Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bánh Xe Nghiệt Ngã

Tiểu thuyết “BÁNH XE NGHIỆT NGÔ của tác giả PHI TRƯỜNG đưa bạn đọc đi sâu vào một cơ sở sản xuất của nền công nghiệp hiện đại Hoa Kỳ, hé cho ta thấy bí quyết thành công của nó : những giám đốc năng nổ, tháo vát làm việc mười hai mười bốn tiếng một ngày, những kỹ sư tận tụy yêu nghề luôn tìm cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất để nâng cao chất lượng sản phấm, tổ chức lao động chặt chẽ trong nhà máy mẹ kết hợp với hệ thống xí nghiệp vệ tinh qui tụ những tay nghề cao, bộ máy quảng cáo và dịch vụ thương mại rộng khắp thuận tiện cho người tiêu dùng… Đồng thời tác giả cũng phanh phui những mâu thuẫn đang ngáng trở nền sản xuất lớn tư bản. Chủ nghĩa phát triển thậm chí có nguy cơ sa sút : sự cạnh tranh tàn nhẫn giữa các công ti cá mập, nạn ô nhiễm môi trường sống, tệ phân biệt chủng tộc và nạn mafia có mặt khắp nơi dùng khủng bố tàn bạo để bòn rút công nhân, số đông người lao động bần cùng nổi giận… Qua câu chuyên xoay quanh một nhà máy sản xuất ôtô lớn với nhiều gương mặt rất khác nhau, chủ tịch công ty, quản đốc phân xưởng, công nhân bình thường, da trắng và da đen, những cặp vợ chồng chung thủy và những cô nhân tình quí phái… bạn đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang kỳ diệu nhưng đầy lo lắng của một hình thái kinh tế xã hội đang tìm cách thích nghi để tồn tại. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như: Bản Tin Chiều Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng Phi Trường Tập 1 Phi Trường Tập 2 Nhà Băng Khách Sạn Phi Trường (Người dịch: DgHien) Bánh Xe Nghiệt Ngã ... *** Chủ tịch hãng Động Cơ Thông Dụng bực mình, cả đêm qua mất ngủ : chiếc chăn điện trở chứng liên tục và mỗi lần như thế ông lại thức giấc vì lạnh. Lúc này vẫn mặc bộ đồ ngủ, choàng áo khoác, ông rón rén đi lục tìm khắp ngôi nhà vắng lặng rồi mang bầy lên nửa còn lại của chiếc giường lớn nhiều thứ dụng cụ đồ nghề, bắt đầu tháo bộ phận điện trong khi Côrali vợ ông vẫn còn ngủ. Ông phát hiện ngay chỗ tiếp xúc kém. Vừa cằn nhằn các tay sản xuất chăn điện làm ẩu, ông mang xuống xưởng riêng dưới hầm để sửa. Người vợ vươn vai. Chỉ vài phút nữa đồng hồ báo thức sẽ đánh chuông. Lúc ấy bà mới dậy lo bữa điểm tâm trong khi vẫn còn ngái ngủ. Ở thị trấn Blumfin Hin cách Đitơroi mười lăm kilômét này bây giờ vẫn còn tối. Sáng sớm hôm đó chủ tịch hãng ĐCTD, người khô khan, cử chỉ lanh lẹn nhưng bản tính nói chung điềm tĩnh có hai cớ để bực mình : chiếc chăn điện tất nhiên là một, còn một nữa là cách xử sự rất đáng giận của Imơcxơn Vên. Mấy phút trước đây qua chiếc đài bán dẫn đặt trên bàn ngủ mở thầm đủ nghe ông đã nhận ra giọng nói chua ngoa quen thuộc và dễ ghét của nhà “phê phán xe hơi” cỡ lớn này. Bữa qua trong cuộc họp báo ở Oasinhtơn một lần nữa Imơcxơn Vên lại công kích ba người đáng ghét nhất xưa nay của lão : Động Cơ Thông Dụng, Fo và Craixlơ. Lên án ba ông Lớn về tội “tham lam, tụ tập bè đảng lưu manh, bội tín, cưỡng đoạt tiền của dân chúng”. Vì ba Ông Lớn đã hoàn toàn thỏa thuận cùng nhau ngăn cản việc phát triển loại xe “sạch sẽ” thay cho xe chạy xăng, loại xe chạy hơi nước hoặc chạy điện là những loại Vên cho rằng “đã sẵn sàng lăn bánh”. Lời buộc tội chẳng có gì mới. Nhưng Vên vốn rất khôn khéo trong sự giao tiếp với công chúng và giới báo chí nên đã lồng vào lời tuyên bố những tư liệu mới làm nó có giá trị thông tin, thu hút được người đọc. Vị chủ tịch hãng công nghiệp lớn nhất thế giới tốt nghiệp kĩ sư một trường nổi tiếng ngồi sửa bộ phận hâm nóng của chiếc chăn điện với niềm vui thích thường thấy khi có thì giờ làm các việc trong gia đình. Rồi ông đi tắm, cạo mặt, bận quần áo, tới dùng bữa sáng với Côrali. Trên bàn ăn có tờ Đitơroi Tự Do. Vừa trông thấy tên và ảnh Imơcxơn Vên in trên trang nhất ông chửi thề và quăng tờ báo xuống đất. Côrali đặt trước mặt chồng các món của bữa điểm tâm theo chế độ “chống tăng côléttêrôn” : bánh mì nướng không phết bơ, lòng trắng một quả trứng luộc, cà chua xắt khoanh, fomát trắng. Sáng nào vợ ông chủ tịch ĐCTD cũng tự tay soạn bữa ăn đầu tiên này và cùng ăn với chồng mặc dầu chồng phải đi làm sớm. Côrali ngồi xuống trước mặt chồng, nhặt tờ báo mở ra và nói : “Theo Imơcxơn Vên, chúng ta đã có đủ trình độ kỹ thuật để đưa người lên mặt trăng hoặc sao Hỏa thì ngành kỹ nghệ xe hơi cũng phải cho ra được loại xe hoàn hảo, không có khuyết điểm gì và không gây ô nhiễm không khí”. Người chồng đặt khăn xuống. “Định làm tôi ăn mất ngon đấy à ? Bữa ăn đã chẳng có gì lại còn…” Người vợ tủm tỉm cười. “Em thấy hình như anh đã hết ngon miệng rồi thì phải ! Ông Vên còn trích dẫn Kinh thánh nói về ô nhiễm nữa cơ. - Lay Chúa Kitô ! Kinh thánh nói gì về cái đó được ! - Không phải Chúa Kitô đâu. Đoạn này trích trong kinh Cựu Ước. - Thì đọc đi vậy. Đằng nào bà cũng định đọc”. Người chồng lầu bầu, vẻ tò mò muốn biết. “Thánh Giêrêmi: Ta cho ngươi tới xứ sở xanh tươi như một khu vườn để các người được ăn những trái quả tươi ngon nhất. Nhưng sau khi đến các người đã làm ô trọc xứ sở của ta, biến gia tài của ta thành thứ ghê tởm.” Bà rót cà phê vào tách. “Em thấy tay ấy viết khá tài tình”. - Chẳng ai cho cái thằng đểu ấy là kém thông minh. Người vợ đọc tiếp. “Ngành kỹ nghệ xe hơi và dầu mỏ đồng tình kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đáng lẽ từ lâu đã dẫn đến việc phát minh ra xe chạy điện hoặc hơi nước. Lập luận của họ rất đơn giản : loại xe này sẽ biến thành số không toàn bộ khoản tiền khổng lồ đầu tư vào loại động cơ đốt trong đang đầu độc khí quyển”. Bà đặt báo xuống. “Bài này có gì đúng sự thật không ? - Rõ ràng Vên cho tất cả những điều ấy là đúng. - Anh thì không ? - Nhất định không. - Không có một tí nào ? - Đôi khi có thể thoang thoảng tí chút sự thật trong một lời tuyên bố ngoa ngoắt. Chính bằng cách đó mà những kẻ như Imơcxơn làm ra vẻ mình có lý”. Người chồng đáp lại, vẻ bực bội. - Anh sẽ bác bỏ những điều lão nói chứ ? - Có lẽ không. - Sao vậy ? - Vì nếu Động Cơ Thông Dụng nện Imơcxơn, người ta sẽ lên án cái Hãng lớn như thế mà đi đè bẹp một cá nhân tầm thường. Nếu không đập lại thiên hạ cũng sẽ nguyền rủa bọn anh, nhưng dù sao họ không thể trích dẫn lời bọn anh để xuyên tạc. - Sao không để một người nào khác đập lại ? - Nếu có tay nhà báo kha khá nào đó đụng đến Hăngri Fo xem, có lẽ ông ta sẽ trả miếng - ông mỉm cười - có điều là Hăngri sẽ nói toạc móng heo và sẽ không công bố lời ông ta được. - Ở địa vị anh, có lẽ em sẽ nói một cái gì. Tất nhiên nếu em tin chắc mình có lý. - Cám ơn lời khuyên của em. Vị chủ tịch ĐCTD chấm dứt bàn cãi ngồi ăn xong bữa. Nhưng cuộc tranh luận với