Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Thì Thầm Trong Đêm

Sau ba mươi năm lớn lên trong tình thương của người mẹ, nữ cảnh sát Sloan Reynolds nhận được một cuộc gọi yêu cầu cô đến gia nhập với cha và chị cô ở biệt thự riêng của gia đình Reynolds trên bãi biển Palm Beach. Cùng lúc đặc vụ FBI, Paul Richardson (trong Perfect – Định Mệnh) tìm đến cô và muốn cô giúp họ đến gần để theo dõi những hoạt động trái phép của ông. Sloan đồng ý chấp nhận lời mời của gia đình, giả làm nhà thiết kế nội thất để che giấu nghề nghiệp thực sự, và đưa theo đặc vụ FBI như là bạn trai của cô. Nhưng Sloan không hề biết rằng người mà FBI thật sự muốn đóng đinh lại là một người khác. Khi đến đó, cô thấy mình bị Noah Mailand (người anh trai giàu có và nổi tiếng của Courtney Maitland trong SOTWOM) thu hút một cách mạnh mẽ, trái ngược với những bản năng của cô. Nhưng anh lại là người mà cha cô đã nhắm cho chị cô kết hôn. Cô cũng không hề biết rằng những cung cấp mà cô đưa cho Cục điều tra liên bang là những bằng chứng buộc tội chống lại anh. Khi một vụ mưu sát bất ngờ xảy ra bẻ gãy bề ngoài quyến rũ của tiền bạc và sức hấp dẫn xung quanh cô, Sloan phải đưa mình qua mê cung của những sự lừa dối và đam mê, để tìm người mà mình tin tưởng - và giải mã sự thật đằng sau những lời thì thầm khủng khiếp trong bóng đêm. *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường Whiney Yêu Dấu Lời Thì Thầm Trong Đêm ... *** Hắn đã theo cô ba ngày, theo dõi. Chờ đợi. Bây giờ, hắn biết thói quen và giờ giấc của cô. Hắn biết cô thức dậy lúc mấy giờ vào buổi sáng, gặp ai vào ban ngày, và đi ngủ lúc mấy giờ. Hắn biết cô đọc sách trên giường vào ban đêm, nằm kê đầu trên gối. Hắn biết tên cuốn sách cô đang đọc, và cô đặt nó úp xuống trên bàn đầu giường trước khi cuối cùng cô tắt đèn. Hắn biết mái tóc vàng dày của cô là tự nhiên và màu mắt xanh-tím của cô không phải là kết quả của kính áp tròng. Hắn biết cô mua đồ trang điểm ở hiệu thuốc và cô sử dụng chính xác hai mươi lăm phút để chuẩn bị đi làm vào buổi sáng. Rõ ràng là cô quan tâm trong việc giữ sạch sẽ và gọn gàng hơn là cải thiện bề ngoài của mình. Hắn, tuy nhiên, quan tâm rất nhiều đến bề ngoài của cô. Nhưng không phải là vì sự đòi hỏi và cho những lý do "thông thường". Lúc đầ u, hắn đã chú ý giữ cô trong tầm mắt trong khi vẫn đảm bảo là cô không nhận thấy hắn, nhưng sự đề phòng của hắn là do thói quen hơn là do cần thiết. Với dân số 150,000 người, 15,000 người trong số đó là sinh viên đại học, thành phố nhỏ của Bell Harbor ở bờ biển phía đông Florida đủ lớn cho một người lạ có thể đi lại mà không bị phát hiện trong số dân địa phương, nhưng không lớn đến nỗi hắn sẽ mất con mồi của hắn trên những xa lộ và giao lộ rối rắm. Hôm nay h ắn đã theo dấu cô đến công viên thành phố, nơi hắn đã sử dụng một buổi chiều tháng Hai êm dịu, nhưng tẻ nhạt, bị vây quanh bởi những người lớn uống bia vui vẻ và những đứa trẻ ồn ào điếc tai đến đó để tận hưởng buổi dã ngoại và lễ hội nhân ngày Lễ Tổng Thống. Hắn không thích đám con nít xung quanh hắn, đặc biệt là những đứa con nít với đôi tay dơ bẩn và khuôn mặt nhem nhuốc chạy vấp qua chân hắn khi chúng rượt đuổi nhau. Chúng gọi hắn, "Này, chú ơi!" và yêu cầu hắn ném lại trái banh bóng chày bị đánh văng ra ngoài cho chúng. Những trò hề của chúng làm hắn chú ý thường xuyên đến nỗi hắn đã bỏ vài băng ghế thoải mái và bây giờ buộc phải tìm nơi trú ẩn giấu mình bên dưới một cái cây có thân cây gồ ghề không được thoải mái khi tựa vào và những rễ dày xù xì dày nổi lên mặt đất bên dưới nó là bất khả. Mọi thứ đang bắt đầu làm hắn bực bội, và hắn nhận ra rằng sự kiên nhẫn của hắn đã kết thúc. Cả chuyện theo dõi và chờ đợi cũng vậy. Để kiềm tánh nóng nảy của mình, hắn duyệt qua kế hoạch hắn dành cho cô trong khi xoay sự chú ý đầy đủ đến con mồi của hắn. Lúc này, Sloan đang leo xuống từ những nhánh cây của một thân cây to cao mà cô đang cố gắng thu hồi một con diều trông giống như một chim ưng đen với cặp cánh duỗi ra, trên đầu cánh có màu vàng tươi. Ở gốc cây, một nhóm trẻ con năm, sáu tuổi đang reo hò cổ vũ. Đằng sau họ là một nhóm thanh niên. Những đứa trẻ quan tâm đến chuyện lấy lại con diều của chúng ; các chàng thanh thiếu niên chú mục đến đôi chân rám nắng xinh đẹp của Sloan Reynolds ló ra một cách chậm chạp từ nhánh cây trên. Các chàng trai huých khuỷu tay nhau và nhìn chằm chằm vào cô, và hắn hiểu nguyên nhân gây ra chấn động nhỏ đối với các cậu thanh niên: nếu cô là nữ sinh viên hai mươi tuổi, đôi chân đó sẽ đáng được chú ý, nhưng trên thân thể của một cảnh sát ba mươi tuổi, chúng là một hiện tượng. Thông thườ ng, hắn bị thu hút đến những người phụ nữ cao, đầy khêu gợi, nhưng người phụ nữ này chỉ cao 1.63 mét với bộ ngực nhỏ gọn, thân hình mảnh khảnh, duyên dáng và gọn gàn mặc dù không khêu gợi. Cô không phải là ứng cử viên cho một tấm ảnh màu giữa cuốn tạp chí, nhưng trong cái quần soóc ka ki và áo sơ mi trắng tinh, với mái tóc vàng buộc kiểu tóc đuôi gà, cô có vẻ khỏe mạnh tươi tắn và ngăn nắp, cô đã hấp dẫn hắn trong thời gian hiện tại. Một tiếng thét từ sân bóng chày làm hai trong số các chàng trai xoay đầu và nhìn về phía hắn, hắn nâng cao ly xô đa cam lên miệng để che giấu khuôn mặt của mình, nhưng cử chỉ đó là tự động hơn là cần thiết. Cô đã không để ý đến hắn trong ba ngày qua khi hắn theo dõi cô từ các ngưỡng cửa và những con hẻm, vì thế cô sẽ không thấy bất cứ thứ gì tai hại về một người đàn ông cô độc trong công viên đang có nhiều công dân tôn trọng luật pháp tụ tập để hưởng thụ thức ăn miễn phí và triển lãm, dù là cô có để ý đến hắn đi nữa. Thực ra, hắn nghĩ với nụ cười tự mãn bên trong, cô lơ là một cách khó tin và ngốc nghếch bất cứ khi nào cô được nghỉ. Cô không nhìn qua vai khi nghe bước chân của hắn vào một đêm nọ; thậm chí cô cũng không khóa xe khi đậu nó. Giống như bất kỳ cảnh sát tỉnh lẻ nào, cô cảm thấy an toàn một cách sai lầm trong thành phố của cô, việc không thể bị tổn thương đi cùng với phù hiệu mà cô đang đeo và cây súng mà cô đang mang, và những bí mật nhớp nhúa của công dân mà cô biết. Cô không có bí mật với hắn, tuy nhiên. Chưa đầy 72 tiếng đồng hồ, hắn đã có tất cả tài liệu thống kê quan trọng về cô - tuổi tác, chiều cao, số