Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Hè Tươi Đẹp - Cesare Pavese

Cesare Pavese (1908 - 1950) Nhà văn và Dịch giả rất quan trọng của nền văn học Ý trong thế kỷ XX Là tác giả Ý đoạt được nhiều giải thưởng văn học rất giá trị: 1938 tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được đánh giá là tác phẩm rất hay. Nhưng mặc dù đạt đỉnh cao trong văn học sự thất vọng về cuộc đời và tình yêu luôn mang cho ông cảm giác trống rỗng và cô đơn. Mệt nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn ngày 27 tháng 5 năm 1950 ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn tại thành phố Torino. Trên trang nhất của tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách ban đêm, ông chỉ để lại vài hàng ngắn ngủi: “Tôi tha tội cho tất cả và xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều”. Năm ấy ông chỉ vừa 42 tuổi. *** ĐÁNH MẤT THƠ NGÂY, KHÁM PHÁ CẢM GIÁC VÀ CÁM DỖ Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” nằm trong luồng văn học biểu tượng. Mùa hè diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi của mình. Itala Elena Pucillo Trương (TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài) *** Cesare Pavese - cuộc đời và tác phẩm Chọn tiểu thuyết “Mùa hè tươi đẹp” của tác giả Cesare Pavese để dịch sang tiếng Việt trước hết do giá trị văn học(1) của tác phẩm và sau đó là tầm quan trọng của tác giả trong nền văn học Ý trong thế kỷ XX. Viết từ năm 1949, bối cảnh là lối sống của lớp trẻ tại miền Bắc Ý sau thế chiến II, nhưng tính đương thời (contemporaneita) của tiểu thuyết vẫn còn đậm nét. Thấp thoáng đâu đây một cuộc sống gần với hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong thời hội nhập: Cùng với tăng trưởng kinh tế là lối sống buông thả, khởi đầu cho sự đánh mất những giá trị đạo đức. Tính hiện thực và khả năng khai thác tâm lý nhân vật cũng được tác giả thể hiện qua cách viết và sử dụng ngôn ngữ khác lạ, đến nay vẫn còn giữ nguyên phong cách hiện đại. * Đến với các tác phẩm của Cesare Pavese chúng ta sẽ liên tục khám phá: Ngoài tiểu thuyết người đọc còn gặp nhiều bản dịch của các tác giả Anh, Mỹ và trong cùng thể loại cũng luôn có rất nhiều sự khác biệt. Sự khác biệt này đã được tác giả tái tạo, bắt đầu từ văn phong đa dạng, lối xếp đặt các bối cảnh liên quan đến cách sử dụng ngôn ngữ phong phú... để người đọc khỏi nhàm chán rồi dẫn họ nhận thức về những quan điểm khác bằng sự tế nhị và nhạy cảm của mình. Ngoài ra, có lẽ không phải là một sự tình cờ mà một trong những tác phẩm cuối cùng của ông lại là một tập thơ mang tựa đề “Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em”, như một dự báo cho việc tự sát, một thông điệp mà cũng là lời từ biệt... đã làm tác giả lừng danh, và trở thành một trong những tác giả Ý được đọc nhiều nhất trong thế kỷ XX. Trong những trang viết cũng như qua thư từ, rất nhiều lần Pavese nói về ước muốn được nổi tiếng, không chỉ riêng mình mà còn cho nơi ông ra đời, một ngôi làng chỉ có những túp nhà nho nhỏ và sình lầy.  Ông đã viết như thế này: “Quê tôi chỉ có những túp nhà nho nhỏ và bùn lầy, nhưng nó nằm kề con đường liên tỉnh mà khi còn bé tôi hay chơi đùa. Xin nhắc lại, tôi là một kẻ có nhiều tham vọng, tôi muốn đi khắp thế giới, đặt chân đến những miền đất thật xa rồi quay lưng và nói với người hiện diện: “Các bạn chưa bao giờ nghe nói đến một ngôi làng chỉ có bốn mái nhà phải không? Đây, tôi đã đến đây từ đó”. Ngôi làng nhỏ đó có tên là Santo Stefano Belbo, thuộc vùng Langhe của tỉnh Cuneo, nơi Pavese đã chào đời vào ngày 9/9/1908. Nhưng ông đã sớm rời gia đình để sinh sống ở thành phố Torino, và trong lòng chưa bao giờ khuây khỏa