những lời châm chọc cố tình mà Côrali cho là thỉnh thoảng đưa ra sẽ bổ ích cho ông, đã làm tiêu tan nỗi bực dọc từ sáng. Ông nghe phía ngoài cửa bếp bước chân người hầu gái đang vào. Như vậy là lái xe đón cô ta dọc đường đã về và đang đợi ông dưới kia. Ông đứng lên, ôm hôn vợ. Mấy phút sau, khoảng sáu giờ sáng chiếc Cađilắc chở ông theo đường Têlêgráf đi về phía đường FriUê và khu trung tâm. Vào một sáng tháng mười trong trẻo có từng cơn gió tây bắc báo hiệu mùa đông đang về. Thành phố Đitơroi bang Misigân, thủ đô thế giới của công nghiệp xe hơi bắt đầu tỉnh giấc. Ở Blumfin Hin, cách nhà ông chủ tịch ĐCTD mười phút đi bộ, phó chủ tịch hãng Fo cũng đang sửa soạn ra sân bay Mêtrôpôlitên của thành phố. Ông đã dùng xong bữa sáng, một mình. Người nữ nhân viên phục vụ bưng khay thức ăn vào tận văn phòng chiếu sáng yếu ớt trong đó ông ngồi đọc các bản báo cáo từ năm giờ sáng (phần lớn các báo cáo đều viết trên loại giấy xanh đặc biệt mà văn phòng phó chủ tịch dùng cho các văn kiện về thực hiện đề án mới) và ghi vào băng từ những chỉ thị rõ ràng, chính xác. Gần như ông không ngẩng lên nhìn khi bữa điểm tâm được mang vào và cũng chẳng nhìn xem mình đang ăn gì. Trong có một giờ ông làm xong khối công việc người khác phải làm trong cả một ngày hoặc hơn nữa mới xong. Phần lớn các quyết định xoay quanh việc xây dựng thêm xưởng máy mới hoặc mở rộng những nhà máy hiện có, tốn kém hàng mấy tỉ đô la. Phó chủ tịch ngoài nhiều nhiệm vụ khác, có trách nhiệm phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề án được đệ trình và định thứ tự ưu tiên. Hôm có người hỏi ông phê duyệt những khoản lớn như vậy có thấy run tay không, ông đáp lại : “Không, bởi vì bao giờ tôi cũng thầm bỏ bớt ba chữ số cuối. Thành ra cũng không khó hơn khi cân nhắc mua một ngôi nhà”. Câu trả lời rõ ràng, bật ra rất nhanh, nói lên bản lĩnh của người vốn là anh bán xe xoàng xĩnh chỉ trong thời gian kỉ lục đã trở thành một trong mười hai ông chủ có quyền quyết định trong vương quốc xe hơi. Cũng chính cách làm ăn kiểu đó giúp ông trở thành siêu triệu phú. Vấn đề cần xem xét là sự tiến bộ và sự giàu sang có đáng với cái giá phải trả không. Phó chủ tịch làm việc mỗi ngày mười hai có khi mười bốn tiếng, thường là bẩy ngày trong một tuần với nhịp độ dồn dập. Như ngày hôm nay, trong lúc phần đông dân thành phố còn đang ngủ ông đã phải lên máy bay riêng của hãng bay đi NiuYoóc, trong lúc ngồi trên máy bay ông tranh thủ nghiên cứu thị trường với các nhân viên dưới quyền, vừa đến nơi phải chủ tọa ngay cuộc họp với các giám đốc địa phương cũng về vấn đề đó. Cuộc họp vừa xong ông phải tranh cãi gay gắt với hai mươi đại lý bang NiuGiơdi về việc bảo hành và các dịch vụ hậu mãi. Sau dó đến Manhattan dùng bữa trưa với một nhóm chủ ngân hàng, đọc một bài diễn văn. Rồi họp báo, đương đầu với các phóng viên. Buồi trưa trở về Đitơroi cũng bằng chiếc máy bay đó, ông có nhiều cuộc gặp gỡ để giải quyết công việc thường lệ cho đến bữa chiều. Trong ngày, vào một lúc nào đó chưa sắp xếp được, phải đưa đầu cho thợ đến tận nơi cắt tóc. Bữa tối ăn trên sân thượng sẽ được điểm xuyết bằng cuộc trò chuyện với người phụ trách các ban quan trọng về kiểu xe mới. Cuối cùng sẽ đến vĩnh biệt một đồng nghiệp mới từ trần tối qua vì nghẽn động mạch vành, (tại nhà thờ tang lễ Hêminhtơn, một chặng trên con đường đưa các ông Lớn ngành xe hơi tới nghĩa trang Út Lên). Sau tất cả những việc đó cuối cùng phó chủ tịch mới được về nhà ôm theo chiếc cặp căng phồng hồ sơ phải nghiên cứu để chuẩn bị cho ngày mai. Lúc này ông đẩy khay điểm tâm ra xa, thu gom giấy từ rồi đứng lên. Bốn bức tường của phòng làm việc đều có giá xếp đầy sách. Đôi khi, vào những buổi không bận rộn tối tăm mắt mũi như sáng nay ông ném lên chúng một cái nhìn tiếc nuối và thèm muốn. Vì nhiều năm trước đây có một thời ông đọc rất nhiều. Có thể ông đã trở thành sinh viên nếu đời ông đi theo hướng khác. Bây giờ thì không có thì giờ đọc sách nữa. Ngay cả việc đọc tờ báo hàng ngày cũng phải rình chộp thời cơ tranh thủ liếc thật nhanh. Nên ông cầm tờ báo còn nguyên nếp gấp khi nhân viên phục vụ mang tới và nhét luôn vào cặp. Vì thế mãi sau ông mới biết những lời công kích mới nhất của Imơcxơn Vên và nguyền rủa hắn như những người khác trong ngành xe hơi đã nguyền rủa từ sớm. Tại sân bay ban tham mưu cùng đi với ông đã tề tựu trong phòng đợi của đoàn Vận chuyển hàng không Hăngri Fo. Ông ra lệnh giọng khô khan. “Lên đường”. Động cơ chiếc Jết Xta bắt đầu chạy, trong lúc cả đoàn tám người lên máy bay. Những người lên sau chưa kịp đeo dây an toàn máy bay đã lăn bánh. Chỉ những người thường đi máy bay riêng mới thấy rõ cái lợi về tiết kiệm thì giờ so với đi máy bay công cộng. Máy bay lăn nhanh ra đường băng cất cánh trong lúc mọi người mở cặp đặt trên đầu gối. Phó chủ tịch mở đầu ngay cuộc thảo luận. “Kết quả thu được ở khu vực đông bắc mấy tháng gần đây không được khả quan. Các ông đều đã nắm được số liệu, cũng như tôi. Tôi đòi hỏi sự giải thích tình hình đó. Và muốn biết những biện pháp nào đã được thi hành”. Ông vừa nói xong thì máy bay cất cánh. Phía chân trời vầng dương đỏ quạch nhô dần, sáng lên giữa những đám mây xám trôi rất nhanh. Dưới cánh máy bay đang nâng độ cao, ánh sáng ban mai làm nhìn rõ thành phố và các vùng phụ cận trải dài. Khu trung tâm Đitơroi, ốc đảo vuông mỗi cạnh một cây số giống như một Manhattan thu nhỏ; tiếp liền sau đó là những héc ta đường phố buồn tẻ, nhà cao tầng, nhà máy, nhà ở, phần lớn cáu bẩn. Một thành phố công nghiệp dơ dáy phát sợ vì không chịu vung tiền cho công việc quét dọn vệ sinh. Phía tây thành phố, Điếcbơn sạch sẽ xanh tươi hơn, tận cùng bằng tổ hợp công nghiệp khổng lồ của LơRu. Ngược lại ở đầu phía đông, khu Mũi Lớn, phô những rặng cây thẳng tắp : đó là thiên đường của những kẻ giầu có. Phía Nam là khu công nghiệp Vianđốt mù mịt khói; đảo Bel-In nép sát bờ sông Đitơroi như chiếc sà lan mầu rỉ đồng chở khẳm. Bờ sông bên kia là lãnh thổ Canada, thành phố Oaixo cũng xấu xí cũng gớm ghiếc không kém Đitơroi trên đất Mĩ. Và trên khắp mọi miền, ánh sáng ban ngày làm nổi rõ mật độ giao thông dầy đặc trên mạng đường sá. Hàng vạn con người như đàn kiến cỏ (hoặc đàn chuột len-mút tùy theo cách nhìn từng người) gồm thợ thuyền, nhân viên, viên chức lũ lượt kéo nhau bước vào một ngày sản xuất mới trong vô vàn xí nghiệp lớn nhỏ. Đitơroi kiểm soát và điều khiển nền sản xuất xe hơi của cả nước, nên khi ngày làm việc bắt đầu thì nhịp xuất xưởng lập tức hiện trên tấm bảng lớn đặt tại điểm giao thông lộ các con đường đi tới Fo và tới Craixlơ, những con đường đầy ứ xe. Nhờ sử dụng một hệ thống thống nhất trong cả nước, từng