tôn, hất đầu chỉ hai cặp giấy dày cộp nằm trên bàn, cười gằn: - Tôi vừa mới hỏi xin hồ sơ cá nhân của anh và Pô-li-pốp ở sở hiến binh Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về đấy. Thế nào, bây giờ thì còn khăng khăng ngoan cố nữa không?   * * *   Gần một tháng trước đây, An-tôn Xa-vê-li-ép vừa tròn 18 tuổi. Và cũng đúng vào ngày sinh, anh tổ chức lễ cưới. Vợ anh là Li-da Da-kha-rô-va, con gái ông Nhi-can-đrơ Da-kha-rốp, một đảng viên Đảng xã hội, quê ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Ông đã hy sinh hồi tháng Ba năm 1905 trong một chuyến vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki. An-tôn, sinh ra và lớn lên ở làng Mi-khai-lốp-ca nhỏ bé thuộc xã San-ta-ra, cách Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ chừng trăm rưởi véc-xta1. Cha của cậu, Xi-lan-chi Xa-vê-li-ép, rất nghèo, như ở Mi-khai-lốp-ca người ta thường nói, «nghèo hơn cả con chó của cố đạo». Câu đó có nghĩa gì, không bao giờ An- tôn có thể hiểu được, vì ở Mi-khai-lốp-ca vốn không có nhà thờ, không có cố đạo, và lẽ dĩ nhiên, không có cả chó của cố đạo. An-tôn lớn lên như một đứa trẻ lêu lổng, thường hay đánh đập hai em trai là Phê-đô và I-van. Tất cả trẻ con làng Mi-khai-lốp-ca đều sợ cậu chết khiếp. Chưa ai biết An-tôn rồi sẽ lớn lên thành người như thế nào, thì mùa xuân năm 1904, Mi-tơ-rô-phan, em ruột của Xi-lan-chi, làm nghề thợ mộc, từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về thăm làng Mi-khai- lốp-ca. - Này chú Mi-tơ-rô-phan, chú đưa thằng An-tôn ra thành phố một thời gian nhé? - người anh hỏi. - Có thể chú dạy nghề cho nó. Ở nhà tôi và mẹ nó chịu không làm sao bảo được nó. Thằng bé sẽ hỏng mất thôi. Nghe nói hình như còn kết bạn với bọn chuyên ăn trộm ngựa, được chúng dạy cho cờ bạc. Ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ An-tôn rất thích, nhưng không chịu học nghề thợ mộc. Suốt ngày cậu lang thang khắp các phố, làm quen với bọn du côn, đánh bạc với chúng, tìm cách móc túi những người say rượu nằm lăn lóc các quán, và nhiều lần bị đánh nhừ tử. Rồi bỗng nhiên cậu bỏ tất cả những trò đó và trở nên say mê bẫy chim ở các cánh rừng xung quanh thành phố, đưa ra chợ bán hoặc đổi lấy bánh quế cho Pi-ốt Pô-li-pốp, con trai một chủ hiệu buôn ở gần đấy. Bản thân An-tôn không ưa của ngọt, bao nhiêu bánh cậu đều cho Li-da có đôi chân thon thả, «con lão khổ sai» - như người ta thường gọi cô. Cô bé Li-da này, người gầy đét như một bộ xương, đầu gối nhọn hoắt và cặp lông mày đen rất dài, lúc đó chừng mười bốn tuổi, nhà ở cùng phố với chú Mi-tơ-rô-phan. Bà mẹ cô hình như bị bệnh lao, ho quanh năm suốt tháng, làm việc ở nhà máy xà-phòng. An-tôn quan tâm đến Li-da chỉ vì cô là con gái của một người tù khổ sai. «Cũng hay, không biết vì sao mà người ta bắt ông ta đi đày, - cậu nghĩ, - chắc có lẽ vì đâm chết ai đó». Một lần, An-tôn đem điều này ra hỏi Gri-gô-ri, con trai cả của chú Mi-tơ-rô-phan làm nghề đốt lò ở đề-pô xe lửa. Anh cao lớn, xương xẩu, đôi mắt to, người bao giờ cũng sặc mùi khói và bồ hóng. Gri-gô-ri là một thanh niên rất vui nhộn, thường hay cho An-tôn đi theo câu cá, và nói chung, đối xử với cậu thân mật, bình đẳng như với một người bạn cùng lứa tuổi. - Con người muốn tìm sự thật nên bị tống đi đày khổ sai, - Gri-gô-ri nói. Anh chăm chú nhìn An-tôn rồi tiếp thêm: - Ông ấy, cha của Li-da, là đảng viên Đảng Xã hội. - Đảng Xã hội là cái gì? - Là cách mạng. - Thế cách mạng là cái gì? Gri-gô-ri phá ra cười, và không hiểu sao, anh lại nháy mắt nhìn An-tôn: - Thế nào, lạ lắm phải không? Rồi anh cũng sẽ biết được thôi. Mọi cái đều có lúc của nó. Ít lâu sau, An-tôn biết được rằng cả Gri-gô-ri, cả chú Mi-tơ-rơ-phan, thậm chí cả bà thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na cũng là những người cách mạng, mặc dù họ tìm mọi cách để giấu kín, không cho An-tôn biết điều này. Và khi thấy An-tôn đã biết hết mọi chuyện, suýt nữa họ bắt cậu phải trở về với bố mẹ ở làng Mi-khai-lốp-ca. Găng nhất là thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na. Nếu không có Gri-gô-ri, chắc chắn An-tôn đã phải về rồi. - Cha ạ, con thật không hiểu cha muốn gì?! - một lần, Gri-gô-ri đã to tiếng với cha. Anh túm lấy bộ quân bài của An-tôn vừa bị thím U-li-a-na tước được vứt trên bàn, lắc lắc trong không khí. - Cha muốn để cho An-tôn cứ đi theo con đường này à? Càng để lâu thì càng khó chữa đấy. Cha phải hiểu rằng, vào cái tuổi này, ma quỷ nào biết nó muốn gì. Toàn những chuyện khác thường! Cho nên, cần phải tìm cách giúp đỡ An-tôn! Và ngay trong ngày hôm đó, chỉ nửa giờ sau, trong lúc nhận tài liệu bí mật từ tay liên lạc viên tại một