nỗi nhớ quê xưa. Cha chết khi ông còn rất nhỏ và sự mất mát này đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của cậu bé, vốn nhút nhát nhưng cộc cằn và khép kín, tuy yêu sách vở và thiên nhiên nhưng luôn tìm cách cô lập mình với người khác. Sau khi chồng mất, với bản tính lạnh lùng và cẩn trọng, mẹ ông đã giáo dục con như một người cha khô khan và nghiêm khắc chứ không như một người mẹ ngọt ngào và trìu mến. Khi sống và tiếp cận với thực tại điên cuồng của một thành phố kỹ nghệ lớn và đầy sương mù như Torino, Pavese càng biểu hiện tất cả những bất an sâu sắc về sự hiện sinh, những ám ảnh tâm lý và bắt đầu đi tìm kiếm sự chân thực. Như tất cả những chàng trai trẻ, Pavese cũng mang trong lòng đầy mâu thuẫn và nhiều xung đột, với một sự nhạy cảm thái quá. Do vậy ông hành động theo ý nghĩa tiêu cực và tự làm hao mòn những xác tín mà cuộc đời mình đã gánh chịu. Trong các bức thư của mình, ông thường nhắc đến một thói tật vô lý, muốn tự sát, báo trước cho số phận bi thảm của mình. Có lẽ chính vì nỗi bất an đó mà ông phải đi tìm một biện pháp khắc phục bằng cách thực hiện các thành tựu nghệ thuật, nhất là qua các tác phẩm văn học, giống như kẻ “Đi tìm thời gian đánh mất” của Marcel Proust. Thiếu khả năng đối phó với cuộc sống, ông đã gặp vô vàn khó khăn trong quan hệ giữa người và người: Sống, đối với Pavese đã trở thành một “nghề” cần phải học trong đau đớn và trong tình huống đó, nghệ thuật với ông đã trở thành một sự cần thiết nhằm thay thế sự sống. “Tôi đã học viết nhưng chưa học sống” nên viết lách đã trở thành biện pháp duy nhất, khả năng duy nhất để ông biết mình đang sống và cảm thấy mình hạnh phúc dù chỉ trong chốc lát. Pavese viết: “Chỉ khi viết tôi mới là người bình thường, quân bình và bình an”. Đối với văn học trong thế kỷ XX tính xác thực của thi ca được xác định bởi tầm nhìn phiền muộn của con người, được nuôi dưỡng trong số phận đầy âu lo. Tính xác thực và cái chết với ông như đã trở thành đồng nghĩa, vì sống là “Chuẩn bị cho cái chết”. Cùng với nhu cầu tuyệt vọng về tình yêu, khởi nguồn từ sự cô đơn và ý muốn vượt thoát sự cô độc, tự mâu thuẫn giữa những lời tuyên bố đầy kiêu hãnh về mình và ý thức về sự thiếu khả năng vui sống, Pavese đã chọn văn học như một giải pháp nhằm giải quyết các xung đột nội tâm. Tuy vậy trong các tác phẩm của ông cũng có vài lần ghi lại hạnh phúc trong đời mình, đó là các buổi thảo luận trong các quán ăn với công nhân, với những người bán hàng rong, những con người vô danh và tầm thường, nhưng về sau tất cả đều trở thành nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Ông luôn có cảm giác là mình còn trẻ, được tái sinh và trong những năm cuối cùng của đại học, bởi trong đời tư của ông có sự tham gia của một người mà sau này trở thành trung tâm của linh hồn ông: “người đàn bà có giọng khàn khàn”. Cesare Pavese như bị biến đổi hoàn toàn: Trong suốt thời gian đó lúc nào ông cũng có cảm giác là người đàn bà ấy ở bên cạnh mình, ông bỗng trở nên tử tế, nhân bản, trìu mến, cởi mở với mọi người. Người đàn bà đó đã mang đến cho ông sự say đắm của tuổi thơ, khuôn mặt của nàng “như một đám mây”, nhưng đó là một áng mây ngọt ngào bay giữa trời xanh lơ lửng trên những ngọn đồi của quê ông. Năm 1930, lúc chỉ vừa 22 tuổi, ông tốt nghiệp đại học với luận án về sự lý giải thi ca của Walt Whitman và bắt đầu cộng tác với tạp chí “Văn hóa”. Ông dạy học vào buổi tối ở các trường tư thục, nhưng đồng thời cũng dịch rất nhiều tác phẩm văn học của Anh và Mỹ và nổi danh rất sớm. Dường như những năm tháng trung và đại học đã giúp cho chàng trai cô độc tìm được những gắn bó bạn bè: điều này giúp anh hiền hơn