giấy phép lái xe, tài khoản ngân hàng, thu nhập hàng năm, địa chỉ nhà – những loại thông tin đó rất dễ tìm được trên Internet đối với bất cứ ai biết chỗ tìm. Trong túi hắn là hình của cô, nhưng tất cả các thông tin kết hợp lại thì rất nhỏ so với những gì hắn bây giờ mới biết. H ắn uống một ngụm xô đa cam hơi ấm khác, đè nén sự sốt ruột khác đang dâng cao. Đôi khi, cô rất thẳng thắng, rất nghiêm túc và có thể tiên đoán được, điều đó làm hắn thích thú; những lúc khác, cô bốc đồng một cách bất ngờ, làm cô không thể dự đoán được, và những thứ không thể dự đoán được thì rất mạo hiểm, nguy hiểm, cho hắn. Rồi hắn tiếp tục chờ đợi và theo dõi. Trong ba ngày qua h ắn đã thu thập tất cả những thứ lặt vặt bí ẩn, bình thường sẽ làm thành một người phụ nữ, nhưng trong trường hợp của Sloan Reynolds, bức tranh vẫn còn mờ nhạt, phức tạp, khó hiểu. N ắm chặt con diều trong tay trái, Sloan cẩn thận leo xuống nhánh cây thấp nhất ; sau đó nhảy xuống đất và đưa con diều cho chủ nhân của nó giữa tiếng thét gào của những tiếng "Yea!" và tiếng những bàn tay nhỏ vỗ tay một cách phấn khởi. "Trời ơi, cám ơn, Sloan !" Kenny Landry nói, ửng hồng mặt với sự thích thú và ngưỡng mộ khi nó lấy con diều của nó. Hai cái răng cửa của Kenny bị trống, làm cho nó nói ngọng, cả hai có vẻ làm cho nó rất dễ mến đối với Sloan, người đã cùng đến trường trung học với mẹ nó. "Mẹ cháu sợ cô sẽ bị thương, nhưng cháu dám cá là cô không bao giờ cảm thấy sợ hãi." Th ực ra thì, Sloan đã vô cùng sợ hãi trong hành trình leo xuống qua các nhánh cây, sợ rằng cái quần soóc của cô sẽ mắc vào một nhánh cây, kéo nó lên, và để lộ quá nhiều chân của cô.  "Ai cũng sợ cái gì đó," Sloan nói với nó, cố nén thôi thúc ôm nó và làm nó xấu hổ bởi sự âu yếm nơi công cộng. Thay vào đó cô vò rối mái tóc nâu của nó. "Cháu bị rơi từ trên cây xuống một lần !" cô bé mặc cái quần soóc màu hồng và áo thun ngắn tay màu hồng và trắng thú nhận, quan sát Sloan với vẻ kính phục. "Cháu bị đau nữa, trên khuỷu tay của cháu," Emma rụt rè nói thêm. Cô bé có mái tóc ngắn, đỏ quăn, nhiều tàn nhang trên cái mũi nhỏ của nó, và một con búp bê trong vòng tay.  Butch Ingersoll là đứa trẻ duy nhất không muốn gây ấn tượng. "Con gái lẽ ra phải chơi búp bê," cậu nhỏ thông báo với Emma. "Con trai mới leo cây." "Cô giáo của tớ nói cô Sloan là một người hùng thực sự," cô bé tuyên bố, ôm con búp bê thậm chí càng chặt hơn, như thể nó mang lại cho cô bé lòng can đảm để lên tiếng. Cô bé nâng mắt đến Sloan và thốt ra, "cô giáo của cháu nói cô đã liều thân để có thể cứu đứa bé ngã xuống giếng." "Cô giáo của cháu rất tử tế," Sloan nói khi cô nhặt cọng dây thả diều nằm trên bãi cỏ và bắt đầu cuộn nó thành cuộn trên ngón tay của cô. Mẹ của Emma đã từng là một người bạn học khác của Sloan, và khi cô liếc nhìn từ Kenny đến Emma, Sloan không thể quyết định đứa trẻ nào đáng yêu hơn. Cô đã đến trường với hầu hết cha mẹ của những đứa trẻ này, và khi cô cười với những khuôn mặt nhỏ nhắn đó, những khuôn mặt thích thú đang nhìn cô gợi cho cô nhớ sâu sắc về những người bạn học cũ. B ị vây quanh bởi con cái của đám bạn học và bạn bè của mình, Sloan cảm thấy đau nhói một nỗi ước ao có một đứa con cho riêng mình. Vào năm ngoái, mong muốn có một thằng bé hay cô bé của riêng mình để ẵm bồng, yêu thương và đưa đến trường đã phát triển thành một nhu cầu, và nó đang càng lúc càng gia tăng với tốc độ và sức mạnh đáng sợ. Cô muốn cô bé Emma hoặc cu cậu Kenny của riêng cô để ôm chặt, thương yêu và dạy dỗ. Không may là sự mong muốn đầu hàng cuộc sống cho một người chồng đã không gia tăng chút nào. Thực ra là ngược lại. Nh ững đứa trẻ khác đang quan sát Sloan với vẻ tôn sùng, nhưng Butch Ingersoll kiên quyết không gây ấn tượng. Cha và ông nội của nó đã từng là ngôi sao bóng đá của trường trung học. Mới sáu tuổi, Butch không chỉ có thân hình to lớn của họ, mà còn thừa hưởng cả cái cằm vuông và vẻ bảnh bao nữa. Ông của nó là cảnh sát trưởng và là cấp trên của Sloan. Nó chìa cái cằm ra nhắc Sloan nhớ một cách mạnh mẽ về Cảnh sát trưởng Ingersoll. "Ông cháu đã nói bất cứ cảnh sát nào cũng có thể cứu nguy đứa bé đó, cũng giống như cô đã làm, nhưng mấy chú ở đài truyền hình làm mọi chuyện lớn lên vì cô là nữ cảnh sát." M ột tuần trước đây, Sloan đã ra ngoài khi có một cuộc điện thoại báo có một đứa bé mới chập chững biết đi bị mất tích và cuối cùng là leo xuống giếng để cứu nó. Đài truyền hình ở địa phương đã bắt được câu chuyện về đứa bé mất tích, rồi giới truyền thông Florida lại chộp được câu chuyện về sự giải cứu. Ba tiếng đồng hồ sau khi cô leo xuống giếng và trải qua thời gian kinh hoàng nhất trong đời mình, Sloan đã nổi lên như một "nữ anh hùng." Dơ dáy và kiệt sức, Sloan đã được chào đón bằng những tiếng reo hò điếc tai từ công dân ở Bell Harbor đã tụ tập lạ để cầu nguyện cho sự an toàn của đứa bé và tiếng hét từ các phóng viên đã tập hợp lại để cầu nguyện cho cái gì đó đủ lý thú để nâng cao tỷ suất người xem đài của họ. Sau m ột tuần, sự xôn xao và tiếng tăm cuối cùng bắt đầu lắng xuống, nhưng không đủ nhanh đối với Sloan. Cô thấy vai trò ngôi sao của giới truyền thông và nữ anh hùng ở địa phương không những không phù hợp một cách khôi hài mà còn làm cho cô rất bối rối. Ở một bên quang phổ, cô phải đối mặt với công dân của Bell Harbor bây giờ coi cô khi một nữ anh hùng, một biểu tượng, một tấm gương cho phụ nữ. Mặt khác, cô phải đối phó với cảnh sát trưởng Ingersoll, người ông năm mươi lăm tuổi theo chủ nghĩa sô vanh của Butch, người xem những lời ca ngợi không có chủ tâm về Sloan như là "cố tình dàn dựng" và sự hiện diện của cô trong lực lượng cảnh sát của ông là một sự sỉ nhục đến nhân phẩm của ông, một sự thách thức đến quyền lực của ông, và một gánh nặng mà ông buộc phải mang cho đến khi ông có thể tìm cách để dứt bỏ cô.  Bạn thân của Sloan, Sara Gibbon, đến hiện trường chỉ khi Sloan quấn xong đoạn dây diều cuối cùng vào một cái ống tạm, cái mà cô trao cho Kenny với nụ cười. "Mình nghe ti ếng reo hò và vỗ tay," Sara nói, nhìn Sloan rồi nhìn đám nhỏ rồi đến con diều hình chim ưng với cái cánh vàng bị gãy. "Chuyện gì xảy ra với con diều của cháu vậy, Kenny ?" Sara hỏi. Cô mỉm cười với cậu bé và mặt nó sáng bừng lên. Sara có sức ảnh hưởng đến phái nam ở mọi lứa tuổi. Với mái tóc nâu vàng bóng cắt ngắn của cô, đôi mắt xanh lấp lánh, và những đặc điểm xinh xắn, Sara có thể làm cho đàn ông khựng lại với chỉ một cái liếc nhìn.  "Nó bị kẹt trên cây." "Đúng, nhưng cô Sloan đã lấy nó xuống," Emma cắt ngang một cách phấn khởi, chỉ một ngón trỏ nhỏ mũm mĩm lên cây. "Cô ấy đã leo lên đến đỉnh," Kenny chêm vào, "và cô ấy đã không sợ, vì cô ấy rất dũng cảm." Sloan c ảm thấy – như một người mẹ tương lai một ngày nào đó - cô cần chỉnh sửa ấn tượng đó của những đứa trẻ. "Dũng cảm không có nghĩa là cháu không bao giờ sợ. Dũng cảm có nghĩa là, mặc dù cháu sợ, cháu vẫn làm chuyện nên làm. Chẳng hạn như," cô nói, chuyển nụ cười đến đám nhỏ, "các cháu dũng cảm khi các cháu nói sự thật mặc dù các cháu sợ là mình có thể gặp rắc rối. Điều đó là thật sự, thật sự dũng cảm đấy." S ự xuất hiện của chú hề Clarence với một nắm bong bóng khổng lồ làm cho bọn trẻ cùng nhau quay đầu lại, và vài người trong số chúng ngay lập tức bỏ chạy láo nháo, chỉ còn lại Kenny, Emma, và Butch ở lại. "Cám ơn cô đã lấy con diều của cháu xuống," Kenny nói với một nụ cười không răng, dễ mến khác của nó. "Không có chi," Sloan nói, đè nén thôi thúc kéo nó vào cánh tay củ a cô và ôm chặt nó – dù là với cái áo dơ bẩn, khuôn mặt lắm lem, và tất cả. Ba đứa trẻ quay lưng và rồi bỏ đi, tranh cãi ồn ào về mức độ can đảm của Sloan.  "Cô McMullin nói đúng. Cô Sloan thực sự, thực sự là một anh hùng," Emma tuyên bố. "Cô ấy thật sự, thực sự dũng cảm," Kenny công bố. Butch Ingersoll c ảm thấy buộc phải thẩm định và giới hạn lời khen "cô ấy dũng cảm so với một cô gái," cậu ta công bố một cách mạnh mẽ, gợi cho Sloan nhớ thậm chí càng mạnh mẽ hơn về Cảnh sát trưởng Ingersoll.  Một cách kỳ lạ, cô bé Emma nhút nhát cảm thấy đó là lời sỉ nhục. "Con gái cũng dũng cảm y như con trai vậy." "Họ không có! Cô ấy thậm chí không nên làm cảnh sát. Đó là công việc của đàn ông. Đó là lý do tại sao họ gọi là cảnh sát (policeman)." Emma phật ý dữ dội với lời sỉ nhục cuối cùng này đối với nữ anh hùng của cô bé. "Mẹ tớ," cô bé gào lên, "nói rằng cô Sloan Reynolds nên làm cảnh sát trưởng!" "Ồ, vậy sao ?" Butch Ingersoll phản kích. "Ừm, ông của tao là cảnh sát trưởng đấy, và ông tao nói cô ấy thật phiền toái (là cái mụt nhọt trên mông ! Ông tao nói cô ấy nên lấy chồng và sinh con. Đó là điều con gái sanh ra để làm!" Emma m ở miệng định phản đối nhưng không thể nghĩ được làm thế nào. "Tớ ghét cậu, Butch Ingersoll," thay vào đó cô bé kêu lên, và bỏ chạy, nắm chặt con búp bê – một người bênh vực nữ quyền với đôi mắt ngấn lệ.  "Mày không nên nói như vậy chứ," Kenny cảnh báo. "Mày đã làm cho nó khóc." "Ai thèm quan tâm chứ?" Butch nói – một kẻ cố chấp với thái độ y như ông của nó. "Nếu ngày mai mày thật dễ thương với nó, có lẽ nó sẽ quên những điều mày đã nói," Kenny quả quyết – một nhà chính trị, như cha nó. Mời các bạn đón đọc Lời Thì Thầm Trong Đêm của tác giả Judith McNaught.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Băng Cướp Thụy Điển
221 khẩu súng máy biến mất khỏi kho vũ khí quân sự quốc gia. Mười vụ cướp tàn bạo. Một quả bom phát nổ ở Nhà ga Trung tâm Stockholm. Không nhân chứng nào tường tận chuyện đã xảy ra, giới cảnh sát như bị bịt mắt, cả đất nước chìm trong hoảng loạn… Đó không chỉ là những tình tiết trong Băng cướp Thụy Điển mà chính là chuỗi sự kiện gây chấn động đất nước này hồi đầu thập niên 1990, và giờ đây tất cả được thuật lại sống động dưới ngòi bút người anh em trai của ba tên cướp lừng danh. Khắc họa rõ nét và chân thực từng vụ cướp khét tiếng, đồng thời cũng đi sâu vào mối quan hệ gia đình phức tạp nhưng khăng khít, Băng cướp Thụy Điển là một trong những tiểu thuyết tội phạm đáng đọc nhất năm nay.  “Hoàn toàn điên rồ, hoàn toàn liều lĩnh, và hoàn toàn xuất sắc...” - Nordjyske Stiftstidende  “Độc nhất và choáng ngợp. Một trong những tiểu thuyết lôi cuốn nhất của năm.” - Nhà văn Stephen Booth  “Một cuốn sách sâu sắc... miêu tả và phân tích tâm lý tội phạm vô cùng khéo léo và thuyết phục.” - Diversioni “Sự hòa hợp hoàn hảo của thực tế và hư cấu.” - Skanska Dagladet *** Từ xưa đến nay, bạo lực và giận dữ chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề. Mahatma Gandhi từng nói “An eye for an eye only ends up making the whole world blind” (tạm diễn dịch: Nếu ai cũng báo thù bằng cách 1 mắt trả 1 mắt thì thế giới sẽ toàn là người mù). Bạo lực có thể nào xuất phát từ tình thương và sự che chở không? Nếu dựa vào thứ gọi là “tình cảm gia đình” mà tự cho mình cái quyền đối xử bạo lực với người thân thì Biển nghĩ hành động đó thật sai lầm, vừa hại mình vừa hại người, và chỉ đẩy mọi người vào cảnh chỉ còn thân thể tồn tại nhưng tâm hồn đã hoàn toàn mất đi. Đã lâu rồi mới có 1 quyển sách đem đến cho Biển nhiều cung bậc cảm xúc như thế. Tuy mới vài tuần trước, quyển “Trảng đất trống” của Robert Dugoni đã khiến Biển khóc 3 lần, nhưng chính quyển “Băng cướp Thụy Điển” này mới khiến Biển từ bất mãn, giận dữ chuyển sang thỏa mãn, rồi lại hoang mang suy tư đủ điều. Qủa thật, những quyển sách được viết bởi 2 tác giả có những nét rất đặc sắc so với những quyển được viết bởi 1 tác giả. Nếu như ở quyển “Dị chủng”, từng dòng chữ bình thường cũng đem lại cảm giác bất an bồn chồn, thì ở quyển “Băng cướp Thụy Điển”, từng chương sách đều khiến Biển cảm thấy 1 sự giận dữ ngấm ngầm. Tính ra thì Biển đọc quyển này suốt 3 tháng, từ tháng 3~5/2018, vì những đoạn đầu khiến Biển rất bất mãn & không muốn đọc tiếp. 1 người vợ bị chồng bạo hành, 1 người phụ nữ khác thì chấp nhận lìa xa con mình để sống chung / để yêu 1 người đàn ông, người mà đem đến cho cô nhiều ngày giờ căng thẳng hơn là những giây phút yêu thương và an toàn. Nhưng rốt cuộc Biển đã lướt qua cảm giác bất mãn ban đầu để theo dõi tiếp quyển sách, càng về sau câu chuyện càng lôi cuốn. Tuy đầu sách có 2 dòng mang tính chất rất đánh đố như sau “Điều này cũng chẳng lấy gì làm quan trọng. Nhưng cuốn sách này được viết dựa trên một câu chuyện có thật” thì Biển cũng không hoàn toàn tin là nó có thật. Nhưng dù có thật hay không thì đây vẫn là 1 câu chuyện rất ấn tượng. Tưởng như bạo lực tràn ngập các vụ cướp, nhưng cá nhân Biển lại tập trung vào những tình tiết