phút một số lượng xe xuất xưởng trong năm hiện lên bằng những con số cao một mét rưỡi trên bảng. Mỗi khi có thêm một dây chuyền khởi động thì tổng số lại tăng lên. Lúc này đã có hai mươi chín nhà máy trong vùng đông bắc làm việc, gửi số liệu lên bảng, số liệu tăng vọt sau khi mười ba xưởng lắp ráp của trung tâm tây và sáu xưởng của Califoócnia khởi động. Những người chạy xe trên đường nhìn tấm bảng với tâm trạng của người bác sĩ nhìn số đo huyết áp, của kẻ đầu cơ chứng khoán khi nhìn bảng giá ở ngân hàng. Có những người còn cá cược nhau về tổng số lúc sáng, lúc chiều. Những xưởng gần nhất cách đây khoảng 1,5km là của Craixlơ, nói chính xác là các xưởng Đốt và Plai-mao mỗi giờ cho ra hơn trăm xe. Trước đây viên chủ tịch hội đồng quản trị của Craixlơ thỉnh thoảng đến giám sát việc bắt đầu chế tạo một sản phẩm mới và tự mình thử khi sản phẩm ra đời. Gần đây ít khi ông làm thế. Buổi sáng hôm đó ông vẫn còn ngồi nhà đọc từ nhật báo Phố Uôn và uống ly cafê do vợ pha trước khi bà đi dự cuộc họp Hiệp hội Nghệ thuật. Hồi đó ông tổng giám đốc hãng Craixlơ (mới nhậm chức chủ tịch gần đây) tất bật chạy ngược chạy xuôi khắp nhà máy không hề mệt mỏi, phần vì nhà máy thiếu máu đang rất cần một giám đốc năng nổ, phần khác là vì bản thân ông đang muốn dứt khoát dứt bỏ cái nhãn “kế toán” người ta thường gán cho những người ngoi lên theo con đường của ngành tài vụ chứ không qua ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên thương mại. Dưới quyền ông, hãng đã trải qua nhiều bước thăng trầm : sáu năm thịnh vượng gây được lòng tin cho các cổ đông tiếp theo là sáu năm sa sút đến mức báo động. Sau đó bằng những cố gắng ghê gớm và những tiết giảm khắc nghiệt hãng đã vượt qua cơn hiểm nghèo, khiến có người cho rằng chưa bao giờ hãng hoạt động tốt bằng trong thời kì khó khăn. Tuy nhiên thời khó khăn đã qua, không ai cho rằng chiếc Pentátta đời mới nhất của Craixlơ có thể lại mất cái vị trí nó đã chiếm được. Vị chủ tịch có thể rảnh rang một chút, suy nghĩ nhiều hơn, đọc những thứ thấy thích đọc. Lúc này ông đang đọc bài của Imơcxơn Vên; bài đăng trên nhật báo Phố Uôn có phần kín đáo hơn trên từ Đitơroi Tự do. Nên làm ông chán ngấy, ông thấy lời chỉ trích của lão cùn mòn, không có bản sắc. Nên ông chỉ lướt qua rồi chuyển qua mục bất động sản có sức thuyết phục hơn. Không mấy người biết ít lâu nay Craixlơ đang chăm lo xây dựng một vương quốc bất động sản, trước mắt làm cho hoạt động kinh doanh của công ti phong phú hơn, và sao lại không ? trong vài thập kỷ nữa sẽ đưa “số ba” lên ngang hàng hoặc cao hơn Động Cơ Thông Dụng. Trong khi chờ đợi ngày đó, vị chủ tịch hài lòng ghi nhận nhịp độ sản xuất trên mức khả quan của các nhà máy Craixlơ. Như vậy đó, sáng nay cũng như tất cả các buổi sáng, Ba Ông Lớn vật lộn ráo riết để giữ vững ngôi thứ của mình trong khi một hãng khác ở bang Uýtcơnxin, hãng Động Cơ Mĩ bé nhỏ hơn cũng góp vào dòng lũ xe hơi này một phần tuy ít ỏi hơn nhưng hiện đại hơn. Mời các bạn đón đọc Bánh Xe Nghiệt Ngã của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hơi Thở Cuối Cùng
Review godylevol: Điểm: 7/10 Thứ tự đọc các cuốn trinh thám của Robert Dugoni (đã dịch sang tiếng Việt) là Căn Hầm Tối, Hơi Thở Cuối Cùng, Trảng Đất Trống, Mắc Kẹt, nhưng Biển thì đọc lung tung tùy hứng, sau khi đọc hết mấy cuốn kia thì đến giờ mới đọc Hơi Thở Cuối Cùng. Trong quyển “Căn Hầm Tối” có đề cập một chút đến vụ án cô vũ công Nicole Hansen, vốn được phân công cho phòng ban của Tracy Crosswhite. Khi Tracy trở về Cedar Grove để điều tra lại vụ mất tích của cô em gái Sarah Crosswhite thì vụ án Nicole được xếp vào nhóm hồ sơ tồn đọng. Trong quyển “Hơi Thở Cuối Cùng”, tác giả đưa người đọc trở lại với vụ án sát hại Nicole Hansen cùng hàng loạt những vũ công khác. Tất cả họ đều bị tra tấn một cách tàn nhẫn trước khi chết: tay chân bị trói ngược ra sau và tròng một vòng dây thòng lọng quanh cổ, khi họ không chịu nổi nữa và duỗi chân ra thì thòng lọng sẽ siết chặt khiến họ nghẹt thở chết. Chưa hết, tên sát nhân – được nhóm điều tra đặt cho biệt danh Cao Bồi – còn dụi thuốc lá cháy đỏ vào lòng bàn chân các vũ công. Trong lúc toàn bộ phòng điều tra của Tracy làm việc cật lực và nghiêm túc để sớm bắt Cao Bồi, ngăn chặn các hành vi sát nhân tàn ác của hắn, thì ông sếp Johnny Nolassco vẫn là một kẻ tiểu nhân thảm hại như mọi khi, vừa cố dìm hàng Tracy vừa bán tin tức cho giới truyền thông để gây khó dễ cho công tác điều tra. Rất may, Tracy nhận được sự giúp đỡ đắc lực từ chàng luật sư Daniel O’Leary – là bạn thời thơ ấu và là người yêu hiện tại của cô. Do thiết kế bìa sách và tựa sách có vẻ không hấp dẫn lắm nên Biển để dành cuốn này khá lâu và đọc nó sau cùng trong loạt truyện của Robert Dugoni. Câu chuyện không có nhiều khoảnh khắc vỡ ra sự thật đau lòng như trong cuốn “Trảng Đất Trống”, không có những cảnh tranh cãi ấn tượng của Daniel O’Leary ở tòa án như trong cuốn “Căn Hầm Tối”, nhưng “Hơi Thở Cuối Cùng” vẫn là một truyện được tác giả viết khá chắc tay, tình tiết thống nhất với những quyển khác trong cùng loạt sách về Tracy Crosswhite. Có một điều chưa thỏa mãn là trong quyển này chàng luật sư Dan ít đất diễn, chỉ được khắc họa hình ảnh như một người đàn ông gần như hoàn hảo, vừa giúp đỡ Tracy trong việc điều tra vừa nấu cho cô ấy những bữa ăn ngon. Biển còn chủ quan cho rằng có một chi tiết tác giả đã dìm hàng anh Dan: nhập mã số mở khóa cửa nhà mà không che lại, khiến người khác quan sát được qua ống nhòm. Biển bỏ qua hoàn toàn những đoạn giữa ông sếp Johnny Nolassco và cô phóng viên Maria Vanpelt, vì không đọc cũng chẳng ảnh hưởng đến việc hiểu cốt truyện. Phần kết thúc truyện có chút vô lý nhưng có lẽ diễn biến như thế là sát với thực tế, không quá ảo, tuy nhiên kết như vậy khiến Biển không thỏa mãn chút nào. Cuộc đời là thế chăng, người vô tội thì chết còn những thể loại phản diện vẫn sống trơ trơ để làm khổ kẻ khác, có lẽ phải trải qua đau thương thì người ta mới biết giá trị của hạnh phúc, phải trải qua khó chịu thì mới biết giá trị của thoải mái! Cá nhân Biển cho rằng quyển “Hơi Thở Cuối Cùng” không xuất sắc lắm, đọc tạm được. Nghe đồn Đinh Tị sẽ xuất bản thêm một cuốn nữa của Robert Dugoni, hy vọng đó sẽ là một câu chuyện máu lửa bùng cháy, đem lại ấn tượng sâu đậm khó quên cho độc giả (khó tính như Biển). *** Review Binh Boog:   Tiếp theo Căn Hầm Tối, Hơi Thở Cuối Cùng nằm trong hành trình phá án tiếp theo của nữ cảnh sát xinh đẹp Tracy Crosswhite và đồng đội. Nạn nhân lần này là những vũ nữ thoát y ở các câu lạc bộ đêm. Họ bị sát hại một cách rất tinh vi và man rợ: bị siết cổ, tay chân bị trói quặt ra đằng sau như trói