trong các cuộc bút chiến và phẫn nộ trong văn học. Năm 1931, chỉ vài tháng sau khi tốt nghiệp thì mẹ mất: vì chưa có dịp tỏ bày lòng ngưỡng mộ và chứng minh tình thương cùng sự trìu mến của mình với mẹ, niềm ân hận đó đã tạo nên một đường rãnh sâu sắc và cay đắng trong tâm hồn tác giả. Còn lại một mình, ông chuyển về sống với cô em Maria, và ở lại bên cô cho đến lúc chết. Cũng trong năm 1931 bản dịch đầu tiên của ông “Ngài Wrenn của chúng ta” của tác giả Sinclair Lewis được in ở thành phố Frenze. Việc dịch thuật có một tầm quan trọng không chỉ với cuộc đời tác giả mà còn cho nền văn học Ý nữa, vì nó đã mở ra một cánh cửa cho một thời kỳ mới của tiểu thuyết Ý. Với những bản dịch của mình, ông đã giúp người đọc biết được các chiều kích vô cùng lớn lao của lòng khao khát tự do, cùng với ý nghĩa bi thảm, xem cuộc đời là vô ích và đến cả động tác cuối cùng của cuộc đời, tự tử. Năm 1933, khi nhà xuất bản Einaudi được thành lập và vì tình bạn với Giulio Einaudi, Pavese tham gia các dự án của nhà xuất bản với sự nồng nhiệt: có lẽ đây là những năm tháng tốt đẹp nhất của tác giả cùng với một “người đàn bà có giọng nói khàn khàn”, một trí thức tốt nghiệp ngành toán và tham gia tích cực trong phong trào chống phát xít. Vì liên can đến người đàn bà này, ngày 15 tháng 5 năm 1935 ông bị bắt vì tình nghi chống phát xít, bị xử tù 3 năm và giam giữ ở Brancaleone Calabro thuộc miền Nam nước Ý. Ba năm nhưng về sau được giảm xuống ít hơn một năm nhờ đơn ân xá, ông được thả vào tháng 3 năm 1936, nhưng sự trả tự do này oái ăm thay lại trùng hợp với sự thất vọng cay đắng của đời ông: Người đàn bà mà ông hết lòng bảo vệ đến nỗi bị tù đày vì không chịu khai danh tánh đã bỏ ông để lập gia đình với một người đàn ông khác. Kinh nghiệm tù đày đớn đau (sau là chủ đề của một quyển tiểu thuyết đầu tay của ông, “Nhà tù”) cùng với sự thất vọng về tình yêu đã quất ông những ngọn roi tàn nhẫn và đẩy ông ngã vào một cơn khủng hoảng trầm kha, mãi nhiều năm về sau vẫn còn ràng buộc vào cám dỗ đau đớn và luôn xuất hiện ý muốn tự sát. Ông tự khép mình vào sự cô độc, có lẽ còn tồi tệ hơn cả quãng đời thơ ấu. Sau khi chiến tranh thế giới lần II chấm dứt, ông ghi danh vào đảng cộng sản Ý nhưng sự tham gia của ông chỉ thuần văn học: Ông viết những bài báo và tiểu luận chủ yếu về đạo đức - dân sự, ông tiếp nối công việc ấn loát, tổ chức lại nhà xuất bản Einaudi, ông quan tâm đến truyền thuyết và nhân chủng học, thiết lập những lý thuyết về huyền thoại, và hoàn thành tác phẩm “Đối thoại với Leucò”. Về sau, khi chuyển đến La Mã làm việc ông có quen với một nữ diễn viên trẻ, Constance Dowling, khởi đầu cho một tình yêu mới. Có lẽ cô diễn viên trẻ đẹp và “khuôn mặt có nhiều đốm tàn nhang” này mới đầu đã thực sự yêu người đàn ông nổi tiếng, thông minh nhưng cũng dễ xúc cảm, quan hệ này đã hâm nóng tình yêu cho tác giả, nhưng về sau cô cũng bỏ ông để trở về Mỹ. Trong đau đớn tột cùng, Pavese đã sáng tác và in thành một tập thơ nhan đề: “Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em...” Sau lần thất tình này, cộng thêm sự khủng hoảng chính trị và tôn giáo đã làm Cesare Pavese thất vọng và hoảng hốt, nó xâm chiếm tâm hồn ông mặc dù lúc này ông đạt đỉnh thành công văn học (1938 tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được đánh giá là tác phẩm rất hay) đến nỗi sự cô đơn và cảm giác trống rỗng làm ông không biết phản ứng ra sao. Mệt nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn, ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn Roma tại thành phố Torino. Đó là ngày 27 tháng 5 năm 1950, để lại vỏn vẹn chỉ vài hàng ngắn ngủi trên trang nhất của tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách ban đêm: “Tôi tha tội cho tất cả và xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều”. Năm ấy ông chỉ vừa 42 tuổi. * Tác Phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” nằm trong dòng văn học biểu tượng. Mùa hè diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi của mình. Câu chuyện kể về Ginia, một cô gái mồ côi chỉ vừa 16 tuổi, từ miền quê chuyển về sinh sống trong thành phố Torino cùng với anh là Severino. Ginia là một cô gái ngọt ngào nhưng không may mắn. Sự thơ ngây và trong sáng của cô hoàn toàn không đáng nhận một số phận bi đát và một sự sỉ nhục tồi tệ trong thành phố Torino xám xịt. Mới đầu cô bị thành phố làm cho lóa mắt vì nhịp sống của nó hoàn toàn khác với miền quê mà cô từng biết. Cô mong muốn yêu và được yêu. Rất nhiều cô gái vào tuổi dậy thì, trong các thành phố có màu sắc hiện đại, đến với tình yêu thật phiến diện, được thúc đẩy bởi tò mò nhiều hơn là tình yêu. Họ đánh mất tiết trinh rất dễ dàng và mãi về sau họ mới nhận ra giá trị những gì mà mình đã mất. Và như thế tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” không chỉ là một câu chuyện kể đơn giản mà còn là một cảnh báo cho các cô gái trẻ, ngây thơ và dễ dãi. Ngay chính Pavese cũng đã định nghĩa rằng tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” là chuyện kể về sự bảo vệ tiết trinh. Tựa đề ban đầu của tác phẩm chính là “Chiếc màn”, nhắc lại cảnh Ginia nhận ra mình bị lừa dối, bị gạt gẫm và chế nhạo... vì khi chiếc màn dùng để chia xưởng vẽ làm hai, mở ra, Ginia mở mắt và bỗng hiểu ra tất cả. Ê chề và tuyệt vọng, nhưng Ginia hoàn toàn không có khả năng thích ứng với trò chơi tàn ác của cuộc đời, trong đoạn kết Ginia đã nói với bạn: “Thôi mày hãy dẫn tao đi”. Tiểu thuyết “Mùa Hè Tươi Đẹp” tuy có cốt truyện gắn liền với cuộc sống rất đời thường nhưng chứa đựng nội dung sâu sắc: Nó tượng trưng cho xung đột giữa sự ngây thơ (Ginia) và sự hư hỏng, thoái hóa (Guido và Amelia). Đánh mất sự hồn nhiên của một cô gái chính là bước chuyển biến từ trạng thái hạnh phúc, rất tự nhiên của tuổi dậy thì đến một trạng thái khác, sự trưởng thành. Amelia là một nhân vật tiêu cực nhưng rất cần thiết để hoàn thành bước ngoặc này. Qua cô, Pavese đã tượng trưng cho cái chết như ông đã nhìn thấy: Tham vọng, độc ác, nhưng đồng thời cũng rất cám dỗ và mời mọc, đến nỗi nó được ủy thác để dìu dắt một cuộc đời hồn nhiên và chẳng có chút liên quan nào. Amelia, tàn ác mà quyến rũ, cuối cùng đã lôi cô vào một thế giới chưa từng quen biết. Văn phong Thời gian kể truyện ngắn hơn câu chuyện, bởi vì tác giả tóm tắt nhiều ngày trong một câu ngắn, với một nhịp điệu vừa - nhanh. Tác phẩm này được giới phê bình xem như thuộc trường phái “tự nhiên” của Cesare Pavese, nó liên hệ đến ảnh hưởng của môi trường và hiện thực lên đời sống nhân vật. Trong tác phẩm của Pavese văn phong hòa lẫn với tình huống thông qua sự xếp đặt con chữ, thả trôi theo nhịp điệu cảm xúc sống động trong tâm cảnh. Nhân vật phản ảnh tất cả những gì mình nghĩ, chuyển tải lên trang giấy bằng một cú pháp thiết yếu cấu tạo bởi những câu nói rất bình dân được nhặt nhạnh từ đời sống thường nhật, từ những lối ngắt câu trong các đoạn và từ cách dùng câu đẳng lập(2). Cách viết của Pavese trong tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” có thể bị ngộ nhận là nghèo nàn, nhưng đó là sự nghèo nàn biểu kiến. Bởi nó tương xứng với trình độ văn hóa của nhân vật và ngôn ngữ đời thường của họ. Chính nhân vật đã kể lại câu chuyện và đó mới thực là văn phong của tác phẩm. Itala Elena Pucillo Trương (TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài) __________ 1.  