mà tính nhân văn được hé mở, tập trung vào những khoảnh khắc mà sự thiện lương còn nguyên vẹn chưa bị đánh mất. Chính những khoảnh khắc ấy đã lôi kéo Biển tiếp tục đọc. Những câu chữ miêu tả tâm lý tuyệt vời, cứ như người đọc đang được ở cạnh và chứng kiến trực tiếp từng khung hình. Đọc xong quyển này và những quyển khác của các nhà văn Thụy Điển, Biển chợt tự hỏi : chẳng lẽ ở 1 đất nước thuộc Châu Âu văn minh lại có tỷ lệ tội phạm và bạo lực cao như vậy sao, hay đó chỉ là tiểu thuyết? Sách khá to, dày, đúng kiểu Biển thích. Bìa có màu sắc đẹp, thiết kế sáng tạo. Trình bày hoàn hảo, chữ in to rõ, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy. Nhã Nam đã thành công rực rỡ khi xuất bản quyển sách này. Biển không thuộc loại thích khen 1 cách quá mức như thế này, nhưng Biển buộc phải khen quyển “Băng cướp Thụy Điển” này vì không có chỗ nào để chê. Biển cho điểm 10/10 vì đây là 1 siêu phẩm xứng đáng với mức điểm đó, nhưng nếu kết cuộc của nó lạc quan hơn thì Biển sẽ cho điểm cao hơn, khoảng 14/10. Đây là 1 quyển sách xứng đáng có trên kệ của các mọt sách nói chung và các mọt trinh thám nói riêng. *** Bà Ariadne Oliver đi với người bạn ở cùng, bà Judith Butler, giúp chuẩn bị một bữa tiệc cho các trẻ em trong vùng, diễn ra vào buổi tối hôm ấy. Khung cảnh hoạt động chuẩn bị lúc này hết sức rộn rịp. Các bà các cô hăng hái đi ra đi vào, người kê bàn, người giúp chuyển những chiếc ghế nhỏ, bê lọ hoa, và rất nhiều quả bí ngô đặt vào những chỗ được định sẵn một cách có chủ ý. Hôm nay là tiệc Hallowéen cho các vị khách độ tuổi từ mười đến mười bảy. Tách ra khỏi đám người hối hả trong phòng, bà Oliver đứng dựa vào bức tường trống, săm soi nhìn trái bí ngô khổng lồ trên tay. “Lần gần đây nhất tôi nhìn thấy bí ngô,” bà nói, tay khẽ vuốt những sợi tóc muối tiêu vương trên vầng trán cao, “là ở Mỹ hồi năm ngoái - cả trăm trái ấy. Bày khắp trong nhà. Đời tôi chưa thấy nhiều bí ngô thế bao giờ. Mà kỳ thực,” bà nói thêm, vẻ trầm ngâm, “tôi chẳng phân biệt nổi đâu là bí ngô và đâu là bí đao. Đây là loại nào nhỉ?” “Xin lỗi, bồ,” bà Butler vội nói khi vấp phải chân bà bạn. Bà Oliver càng nép sát vào tường. “Là lỗi của tôi,” bà nói. “Tại tôi cứ đứng quẩn chân, chắn lối mọi người đi lại. Nhưng hồi đó họ tổ chức cũng hoành tráng lắm, bao nhiêu là bí ngô, hay bí đao gì đó. Đi đâu cũng thấy, trong cửa hàng cửa hiệu, rồi thì từ nhà ra ngõ, khắp mọi nơi, người ta còn thắp nến hoặc đèn bên trong trái bí, hoặc buộc dây treo chúng lên. Hết sức vui mắt. Nhưng dịp ấy lại không phải trang trí cho tiệc Hallowéen, mà là Lễ Tạ ơn. Tôi thì cứ thấy bí ngô là lại nghĩ đến Hallowéen, tức là cuối tháng 10. Lễ Tạ ơn muộn hơn nhiều chứ nhỉ? Có phải tháng 11 không? Tầm tuần thứ ba của tháng 11 gì đấy? Dẫu sao thì, lại nói, Hallowéen là ngày 31 tháng 10 phải không? Đầu tiên là Hallowéen, rồi sau đó là gì nhỉ? Lễ Các đẳng linh hồn à? Ngày ấy ở Paris người ta đến nghĩa trang và đặt hoa viếng mộ. Cũng không phải ngày lễ buồn thảm gì đâu. Ý là, cả trẻ con cũng đi viếng nữa, và chúng thích thú lắm. Đầu tiên mọi người phải ra chợ hoa và mua thật nhiều nhiều hoa đẹp. Chẳng hoa ở đâu trông đẹp mắt bằng hoa ở Paris bán ở chợ ấy cả.” Các bà các cô hối hả qua lại, thi thoảng lại vấp phải bà Oliver, nhưng chẳng ai nghe bà nói. Ai cũng quá bận với công việc đang làm. Đa số họ là các bà mẹ, có một vài bà cô chưa chồng tháo vát; cũng có những cậu trai mười sáu mười bảy trèo thang hoặc đứng lên ghế để treo đồ trang trí, bí ngô hoặc bí đao, hoặc treo những quả cầu màu sắc sặc sỡ ở ngang tầm mắt; còn các cô bé mười một mười lăm tuổi túm tụm thành nhóm cười khúc khích. “Rồi sau ngày Các đằng và viếng mộ ấy,” bà Oliver lại tiếp tục, khẽ tựa người xuống tay vịn ghế sofa nhỏ, “là đến Lễ Các thánh. Tôi nói có đúng không nhỉ?” Không ai trả lời bà. Bà Drake, một phụ nữ trung niên quý phái, cũng là gia chủ tổ chức bữa tiệc, cất tiếng tuyên bố: “Tôi không định gọi đây là tiệc Hallowéen gì cả, dù tất nhiên, nó đúng là như thế. Tôi sẽ gọi đây là bữa tiệc Trên Mười Một Tuổi. Để chỉ độ tuổi người tham dự, hầu hết là những người sắp học hết trường Elms* và tiếp tục học lên các trường khác.” Elms là trường nội trú nam nữ ở Colwall, Herefordshire, Anh, dành cho trẻ em từ 2,5 đến 13 tuổi. “Nhưng gọi thế không chính xác lắm, có đúng không, Rowena?” cô Whittaker nói, tay chỉnh cặp kính không gọng trên mũi, ra vẻ không tán thành. Cô Whittaker vốn là giáo viên trường làng, rất kỹ tính về chuyện đúng sai trong lời ăn tiếng nói. “Vì chúng ta đã bãi bỏ chế độ trên mười một tuổi từ lâu rồi mà.” Bà Oliver đang ngồi tựa vào tay ghế vội đứng dậy, tỏ vẻ hối lỗi. “Nãy giờ tôi chẳng giúp được gì cả, toàn ngồi đây nói chuyện linh tinh về bí ngô với bí đao.” Và cho phép chân mình ngơi nghỉ một lúc, bà nghĩ thầm, lương tâm hơi có chút bứt rứt, nhưng lại chẳng đủ cảm giác tội lỗi để nói to suy nghĩ ấy ra. “Tiếp theo tôi có thể giúp gì đây?” bà hỏi, rồi chợt thốt lên: “Mấy quả táo này đẹp quá đi mất!” Ai đó mới bưng một tô lớn đựng táo vào đặt trong phòng. Bà Oliver vốn rất mê táo. “Táo đỏ đẹp quá,” bà tấm tắc khen. “Ăn không ngon lắm đâu,” bà Rowenda Drake tiếp lời. “Nhưng được cái trông đẹp mắt và hợp với buổi tiệc. Chỗ táo này là để cho bọn trẻ chơi trò dùng miệng lấy táo trong thau nước. Chúng khá mềm nên dễ cắn hơn. Bưng tô này vào trong phòng đọc sách được không, Beatrice? Trò cắn táo này lúc nào cũng làm nước bắn tung tóe khắp sàn, nhưng thôi kệ, thảm phòng đọc sách đằng nào cũng cũ rồi. Ôi! Cảm ơn cháu nhé Joyce.” Joyce, cô bé mười ba tuổi người rắn rỏi, hăng hái bưng tô đựng táo lên. Hai quả bị rơi xuống sàn và lăn tới chân bà Oliver thì ngừng lại, như thể có ai vẩy đũa phép điều khiển chúng vậy. “Bà thích táo mà, phải không,” Joyce nói. “Cháu có đọc được là bà thích táo, hoặc có khi cháu nghe trên tivi người ta nói thế cũng nên. Bà chính là người hay viết truyện trinh thám đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bà Oliver đáp. “Chắc phải mời bà làm gì đó liên quan đến mấy vụ án mạng mới được. Bà dựng một vụ án mạng trong buổi tiệc tối nay và cho mọi người phá án đi.” “Không, cảm ơn cháu,” bà Oliver nói. “Đủ lắm rồi.” “Là sao ạ? Sao lại đủ lắm rồi?” “Ờ thì, ta từng làm thế một