lợn. Những nạn nhân về sau còn thêm cả vết bỏng do thuốc lá châm vào. Một tên tội phạm nguy hiểm, tâm lý biến thái không được ổn định nhưng hết sức tinh vi khi không để lại bất cứ một dấu vết nào. Một tác phẩm trinh thám để lại rất nhiều suy nghĩ. Con đường mà những nạn nhân trở thành vũ nữ thoát y gây nhiều trăn trở. Có người thì do có quá nhiều các hoá đơn thanh toán phải trả trong khi công việc ban ngày là làm kế toán không đủ để chi trả thì tiền boa khi múa có thể đáp ứng được điều đó. Có người chỉ vì bị bố dượng lạm dụng đã phải bỏ nhà ra đi, lại gặp phải người bạn trai cặn bã nghiện ngập, đánh đập rồi vòi tiền mà đi vào con đường đó. Con đường trở thành tên tội phạm thần kinh điên khùng cũng là một điều đáng suy ngẫm. Bị ám ảnh tổn thương từ bé khi chứng kiến mẹ đưa đàn ông về nhà rồi nghe thấy những thứ không muốn nghe. Cộng thêm sự thất bại trong cuộc sống khi không thể vươn lên được do không biết đường luồn cúi, nịnh nọt. Có lẽ chính cái mặt trái của gia đình và xã hội đã tạo nên một con quỷ, một thứ rác rưởi bệnh hoạn. Một vấn đề nữa đó là vấn đề án oan. Sự quan liêu, bệnh thành tích hay áp lực của xã hội cho ngành cảnh sát đã biến một số người trong ngành vì thành tích hay do áp lực đã vội vàng tìm ra một hung thủ trong khi không tìm hiểu sâu sắc, cặn kẽ vụ án. Điều đó đã đưa một người không phải là hung thủ vào khám ngồi trong khi hung thủ thực sự vẫn đang ở ngoài kia tiếp tục gây án. Sự bất cẩn, chèn ép nhau trong chính nội bộ của ngành cảnh sát. Cũng không biết đây đã là tác phẩm viết xuất sắc nhất của Robert Dugoni về mảng trinh thám pháp đình chưa nhưng vẫn mong Đinh Tỵ tiếp tục làm nốt các tác phẩm cùng series này. *** Bộ sách Tracy Crosswhite gồm có: Căn Hầm Tối Hơi Thở Cuối Cùng Trảng Đất Trống Mắc Kẹt Cận Kề Tổ Ấm *** Robert Vincent Dugoni là một tác giả người Mỹ hiện đang sống ở Seattle, Washington. Tiểu thuyết của ông đã giành được những vị trí trên New York Times, Wall Street Journal, BookSense và danh sách bán chạy nhất của Amazon. Chúng được bán trên toàn thế giới tại hơn 25 quốc gia. Tác giả Robert Dugoni khởi đầu trong mảng truyện trinh thám khá muộn (mãi 43 tuổi mới bắt đầu viết sách, còn trước đó ông làm phóng viên và luật sư thực tập), nhưng đã chứng minh cho độc giả thấy ‘gừng càng già càng cay’ là có thật. Tác phẩm ký sự đầu tay của ông viết về điều tra bất công, The Cyanide Canary, đã được bình chọn là cuốn sách phi hư cấu hay nhất năm 2004 của tờ Washington Post. 10 năm sau, ông trở lại với đề tài này một lần nữa thông qua nhân vật nữ cảnh sát Tracy Crosswhite trong cuốn Căn hầm tối. ***   Tracy Crosswhite dõi theo chiếc minivan lái vào bãi đỗ, để ý thấy có ghế trẻ em nằm ở băng ghế sau cùng tấm bảng màu vàng ‘Có Trẻ Nhỏ Trong Xe’ treo lủng lẳng trên cửa sổ. Người phụ nữ mặc chiếc áo chống đạn màu đen, quần bò xanh cùng chiếc mũ bóng chày của đội Seattle Mariners bước ra khỏi xe. “Điều tra viên Crosswhite?” Tracy bắt tay người phụ nữ và nhận ra bàn tay cô ta thật nhỏ nhắn và mềm mại. “Cứ gọi chị là Tracy. Em là cảnh sát viên Pryor?” “Katie thôi. Em thực sự đánh giá cao điều này. Em xin lỗi vì khiến chị mất thêm thời gian sau giờ làm việc.” “Không sao. Việc giảng dạy giúp chị mài giũa kĩ năng. Em có kính và chụp tai chưa?” “Em định đi mượn thôi.” Tracy không nghĩ Pryor là kiểu người sẽ trang bị những thứ đó cho mình. “Vậy thì đi kiếm cho em thôi nào.” Cô dẫn Pryor vào tòa nhà thấp kiên cố, văn phòng của Hiệp hội Thể thao Cảnh sát Seattle. Giống như phần lớn các trường bắn, nó nằm ở một vị trí biệt lập, cuối con đường nhỏ trong khu công nghiệp cách trung tâm thành phố Seattle khoảng hai mươi phút lái xe về phía nam. Người đàn ông đứng sau quầy chào Tracy bằng tên, và Tracy giới thiệu: “Virgil, đây là cảnh sát viên Pryor. Cô ấy sẽ cần kính và chụp tai. Chúng tôi cũng cần một tấm bia tập bắn, vài hộp đạn và một cuộn giấy dán.” “Đào tạo cho kỳ thi sát hạch à? Còn vài tuần nữa thôi nhỉ?” Virgil mỉm cười với Pryor. “Cô có một người thầy giỏi đấy!” Anh ta lôi mấy hộp đạn cùng kính bảo hộ khỏi giá để đồ và những cái móc phía sau quầy. “Chúng tôi đang cố gắng thuyết phục Tracy về đây hẳn để đào tạo người mới. Ý cô thế nào, Tracy?” “Vẫn như cũ thôi, Virgil. Khi nào người ta ngừng giết hại lẫn nhau thì tôi sẽ về.” “Phải rồi, khi mặt trời mọc ở đằng tây.” Virgil nhìn quanh quầy. “Tôi phải đi lấy giấy dán ở đằng sau.” Khi Virgil rời đi, Pryor hỏi: “Sao chúng ta lại cần đến giấy dán?” “Để che các lỗ hổng trên bia bắn của em.” “Em chưa bao giờ thấy chuyện đó.” “Em cũng chưa bao giờ bắn nhiều như em sắp bắn đâu.” Virgil quay trở lại và đưa Tracy một cuộn giấy dán màu xanh. Cô cảm ơn anh ta và đưa Pryor ra ngoài. “Theo chị nào.” Cô nói và ngồi vào buồng lái chiếc xe bán tải Ford F—150 đời 1973 của mình. Cô đã bán chiếc Subaru sau khi trở về từ Cedar Grove. Cô có đủ tiền để mua một chiếc xe mới, nhưng xe tải đời cũ hợp với cô hơn. Mất vài phút để làm nóng động cơ, đặc biệt là vào những buổi sáng trời lạnh, thân xe cũng có vài vết lõm và xước, nhưng tổng thể thì nó trông không tệ như số tuổi của mình. Bên cạnh đó, chiếc xe này làm Tracy nhớ đến chiếc xe tải mà bố cô từng lái đến các cuộc thi bắn súng khi cô cùng em gái Sarah vẫn còn là những đứa trẻ. Đi được gần hai trăm mét xuôi theo con đường đầy ổ gà, Tracy đỗ xe gần lối vào khu huấn luyện của cảnh sát Seattle. Cô nhận ra tiếng pốp pốp quen thuộc của những cú xả súng và tiếng sủa của những con chó to. Cô không biết tên ngốc nào ra quyết định đặt chuồng nuôi chó nghiệp vụ K-9 liền kề khu tập bắn, nhưng cô cảm thấy thương hại lũ chó và bất cứ ai phải nghe tiếng chúng sủa nhiều hơn một phút. Khu tập bắn nằm phía trong cánh cổng bao quanh bởi dãy hàng rào mắt cáo cao gần hai mét rưỡi cùng một đường dây thép gai giăng ngang trên đỉnh. Tracy hà hơi vào hai lòng bàn tay cho ấm trong khi chờ Pryor. Đây là kiểu thời tiết điển hình của một buổi tối tháng Ba, lạnh và có mưa phùn. Hoàn hảo cho mục đích đào tạo. “Chúng ta nên bắt đầu thế nào đây?” Pryor hỏi. “Em bắn. Chị xem.” Tracy nói. Mười lăm tấm ván gỗ ép chi chít lỗ đạn, hay còn gọi là đích ngắm, treo trên một khung treo kim loại đặt dọc theo sườn đồi dốc. Tracy chọn đích ngắm xa nhất phía bên trái, gần khu chuồng chó nhưng cách xa hai người đàn ông đang tập bắn ở khu vực cánh phải của dãy. Cô nói to át tiếng chó sủa và tiếng đạn nổ dội lại từ chỗ các tay súng: “Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc ngắm bắn đã nhé, cách mục tiêu ba mét, bắn bốn phát trong ba giây. Hai viên trúng thân, hai viên vào đầu.” “Đã rõ!” Pryor nói. Mời các bạn đón đọc Hơi Thở Cuối Cùng của tác giả Robert Dugoni.