Tác phẩm đoạt giải thưởng Strega năm 1950. Giải thưởng STREGA là giải thưởng văn học quan trọng nhất của Italia. Được trao giải hằng năm cho tiểu thuyết hay tuyển tập truyện ngắn của các tác giả Ý. Giá trị hiện vật không nhiều nhưng giá trị tinh thần và giúp việc phổ biến tác phẩm rất lớn. Các tác giả Ý nhận được giải thưởng này có thể kể như: Cesare Pavese, Alberto Moravia, Mario Soldati, Giuseppe Tomasi di Lampedusa, Elsa Morante, Giorgio Bassani, Natalia Ginzburg, Primo Levi, Umberto Eco, Claudio Magris. Tuy nhiên cũng có những tác giả nổi tiếng sau đây lại không nhận được giải: Italo Calvino, Carlo Emilio Gadda, Leonardo Sciascia. 2. Paratassi, parataxis. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Tươi Đẹp của tác giả Cesare Pavese.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Cát - Nguyễn Quang Lập
Tình Cát tiếp tục truyện Xóm Cát đã được tác giả viết ra cách đây ba mươi năm trong tiểu thuyết Những Mảnh Ðời Ðen Trắng và kịch nói Mùa Hạ Cay Ðắng. Bộ ba tác phẩm và cặp đôi nhân vật Hoàng - Thùy Linh đã cùng Nguyễn Quang Lập băng qua Sa Mạc Trắng cuộc đời và văn chương. Ở cuốn tiểu thuyết mới này của Nguyễn Quang Lập, Hoàng đã đi hết đường trần của mình. Anh chết ở Xóm Cát. Khi đang đào bới quá khứ của mình. XC là ở quê anh. Anh đã bỏ XC mà đi. Anh đã tìm về XC. Anh đã trốn chạy khỏi XC. Và anh lại tìm về XC. Ðể tìm lại Thùy Linh. Ðể tìm lại một thời tuổi trẻ của mình. Ðể tìm lại một XC của những người dân vô tội. Ðể rồi anh chết trong cơn hoang mê đào bới XC. Trong khi những kẻ rất tỉnh bây giờ đào bới những xác chết dân lành để lập công. Hoang mê và thức tỉnh. Ngày qua và hôm nay. Chiến tranh và hậu chiến. Hoàng chết ở XC, hết đường trần, nhưng đường đời chưa hết. Vì Ly Ly đã hiện diện và biến mất trong quãng đời hiện tại của anh. XC như vậy là chuyện của hôm nay. Tôi đang ghi hai chữ XC. Ðó là viết tắt Xóm Cát. Hẳn rồi. Nhưng bạn có thể đọc XC là Xúc Cát, như Hoàng đang vật lộn với chính mình để xúc bỏ lớp cát của quá khứ đọng dày trong ký ức hòng tìm ra sự thật bị lấp vùi dưới cát, do tiếng nổ của đạn bom và sự im lặng của người đời. Bạn cũng có thể thấy XC là Xúc Cảm. Của chính Hoàng và của bạn. Truyện này của Lập rất nhiều xúc cảm, nhiều hơn những truyện khác của cùng tác giả. Nhưng XC bạn đọc hết truyện sẽ lại có thể luận là Xác Chết. Những người, và nhiều nhất là những người nữ, đã cho Hoàng sống đời mình, và họ đã chết để buộc Hoàng phải hoang mê phần đời mình còn lại. Và chết. XC đó là của chính Hoàng. Cũng là của những người đọc nào đã theo Hoàng từ hai tác phẩm trước của Nguyễn Quang Lập cho đến tác phẩm này. Vậy nên, XC là của mỗi người. Sau khi là của riêng nhân vật Hoàng (và trong Hoàng là Thùy Linh). Sau khi là của tác giả Nguyễn Quang Lập. Với tôi, XC ngoài những điều trên, còn là Xưa Cũ, Xin Chịu, Xót Cùng. Và Nguyễn Quang Lập, bộ ba tác phẩm và cặp đôi nhân vật, bạn đã Xem Chưa? XC! Phạm Xuân Nguyên *** Một cuốn tiểu thuyết viết về thời hậu chiến, nhưng gương mặt đầy máu của cuộc chiến vẫn hiện nguyên hình. Nó nằm sâu trong vùng ký ức của người lính như Hoàng. Những cơn mê quăng Hoàng vào quá vãng, để rồi không phân biệt được người lính đó đã sống ở “thì” nào. Nhiều lúc Hoàng muốn thoát ra khỏi vũng lầy quá khứ đó, nhưng càng vùng càng lún sâu, đến nỗi đời sống thực của Hoàng không còn là thì hiện tại. Nói như Ly Ly, “Tại sao phải chia động từ ra ba thì mới gọi là sống? Mình đang sống còn Hoàng thì đã sống, khác gì nhau nào, ai điên ai tỉnh đây?”