lần, và kết quả không thành công chút nào,” bà Oliver nói. “Nhưng bà đã viết rất nhiều sách,” Joyce hào hứng, “bà kiếm được rất nhiều tiền nhờ đó phải không ạ?” “Ở một chừng mực nào đó,” bà Oliver đáp, tâm trí lang thang trở về Inland Revenue. “Và bà có một thám tử là người Phần Lan nữa.” Bà Oliver thừa nhận. Một cậu bé khác trông có vẻ lãnh đạm, bà Oliver đoán hẳn phải hơn mười một tuổi, nói với vẻ nghiêm nghị: “Sao lại là Phần Lan?” “Ta cũng thường tự hỏi như thế,” bà Oliver thành thực trả lời. Bà Hargreaves, vợ người đánh đàn ống ở nhà thờ thở hổn hển bước vào phòng, tay bê một xô nhựa lớn màu xanh lá cây. “Cái này thì sao,” bà nói, “để chơi trò cắn táo ấy? Có vẻ màu mè rực rỡ đấy, tôi nghĩ thế.” Cô Lee, người bán thuốc theo toa bác sĩ, đáp: “Xô mạ kẽm thì tốt hơn. Thế mới khó lật. Bà định đặt cái này ở đâu đây, bà Drake?” “Tôi đã nghĩ trò cắn táo nên tổ chức trong phòng đọc sách. Tấm thảm phòng ấy cũng đã cũ rồi, và thể nào cũng có nước vương vãi cho xem.” “Được rồi. Vậy để chúng tôi bưng xô này theo luôn. Rowena, đây thêm một giỏ táo nữa này.” “Để tôi giúp,” bà Oliver xăng xái. Bà nhặt hai quả táo dưới chân lên. Gần như quên bẵng mất mình đang làm gì, bà đưa một quả lên miệng cắn và bắt đầu nhai rau ráu. Bà Drake đưa tay giật lại quả táo thứ hai và đặt trở vào giỏ. Cả phòng dậy lên tiếng nói chuyện ồn ào. “Vâng, nhưng giờ biết tìm đâu ra hoa mõm sói?” “Bà phải có hoa mõm sói đặt trong phòng đọc sách chứ, đấy chắc là phòng tối nhất nhà rồi.” “Không, chúng ta phải đặt hoa trong phòng ăn.” “Ta phải phủ cái gì lên bàn trước đã.” “Bàn đã bọc một lớp vải len tuyết dài, rồi lại phủ một tấm cao su lên nữa.” “Thế còn các tấm gương? Chúng ta sẽ nhìn được các ông chồng trong đó chứ?” Len lén cởi giày và vẫn khẽ nhai miếng táo trong miệng, bà Oliver lại thả người trở xuống chiếc sofa nhỏ và chăm chú quan sát căn phòng đầy người qua lại. Lúc này bà bắt đầu dùng đầu óc nữ tác giả của mình để suy nghĩ: “Giờ thì, nếu mình định viết một cuốn sách về tất cả những người này, mình nên viết gì nhỉ? Họ đều là những người tử tế, mình nghĩ là vậy, nhưng ai mà biết được?” Một mặt, bà cảm thấy thật thú vị khi không biết gì về họ. Tất cả đều sống ở Woodleigh Common, vài người bà có biết đôi chút qua lời kể của Judith. Cô Johnson - hình như có liên quan nhà thờ, nhưng không phải là em gái của mục sư. À không, cô ấy là em người đánh đàn ống mới phải, đúng rồi. Rowena Drake, hình như chuyên chỉ đạo các hoạt động chung trong vùng Woodleigh Common này. Và cả người phụ nữ đang thở hổn hển sau khi bưng cái xô nhựa lúc nãy, một cái xô xấu đến phát gớm. Bản thân bà Oliver vốn chẳng bao giờ ưa nổi đồ nhựa. Rồi bọn trẻ con và các cô cậu tuổi choai. Đến bây giờ tất cả chỉ mới là những cái tên trong đầu bà Oliver. Cô bé Nan này, Beatrice này, Cathie, Diana này và Joyce, một cô bé khoác lác và hay hỏi lung tung. Mình không thích cô bé Joyce này lắm, bà Oliver thầm nghĩ. Cô bé kia tên là Ann, trông cao ráo và kẻ cả. Rồi hai cậu thiếu niên, hình như thích thử các kiểu tóc khác lạ, chỉ có điều kết quả không được tốt đẹp lắm. Một cậu bé người nhỏ nhắn rụt rè bước vào phòng. “Mẹ bảo cháu đem những tấm gương này đến xem có dùng được không,” cậu nói, giọng như hụt hơi. Bà Drake đón lấy các tấm gương: “Cảm ơn cháu nhiều nhé, Eddy.” “Chỉ là gương cầm tay bình thường thôi mà,” cô gái tên Ann lên tiếng. “Có thật bọn cháu sẽ nhìn thấy mặt chồng tương lai trong đó không?” “Có đứa sẽ thấy, có đứa không,” Judith Butler đáp, vẻ bí hiểm. “Bà đã bao giờ thấy mặt chồng mình khi đến một bữa tiệc chưa ạ - ý cháu là những bữa tiệc như thế này này?” “Tất nhiên là chưa rồi,” Joyce đáp thay. “Có lẽ bà ấy đã thấy rồi,” Beatrice lên giọng kẻ cả. “Cái đó người ta gọi là giác quan thứ sáu,” cô bé nói thêm, giọng hài lòng vì mình thông thạo những từ ngữ hợp thời. “Cháu đã đọc truyện của bà,” Ann nói với bà Oliver, “The Dying Goldfish. Cuốn đó hay đấy ạ.” cô bé lịch sự tán dương. “Cháu lại không thích cuốn đó,” Joyce lên tiếng. “Không đủ máu me. Cháu thích những vụ án đổ máu thật nhiều ấy.” “Thế thì hơi bẩn,” bà Oliver nói, “cháu không thấy vậy sao?” “Nhưng rất ly kỳ,” Joyce đáp. “Cũng không hẳn,” bà Oliver nói. “Cháu đã chứng kiến một vụ án mạng đấy,” Joyce la lên. “Đừng có ăn nói hàm hồ vậy chứ, Joyce,” cô giáo Whittaker lên tiếng. Mời các bạn đón đọc Băng Cướp Thụy Điển của tác giả Anders Rosluno & Stefan Thunberg.
Án Mạng Tiệc Hallowe'en
Trong lúc mọi người chuẩn bị buổi tiệc Hallowe'en dành cho những đứa trẻ từ 11-17 tuổi trong vùng tại Biệt thự Vườn Táo của bà Rowena Drake - một phụ nữ vừa giàu có vừa thích những hoạt động cộng đồng, có tài tổ chức lẫn thích chỉ huy người khác - thì cô bé Joyce 13 tuổi huênh hoang rằng mình từng chứng kiến một vụ giết người. Chẳng ai tin vì cô bé Joyce này nổi tiếng "nổ" và dựng chuyện. Tuy nhiên, sau khi buổi tiệc diễn ra hết sức vui vẻ thành công, người ta phát hiện Joyce bị dìm đầu vào một xô nước chết. Hercule Poirot được mời tới truy tìm hung thủ. Với lập luận phá án: có phải đúng vì Joyce từng chứng kiến và kẻ giết người có mặt trong số khách khứa nghe được nên ra tay giết cô bé diệt khẩu không? Thế thì chắc chắn trước đó phải có án mạng từng xảy ra trong vùng. Poirot lần lại quá khứ, hóa ra một cộng đồng vùng quê nhỏ những tưởng là yên bình như thế lại từng có rất nhiều vụ giết người, mất tích, âm mưu chiếm đoạt thừa kế... đều chưa tìm ra thủ phạm. Những tội ác đã xảy ra đó liên quan thế nào đến cái chết của Joyce? Trong lúc Poirot đang lần dò trong mớ rối rắm những tình tiết kỳ lạ, bí ẩn thêu dệt thì một cái chết nữa xảy ra: lần này là đứa em trai 11 tuổi của Joyce.  Ngay khi vị thám tử tài ba bắt đầu lóe ra tia sáng đầu tiên về [những] kẻ đứng đằng sau tất cả vụ việc thì cũng là lúc nạn nhân mục tiêu thực sự - một đứa trẻ khác nữa - rơi vào tầm ngắm của kẻ giết người. Poirot có cứu được đứa trẻ này không, hay phải mất thêm một mạng sống nữa mới đưa được thủ phạm ra ánh sáng?  Trong một cái kết thực sự hấp dẫn và bất ngờ, không chỉ sát nhân bị lật mặt mà những tội ác từng xảy ra liền lạc lại do một dã tâm không hề có nhân tính. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Tiệc Hallowe'en của tác giả Agatha Christie.