Căn Hầm Tối
Vào một đêm mưa gió, cô gái trẻ Sarah Crosswhite bị mất tích khi đang trên đường lái xe về nhà sau cuộc thi bắn súng. Hung thủ nhanh chóng bị bắt và bị kết án. Đó là một kẻ từng có tiền án bắt cóc và cưỡng bức phụ nữ. Tuy nhiên hắn kiên quyết không chịu nhận tội đã bắt cóc và sát hại Sarah, cũng như không chịu khai mình giấu xác Sarah ở đâu. Khi đã bị tống vào tù, hắn vẫn liên tục kêu oan. Chị gái của Sarah là Tracy Crosswhite cũng nhận thấy vụ xét xử này diễn ra quá vội vàng và có nhiều điểm đáng ngờ: luật sư bào chữa không làm việc tận tâm, lời khai của nhân chứng không đủ sức thuyết phục, vật chứng thu được tại nhà của nghi phạm không phải là những món đồ mà em gái cô đeo trên người vào hôm cô gái mất tích… Nhưng những thắc mắc của cô đều bị gạt đi. Vì không muốn một người mà cô nghĩ là vô tội bị bắt oan uổng trong khi hung thủ thật sự vẫn còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, Tracy bèn từ bỏ công việc mơ ước để thi vào Học viện Cảnh sát, quyết tâm trở thành một điều tra viên để lật lại vụ án của em gái. *** Căn hầm tối là tập sách đầu tiên trong loạt truyện về nữ điều tra viên Tracy Crosswhite của nhà văn Robert Dugoni. Cuốn sách mở ra một thực trạng nhức nhối nhất trong hệ thống pháp lý của Mỹ nói riêng và của toàn bộ các nước trên thế giới nói chung. Thứ nguy hiểm nhất đã trói buộc biết bao con người vô tội trong tù đày lại chính là sự vô tâm của các nhân viên điều tra, hiểu biết thường thức của con người và những kẽ hở pháp lý. Đúng theo kiểu thà giết nhầm còn hơn bỏ sót, cảnh sát chấp nhận bắt nhầm người còn hơn là để những người bị coi là nguy hiểm tự do ngoài xã hội. Cuốn sách này khiến mình nhớ đến bộ phim nổi tiếng của Mỹ 12 Angry Men, một trong 100 bộ phim hay nhất mọi thời đại và cũng là bộ phim mình vô cùng yêu thích. Trong 12 Angry Men, một người đàn ông đã khiến 11 thành viên còn lại trong bồi thẩm đoàn phải suy xét lại tội trạng của một thanh niên gán mác hư hỏng sau khi bỏ phiếu ‘vô tội’ duy nhất so với 11 phiếu ‘có tội’. Còn trong Căn hầm tối, tác giả đã miêu tả lại một cách vô cùng thành công cách một phiên tòa ‘đặc biệt’ diễn ra như thế nào. Từ một người bị kết án hoàn toàn với tội danh bắt cóc với gần 20 năm ngồi tù, Tracy Crosswhite đã tìm ra bằng chứng và thuyết phục được tất cả những người trong phòng phán xử khi ấy phải công nhận rằng, mọi chứng cớ buộc tội anh ta đều không xác đáng! *** Bộ sách Tracy Crosswhite gồm có: Căn Hầm Tối Hơi Thở Cuối Cùng Trảng Đất Trống Mắc Kẹt Cận Kề Tổ Ấm *** Robert Vincent Dugoni là một tác giả người Mỹ hiện đang sống ở Seattle, Washington. Tiểu thuyết của ông đã giành được những vị trí trên New York Times, Wall Street Journal, BookSense và danh sách bán chạy nhất của Amazon. Chúng được bán trên toàn thế giới tại hơn 25 quốc gia. Tác giả Robert Dugoni khởi đầu trong mảng truyện trinh thám khá muộn (mãi 43 tuổi mới bắt đầu viết sách, còn trước đó ông làm phóng viên và luật sư thực tập), nhưng đã chứng minh cho độc giả thấy ‘gừng càng già càng cay’ là có thật. Tác phẩm ký sự đầu tay của ông viết về điều tra bất công, The Cyanide Canary, đã được bình chọn là cuốn sách phi hư cấu hay nhất năm 2004 của tờ Washington Post. 10 năm sau, ông trở lại với đề tài này một lần nữa thông qua nhân vật nữ cảnh sát Tracy Crosswhite trong cuốn Căn hầm tối. *** Giáo viên bộ môn Chiến thuật tại Học viện Cảnh sát vẫn thường khiêu khích các học viên vào mỗi buổi tập lúc sáng sớm. “Giấc ngủ là thứ được đề cao quá mức.” Ông ta nói. “Các cô các cậu sẽ học cách sống thiếu nó.” Ông ta đã nói dối. Giấc ngủ cũng giống như tình dục vậy. Càng thiếu, người ta lại càng thèm. Mà dạo gần đây, Tracy Crosswhite bị thiếu cả hai thứ đó. Cô vươn vai và cổ. Toàn thân cô cứng đờ và uể oải. Cô chẳng thể dành ra thời gian để chạy bộ vào buổi sáng, cũng chẳng nhớ nổi mình đã được ngủ trong bao lâu. Bác sĩ nói cô ăn quá nhiều đồ ăn nhanh và uống quá nhiều caffein. Lời khuyên của bác sĩ tốt thật đấy, nhưng mỗi khi Tracy phải điều tra một vụ án mạng thì lấy đâu ra thời gian để tập thể dục và ăn uống điều độ bây giờ? Nếu mà phải bỏ caffein nữa thì cô chẳng khác gì một cái xe hết xăng. Cô sẽ chết mất nếu thiếu caffein. “Ồ, Giáo sư lại đến sớm kìa! Vừa có ai chết à?” Vic Fazzio tựa vòng eo đáng nể của mình vào bàn làm việc của Tracy. Câu nói đùa của Faz tuy chẳng mới mẻ gì nhưng không bao giờ nhàm chán khi được nói ra bằng chất giọng New Jersey khàn khàn ấy. Với mái tóc muối tiêu vuốt ngược ra sau, thân hình ngổn ngộn thịt, người đàn ông tự xưng là Italian Gumba Anh bạn người Ý của đội điều tra án mạng chắc chắn giành được vai diễn gã vệ sĩ thầm lặng trong một bộ phim về mafia. Faz đang cầm trên tay một quyển sách mượn từ thư viện và ô chữ của tờ Thời báo New York. Điều đó có nghĩa là cà phê đã bắt đầu ngấm. Faz khá nổi tiếng với việc ngồi lì ít nhất nửa tiếng trong nhà vệ sinh mỗi khi giải ô chữ hoặc đọc một chương sách hấp dẫn. Chúa cứu rỗi những ai phải vào nhà vệ sinh lúc ông đang ở trong đó. Tracy đưa cho ông một xấp hình chụp hiện trường mà cô đã in ra sáng nay. “Một vũ công trên phố Aurora.” “Tôi có nghe qua. Lại mấy trò biến thái đó hả?” “Tôi đã từng chứng kiến hiện trường những vụ án tình dục tệ hơn thế này.” Cô nói. “À, tôi quên mất. Cô đánh đổi chuyện chăn gối của mình để có thời gian chạy theo mấy vụ án mạng.” “Dù sao án mạng vẫn dễ thở hơn.” Cô đáp gọn, cướp luôn câu chốt của Faz. Cô vũ công, Nicole Hansen, được tìm thấy trong tình trạng bị trói tay chân trong một căn nhà nghỉ rẻ tiền tại khu phố Aurora. Một đầu dây thòng lọng buộc vào cổ cô ta, đầu còn lại chạy dọc theo sống lưng, trói vào cổ tay và cổ chân. Một sự chuẩn bị rất công phu! Tracy đưa cho Faz báo cáo giám định pháp y. “Cô ta bị chuột rút khiến các cơ co thắt lại. Khi đó, cô ta duỗi chân ra