. Có một thứ gì đó như ma ám được sinh ra từ chiến tranh, khiến cho con người thời hậu chiến cứ mê mê, tỉnh tỉnh. Mặc dù chiến tranh đã lùi xa bốn mươi năm, nhưng vẫn chưa tỉnh cơn mê. Không ám ảnh sao được. Ðọc Tình Cát của Nguyễn Quang Lập, tự nhiên thấy sợ hãi chiến tranh như nó vừa dứt hôm qua để lại ngổn ngang xác chết. Những cái chết của Lý, của Nụ, của Lương, của thằng Béo, của anh Chiến lái xe, của thằng Rú, thằng Rí, con Ri, của ông Ro, chị Rá. Mỗi người một số phận, một bi kịch. Mỗi người được đặc tả một kiểu chết, kinh hoàng và thê thảm đến nghẹt thở. Nguyễn Quang Lập dày công “xây dựng” những cái chết đọc mà thấy rùng mình run rẩy. Nhưng có lẽ, hiện thực chiến tranh còn dữ dội hơn nhiều, hiện thực đó vượt qua sự tưởng tượng của nhà văn. Cũng như cái xóm Cát với 11 nóc nhà đã bị lãng quên. Ðịnh mệnh giao cho họ nhận lấy trách nhiệm của cuộc chiến, giữ một kho xăng mặc dù không ai cần đến và nhớ tới, để rồi những con người vô tội đó chết cháy trên trảng cát nóng rát lửa xăng, có người chết rồi lửa vẫn trào ra xèo xèo trong miệng. Còn nhiều thôn xóm và thân phận bị lãng quên khác như quy luật vô tình của chiến tranh. Xóm Cát chỉ là một điển hình để nhắc nhớ về sự vô tình đang tồn tại. Sự vô tình đó biến hóa, nhập vào những kẻ có quyền lực để chúng trở thành những bóng ma thời hậu chiến. Cái ác thêm một lần nữa chiến thắng khi quyền lực rơi vào tay những kẻ ngu ngốc như Chủ Tịch Huyện và lưu manh như Phó Chủ Tịch Văn Xã. Và cái ác chiến thắng khi người tận trung với cuộc chiến tranh như Xê Trưởng phải chịu án tử hình. Bất lực trước cái ác, nỗi ám ảnh chiến tranh như lớn hơn trong tâm trí của Hoàng, để anh tìm đến cái chết thê thảm như những cái chết đã từng ám ảnh anh. Chỉ thêm hai chữ để nói về nghệ thuật của Tình Cát: Văn hay. Lê Thanh Phong Mời các bạn đón đọc Tình Cát của tác giả Nguyễn Quang Lập.
Huynh Đệ - Dư Hoa
Cuốn tiểu thuyết Huynh đệ của nhà văn Dư Hoa, được giới phê bình Trung Quốc ví như một cơn lốc bởi sự hấp dẫn của gần 400 ngàn chữ cũng như ý tưởng quyết liệt của tác giả thử thách đến tận cùng nhân tính con người. Muốn trải qua hai thời đại một trời một vực như thế, một người phương Tây phải sống đến 400 năm, một người Trung Quốc chỉ cần 40 năm đã trải qua rồi. Vô vàn những biến động trong 400 năm được cô đúc, dồn nén trong 40 năm, đó là một quá trình từng trải hết sức quý giá. Mắt xích gắn kết hai thời đại chính là hai người anh em huynh đệ này, cuộc đời họ rạn nứt trong sự rạn nứt, buồn vui, họ nổ bùng trong sự bùng nổ, số phận họ cũng long trời lở đất giống như hai thời đại này và cuối cùng họ tất sẽ phải nuốt lấy hậu quả từ những ân oán đan xen chồng chéo. Huynh đệ xoay quanh cuộc đời Lý Trọc, cậu bé mất cha khi chưa chào đời và tuổi thơ ấu khốn khổ trong cách mạng văn hoá. Lý Trọc bất hạnh từ bé, không bao giờ biết mặt cha, lên 5 thì mẹ cậu - công nhân nhà máy tơ tên Lý Lan - đi bước nữa với thầy giáo Tống Phàm Bình. Hạnh phúc ngắn ngủi của hai người nhanh chóng tan như bọt xà phòng bởi cách mạng văn hoá. Cũng vì thế Lý Trọc và Tống Cương (con riêng của Tống Phàm Bình) vướng họa từ thuở lên 8. Bố bị bắt đi đấu tố vì lý lịch con nhà địa chủ, mẹ đi Thượng Hải chữa bệnh không biết họa nhà. Tống Phàm Bình yêu vợ thương con, trong nhà giam chịu đòn roi vẫn đều đặn viết thư động viên vợ yên tâm chữa bệnh. Hai đứa trẻ thần tượng bố, nhưng cuối cùng chính chúng phải chứng kiến cái chết thảm khốc của bố dưới gót giày hồng vệ binh. Cũng trong những nỗi đau cùng kiệt của kiếp người, một tình yêu lớn lao và đẹp cổ điển của họ đã ở lại cùng bạn đọc: Tống Phàm Bình hứa với Lý Lan, khi nào vợ khỏi bệnh chính anh sẽ đến Thượng Hải đón vợ. Trốn khỏi nhà giam của hồng vệ binh, Phàm Bình ra bến xe khách mua vé, anh bị chặn đánh nhưng vẫn cố nhoài người mua