Những Vụ Án Nổi Tiếng Thế Giới: Món Nợ Truyền Kiếp - Ed McBain
Evan Hunter lúc chưa lấy tên Ed Mc Bain, đã viết nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn dưới nhiều tên khác nhau, được một nhà xuất bản đề nghị viết một loạt truyện về vụ án. Ông chọn nhân vật chính trong loạt truyện đó là cả một đơn vị cảnh sát. Ông nói: “Tôi muốn nói về những người khám phá ra án mạng trong thực tế. Tôi cố gắng thể hiện công việc hàng ngày của những nhân viên cảnh sát ở một thành phố lớn, muốn xây dựng một lớp người hình dạng và tính cách khác nhau nhưng tập hợp lại cùng tạo ra một người anh hùng: đội Cảnh sát Quận 87. Việc đó chưa từng được làm và quan niệm này cho phép tôi đưa những nhân vật mới vào tập thể đã có. Toàn đội là người anh hùng trong truyện và không người nào trong đội buộc phải có hoặc không thể thay thế được. Trong đời sống thực tế, một cảnh sát có thể bị giết hay bị thương.” Trong các thanh tra cảnh sát ở Quận 87 Steve Carella được nói đến nhiều nhất, cả về tiểu sử. Gốc Ý, sinh ở Jsola, anh tham gia mặt trận Ý trong thế chiến thứ hai và vào ngành Cảnh sát 21 tuổi. Steve Carella là một cảnh sát liêm khiết, nhân hậu, có trách nhiệm cao trong công việc. Anh cũng là còn người bình tĩnh, không tha thứ đầu óc phân biệt chủng tộc, không thờ ơ với cái chết và có khả năng thông cảm với tất cả những ai anh phải tiếp xúc vì nghề nghiệp. Trực giác nhạy cảm, minh mẫn, ngoan cường, anh có khả năng cảm thụ rất cao: điều này được Mc Bain nói lên một cách hình ảnh bằng gán cho anh một người vợ câm điếc: Teddy. Gia đình sống hạnh phúc - họ có hai con sinh đôi - Carella không ngừng suy nghĩ về cuộc đời mỗi khi có dịp nghề nghiệp đưa lại. Chính tiềm năng nhân đạo, cái nhìn nhiệt tình đối với mọi người và cuộc sống làm anh trở thành hấp dẫn, được trìu mến. Xung quanh Carella, Quận 87 như là cả một gia đình: cảnh sát trưởng Peter Byrnes lãnh đạo đơn vị, như một người cha; Meyer Meyer là anh cả có đức tính kiên nhẫn nổi bật. Là người Do thái nhưng không cố chấp về giáo lý, anh đặt ra nhiều vấn đề về tính cách Do Thái và vị trí của người Do Thái hiện đại. Bert Kling là em út, rất gắn bó với Carella, trải qua hai cuộc thực tập khó khăn trong quá trình trưởng thành: nghiệp vụ cảnh sát nhiều khi rất nguy hiểm và lĩnh vực tình cảm riêng tư. Và những người khác: Cotton Hawes tóc hung, con của một mục sư, rất nhiều quan hệ với phái nữ; Arthur Brown, người da đen duy nhất trong đội; Hal Willis người nhỏ bé nhưng không kém nổi danh; Rogeru Havilland, anh cảnh sát hung bạo và thoái hóa; Grossman, người phụ trách phòng xét nghiệm. Tất cả đều có vai trò; quan trọng trong bối cảnh xuất hiện, len lỏi khắp nơi và có vẻ trở về hậu trường Quận 87. Còn một lớp người khác không là thành phần của Quận 87 nhưng đóng vai trò những kẻ điên khùng, lúc này lúc khác làm cho các thanh tra cảnh sát “điên người”: Những hung thủ, những kẻ vô lại gian ngoan luôn xuất hiện từ hư không, chơi trò trốn tìm với cảnh sát. Ed Mc Bain diễn tả những vụ việc trong một thành phố tưởng tượng, thành phố lớn Isola với những khu vực xen kẽ rất khác nhau: có những khu dinh cơ tầng lớp trên, những khu trung lưu, những khu Do Thái và những căn nhà lụp xụp, rác bẩn. Thành phố tập trung mọi tầng lớp xã hội và tiếp nhận dân cư của mọi bộ tộc thiểu số. Việc điều tra những vụ án tiến hành trực diện hoặc theo bước nhảy trong cùng một việc như diễn biến ở một đơn vị mà cảnh sát viên phải giải quyết nhiều vụ cùng một lúc. Như vậy, sự việc này có thể đối chiếu với sự việc khác, phối hợp giữa chúng với nhau, gây ra những bất ngờ, nhận rõ được nhiều mặt của sự việc. Tác giả biết thay đổi kết cấu, nhiều khi dựa vào tính chất xảo quyệt của tội phạm, thay đổi phương pháp kể, phân tích diễn biến tâm lý phá án, phong cách xã hội trong suốt ba mươi năm tại của Quận Cảnh sát 87 sử dụng lối ghi chép việc để dõi theo số phận các nhân vật. *** Nhà văn trinh thám Mỹ Salvadore Lombino sinh năm 1926 tại một xóm người Italia ở New York. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, ông vào học Trường cao đẳng Mỹ thuật. Trong những năm chiến tranh, Lambino phục vụ tại binh chủng Hải quân và bắt đầu viết truyện ngắn. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông tốt nghiệp Trường cao đẳng Hunter. Năm 1952 Lombino chính thức đổi tên thành Evan Hunter, theo tên của ngôi trường phổ thông và cao đẳng nơi ông đã học. Ông từng làm nhân viên bán tôm hùm, chơi piano trong một giàn nhạc jazz, dạy học ở trường phổ thông, làm nhân viên quảng cáo. Một lần, với tư cách là đại lý văn học, Salvadore Lambino đã mang tới nhà xuất bản những tập bản thảo của Evan Hunter, nghĩa là của chính mình.  Evan Hunter rất nổi tiếng trong giới những người hâm mộ thể loại trinh thám với bút danh Ed McBain độc nhất vô nhị, tác giả của những cuốn tiểu thuyết về đồn cảnh sát 87 - một chùm tiểu thuyết trinh thám dài, đa dạng và rất nổi tiếng. Theo ý đồ của tác giả, đồn 87 nằm ở một “thành phố tưởng tượng” nào đó, tuy nhiên độc giả tinh ý dễ dàng nhận ra trong đó New York, mặc dù tên gọi các đường phố, đại lộ và các địa danh khác đã được thay đổi. “Thành phố” chia thành 5 quận: Isola (Manhattan), nơi đồn 87 đóng, Riverhad (Bronks), Magesta (Quins), Calm-Point (Brooklin) và Bestawn (Steiten-Ireland). Ai đó có thể lấy làm ngạc nhiên rằng hai con sông xuyên qua “thành phố” - Hurb và Dike (Goojon và East-River), chảy về phía tây, trong khi “thành phố” lại nằm bên bờ phía đông. Theo chủ ý của Ed McBain, New York “quay” xung quanh trục của nó, vì vậy phía bắc trở thành phía đông, phía đông trở thành phía nam... phù hợp hoàn toàn với cực từ của trái đất. Đồn 87 nằm ở một vị trí khiến các nhân viên của nó buộc phải trình diễn tài năng trinh thám của mình khi khám phá các vụ tội phạm xảy ra trong các tầng lớp trên, cũng như ở dưới “đáy” xã hội của nước Mỹ. Phạm vi của đồn bao quát cả những khu sang trọng, vùng ngoại vi trù phú, phần lãnh thổ, nơi sinh sống của đại diện giai cấp trung lưu, lẫn các khu nhà ổ chuột, phố “đèn đỏ”, và thậm chí một số biệt thự kiến trúc kiểu gothique cổ kính. Các cuốn tiểu thuyết của Ed McBain đáp ứng tất cả những tiêu chuẩn của thể loại trinh thám. Hoạt động trong đó không chỉ là một người hùng đơn độc, mà còn cả một đội cảnh sát nhà nghề được phối hợp chặt chẽ. Thậm chí nếu một nhân vật nào đó của Ed McBain trở nên vượt trội (ví dụ, trong nhiều tiểu thuyết công lao khám phá tội phạm thuộc về Stev Carrele), hành động của anh ta cũng không thể mang lại những kết quả mong muốn, nếu như không có sự giúp