cho đỡ đau, và đã vô tình tự thắt cổ chính mình. Nghe tuyệt vời chứ hả?” Faz xem xét bức hình một cách tỉ mỉ. “Cô không nghĩ rằng họ có thể lợi dụng một cái nút tuột hay gì đó để thoát ra ư?” “Như thế sẽ rất lôgic, phải không?” “Vậy giả thuyết của cô là gì? Có kẻ đã ở đó và vui vẻ nhìn cô ta chết?” “Cũng có thể chúng làm hỏng chuyện, hoảng quá nên chạy trốn. Nhưng dù thế nào thì cô ta cũng không thế tự trói mình được.” “Biết đâu cô ta làm được thì sao. Giống như Houdini ấy.” “Houdini chỉ tự cởi trói chứ không tự trói mình. Đó là trò ảo thuật, Faz à!” Tracy lấy lại bản báo cáo cùng những tấm hình từ tay Faz rồi đặt lên bàn làm việc. “Chính vì vụ này mà tôi mới đang ngồi đây vào cái giờ dở hơi này, chỉ có tôi, anh và những con dế.” “Tôi và những con dế đã ở đây từ lúc năm giờ, Giáo sư à! Cô biết điều mà người ta vẫn nói đó. Chim đến sớm thì bắt được sâu.” “Vâng, con chim đến sớm này đã mệt đến mức còn chẳng biết có con sâu nào bò lên và cắn vào mông nó nữa kìa.” “Thế Kins đâu rồi? Sao anh ta để cô tận hưởng mọi thứ một mình thế này?” Cô nhìn đồng hồ. “Tốt hơn hết là anh ta nên mua cho tôi một cốc cà phê, nhưng với tình hình này, chắc tôi sẽ phải tự đi pha rồi.” Cô gật đầu khi nhìn thấy quyển sách Faz đang cầm. “Giết con chim nhại To kill a mockingbird à? Ấn tượng đấy!” “Tôi đang cố gắng tự hoàn thiện bản thân.” “Vợ anh chọn sách cho anh phải không?” “Chuẩn đấy!” Faz tự đẩy tấm thân mình ra khỏi cạnh bàn. “Đã đến giờ tôi phải dùng đến trí óc rồi. Con chim nhại đang hót, và tôi thì đang thấm từng chữ.” “Anh nói nhiều quá đây, Faz!” Faz đi ra rồi lại quay lại cùng cây bút chì trên tay. “Này Giáo sư, giúp tôi với! Tôi cần một từ có chín chữ cái để trả lời cho câu ‘Cái gì làm cho khí đốt trở nên an toàn?’” Tracy từng là giáo viên dạy môn Hóa ở trường trung học trước khi đổi nghề và đăng ký vào Học viện Cảnh sát. Biệt danh của cô được đặt từ hồi cô còn ở trường. “Mercaptan.” Cô nói. “Gì cơ?” “Mercaptan. Người ta cho nó vào khí đốt để nếu ga bị rò rỉ trong nhà thì sẽ ngửi thấy ngay.” “Cô không đùa chứ? Nó có mùi gì?” “Lưu huỳnh. Anh biết đây, mùi trứng thối.” Cô đánh vần từng chữ. Fazzio ngậm đầu bút chì rồi viết những chữ cái lên tờ báo. “Cảm ơn cô!” Khi Faz vừa rời khỏi, Kinsington Rowe đi vào ô làm việc của đội A và đưa cho Tracy một trong hai chiếc cốc dài. “Tôi xin lỗi!” Anh nói. Mời các bạn đón đọc Căn Hầm Tối của tác giả Robert Dugoni.
Cô Dâu Đen
Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản lần đầu năm 1940, là mốc son trong sự nghiệp cầm bút của Cornell Woolrich, khởi đầu cho danh tiếng tác giả “trinh thám đen” bậc thầy. Câu chuyện xoay quanh một phụ nữ xinh đẹp và bí ẩn ra tay mưu sát những đàn ông theo nhiều cách thức. Đâu đó trong thành phố, một gã đàn ông trước đấy hãy còn cảm thán về tương lai tươi sáng của mình thì ngay sau đó, cuộc đời gã kết thúc trong bi thảm. Bỏ lại kẻ xấu số sau lưng, CÔ DÂU ĐEN tiếp tục hành trình trả thù đẫm máu của mình, vẫn còn những cái tên phải gạch bỏ, vẫn còn những kẻ thù cần trừng phạt. Woolrich đưa nội tâm nhạy cảm và xu hướng bi quan của chính mình vào trong tác phẩm. Đêm đen, bóng tối và cái chết bao trùm khắp câu chuyện tạo nên không khí bất an và hồi hộp. Những câu văn mềm mại dẫn lối câu chuyện đến một kết cục đầy ngỡ ngàng. Phải chăng mọi sai lầm đều có thể sửa chữa và những mối hận thù có thể hoàn trả đầy đủ? *** Review Nguyễn Ngoc Nam: Cô Dâu Đen thuộc thể loại trinh thám đen, một thể loại mà lần đầu tiên tôi đọc, với bố cục sách khá là vừa tầm và dung lượng sách không quá nhiều thì việc ngốn nó trong khoảng thời gian ngắn là điều dễ dàng. Câu truyện bắt đầu bằng cái chết của nạn nhân đầu tiên khi anh ta đang trong một buổi tiệc với người vợ tương lai của mình. Tiếp theo đó là hàng loạt những cái chết đầy bí ẩn của những người đàn ông khác. Điểm chung của những vụ án mày mà đều liên quan đến một người phụ nữ xinh đẹp mặc đồ đen. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh hung thủ thực sự thú vị với sự biến hóa ngoại hình tài tình, cách nói chuyện đầy mê hoặc, quyến rũ. Nó tạo cho người đọc cảm giác chân thực đến nỗi nếu đặt chính tôi vào vị trí các nạn nhân thì có lẽ tôi sẽ cùng chung số phận với họ. Xuyên suốt quá trình đọc tôi thấy ấn tượng với cái chất hài mà tác giả mang lại, 1 cái hài rất đặc trưng của nền văn học thế kỷ trước. Điều làm nên sức cuốn hút, điểm nhấn, giá trị cho toàn bộ tác phẩm chính là cái cách mà hung thủ tiếp cận con mồi của mình: Công phu - Kiên nhẫn - Tàn độc. Như cách mà phụ nữ trừng phạt những kẻ làm tổn thương mình vậy. Và điều cuối cùng mà tôi muốn nói chính là truyện có nhiều lỗi chính tả và đánh máy làm người đọc cảm thấy khó chịu. Nxb và đv phát hành cần phải xem xét lại vấn đề này cho những tác phẩm xb tiếp theo. Qua truyện này tôi rút ra 6 điều: Thứ nhất, nấm đẹp là nấm độc. Đừng để nhan sắc đàn bà giết chết sự kiêu hãnh của người đàn ông. Thứ hai, đ' có cái gì là tự nhiên cả, tất cả đều có nguyên do của nó. Thứ ba, phụ nữ là những diễn viên xuất sắc. Thứ tư, đừng bao giờ chọc điên hay gây thù với phụ nữ vì bạn không biết họ sẽ làm gì sau đấy đâu ???? Thứ năm, phụ nữ là những người giỏi chịu đựng và rất chung thủy một khi đã yêu thật sự. Thứ sáu, trái tim của người phụ nữ thật sự rất mong manh. *** Cornell Woolrich (1903-1968) - cha đẻ của tiểu thuyết trinh thám đen, bậc thầy của sự hồi hộp. Với cách kể và dẫn dắt đầy lôi cuốn, mỗi tác phẩm của ông không hẳn là cuộc kiếm tìm chân dung kẻ sát nhân mà còn đưa lên sân khấu những nghịch lý về sự thật bị che giấu và những bất ngờ không đoán trước. Cornell Woolrich được coi là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn, đưa thể loại truyện noir fiction (tiểu thuyết đen) đến đỉnh cao của sự thành công. Ông cũng là tác giả trinh thám có số lượng truyện