ga xép ở ngoại ô thành phố, Gri-gô-ri - anh thanh niên Gri-gô-ri bao giờ cũng sôi nổi, không biết chán nản là gì, người đã phản đối việc gửi trả An-tôn về làng Mi-khai-lốp-ca, - đã bị cảnh sát bắn trọng thương. Chiều hôm đó anh tắt thở trên tay An-tôn, chỉ kịp nói mấy lời: - An-tôn, nếu anh đi tìm sự thật, thì nhà tù, khổ sai và, có thể, cả cái kết cục như thế này... sẽ đợi anh... Anh có dám đi không? - Đi! - Không sợ à? - Không! - Tốt lắm... - Tôi cũng sẽ trở thành người như chú! - Tôi tin... Chẳng bao lâu sau, An-tôn đã được nếm mùi tù ngục lần đầu tiên. Cả anh, cả Li-da, cả Pi-ốt Pô-li-pốp, - mặc dù Pi-ốt là con trai của một chủ hiệu khá giàu có. Dần dần, An-tôn và Pi-ốt trở nên thân nhau. Tình bạn của họ chỉ bị có một điều duy nhất làm cho vẩn đục: từ bao giờ không biết, cả hai người đều đã thầm yêu Li-da. Không hiểu cô gái có cái gì làm cho anh chàng Pi-ốt phải say mê? Li-da không xinh, chỉ có đôi mắt của cô là đẹp, đôi mắt hơi xanh như làn nước suối, bao giờ cũng lấp lánh một thứ ánh sáng vừa sống động, vừa bồn chồn. An-tôn yêu cô vì sự táo bạo đến liều lĩnh của cô, mặc dù nhìn bề ngoài thì không thể kết luận như vậy được. Mới 14-15 tuổi, cô đã nhiều lần đến Tôm-xcơ và chuyển tài liệu mật, thậm chí cả vũ khí nữa, từ đấy về. Về phía Li-đa, cô đối xử với An-tôn và Pi-ốt bao giờ cũng như nhau; và mãi cho tới tận thời gian gần đây cũng không biết được là cô thích ai hơn. Trong thâm tâm, An-tôn cho Pi-ốt có nhiều lợi thế và triển vọng hơn, đặc biệt là từ sau ngày ở tù ra. Họ bị bắt vào cuối tháng Mười năm 1905, tất cả gồm bốn người: An-tôn, Li-da, Pi-ốt và I-van Mi-khai-lô-vích Xu-bô-tin - người lãnh đạo tổ chức Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga ở thành phố Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, một nhà hoạt động cách mạng có nhiều kinh nghiệm. Cùng với cha của Li-da, ông vừa mới vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki về mấy tháng trước đây. Các đồng chí kiếm cho ông được giấy tờ hợp pháp mang tên Cu-dơ-ma Tsúc-kin, và bố trí cho làm chân rửa bát ở bếp nhà lao Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Làm việc ở đây, ông tích cực chuẩn bị cho những người tù chính trị vượt ngục. Vào một ngày tháng Mười, trong thời gian bãi công, những người công nhân đường sắt, - sau cái chết của Gri-gô-ri, tổ chức ở đây do cha anh, Mi-tơ-rô-phan, lãnh đạo, - đã tổ chức một cuộc biểu tình chính trị lớn chưa từng thấy và phá được nhà tù. Những đại đội Cô-dắc và quân đội chính quy chỉ mấy phút sau được điều đến để giải tán đám biểu tình, và toàn bộ những người tổ chức cuộc phá ngục đã bị bắt. Ngày hôm đó, Tsúc-kin - Xu-bô-tin trao cho An-tôn và Pi-ốt Pô-li-pốp một nhiệm vụ chiến đấu thật sự. Từ sáng, An-tôn cần phải đến một ga xép vắng vẻ để nhận từ tay ông già công nhân đường sắt một túi đạn và trước mười giờ phải mang đến chỗ hẹn trong rừng ở ngoại ô thành phố. Đây là số đạn dự trữ. Trong trường hợp cần thiết, Pi-ốt Pô-li-pốp sẽ chuyển số đạn đó vào thành phố cho tổ xung kích. Pô-li-pốp là học sinh trung học. Mặc bộ đồng phục học sinh, anh dễ dàng mang đạn đi trong thành phố mà không gây sự nghi ngờ. Nhưng An-tôn lại tự ái vì anh không những không được chọn vào tổ xung kích đi phá nhà tù, người ta cũng không tin tưởng giao cho anh mang đạn vào thành phố. Vì vậy, từ ga xép, anh đến thẳng địa điểm tập trung của tổ xung kích.   Mời các bạn đón đọc Tiếng Gọi Vĩnh Cửu của tác giả Anatoli Ivanốp.
Miền Đất Dấu Yêu
Tặng các bạn thích các chuyện tình lãng mạn nhẹ nhàng để qua thời gian stay home chán ngắt trong mùa dịch Covid-19. (Truyện này Sẻ dịch đã lâu và đăng trên trang nhà, định edit xong rồi mới phổ biến ebook. Nhưng bây giờ, tình hình bận rộn và lửa nhiệt tình đã khô cạn nên thôi đành bỏ cuộc.) Nếu các bạn bỏ qua cho một số lỗi khi dịch vội vàng thì đây là một chuyện tình rất dễ thương, đủ để giải trí cho một buổi chiều rảnh rỗi. *** Những lời hứa ngọt ngào… Những mưu chước thâm hiểm… Summer mắt tím chỉ là một cô bé khi cô nghe những lời hứa hẹn ngọt ngào… em sẽ lớn lên, cô gái mùa hè, và rồi anh sẽ đến và đưa em về nhà… Bây giờ cô đã trở thành một vẻ đẹp kiêu hãnh và đã về nhà an toàn giữa những ngọn đồi hoang dã ở vùng biên giới Texas,… ở nhà cùng Slater McLean, một chủ trại đẹp trai khao khát nỗi đam mê trong sự hăng hái ngây thơ của cô… Nhưng một phụ nữ thâm hiểm đã quyết định tiêu diệt tình yêu của họ, chiếm đoạt khỏi Slater những mẫu đất giàu có nhất của vùng Texas. Một phụ nữ với một vũ khí bí mật : một bức thư sẽ khiên Summer ô nhục mãi mãi… *** Dorothy Garlock là một trong những tác giả bestseller của NEW