được vé và chỉ tắt thở khi chuyến xe cuối cùng đi Thượng Hải chạy khuất. Hai đứa trẻ tám tuổi phải bám chân van lạy những người qua đường chở xác cha về nhà. Còn Lý Lan chờ chồng cả ngày trước cửa bệnh viện mà không thấy, chị không dám ngủ, không dám ăn vì sợ chồng qua mà không thấy. Hôm sau, chị đi xe về một mình, chị không tin chồng đã chết, chị không khóc, chị tắm rửa cho chồng, nằm gối đầu lên ngực chồng ngủ qua đêm, gói những hạt bùn đen dính máu chồng vào tấm vải lụa, hôm sau mới đi mua quan tài khâm liệm tiễn chồng. Chị để tang chồng bằng mái đầu 7 năm không gội, để rồi đến khi gội xong thì mái tóc hoá bạc trắng và chị vui mừng khi thấy sức mình sắp kiệt, vì sắp được đến bên chồng. Hai anh em Lý Trọc và Tống Cương lớn lên trong tất cả những bạo lực, nhiễu nhương và chứng kiến những người thân lần lượt ra đi trong bi phẫn. Mỗi đứa mỗi tính, Tống Cương hiền lành, giống bố vì đạo nghĩa, sẵn sàng hy sinh cho em. Còn Lý Trọc thông minh, tinh quái, 14 tuổi đã nổi tiếng thị trấn vì tội rình xem mông đàn bà. Nhưng cũng vì thế, Lý Trọc là người được ăn nhiều nhất món mì Dương Xuân thượng hạng tại thị trấn, vì cậu biết tận dụng cái bí mật mông Lâm Hồng để bán cho những gã đàn ông háo sắc và biến thái. Chúng đã lớn lên trong sự bi đát nhất của con người, từng nhìn thấy quá nhiều sự hắt hủi của con người với đồng loại như mất hết nhân tính. Nhưng chúng vẫn trọng đạo nghĩa làm người và bắt đầu một cuộc sống khác. Trong Huynh đệ, Dư Hoa đã đẩy nhân vật của mình đến tận cùng của những bi kịch xã hội, để rồi họ phải tự xử lý cuộc đời mình theo những lối đi riêng. Nhà phê bình nổi tiếng Trung Quốc Lý Cật nhận xét: "Trong sáng tác tiểu thuyết trào lưu mới, thậm chí trong toàn bộ nền văn học Trung Quốc, thì Dư Hoa là một người kế thừa và phát triển tinh thần Lỗ Tấn tiêu biểu nhất." *** Cuốn sách gồm hai tập, xuất bản vào năm 2005, 2006 và đã bán ra được gần 1 triệu bản – một con số không hề khiêm tốn tại đất nước mà nạn copy sách diễn ra tràn lan và độc giả hoàn toàn có thể download tiểu thuyết miễn phí một cách dễ dàng từ Internet. Trung Quốc trong tưởng tượng của Dư là một phiên bản đầy khôi hài của thế giới thực tại. Đó là một xã hội điên đảo, không luân lý, không luật pháp, nơi mà những trò tham nhũng, cờ bạc, đĩ điếm và buôn gian bán lận là chuyện thường ngày ở huyện. Cuốn tiểu thuyết nhận được nhiều lời chỉ trích khá nặng nề. Một số nhà phê bình tỏ ý thất vọng khi Dư Hoa - một trong những tác giả đáng kính nhất tại Trung Quốc hiện nay - lại sản xuất ra một tác phẩm đáng gọi là rác rưởi và mang đầy hơi hướng, kiểu cách Hollywood như vậy. Tuy nhiên, không ít người lên tiếng tán dương cuốn sách, coi đây là một bức tranh sống động về một xã hội Trung Quốc ngày càng thực dụng, buông thả và mất thăng bằng. "Về cơ bản, tôi không đồng ý với các nhà phê bình. Đây là một tác phẩm lớn và Dư Hoa là một trong những nhà văn Trung Quốc đương đại tài năng nhất”, Liu Kang, giáo sư Đại học Duke tại Bắc Carolina, nhận xét. Dư Hoa năm nay 46 tuổi. Dáng người ông thấp đậm, trông trẻ hơn so với tuổi thực. Ông sở hữu mái tóc dày, đen và nụ cười hài hước thường trực. Nhà văn cũng thường xuyên hút thuốc. Trông ông, người ta dễ nhầm với một công nhân hơn. "Những câu chuyện tôi kể hơi cực đoan, nhưng bạn hoàn toàn có thể tìm thấy chúng tại Trung Quốc”, tác giả tâm sự trong một cuộc phỏng vấn tại Bắc Kinh, nơi ông đang sống cùng vợ và đứa con trai 12 tuổi. Dư cho biết, tác phẩm của ông bắt rễ từ mảnh đất nơi ông được sinh ra. Ông sinh năm 1960 tại thị trấn nhỏ ở Hàng Châu trong một gia đình có cả bố và mẹ đều là bác sĩ. Mời các bạn đón đọc Huynh Đệ của tác giả Dư Hoa.