chuyển thể thành phim nhiều nhất thế giới, trên trang IMDB có tới 103 bộ phim được ghi tên ông. Những bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Woolrich thường trở thành đề tài nghiên cứu sáng giá liên quan đến “kỷ nguyên của thể loại phim noir”. Tấn công, hoang tưởng, mối đe dọa, cái chết, là những chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của Woolrich. Ngoài ra, khi nói đến tiểu thuyết của tác giả này, hình tượng người phụ nữ với “tính nữ” cũng là một nét tiêu biểu. Trong truyện của ông có những nỗi sợ hãi chẳng rõ ràng, cảm giác luôn bị đe dọa. Các nhân vật thì luôn trong một cuộc chạy đua với thời gian. Theo đó là những nỗi tuyệt vọng ngày càng lấp đầy. Điều đặc biệt trong truyện của Woolrich chính là những “anh hùng” thường là nạn nhân, bị buộc tội về tội ác mà họ không thực hiện, hoặc phạm tội vì những đau buồn, tuyệt vọng và bất công trong cuộc sống. Thế giới Woolrich tạo ra giống như một mê cung, đánh lạc hướng suy luận của người đọc. Tác giả đặt ra những “cái bẫy” cho các nhân vật chính không may mắn của mình và sau đó chờ đợi nhân vật chính sa vào bẫy và độc giả bị đánh lừa. Đầu tiên là tính bất khả thi. Tính “không thể” được sử dụng Woolrich làm cho tình huống trở nên khó hiểu hơn, che giấu sự thật đằng sau. Dường như, trong các tác phẩm của Woolrich các nhân vật ban đầu bao giờ cũng khởi điểm từ tình yêu, sự chung thủy, từ những điều tốt đẹp nhưng sau đó, bởi vì sự "tham lam" mà dần dần đánh mất đi bản ngã của chính bản thân mình. Kết hợp với đó, yếu tố bạo lực cũng được áp dụng triệt để để mang đến cảm xúc mãnh liệt cho người đọc. Với sự khai phá mới cho tiểu thuyết trinh thám, Cornell Woolrich đã cung cấp những ẩn dụ về sinh mệnh con người thật rẻ mạt, cái thứ đạo đức trắng đen lẫn lộn. Bằng lối kể hấp dẫn, luôn giấu kín sự thật, mỗi tác phẩm của ông luôn làm người xem phải tò mò. Ở Việt Nam, nhiều truyện ngắn của Cornell Woolrich đã được dịch và đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay vào cuối thập niên 1990, Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản năm 2018. Tác phẩm: Cô Dâu Đen Người Đàn Bà Trong Đêm Hạn Chót Lúc Bình Minh Điểm Hẹn Đen Đêm Ngàn Mắt Kết Hôn Với Người Chết Theo Em Vào Bóng Đêm Ám Ảnh Đen ... *** “Julie, Julie ơi!” Tiếng gọi bám theo người phụ nữ suốt bốn đợt cầu thang. Tiếng gọi đó là âm thanh mềm mại nhất mà cũng mạnh mẽ nhất mà đôi môi có thể phát ra được. Nhưng nó không khiến cô do dự, không ngập ngừng một bước. Khuôn mặt cô chỉ trắng bệch khi bước ra đón ánh mặt trời, chỉ thế thôi. Có một thiếu nữ đứng cạnh vali đợi cô ở cửa, dường như không tin vào mắt mình khi thấy cô bước tới, lòng phân vân không biết cô lấy đâu ra sức mạnh để vượt qua chuyện đó. Cô như đọc được suy nghĩ này, liền trả lời câu hỏi chưa thốt ra, “Mình từ biệt họ chẳng dễ dàng gì, họ cũng vậy. Có điều mình đã quen rồi, còn họ thì chưa. Mình đã có nhiều đêm dài khiến bản thân cứng rắn, còn họ mới chỉ một lần. Mình đã trải qua cả nghìn lần rồi.” Không hề đổi ngữ điệu, cô nói tiếp, “Bắt taxi thôi, có một chiếc đằng kia!” Người thiếu nữ nhìn cô dò hỏi khi chiếc xe chạy tới. “Ừ, cậu muốn thì tiễn mình cũng được. Bác tài, tới ga trung tâm nhé.” Cô không ngoái nhìn ngôi nhà, không ngoái nhìn con phố đang lùi dần phía sau. Cô cũng chẳng nhìn ra những con phố thân quen kế tiếp vốn là biểu trưng cho thành phố này, nơi cô lớn lên và trưởng thành. Ở quầy vé, họ phải chờ vì có người đã đến trước. Người thiếu nữ đứng bơ vơ một bên. “Cậu định đi đâu?” “Cũng chưa biết nữa. Mình chưa tính toán được gì cả.” Cô mở túi xách tay, chia cuộn tiền nhỏ làm hai phần không đều nhau, cầm lấy phần nhỏ hơn. Cô bước tới cửa bán vé, đẩy tiền vào. “Chỗ này đủ cho tôi đi bao xa, chuyến trong ngày ấy?” “Ngần này đủ cho cô đến Chicago. Còn thừa chín mươi xu.” “Thế thì cho tôi vé một chiều.” Cô quay lại với người thiếu nữ. “Giờ cậu về nói với họ như vậy nhé.” “Nếu cậu không muốn thì mình sẽ không tiết lộ đâu, Julie à.” “Có sao đâu. Tên của một nơi nào đó có quan trọng gì khi mình một đi không trở lại?” Hai người ngồi trong phòng chờ một lúc, rồi đi xuống phía đường tàu, đứng ở cửa ra chờ tiếp. “Hôn tạm biệt nào, như bọn mình thường làm hồi bé ấy.” Môi họ chạm nhẹ. “Đúng rồi.” “Julie ơi, mình biết nói gì bây giờ?” “Cứ nói ‘vĩnh biệt’ thôi. Trong cuộc đời này, người ta còn gì để nói với nhau nữa cơ chứ?” “Julie yêu quý, mình hi vọng sẽ sớm gặp lại cậu.” “Không bao giờ đâu.”   Sân ga lướt về phía sau. Con tàu lao qua một hầm dài rồi lại ngoi lên trong ánh nắng, lăn bánh trên những trụ cầu cao ngang với tầng trên của những tòa chung cư, những con phố lướt qua như những khe hẹp trên hàng rào. Đoàn tàu chạy chậm lại trước cả khi nó đạt vận tốc tối đa. “Phố Hai Lăm”, tiếng người soát vé vang trong toa. Người phụ nữ quyết tâm ra đi này với lấy chiếc vali, đứng lên, bước giữa hai hàng ghế như thể đây là trạm cuối của hành trình chứ không phải điểm khởi đầu. Cô đứng chờ sẵn ở cửa khi tàu dừng. Cô bước ra ngoài, đi dọc sân ga tới cổng, men theo cầu thang ra phố. Cô mua một tờ báo ở quầy tại phòng chờ, chọn một cái ghế ngồi xuống, lật trang cuối ra xem phần rao vặt. Cô cuộn tờ báo lại cho vừa rồi lấy ngón tay dò theo cột có tựa Phòng đủ tiện nghi. Ngón tay dừng ngẫu nhiên ở một cái tên mà cô chả buồn để ý xem những tiện nghi kèm theo là gì. Móng tay cô bấm sâu vào giấy để đánh dấu vị trí. Cô kẹp tờ báo vào nách, nhấc va li rồi ra ngoài gọi taxi. “Đưa tôi tới chỗ này. Đây.” Cô đưa tờ báo cho tài xế.   Bà chủ nhà lặng lẽ đứng chờ cô quyết định, cửa phòng vẫn mở. Cô quay lại nói với bà ta. “Tôi thấy chỗ này phù hợp rồi. Tôi sẽ trả tiền ngay cho hai tuần đầu.” Bà chủ nhà đếm tiền xong mới viết giấy biên nhận. “Cô tên gì?” Bà ta ngước lên hỏi. Mời các bạn đón đọc Cô Dâu Đen của tác giả Cornell Woolrich.