YORK TIMES, USA TODAY, WASHINGTON POST... Với trên 50 tác phẩm chủ yếu viết về mảnh đất miền Tây hoang đã được dịch sang 18 thứ tiếng, xuất bản ở 36 quốc gia cùng 20 triệu bản in trên toàn thế giới, Dorothy Garlock được mệnh danh là “Tiếng nói của đất mẹ Mỹ - The voice of America’s heart”. Bà đã đạt được hơn 21 giải thưởng danh giá trong sự nghiệp văn chương đồ sộ của mình. *** Ngày thứ Sáu cuối cùng cũng đến. Nó theo sau năm ngày khốn khổ nhất trong cuộc đời của Summer. Hôm nay, vào buổi trưa, nàng sẽ bắt chuyến xe khách sẽ đưa nàng rời khỏi Hamilton mãi mãi. Vào lúc sợi nắng đầu tiên của bình minh vươn đến, nàng ngồi dậy và thay quần áo rồi ngồi bên cạnh cửa sổ. Sau đó, nàng ăn điểm tâm, để lại chiếc khay ngoài hành lang, nàng đóng gói lại hành lý và quay về ô cửa sổ, nơi nàng có thể nhìn thấy Jesse, gã sẽ đến và đưa nàng đến trạm xe khách.   Jesse đã ghé thăm nàng hai lần trong năm ngày vừa qua. Nàng nghĩ nàng sẽ mất trí nếu không có những cuộc ghé thăm của gã. Gã là một người khác biệt hoàn toàn với những gì mà thoạt đầu nàng đã tin. Nàng phát hiện ra gã là một người thật cô độc. Nàng có thể hiểu bằng cách nào Ellen thu phục được nhiều tình yêu và lòng trung thành đến thế từ gã. Cho dù gã không kể với nàng, nàng biết cái chết của Ellen đã cho gã tự do để yêu Sadie. Gương mặt gã thường có nét cười, mang vẻ thiết tha khi gã nói về chị ấy và Mary.   Gã kể với Summer đôi chút về kế hoạch của gã về tương lai. Slater, gã giải thích, giờ đã là chủ nhân của Rocking S. Hắn chắc chắn rằng đó là cách toà sẽ phân xử, vì Slater là người thừa kế duy nhất còn sống trong chừng mực bất kỳ ai biết. Khi mọi thứ đã ổn định, gã và Sadie sẽ kết hôn và bắt đầu xây dựng một nơi chốn ở đâu đó.   “Slater sẽ muốn ông ở lại.” Summer nói.   “Đã đến lúc tôi bắt đầu xây dựng thứ gì đó cho riêng mình,” là lời đáp đơn giản của gã.   Summer tựa đầu vào thành cửa sổ. nàng biết mỗi inch của con đường bên dưới, mỗi mắt gỗ trên vách toà nhà đối diện. Nàng chẳng có gì khác để làm trong năm ngày trống trải ngoại trừ nhìn chằm chằm ra ngoài ô cửa sổ. Nàng không bước ra khỏi phòng, chỉ gặp người chủ khách sạn một lần và đó là khi hắn đặt chiếc khay bên ngoài cánh cửa và nàng nghĩ hắn đã đi rồi, những hắn đang đứng ngoài hành lang đợi nàng ra ngoài để có thể nhìn thoáng qua nàng. Không hiểu sao, vẻ dâm đãng của hắn khiến nàng cảm thấy tội lỗi và không trong sạch.   Bóng đổ trên toà nhà đối diện nói với nàng rằng sẽ không còn lâu nữa đến khi mặt trời ở trên đỉnh đầu. Nàng bắt đầu cảm thấy lo âu. Jesse đã nói gã sẽ đến đây và gã sẽ làm, nàng tự nhủ. Tuy vậy, thời gian như bị kéo dài trong lúc nàng quan sát. Nỗi lo âu khiến nàng xoắn chiếc khăn tay vòng vòng trên những ngón tay, và ngay lúc nàng nhìn thấy gã quành vào góc phố và hướng đến khách sạn, chiếc khăn đã ướt đẫm. Với một cảm giác hết sức nhẹ nhõm, nàng đứng lên và đội nón, ghim nó cẩn thận vào mái tóc bới cao của nàng để gió sẽ không hất nó bay khỏi đầu. Jesse chưa lên ngay và nàng đoán gã sắp xếp với người chủ khách sạn. Nàng lấy tiền mà Slater đã đưa cho nàng ra sẵn và đợi.   “Summer?” Giọng của Jesse.   Nàng mở khoá cửa, “Hello, Jesse.”   “Tiền khách sạn đã được trả rồi, hãy cất tiền của cô đi. Cô sẽ cần nó. Tôi đã có vé cho cô đến Austin, và Bill nói ông ấy sẽ coi chừng cho cô. Đi thôi, ông ấy đang đón khách rồi.” Khi Summer phản đối chuyện tiền nong, gã nói, “Ồ, để sau đi. Sadie và tôi có lẽ sẽ sang Austin. Chúng tôi có thể tìm thấy cô ở đâu?”   “Tôi quyết định sử dụng tên của mẹ tôi. Wheeler. Tôi sẽ để lại lời nhắn tại trạm bưu điện.”   Summer hếch cằm cao lên một chút và vươn thẳng lưng khi họ đi bộ vào trong ánh nắng ban trưa. Jesse nhấc rương hành lý lên vai và đặt một bàn tay bên dưới khuỷu tay nàng. Khi họ đến trạm xe khách, nàng nhận thức rõ về những đôi mắt hiếu kỳ đuổi theo sau họ, và gương mặt nàng bừng cháy. Nàng buộc bản thân chuyển ánh mắt khỏi con đường đầy bụi và nhìn thẳng về phía trước, gương mặt nàng dịu xuống, những cảm xúc như đã bị chôn nén bên trong nàng.   Bill, người đánh xe đã đưa nàng và John Austin đến Hamilton, đang đợi bên cạnh chiếc xe khách. Ông đón hành lý của Summer từ Jesse và nhấc nó lên cho người phụ lái để ràng chúng vào giá để hành lý.   Vì đã đến lúc phải ra đi, Summer muốn níu chặt lấy Jesse. Đọc được suy nghĩ của nàng, vẻ đau đớn trên gương mặt nàng, gã siết chặt cánh tay nàng và khom xuống thì thầm trấn an :   “Rồi sẽ tốt đẹp thôi mà, Summer. Nhớ nhé, nếu mọi thứ chẳng ra sao, hãy viết cho đại uý Slane tại pháo đài. Ông ấy sẽ gởi cho tôi. Nào, cô sẽ làm điều đó chứ?”   