Giây Thứ 12 - Sunness
Một ngày nọ, người vợ đang mang thai sáu tháng của cảnh sát hình sự Triệu Diệc Thần là Hồ Gia Anh gọi điện thoại đến báo án. Cuộc gọi tiến hành đến giây thứ mười một thì đột nhiên kết thúc, Hồ Gia Anh cũng mất tích từ lúc đó. Trong quá trình điều tra, Triệu Diệc Thần phát hiện tất cả những giấy tờ chứng minh thân phận của vợ mình đều là giả, manh mối cũng vì thế mà đứt đoạn. Chín năm sau, anh nhận được một cuộc gọi kì lạ, sau đó không lâu hòm thư trước nhà lại nhận được hai tấm ảnh, trong ảnh là là người vợ đã mất tích nhiều năm của anh và một cô bé có gương mặt rất giống anh. Anh lần theo cuộc gọi đó mà tìm đến nhà của một người xa lạ, đợi chờ anh ngoài một khoản di sản lớn thì còn có tin vợ mình đã qua đời từ năm ngoái, và một cô con gái mắc chứng trầm cảm mà mất khả năng ngôn ngữ... Trong 9 năm đằng đẵng đó, đã xảy ra chuyện gì? Ngoài ra, bí mật trong quá khứ nào được người vợ xinh đẹp, thông minh chôn giấu? Đứa trẻ đó... vì sao? *** Trích dẫn hay: “Trên đời này chỉ có tự vệ và lương thiện là không cần có lí do.” "Nếu chưa từng trải qua đêm tối, sẽ không bất chấp tất cả mà lao về phía nguồn sáng." “Đừng lấy sai lầm của người khác làm lí do phạm sai của mình.”  *** Đầu năm 1987, cơn rét đổ xuống phía nam, đụng độ với luồng khí nóng từ duyên hải tràn vào, tạo thành thời tiết hồi Nam ở các thành phố miền Nam. Trời chưa sáng Hứa Hàm đã mở mắt, hất mở tấm chăn ẩm mốc, lay ông lão bên cạnh thức dậy. Ông chính là ông lạo đã cõng cô vào trong thành phố xin ăn khi cô bị con chó mực cắn bị thương, ông họ Mã, các ăn mày khác đều gọi ông là Già Mã. Lúc đó Lão Mã nhân lúc Hứa Hàm còn chút hơi tàn, suốt ngày đưa cô đến những nơi đông người để xin ăn. Có một lần gặp phải cảnh sát, các sinh viên trên phố bắt đầu bỏ chạy tán loạn, Già Mã cũng chạy, gói ghém đồ đạc rồi chạy, chỉ bọ lại đứa "cháu nội" sống sờ sờ là Hứa Hàm. Hứa Hàm nằm yên bất động trên mặt đất, cô không động nổi. Có người đạp qua người cô, có bàn dẫm lên cánh tay cô, nhưng vẫn chưa đạp chết cô. Cô thoi thóp với hơi thở cuối cùng đó, mở to mắt, nhìn bày trời trong xanh và con người màu đen. Sau đó cảnh sát đã đi xa, đám sinh viên đã chạy sạch, Già Mã quay trở lại. "Nhóc còn, vẫn còn thở à?" Ông ngồi xuống bên cạnh cô, trong tay cầm một miếng bánh, vừa đánh giá dáng vẻ bán sống bán chết của cô, vừa há to miệng ngấu nghiến bánh. Vụn nhân trong bánh rơi, đập lên mặt Hứa Hàm, lại rơi xuống mặt đường trải nhựa. Hứa Hàm không rên lấy một tiếng. Già Mã nuốt xong cái bánh, nhặt chỗ vụn nhân đậu xanh lớn có nhỏ có, nhét vào trong miệng đang hé mở của Hứa Hàm. Từ đó về sau, mỗi lần ông mua bánh về, đều chia cho cô một mẩu nhỏ. Ông thích ăn bánh có nhân, nhân bắp cải. ... Mời các bạn đón đọc Giây Thứ 12 của tác giả Sunness.
Đoạn Tình - Hồ Biểu Chánh
Một trong những yếu tố làm nên sự thành công của Đoạn Tình chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Thuần là chủ một hãng xe lớn ở Sài Gòn, anh ta lập hãng xe là vì thất chí trước hoàn cảnh xã hội và có vợ sớm vì muốn sống trong hạnh phúc gia đình. Tuy đã từng học ở nước ngoài nhưng Thuần không thích lối sống kim tiền của bạn bè. Hòa là vợ Thuần tánh hay ghen, thường làm phật ý chồng. Vân là bạn học và rất thân thiết của Hòa. Vì đã bị hồi hôn nên Vân nhứt quyết không lấy chồng và thích làm chuyện xã hội. Nhân một chuyến lên Sài Gòn thăm bạn, Vân gặp Thuần. Hai người thấy mình có những suy nghĩ rất hợp với nhau. Nhưng Thuần vì hạnh phúc gia đình nên tìm đủ mọi cách tránh gặp Vân để khỏi gây rắc rối tình cảm. Câu chuyện xảy ra chung quanh ba nhân vật nầy và sau cùng đưa đến việc đoạn tình? *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Đoạn Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.