đỡ và ủng hộ của các thám tử khác. Đồn 87 có cái gì đó giống như Con thuyền Noe, nơi tập hợp rất nhiều những con người khác nhau, được liên kết bởi một mục đích chung: quét sạch bọn tội phạm, xây dựng cuộc sống trong “thành phố” trở nên hạnh phúc và bình yên. Trong số đó có Trung úy Berne, Cảnh sát trưởng, được các nhân viên cấp dưới của mình, thậm chí cả bọn tội phạm nể trọng; Meier Meier, một thám tử cực kỳ chịu khó, xuất thân từ một gia đình gốc Do Thái, tuổi thơ của anh ta trôi qua trong sự đụng độ của những tín điều; Bert Kling trong cuộc sống và trong công việc không tìm kiếm những con đường dễ dãi, vì vậy anh đã phạm phải rất nhiều sai lầm mà lẽ ra có thể tránh được; Coton House, con trai của một linh mục đạo Tin Lành được phái đẹp hết sức hâm mộ, cũng như những chiến binh tận tụy khác đấu tranh vì sự bình yên của những người dân lương thiện. Một điều hết sức đặc trưng đối với Ed McBain là nhân vật của ông không phải là những con người xơ cứng, bất biến, không phải là những chiếc mặt nạ nào đó, ngược lại, họ biết tận hưởng cuộc sống, trưởng thành và hoàn thiện tài năng của mình. Nhân vật Stev Carelle là một ví dụ, một cảnh sát mẫu mực “đến tận xương tủy”. Thông thường, khi một nhà văn gặt hái được thành công ban đầu thì anh ta hay sản xuất ra những tác phẩm na ná nhau cho tới khi độc giả chán ngấy sự đơn điệu đó. Tuy nhiên, đối với Ed McBain, điều đó đã không xảy ra. Ông không bao giờ ngần ngại thử nghiệm. Trong tiểu thuyết “Cái nêm” có hai cốt truyện cùng phát triển song song, thoạt đầu không hề liên quan gì với nhau: một bên là câu chuyện khủng khiếp về một người phụ nữ mất trí vì quá đau khổ đã dọa đánh bom Đồn 87, và bên kia là một thủ pháp hơi lỗi mốt, khi một nhân vật xuất thân từ thành phần bất hảo đã trở thành kẻ sát nhân và chỉ bằng con đường suy diễn logique các thám tử mới vạch mặt được kẻ tội phạm. Hai cốt truyện này nối với nhau bằng một biểu tượng nào đó được tác giả gửi gắm trong tên gọi của tác phẩm. “Giá của sự ngờ vực” là câu chuyện về một “vụ giết người lý tưởng”, hơn nữa tác giả còn thử nhìn các sự kiện bằng con mắt của kẻ tội phạm, trong khi các thám tử thể hiện vai trò của mình một cách mờ nhạt. Tiểu thuyết “Công việc bình thường” đáng chú ý bởi trong đó có sự tham gia của hầu hết các thám tử thuộc Đồn 87 và họ buộc phải khám phá 14 vụ án. Tiểu thuyết “Sợi lông tơ” là một hài kịch, mặc dù luôn luôn tỏ ra làm việc căng thẳng, các nhân viên cảnh sát không thể vượt qua được bọn tội phạm. Không thể không nhắc tới nhân vật gã Điếc rất thành công của Ed McBain - đó là một kẻ bất khả chiến bại, may mắn thoát chết trong tiểu thuyết “Tên cướp”, lại xuất hiện trong tiểu thuyết “Sợi lông tơ” và muộn hơn trong “Hãy nghe gã điếc nói gì”. Mỗi một cảnh có sự tham gia của nhân vật này đều một pha mạo hiểm tiếp theo của y mà các thám tử tìm mọi cách ngăn chặn. Nhưng gã điếc đều thoát chết và lành lặn sau những hoàn cảnh hiểm nghèo, để rồi lại bất ngờ xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết tiếp theo nào đấy. Ed McBain được công nhận là một bậc thầy về văn xuôi trào phúng. Thực sự không một cuốn tiểu thuyết nào về Đồn 87 thiếu chất hài hước, điều này góp phần làm nên thành công của chùm tiểu thuyết nói trên. Chính chất hài hước đã “hồi sinh” các nhân vật, vì những nguyên nhân nào đó mà chân dung tâm lí của họ chỉ được tác giả phác qua một cách sơ sài. Tất nhiên, đôi khi trong các tác phẩm của Ed McBain bạn đọc cũng bắt gặp những hoàn cảnh và số phận bi kịch thực sự, nhưng chính chất hài hước đã trở thành một phẩm chất lành mạnh của toàn bộ chùm tiểu thuyết của ông Mời các bạn đón đọc Những Vụ Án Nổi Tiếng Thế Giới: Món Nợ Truyền Kiếp của tác giả Ed McBain.
Nghiệp Ác
Khi tiểu thuyết gia Owen Quine, mất tích, vợ ông tìm đến thám tự tư Cormoran Strike. Thoạt đầu, bà ngỡ chồng mình chỉ đi đâu đó vài ngày, nên nhờ Strike tìm ông về. Nhưng khi bắt tay vào điều tra, Strike phát hiện đằng sau vụ mất tích của Quine còn nhiều điều hé lộ. Nhà văn này vừa hoàn thành một bản thảo châm chọc sâu cay hầu như tất cả mọi người ông quen. Nếu tiểu thuyết này được xuất bản, nó sẽ hủy hoại cuộc sống rất nhiều người - thế nên không ít kẻ muốn nhà văn phải im lặng. Khi phát hiện xác Quine bị giết trong một hoàn cảnh cực kỳ quái gở, thám tử Strike bắt đầu cuộc chạy đua với thời gian để tìm hiểu động cơ của kẻ giết người… Một tiểu thuyết tội phạm với liên tiếp những nút thắt và chuyển ngoặt bất ngờ. Con Tằm là cuốn thứ hai trong bộ tiểu thuyết lừng danh về chàng thám tử Cormoran Strike và cô trợ lý trẻ trung Robin Ellacott của tác giả Robert Galbraith, bút danh khác của nữ nhà văn J.K.Rowling. *** Tập 3 trong bộ trinh thám về thám tử Cormoran Strike và trợ lý Robin của tác giả Robert Galbraith (bút danh khác của J.K. Rowling), tiếp theo "Con chim khát tổ" và "Con Tằm". Thay vì 1, lần này có đến 4 kẻ tình nghi với những manh mối mơ hồ, trong khi tội ác diễn ra liên tiếp cần được chặn đứng tức thì. Kịch tính, bất ngờ, "Nghiệp Ác" có tiết tấu nhanh và tình tiết phức tạp hơn hẳn hai tập trước, khiến người đọc phải tò mò về hung thủ đến tận những trang cuối cùng. ...*** Truyện mới ra đầu năm nay nên trên mạng chưa thấy trang nào review :D thôi đành tự nhận xét vậy: Tiếp nối truyền thống 2 tập trước, tập này vẫn rất dày, vẫn lối kế chuyện ấy, tình tiết khá phức tạp (có tới 4 kẻ tình nghi lận) làm ông Strike nhà mình phải nhọc công điều tra ra phết. Xen kẽ đó như thường lệ vẫn là chuyện tình cảm giữa Robin, sếp Strike và anh chống sắp cưới Matthew. Người ta thường nói "quá tam ba bận", cái gì lặp đi lặp lại mãi cũng nhàm, xét trên khía cạnh nào đó thì Nghiệp Ác cũng vậy. Dù được giới thiệu trước là có đến 4 nghi can giết người, nhưng đọc vẫn thấy chỉ như quyển 1,2 chả có gì mới mẻ hơn. Tuy thế những nét đặc trưng làm nên thành công cho bà Rowlings thì vẫn được phát huy, bởi thế theo mình truyện này vẫn có thể xem là hay được :) Về vụ án thì phải nói là tuy nhiều nghi can nhưng khá ngạc nhiên là thủ phạm lại dễ đoán hơn 2 tập trước, bạn nào tinh ý đọc khoảng nửa quyển là đoán được rồi. Dù cuối truyện kết quả có hơi bất ngờ tí nhưng cơ bản vẫn là hắn :004: Dịch thuật: mình không đọc nhiều lắm, không biết các truyện khác dịch thế nào nhưng bộ 3 truyện của bà Rowlings đều được dịch rất tốt, sát nghĩa mà vẫn thuần Việt, thể hiện được những nét riêng của từng nhân vật. 1 like cho bạn Như Mai :v P/s: Nếu bạn nào đọc để biết xem mối tình tay ba Robin - Strike - Matthew diễn biến thế nào thì không thể bỏ qua tập này, cái kết có hậu *** Y vẫn chưa thể gột hết được máu ả. Một lằn đen như dấu ngoặc đơn nằm dưới móng ngón giữa tay trái. Y toan cạo sạch đi, nhưng cũng khá thích thú khi thấy dấu vết ấy: chút dấu vết gợi nhớ những khoái cảm ngày trước đó. Sau một phút kỳ cọ vô ích, y đưa móng tay dính máu lên miệng mút. Vị hăng sắc lạnh gợi nhớ đến mùi của dòng tuôn xối xả, vung vãi lên nền nhà lót gạch, tung tóe lên tường, tưới đẫm quần jeans của y và biến đám khăn tắm màu quả đào được xếp gọn gàng, mềm mại, khô ráo thành mớ giẻ đẫm máu. Màu sắc như tươi hơn trong buổi sáng nay, thế gian như đáng yêu hơn. Y thấy tĩnh tâm, khoan khoái, như thể y đã hấp thụ ả, như thể mạng sống của ả đã được truyền vào y. Chúng thuộc về ta một khi ta đã giết chúng: một sự chiếm hữu vượt xa tình dục. Nhìn vẻ mặt chúng trong khoảnh khắc lìa đời cũng đã là một trải nghiệm gần gũi sâu xa mà hai kẻ còn sống chẳng bao giờ có được. Y ngất ngây phấn khích với ý nghĩ không ai biết chuyện y đã làm, hay chuẩn bị làm tiếp. Y mút ngón giữa, sung sướng, bình thản, đứng dựa vào bức tường ấm áp trong ánh nắng tháng Tư yếu ớt, mắt dán vào ngôi nhà đối diện. Chẳng phải nhà ngon nghẻ gì. Tầm thường. Nói đúng ra chỗ này vẫn khá hơn căn hộ tí teo nơi có mớ áo quần vấy máu khô cứng đang nằm trong túi rác đen, đợi mang đi đốt; nơi con dao của y lóe sáng, con dao đã được rửa sạch bằng thuốc tẩy, nhét kỹ sau ống nước bồn rửa chén. Ngôi nhà có vườn nhỏ phía trước, thêm hàng song sắt đen và bãi cỏ rậm rạp. Hai cánh cửa trước màu trắng chen chúc cạnh nhau, cho thấy ngôi nhà ba tầng đã được cải tạo thành các căn hộ ở mỗi tầng. Một đứa con gái tên Robin Ellacott sống ở tầng trệt. Mặc dù y đã chú tâm tìm cho ra được tên thật của ả, trong đầu y chỉ gọi là Ả Thư Ký. Y vừa thấy ả ngay trước cửa sổ lồi, mái tóc sáng màu dễ nhận biết. Ngắm Ả Thư Ký, với y, là một thứ phụ gia khoái cảm. Vẫn còn mấy tiếng đồng hồ nữa, vậy là y quyết định đến đây ngắm ả. Hôm nay là ngày nghỉ, giữa vinh quang của ngày hôm qua và ngày mai, giữa cảm giác thỏa mãn về việc đã làm và cơn phấn khích về việc sẽ đến. Cánh cửa bên phải đột ngột mở, Ả Thư Ký bước ra, đi cùng với một tay nữa. Vẫn dựa vào bức tường ấm áp, y nhìn dọc theo con phố, quay một bên mặt về phía chúng, như thể đang đứng đợi bạn. Cả hai không để ý gì đến y. Chúng bước xuống đường cùng nhau. Để chúng đi được một phút, y quyết định bám theo. Ả mặc quần jeans, áo khoác mỏng, mang giầy bốt đế bằng. Mớ tóc dài gợn sóng hung hung đỏ trong nắng. Y thấy dường như giữa hai người có chút lạnh lùng, chẳng thấy nói năng gì. Y biết cách đọc người ta. Y đã đọc và quyến rũ được đứa con gái ấy, kẻ đã chết hôm qua giữa mớ khăn lông màu quả đào đẫm máu. Dọc theo con đường dài toàn nhà dân, y bám theo, tay đút túi, lững thững như đang đi mua sắm, cặp kính râm không có gì bất thường trong buổi sáng rực nắng. Cây cối khẽ gợn sóng trong cơn gió xuân nhè nhẹ. Đến cuối đường cả hai rẽ trái vào con ngõ rộng, tấp nập, đầy văn phòng công ty. Cửa sổ kính nguyên tấm lấp lánh trong nắng trên đầu y khi theo chúng đi ngang qua tòa nhà hội đồng quận Ealing. Giờ đây tên bạn cùng nhà hay bồ bịch hay gì gì nữa của Ả Thư ký - một tay tóc tai tỉa tót, cằm vuông - đang nói gì đó. Ả đáp trả cộc lốc, không mỉm cười. Đàn bà thật ti tiện, ích kỷ, dơ bẩn, nhỏ nhen. Đám đĩ thõa chuyên hờn mát, tuyền một giuộc, lúc nào cũng chỉ chờ đàn ông chiều chuộng. Chỉ đến khi nằm chết, trống rỗng trước mắt ta, chúng mới trở nên thuần khiết, bí hiểm, thậm chí là tuyệt diệu. Khi đó chúng là của ta hoàn toàn, chúng không thể cãi lại, không thể vùng vẫy hay bỏ đi, ta muốn làm gì tùy thích. Thân xác ả hôm qua nằng nặng, thõng thượt khi y đã tháo hết máu: món tiêu khiển, thứ đồ chơi to bằng người thật của riêng y. Xuyên qua trung tâm mua bán Arcadia nhộn nhịp, y theo bước Ả Thư Ký và tay bồ, lượn lờ sau chúng tựa như bóng ma hay thần linh. Liệu khách mua sắm ngày Thứ Bảy có thấy được y chăng, hay dường như y đã biến hóa, sống động khôn lường, như thể có phép tàng hình? Chúng dừng lại ở trạm xe buýt. Y lảng vảng gần đó, giả vờ nhìn qua cửa nhà hàng cà-ri, rồi nhìn đám hoa quả chồng chất phía trước hàng rau, nhìn tiếp mớ mặt nạ Hoàng tử William và Kate Middleton bằng cạc-tông treo trên cửa sổ sạp báo như đang ngắm nghía bóng mình trong gương. Chúng sắp lên xe số 83. Y chẳng còn bao nhiêu tiền trong túi nhưng đang sung sướng ngắm ả, y chưa muốn dừng. Khi lên xe, y nghe tay bồ nói tên trạm Wembley Central. Y mua vé rồi theo cả hai lên tầng trên xe buýt. Hai đứa ngồi cạnh nhau, ngay trước mũi xe. Y chọn chỗ gần đó, cạnh một mụ cau có vì phải kê lại mớ túi mua đồ khi y đến. Giọng chúng thi thoảng át tiếng nói chuyện lao xao trên xe. Khi không nói gì, Ả Thư Ký nhìn qua cửa sổ, mặt lạnh lùng. Rõ là ả chẳng muốn đi đến nơi đó, y chắc chắn vậy. Khi ả vuốt tóc ra khỏi mắt, y nhác thấy nhẫn đính hôn. Vậy là ả sắp kết hôn… hay ả cứ tưởng thế. Y giấu nụ cười mơ hồ trong cổ áo khoác bẻ lên. Nắng ấm ban trưa đổ vào qua cửa xe lấm tấm bụi. Một đám đàn ông lên xe, ngồi kín các ghế xung quanh. Vài người trong số đó mặc áo rugby hai màu đỏ đen. Đột nhiên y cảm thấy như thể ngày nắng rực vừa nhạt đi. Đám áo đó, với hình trăng lưỡi liềm và sao, gắn liền với những thứ y vốn chẳng ưa gì. Những thứ ấy gợi nhắc đến khoảng thời gian y không hề thấy mình là thần thánh. Y không muốn ngày vui hôm nay lại bị lem nhem vấy bẩn bởi những ký ức cũ, những ký ức tồi tệ, nhưng cảm giác hân hoan trong y đột nhiên cạn dần. Giờ đây y giận sôi - một thằng choai choai trong đám bắt gặp ánh mắt y, liền vội vã nhìn ra xa, hoảng hốt - y đứng dậy, đi về phía cầu thang. Một cặp cha và con trai đứng vịn chặt cây cột cạnh cửa xe. Cơn giận bùng nổ sâu trong gan ruột: đáng ra y cũng có một đứa con trai. Đúng hơn, đáng ra y vẫn còn có một đứa con trai. Y mường tượng thằng bé đứng cạnh mình, ngước nhìn mình, thần tượng mình - nhưng đứa con trai ấy đã không còn, tất cả chỉ vì một gã có tên Cormoran Strike. Y sẽ trả thù Cormoran Strike. Y sẽ làm cho hắn lụn bại. Khi đến vỉa hè y nhìn lên cửa sổ trước xe, thoáng thấy mái tóc vàng rực của Ả Thư Ký lần cuối. Y sẽ gặp lại ả trong chưa đến hai mươi bốn giờ tới. Ý nghĩ đó làm nguôi đi cơn giận đột ngột vừa bị mấy cái áo rugby đội Saracens khuấy lên. Chiếc xe buýt gầm gào lăn bánh rời đi, y sải bước theo hướng ngược lại, vừa đi vừa tự an ủi mình. Y đã sẵn một kế hoạch tuyệt vời. Không ai hay biết. Không ai nghi ngờ. Và còn có một món vô cùng đặc biệt đang đợi y trong tủ lạnh ở nhà.   Mời các bạn đón đọc Nghiệp Ác của tác giả Robert Galbraith.