Chiến đấu kềm lại nước mắt, nàng gật đầu. “Cám ơn ông.” Nàng thì thầm qua đôi bời môi run rẩy.   Jesse xoay người và nhấc nàng vào trong khoang hành khách, gương mặt của chính gã cũng đang khoác một chiếc mặt nạ để che dấu cảm xúc. Summer ngồi xuống bên cạnh một phụ nữ Mexican ôm một em bé đang ngọ nguậy. Khoang xe đã đầy hành khách; ba người đàn ông và một phụ nữ ngồi bên cạnh người phụ nữ đang ôm đứa bé. Những người đàn ông có vẻ cáu kỉnh vì sự chậm trễ, và nhìn chằm chằm vào nàng với vẻ bực bội. Chiếc roi ngựa quất vun vút, khoang xe tròng trành và bắt đầu lăn bánh. Summer, ngồi ở phía sau cùng, chú mục vào Jesse cho đến khi không còn nhìn thấy gã nữa. Đường mòn chuyển vào một khúc quanh, một đám mây bụi tung mù phía sau họ, và để lại thị trấn phía sau lưng.   Có vẻ như với Summer, nàng chỉ có một mình trong một thế giới cô đơn. Thật ra, nàng chưa bao giờ từng thấy cô độc như nàng đã trải qua năm ngày vừa qua. Trên đường rời khỏi Piney Woods, nàng có John Austin để chăm sóc. Trong chuyến xe tương tự họ đã đi đến Hamilton tìm Sam McLean. Họ đã tìm thấy ông, thật vậy, Sammer chua xót nghĩ.   Sức nóng thiêu đốt bên trong khoang xe. Summer gỡ nón để quạt mát bản thân và luồng gió nhẹ tạo ra đã giúp làm đứa bé im lặng. Nàng cầu nguyện rằng dạ dày của nàng sẽ giữ yên được. Bình thường vào buổi trưa nó sẽ dịu xuống, nhưng hôm nay, nàng đã quá lo lắng khi chờ đợi Jesse đến mức nàng đã lên tục nuốt xuống để giữ cho miệng nàng không lấp đầy nước miếng.   Nàng quan sát những ngọn đồi đang mờ dần nhường chỗ cho màu sắc của ánh dương và bầu trời; quan sát thảo nguyên mênh mông trải dài đến vô tận. Nàng nhìn chằm chằm trở lại đường mòn cho đến khi ánh mặt trời bắt lấy giọt nước ở khoé mắt nàng. Một con đại bàng chuyển động theo đường xoắn ốc bay vút lên trời, vươn thẳng đến vầng thái dương cho đến khi nó chỉ là một chấm nhỏ trong khoảng không bao la. Ồ! để trở thành một cánh chim bằng!   Phần tồi tệ nhất trong nỗi đau của nàng bị vùi sâu phía sau tâm trí và nàng cương quyết không để nó nổi lên bề mặt. Rồi sẽ có tất cả thời gian, bên lề những ảo tưởng, để hành hạ nàng, nhắc nhở nàng.   Họ làm băn toé nước băng ngang qua một con lạch nông và lăn bánh vào trong một điểm dừng. Vì trời quá nóng, Bill nói họ sẽ mất thêm vài phút sau khi những con ngựa mới được móc vào, nếu như có ai muốn được ra ngoài xe. Mọi người đều xuống xe ngoại trừ Summer. Nàng ngồi và đợi, hầu như không nhận thức được rằng lưng váy nàng đã ướt sũng mồ hôi và một dòng suối nhỏ đã chảy giữa đôi bờ ngực. Người phụ nữ Mexican ẵm đứa bé đã mang cho nàng một môi nước. Summer uống một cách khao khát, tham lam và cám ơn người phụ nữ bằng những từ đẫm lệ.   Chiếc xe lăn bánh trở lại, Bill khua vun vút chiếc roi và hét vang với nhóm người mệt mỏi để bắt kịp những phút đã mất. Buổi chiều chậm trôi. Không ai nói chuyện. Đứa bé đã ngủ. Chiếc xe giống như một lò lửa. Summer cảm thấy đầu nhẹ bẫng, giông như nàng đang trôi nổi. Chuyến xe đày ải khiến mọi inch trên con đường để lại dấu vết cơ thể đau nhức của nàng. Nàng tựa đầu ra phía sau và nhắm mắt, trí óc nàng quá kiệt sức để có thể suy nghĩ.   Khi chiếc xe chậm lại và đến một điểm dừng, nàng không bận tâm nhấc đầu lên hoặc mở mắt ra cho đến khi giọng nói của người đàn ông ngồi đối diện bùng nổ.   “Giờ đến chuyện quái gì nữa đây? Chúng ta không bao giờ đi đến nơi với tốc độ như thế này.”   Summer nhìn ra ngoài cửa sổ, nheo nheo mắt lại, nghĩ rằng nàng nhìn thấy Jack đang ngồi trên con ngựa màu nâu đỏ to lớn và nói chuyện với người đánh xe. Nàng chớp mắt vài lần và nhìn lần nữa. Ông ấy vẫn ở đó. Với một ngày cực nóng như hôm nay, trên chuyến xe nóng hầm hập này, nàng cảm thấy một cơn rùng mình ớn lạnh đến mức phải nghiến chặt quai hàm để giữ cho đôi hàm răng nàng không khua lách cách. Làm sao điều này có thể xảy ra? Ông ấy không thể biết nàng ở trên chuyến xe này được. Nàng lùi sâu vào trong chỗ ngồi, giữ chiếc nón phía trước như thể để che gương mặt nàng khỏi ánh mặt trời. Nàng cảm thấy chiếc xe đu đưa khi Bill nhảy xuóng khỏi chỗ ngồi trên cao, nghe thấy tiếng cánh cửa khoang hành khách mở ra.   “Thưa cô,” Bill đang nói với nàng, “Jack đây nói rằng ông ấy đến để mang cô ra khỏi xe.”   “Không! Tôi đã trả tiền vé của tôi rồi. Tôi sẽ đến Austin.”   “Điều đó tuỳ thuộc vào cô, thưa cô, cho dù cô muốn đi hay ở lại.” Bill nói cương quyết, và đóng sầm cánh cửa.   Một vài phút trôi qua, và cánh cửa mở ra lần nữa. Jack đứng đó nhìn xuống Summer. Nàng muốn chết cho xong.   “Summer, hãy ra ngoài ngay, để những cư dân này còn đi tiếp. Tôi đến để mang cô về và tôi sẽ không rời đi mà không có cô.”   “Không! Tôi sẽ không ra đâu. Ông không có quyền can thiệp vào.”   “Quỷ thật, không, ông không có quyền. Cô gái không phải đi nếu cô ấy không muốn.” Lời nói vang đến từ một người đàn ông bên trong chuyến xe.   Jack phớt lờ ông ta. “Tôi sẽ bớt được cả đống rắc rối nếu cô chịu bước ra. Hãy làm điều đó, hoặc là những cư dân đây sẽ phải đợi cùng với cô.”   “Hãy để tôi một mình, Jack. Tôi sẽ không trở lại đâu, vì thế hãy đi đi và để tôi một mình.” Cơn giận và sự bẽ mặt khiến nước mắt tuôn chảy như suối từ mắt nàng.   Jack bước lui và ra hiệu cho Bill rời khỏi xe. Khi họ quay lại đối mặt với nhau, khẩu súng lục của Jack chỉa thẳng vào bụng ông ấy.   “Cái gì… cái gì thế này?”   “Tôi chắc chắn rất ghét làm điều này, Bill, nhưng chẳng còn cách nào khác hết. Có một người đàn ông đang đến chỉ còn cách đây vài dặm. Cậu ấy ở trên một chiếc xe thồ, bị xóc nảy ngang qua những vệt lún bánh xe và những lỗ chó thảo nguyên từ hai giờ trước khi trời rạng đông. Cậu ấy có hai lỗ đạn trên người, vài rẻ xương sườn bị gãy và đôi bàn tay chẳng thể tự ăn được trong một tuần. Cậu ấy đang đến để gặp cô gái đó và ông sẽ không đi đâu hết cho đến khi cậu ấy đến đây.”   “Ông biết là ông đang đưa bản thân vào rắc rối khi chỉa một khẩu súng vào tôi, Jack. Công việc của tôi là đưa chuyến xe này đến Austin. Nếu cô gái bé nhỏ đó và người đàn ông của cô ấy hục hặc thì đó chuyện của họ. Pháp luật có thể giáng xuống khó khăn thật sự trên ông đấy, Jack, vì tội đã chặn chuyến xe.”   “Vậy thì cứ làm đi, bởi vì tôi sẽ chặn xe ông ở đây cho đến khi Slater đến. Không lâu lắm đâu. Tôi đã thấy đám bụi mù của họ kia rồi.”   “Các ông đang làm gì vậy? Băng ngang vùng quê ư? Đó là một chuyến đi địa ngục.”   Jack cười toe toét. “Hãy nói người phụ xe kéo chiếc xe đến chỗ bóng râm trong lúc chúng ta đợi.” Với khẩu súng của mình, ông ra hiệu về hướng cây hồ đào trải rộng mà một trong số chúng vươn dài theo con đường không chút bóng mát.   “Kéo xe qua bên dưới bóng cây đi, Gus. Chúng ta sẽ đợi một lúc nếu quý cô này không đổi ý, thế thôi. Các hành khách có thể bước ra ngoài và duỗi chân tay.”   Người phụ xe nghiêng người qua để gọi Summer, rồi hét lại với Bill. “Người phụ nữ nói không, Bill.” Chiếc xe di chuyển đến bóng râm.   “Phụ nữ chết tiệt! Rất mừng là tôi đã không cưới ai.” Bill nguyền rủa, lấy chiếc mũ đầy bụi của ông ta xuống và đập đập nó vào đùi.   “Điều đó sẽ không kéo dài đâu, Bill. Ông và Slater sẽ phải dịu xuống thôi. Hẳn là có gì đó sai với cái miệng của cậu ấy rồi. Chưa bao giờ nghe nhiều lời nguyền rủa như thế tuôn ra từ nó trước đây. Cơn choáng của cậu ấy đã bị nén lại kể từ khi cậu ấy nghe được chính Jesse đã đặt cô ấy lên chuyến xe khách. Chuyến đi xóc này chẳng làm cho tâm trạng của cậu ấy tốt lên được chút nào, ngay cả khi chúng tôi đã cố định sợi dây treo trên chiếc xe thồ và đặt chiếc giường lông vũ vào đó.”   Ba người đàn ông và người phụ nữ ra khỏi xe, để lại Summer một mình với người phụ nữ có đứa bé. Những cánh cửa để mở và luồng gió nhẹ có phần làm mát họ đôi chút. Summer lau gương mặt nàng bằng chiếc khăn tay ướt sũng. Người phụ nữ giơ một bàn tay rụt rè chạm vào đầu gối nàng. Hành động thương cảm ấy khiến nàng ngước đầu lên. Jack không có quyền bắt họ phải đợi như thế này, khi cho rằng nàng sẽ đổi ý. Nàng đã bảo ông như thế. Nàng nhìn quanh để có thể thấy ông và nghĩ rằng hẳn là nàng đã mất trí. Có phải Jack đang chỉa súng vào người đánh xe không? Chúa lòng lành, ông ấy đã làm thế! Điều gì đang xảy ra? Thế giới điên hết rồi sao?   “Jack! Jack, ông đang làm cái gì thế?” Nàng trèo ra khỏi xe, gần như vấp ngã vì vội vàng. “Hãy để ông ấy đi. Ông không có quyền giữ ông ấy! Để tôi nói…”   Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Trở Về của tác giả Dorothy Garlock.
Hạt Cơ Bản
Cuốn tiểu thuyết dữ dội phê phán xã hội phương Tây hiện nay, cũng như những năm 60, 70 của thế kỷ trước; nhà văn còn cực đoan đến mức muốn xóa bỏ cái xã hội đầy rẫy cái xấu xa và tệ nạn ấy. Hai nhân vật chính, Bruno Clément và Michel Djerzinski, đều sống với bà và đều học ở trường trung học ở Meaux. Houellebecq đã rút tỉa các sự kiện từ chính cuộc đời mình; theo một cách nào đó ông đã tự phân tích mình, cuộc tiểu phẫu đó là tiền đề cho cuộc đại phẫu áp dụng cho xã hội, mà ông đã tiến hành một cách xuất sắc trong Hạt cơ bản. Con dao mổ của Houellebecq sắc nhọn, nó bới tung từng ngóc ngách của con người và xã hội, nỗi khốn khổ hiện đại bị lột trần. Nhưng lẽ dĩ nhiên, trước đó, nó đã gây đau đớn cho chính ông. Ở Pháp, Hạt cơ bản rất ăn khách. Năm 1998, việc Houellebecq “trượt” giải Goncourt làm người ta nhớ lại năm 1932 kiệt tác “Hành trình đến tận cùng đêm tối” của Céline cũng để tuột giải này về tay nhà văn Guy Mazeline. Hạt cơ bản chỉ giành giải Novembre. Hạt cơ bản mở đầu bằng việc nhà khoa học Michel Djerzinski xin nghỉ làm tại Trung tâm Khoa học Quốc gia sau 15 năm làm việc tại đây, lấy lý do là để dành thời gian suy nghĩ. Trên thực tế anh sẽ tiến hành những nghiên cứu mang ý nghĩa lớn cho toàn bộ loài người. Tiếp đó câu chuyện quay về những năm tháng tuổi thơ của hai anh em Michel và Bruno, xen lẫn với cuộc sống sau này của họ. Ở Bruno khía cạnh nổi bật là ham mê tình dục đến mù quáng, còn Michel lại hoàn toàn ngược lại: anh là con người của lý trí, dịu dàng và luôn hướng tới một đạo đức theo lối của triết gia Kant. Câu hỏi lớn của Michel là hạnh phúc có tồn tại thật không, và phải giải quyết mối tương quan giữa đàn ông và đàn bà như thế nào. Hai anh em (cùng mẹ khác cha) chỉ giống nhau ở điểm cả hai cùng cô độc, từ bé đến lớn không có chỗ dựa nào khác ngoài những bà nội bà ngoại già nua. Số phận họ bị kết án không thể hạnh phúc, dù đã có lúc bên cạnh Bruno có Christiane dịu dàng và tinh tế, Michel có Annabelle kiều diễm. Sự bi thảm nằm ở từng câu chữ của tiểu thuyết, và trong từng sự kiện nhỏ nhặt nhất của cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Bruno và Michel sống bên lề của những biến chuyển xã hội phương Tây, họ không phải hippie, không phải rock star, mà chỉ là những con người cô đơn, luôn thấy cuộc sống nhàm chán, trống rỗng và đáng căm ghét. Cùng với sự xuống dốc cuộc đời của họ là sự xuống dốc không phanh của phương Tây, rơi tõm vào cơn cuồng loạn của chủ nghĩa tiêu dùng, sự đi xuống của cái gọi là Đức tin, sự đe dọa của nhân bản vô tính, tính hủy diệt của các giá trị tự do, trong đó có vai trò không nhỏ của phong trào giải phóng tình dục những năm 60; tất cả những cái đó, theo Houellebecq sẽ hủy diệt loài người như một quả bom hạt nhân (Chính vì thế mà ông đặt tên tác phẩm của mình là Hạt cơ bản). Theo nhiều nhà phê bình Pháp, kể từ Con quái vật (Roi des Aulnes) của Michel Tournier năm 1970 đến nay chưa có tiểu thuyết Pháp nào chứa đựng nhiều ý tưởng như tác phẩm của Houellebecq. Cả hai tác phẩm đều có tham vọng giải quyết các vấn đề to lớn của toàn nhân loại,Tournier bằng con đường tôn giáo còn Houellebecq bằng con đường khoa học. Đọc Hạt cơ bản, cũng là một cách ngược dòng thời gian trở về những năm 60, 70 của thế kỷ XX ở phương Tây, khi mà tinh thần “tháng năm năm sáu tám”, tinh thần giải phóng tình dục như lý giải cho một sự bế tắc, trống rỗng, hỗn mang đến kinh hoàng, con người cá nhân đã phơi bày một cách tự do và thảm hại với tất cả các cấp độ, khi ấy chúng ta sẽ thật sự chia sẻ và dễ dàng tiếp xúc với những ý tưởng dồi dào gợi ra từ tác phẩm này, dẫu vẫn thấy có những khác biệt không nhỏ về cách tiếp thu, nhìn nhận giữa Đông - Tây. Các-Mac từng có một cách ngôn nổi tiếng: Không có gì thuộc về con người lại xa lạ đối với tôi. Trên tinh thần này chúng ta có thể cắt nghĩa thêm vì sao Hạt cơ bản được bạn đọc ở nhiều quốc gia quan tâm, chào đón, và thực sự trở thành một hiện tượng trên văn đàn thế giới những năm gần đây. Phải chăng bi kịch cá nhân vẫn đang hiện hữu ở nhiều nơi trên trái đất này?  *** Cư dân mạng từ lâu đã xôn xao bàn tán về Hạt cơ bản. Càng bàn nhiều hơn khi bản tiếng Việt của dịch giả trẻ Cao Việt Dũng được truyền rộng rãi trong những người mê sách. Cái tên đầy mùi vị khoa học không cản được sự háo hức của những “kẻ nghiện sách” trước một tên tuổi lớn: Michel Houellebecq. Và khi Hạt cơ bản được chính thức phát hành, một cảm giác “cầm thật nặng tay và đọc lại thật đã” khiến nhà thơ Nguyễn Chí Hoan rất muốn chia sẻ với bạn đọc. - Đừng sợ, tôi rất muốn nói với mọi người như vậy. Cái tên sách khô khan, những “mặc cảm” về thứ văn chương hậu hiện đại khó đọc, khó vào, những lý thuyết về hạt cơ bản được đưa vào tiểu thuyết một cách dày đặc và có hệ thống mà ngay cả dân làm khoa học cũng đôi lúc cảm thấy khó hiểu... tất cả chỉ làm cho Hạt cơ bản hấp dẫn hơn nếu ta cứ đọc nó một cách bình thản, đầu tiên chỉ là để “đọc lấy chuyện” thôi đã. Câu chuyện của hai anh em cùng mẹ khác cha, Bruno và Michel, một kẻ đam mê tình dục đến mù quáng, một người dịu dàng và luôn hướng tới lối sống đạo đức (đạo đức theo triết lý của riêng mình - một nhà khoa học cô đơn đi trước thời đại) thật sự là rất hấp dẫn. Tuổi thơ của họ, khoảnh khắc dậy thì của họ, phút yêu đương đầu tiên của họ, nỗi buồn của họ, những người đàn bà của mỗi người... đủ tạo thành một câu chuyện nhiều cung bậc và không thể làm người ta chán. * Nhưng thưa anh, cảm giác mệt mỏi khi trải qua những trường đoạn liên tiếp mô tả các trạng thái tình dục (nhất là của Bruno) là không thể tránh khỏi, kể cả với những người đọc “cứng bóng vía” nhất? - Đúng. Mệt mỏi và chán nản. Đó chính là ý đồ của tác giả. Ông ta đã cố tình miêu tả tình dục như thế. Ông ta muốn độc giả nhìn như thế về cuộc cách mạng tình dục những năm 1960 - 1970 ở phương Tây. Ông đã làm cho nó trở nên lạnh lẽo, thô kệch, thậm chí nhem nhuốc, không còn chút gì là hấp dẫn. Đúng như Michel Djerzinski -nhân vật chính - đã nói : “Tình dục đã trở nên thảm hại”. Nó cũng không còn đơn thuần là chuyện mỉa mai chua chát về cuộc cách mạng tình dục 1968, mà tràn ngập một ý tưởng chủ đạo: nền văn minh phương Tây xuống dốc từ cách mạng tình dục mà cứ tưởng mình đang làm cách mạng giải phóng con người cá nhân. Với hình tượng Bruno và tất cả những cái gọi là trạng thái tình dục mà anh ta trải qua, Houellebecq chỉ ra sự trống rỗng bế tắc trong việc thỏa mãn tình dục một cách quá đáng, ông đã hạ bệ tình dục như một huyền thoại cuối cùng của lối sống phương Tây. * Có gì hơn nữa ngoài sự phê phán và mỉa mai tình dục, thưa anh? Cái mà người ta nói là làm nên “tầm vóc lớn” của Michel Houellebecq? - Đó là giấc mơ về sự sáng tạo ra một “nhân loại” mới. Nhà khoa học dịu dàng Michel Djerzinski đã luôn mơ ước tạo ra được giống người mới, giống người khao khát tình yêu và không còn cô đơn. Và ở thì tương lai, năm 2029, anh và những đồng sự có chung hoài bão của mình đã thành công, dù lúc đó Michel đã chết được 20 năm. Hạt cơ bản do vậy cũng là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đầy chất thơ. Bài thơ ấy dù trúc trắc gập ghềnh vẫn là những lời ca tuyệt diệu về hành tinh cô đơn mà chúng ta đang sống. Những trang tả giấc mơ của Michel là những trang đẹp nhất trong cuốn sách, nó đẹp đến ứa nước mắt. Không phải ngẫu nhiên mà khi kết thúc tác phẩm, nhà văn đã “đứng hẳn sang một bên” để tự bạch: “Tham vọng lớn nhất của quyển sách này là vinh danh cái giống loài bất hạnh và can đảm đã tạo ra chúng ta. Loài người khổ đau và xấu xí đó, chỉ hơi khác con khỉ một chút, dù sao cũng mang trong mình rất nhiều đặc điểm cao quí. Cái giống loài bị hành hạ, mâu thuẫn, cá nhân chủ nghĩa và hiếu chiến đó, với tính ích kỷ vô hạn, đôi khi có khả năng bùng nổ bạo lực kinh người, lại không ngừng tin vào lòng tốt và tình yêu”. THU HÀ review *** Hạt cơ bản (1998) là tiểu thuyết đưa nhà văn Pháp Michel Houellebecq trở thành một trong những gương mặt nổi bật của văn học Pháp trong mười năm trở lại đây. Với lối viết thô thẳng và gay gắt, cuốn sách táo tợn này đã làm rung chuyển cả thế giới văn chương. Sinh năm 1958, Michel Houellebecq thuộc thế hệ phải đối đầu với những sợ hãi mà cuộc sống hiện đại và sự cô đơn nhân bản mang đến. Những chủ đề gây tranh cãi cùng với nỗi ám ảnh phải giải thích và đặt tên cho chúng chính là điều làm cho tiểu thuyết được biết đến như một cuốn sách của quỷ dữ. Muốn quẳng đi song lại bị cuốn hút, độc giả càng bất ngờ với cách giải quyết mà tác giả đưa ra bằng thứ ngôn từ cay độc: loài người biến mất, nhường chỗ cho một giống loài mới. Nhân dịp cuốn Hạt cơ bản của Michel Houellebecq vừa được dịch sang tiếng Việt, L’Espace tổ chức buổi hội thảo giới thiệu tác phẩm, với sự tham gia của Dương Tường, nhà phê bình văn học, Nicolas Stedman, dịch giả và Cao Việt Dũng, người dịch cuốn tiểu thuyết sang tiếng Việt. HÀ THÀNH Review *** Ngày mồng Một tháng Bảy năm 1998 rơi đúng vào thứ Tư. Cho nên cũng lô gích, dù quả có hơi khác thường, khi Djerzinski tổ chức bữa tiệc tạm biệt vào buổi tối thứ Ba. Chiếc tủ lạnh hiệu Brandt xếp đầy những chai sâm banh đặt giữa đám túi phôi đông lạnh; nó hơi oằn xuống dưới sức nặng của đống chai; thường nó được dùng để bảo quản các sản phẩm hóa học thông thường. Bốn chai cho mười lăm người, quá ít ỏi. Nhưng toàn bộ bữa tiệc cũng thật giả tạo: động lực tập hợp họ ngồi lại với nhau rất hời hợt; một câu nói vụng về, một cái nhìn liếc xéo là đủ để nhóm người giải tán, mỗi người vội vã đi ra xe của mình. Họ đang ở dưới tầng hầm, trong một căn phòng có máy lạnh, tường lát đá hoa ca rô trắng và treo một bức ảnh lớn chụp vài cái hồ ở Ðức. Không ai đề nghị chụp ảnh. Một nghiên cứu viên trẻ mới đến hồi đầu năm, rậm râu và trông khá ngu xuẩn, sau vài phút đã cáo từ, viện lý do phải đi sửa xe. Một nỗi bồn chồn ngày càng rõ rệt dần xâm chiếm những người khách - đã sắp đến kỳ nghỉ hè. Vài người sẽ đến nhà người thân nghỉ ngơi, một số khác sẽ đi du lịch sinh thái. Những câu nói chầm chậm rơi lộp độp trong bầu không khí. Họ nhanh chóng chia tay nhau. Mười chín giờ ba mươi, bữa tiệc kết thúc. Djerzinski đi cắt ngang bãi để xe cùng với một đồng nghiệp nữ tóc đen dài, da rất trắng, bộ ngực đồ sộ. Cô nhiều tuổi hơn anh một chút; gần như chắc chắn cô sẽ thay anh đứng đầu tổ nghiên cứu. Phần lớn các bài viết của cô xoay quanh gen DAF3 của ruồi giấm; cô còn độc thân. Ðứng trước chiếc Toyota của mình, anh mỉm cười chìa tay ra (mấy giây trước đó anh đã nghĩ mình sẽ làm động tác này, đi kèm với một nụ cười, anh đã chuẩn bị trong đầu như thế). Hai bàn tay nắm lấy nhau và khẽ lắc lắc. Một lúc sau anh nghĩ là cái bắt tay đó hơi thiếu độ nồng ấm; nhẽ ra họ cần phải ôm hôn như các ông bộ trưởng hay vài ca sĩ nhạc nhẹ vẫn thường làm. Nói xong lời tạm biệt, anh ngồi trong xe năm phút, năm phút thật dài. Tại sao cô không nổ máy? Cô đang vừa nghe Brahms [1] vừa thủ dâm chăng? Hay cô đang nghĩ đến sự nghiệp của mình, đến những quyền lực cao hơn sắp sửa có, cô có sung sướng với chúng không? Cuối cùng, chiếc Golf của cô chuyên gia về gen rời khỏi bãi đỗ xe; anh lại trơ trọi một mình. Ngày hôm nay thật đẹp, trời vẫn còn nóng. Trong những tuần đầu tiên của mùa hè này, tất cả dường như cố định trong một sự bất động tuyệt vời; tuy nhiên Djerzinski cũng hiểu rằng ngày đang ngắn dần lại. Anh làm việc trong một môi trường thuận lợi, anh nghĩ trong lúc nổ máy xe. Với câu hỏi: “Làm việc ở Palaiseau bạn có cảm thấy được hưởng một môi trường nhiều ưu đãi không?”, 63% người trả lời: “Có”. Ðiều này cũng dễ hiểu: các tòa nhà không cao lắm, nằm xen kẽ giữa những bãi cỏ. Có nhiều siêu thị lớn, mua bán rất dễ dàng; khái niệm chất lượng cuộc sống có vẻ rất phù hợp ở trường hợp Palaiseau này. Ðường cao tốc Nam Paris vắng tanh không một bóng người. Anh có cảm giác đang ở trong một bộ phim khoa học viễn tưởng New Zealand mà anh đã xem hồi còn là sinh viên: anh đang là người cuối cùng của Trái Ðất sau khi toàn bộ sự sống đã biến mất. Ðiều gì đó trong bầu không khí gợi lên một sự tận thế khô khốc. Djerzinski sống ở phố Frémicourt từ khoảng mười năm nay; anh đã quen với khu phố yên tĩnh này. Năm 1993, anh cảm thấy cần có bầu có bạn, một ai đó chờ đón anh vào mỗi tối khi anh trở về. Anh đã chọn một con chim bạch yến, một con chim rất hay sợ hãi. Nó hay hót, nhất là vào buổi sáng nhưng dường như nó không được vui; nhưng một con chim yến liệu có thể cảm thấy vui? Niềm vui là một cảm xúc dày đặc và sâu sắc, một thứ tình cảm tràn trề phấn khích chỉ ý thức trọn vẹn mới cảm thấy được; người ta có thể ví nó với sự say sưa, sự hân hoan, sự phấn khích. Một hôm, anh thả con chim ra khỏi lồng. Sợ quá, nó ỉa xuống đi văng và lao vào chấn song để tìm lối ra. Một tháng sau, nó lặp lại ý đồ đó. Lần này nó bị ngã khỏi cửa sổ. Yếu đi ít nhiều vì cú ngã, con chim đành đậu xuống ban công một căn hộ thấp hơn năm tầng của tòa nhà đối diện. Michel phải đợi nữ chủ nhân về, sốt ruột vì sợ cô ta có nuôi mèo. Sau đó anh biết cô gái là biên tập viên ở tạp chí Tuổi 20, cô sống một mình và về nhà rất muộn. Cô không nuôi mèo. Ðêm xuống, Michel lấy lại được con chim đang run lên vì đói và lạnh, lẩy bẩy dựa vào thành ban công bằng bê tông. Nhiều lần, chủ yếu khi đi đổ rác, anh gặp lại cô biên tập viên. Cô gật đầu, có lẽ để tỏ cho anh thấy là cô nhận ra anh; anh cũng gật đầu chào lại. Tóm lại, sự cố đã cho phép anh thiết lập một mối quan hệ hàng xóm. Xét về mặt đó, sự cố là tốt. Nhìn qua cửa sổ nhà anh có thể nhìn thấy khoảng chục tòa nhà, tương đương khoảng ba trăm căn hộ. Thường thì khi buổi tối trở về, con chim yến sẽ làm toáng lên và hót líu lo trong khoảng năm hoặc mười phút. Rồi anh thay thức ăn, nước và rơm độn trong lồng. Nhưng tối đó, đón chờ anh là sự yên lặng. Anh lại gần cái lồng: con chim đã chết. Cơ thể nhỏ bé màu trắng của nó đã lạnh ngắt giữa đám rơm và sỏi. Bữa tối của anh là một hộp cá biển trộn rau mua ở siêu thị Monoprix Gourmet, kèm với một chai rượu Valdepenas loại rẻ tiền. Sau một hồi lưỡng lự anh đặt xác con chim vào một cái túi ni lông rồi ném tất cả vào ống đổ rác. Còn làm thế nào khác được bây giờ? Làm một lễ mi-xa chăng? Anh chưa bao giờ biết cái ống đổ rác với cái miệng bé xíu (nhưng đủ để chứa xác một con chim yến) đó dẫn đến đâu. Anh mơ thấy những thùng rác khổng lồ, đầy những phin cà phê, tim xắm ăn liền tưới nước sốt và bộ phận sinh dục bị chặt ra. Những con sâu to đùng, to bằng con chim, vũ trang bằng cái mỏ, sẽ tấn công cái xác chết. Chúng sẽ vặt chân của nó, xâu xé nội tạng của nó, ngấu nghiến hai con mắt của nó. Anh ngồi bật dậy giữa đêm, run rẩy; mới một giờ rưỡi. Anh nuốt chửng ba viên Xanax. Ðó là cách anh kết thúc ngày đầu tiên tự do của mình. Mời các bạn đón đọc Hạt Cơ Bản của tác giả Michel Houellebecq.