Công Lý & Báo Thù
Michael Rogan nhìn kỹ cái biển hiệu rực rỡ bên ngoài hộp đêm nóng nhất ở Hamburg. Sinnlich! Schamlos! Sündig! Kích dục! Không mát-x-cỡ! Tội lỗi đầy mình! Đúng là cái hộp đêm này, Roter Peter, không thèm giấu giếm cái gì nó đang rao bán. Rogan rút từ túi mình ra một tấm ảnh nhỏ và ngắm nghía cẩn thận dưới ánh sáng màu đỏ của ngọn đèn nơi cánh cửa có hình con heo. Chàng đã nhìn rất kỹ bức ảnh này hàng trăm lần rồi , nhưng chàng vẫn còn bối rối về chuyện nhận diện kẻ mà chàng tìm kiếm lâu nay. Trong vòng mười năm người ta thay đổi nhiều lắm, Rogan biết thế. Chính mình cũng thay đổi nhiều mà, nói chi ai. Chàng đi qua anh chàng gác cửa đang cúi người một cách xun xoe, khúm núm, để đi vào hộp đêm. Bên trong tối mò ngoại trừ cuốn phim “xanh” (blue movie) đang sáng nhấp nháy trên một màn hình chữ nhật nhỏ. Rogan vạch đường đi xuyên qua những cái bàn đông người, một đám đông ồn ào, nồng nặc mùi rượu bia. Bỗng dưng mọi ngọn đèn trong nhà sáng lên và đóng khung chàng sát sân khấu, với những cô gái tóc vàng trần truồng đang giựt người tưng tưng phía trên đầu chàng! Đôi mắt Rogan vẫn chòng chọc vào mấy khuôn mặt của những kẻ ngồi ở các bàn vòng quanh sân khấu. Một cô tiếp viên chạm vào cánh tay chàng. Cô ả nói bằng giọng đỏm dáng,” Có phải Herr Amerikaner tìm kiếm một món đặc biệt?” Rogan chà xát lướt qua nàng, cảm thấy bực mình vì đã dễ dàng để bị nhận ra là một “ông Mẽo. ”Chàng có thể cảm nhận máu đang đập vào tấm thẻ bằng bạc vốn đang giữ hộp sọ chàng gắn lại với nhau – một dấu hiệu nguy hiểm. Có lẽ chàng sẽ phải nhanh chóng hoàn thành chuyện này và quay về lại khách sạn. Chàng di động qua hộp đêm, kiểm tra các góc tối nơi các ông chủ nốc bia từ những chiếc vại khổng lồ và sờ soạng nhéo bóp bất kỳ em nào gần bên. Chàng liếc mắt vào những bàn có che màn nơi các ông khách nằm ngồi lổn ngổn trên mấy ghế sofas bọc da, “ngâm kiếu” các cô nàng trên sân khấu trước khi nhấc điện thoại lên để “triệu tập” em nào vừa mắt đến hầu quan. Bây giờ Rogan đang mất kiên nhẫn. Chàng không còn nhiều thời gian cho lắm. Chàng quay người và đối mặt với sân khấu. Phía sau những cô gái trần truồng đang nhảy có một bức vách trong suốt. Xuyên qua bức vách đó các ông chủ có thể thấy hàng kế tiếp các cô gái đang sẵn sàng bước lên sân khấu, và bọn họ vỗ tay mỗi khi một trong các cô gái cỡi áo nịt ngực hay tuột vớ ra. Một giọng nhừa nhựa say xỉn gọi vọng ra, ”Ôi các em cưng, các em đáng yêu – ta có thể đánh quả với tất cả các em.” Rogan quay người về phía giọng nói kia và cười trong bóng tối. Chàng nhớ lại giọng ấy rồi. Mười năm đã không làm cái giọng ấy thay đổi là mấy. Đó là một giọng vùng Ba-vi-e chói tai với vẻ thân tình giả tạo. Rất nhanh, Rogan di chuyển về hướng ấy. Chàng mở áo jacket, tháo một cái nút bằng da vốn giữ cho khẩu Walther an toàn trong cái bao đeo nơi vai. Tay kia chàng rút ống hãm thanh ra khỏi túi áo jacket và cầm nó như thể đó là một chiếc tẩu thuốc. Và rồi chàng đến trước chiếc bàn kia, trước khuôn mặt của con người chàng không bao giờ quên, kẻ mà kí ức về hắn đã giúp cho chàng sống suốt mười năm qua. Giọng nói đã không đánh lừa chàng; đúng là giọng nói của Karl Pfann. Tay cựu Đức quốc xã này hẳn đã tăng trọng thêm năm mươi pao nhưng lại mất đi gần hết đầu tóc – chỉ còn vài sợi màu vàng lơ thơ trên cái sọ bóng mỡ - nhưng cái mồm thì vẫn nhỏ tí và hầu như vẫn đầy vẻ hiểm ác như Rogan còn nhớ. Chàng ngồi xuống ở bàn kế bên và gọi thức uống. Khi mọi ánh đèn trong nhà tắt đi và cuốn phim xanh lại bật lên chàng rút khẩu Walther ra khỏi bao da và, giữ hai tay dưới bàn, gắn ống hãm thanh vào đầu nòng súng. Vũ khí hơi chùng xuống vì mất cân bằng; nó sẽ thiếu chính xác nếu cự ly quá năm yards. Rogan nghiêng người về phía phải và vỗ vào vai Karl Pfann. Cái đầu to bự quay lại, cái sọ bóng nhẫy nghiêng qua và cái giọng thân tình giả tạo mà Rogan từng nghe trong những cơn mộng ròng rã đã mười năm, nói, ”À, mein Freund, bạn muốn gì ạ?” Rogan nói giọng khàn khàn,” Tôi là một đồng chí cũ của bạn. Chúng ta có cuộc thương thảo công việc vào ngày Rosenmontag – Thứ hai Lễ hội Hoa hồng – năm 1945, nơi Tòa án Munich, bạn nhớ chứ?” Cuốn phim với cảnh nóng lên cao trào khiến Karl Pfann xao lãng câu chuyện, và đôi mắt hắn dính vào màn hình. ”Không, không, không thể có chuyện đó,” hắn nói một cách sốt ruột, mất kiên nhẫn. ”Năm 1945 tôi đang phục vụ cho tổ quốc.Sau chiến tranh tôi mới trở thành doanh nhân.” “Khi mi là một tên Quốc xã,” Rogan nói. ”Khi mi là một kẻ tra tấn... Khi mi là một tên sát nhân. ”Tấm bạc trong sọ Rogan phập phồng. ”Tên ta là Michael Rogan. Ta làm Tình báo Mỹ. Giờ đây mi nhớ ra ta chưa?” Có tiếng thủy tinh vỡ trong lúc tấm thân phục phịch của Karl Pfann xoay quanh và mắt hắn chọc qua bóng tối nhìn Rogan. Tên Đức nói bình thản, có vẻ hăm dọa, ”Michael Rogan đã chết. Mi muốn gì ở ta?” “Mạng sống của mi,” Rogan nói. Chàng rút khẩu Walther từ dưới bàn ra, ấn vào bụng Pfann và siết cò. Thân người của tên Đức giật nẩy lên.với sức mạnh của viên đạn. Rogan chỉnh lại ống hãm thanh và bắn tiếp phát nữa. Tiếng kêu than lúc chết của Pfann bị nhận chìm bởi tràng cười rộ lên, lan ra khắp hộp đêm khi màn hình diễn ra cảnh rù quến buồn cười. Thân hình Pfann đổ gục xuống vắt ngang qua bàn. Cuộc mưu sát hắn ta sẽ không được ai nhận ra cho đến khi cuốn phim kết thúc. Rogan rút ống hãm thanh ra khỏi đầu nòng súng và đút cả hai thứ trở vào trong các túi áo jacket. Chàng ta đứng lên và lặng lẽ di chuyển xuyên qua hộp đêm tối tăm. Anh chàng giữ cửa mặc đồ viền tua vàng chào chàng và huýt sáo đón taxi, nhưng Rogan quay mặt đi và bước xuống đường hướng về phía bến cảng. Chàng đi dọc theo bến cảng một lúc lâu cho đến khi nhịp tim và mạch máu dần trở lại mức bình thường. Trong ánh trăng lạnh của miền Bắc Đức, những bến tàu ngầm hoang phế và những con tàu rỉ sét mang trở lại những bóng ma ghê khiếp của một thời chiến tranh. Karl Pfann đã chết. Rogan như vừa trút được gánh nặng nhưng rồi lại thấy hụt hẫng, chán chường. Và rồi mười năm mộng dữ đã được trả giá và chàng có thể giảng hòa với tấm bạc trong sọ mình, những tiếng kêu xé lòng còn vang vọng vô tận của Christine gọi tên chàng, kêu cầu sự cứu độ, và cái khúc đoạn mù quáng, lóa mắt khi bảy người trong một căn phòng vòm cao của Tòa án Munich đã hành hình chàng như thể chàng là một con thú. Chúng đã cố mưu sát chàng, không chút nhân phẩm, như một trò đùa độc ác. Ngọn gió dọc theo bến cảng cắt vào da thịt chàng và Rogan quay lên phía lối đi Reeperbahn, đi qua đồn cảnh sát khi chàng bước vào Davidstrasser (Phố David). Chàng không có gì phải sợ cảnh sát. Ánh sáng trong hộp đêm quá tù mù để cho bất kỳ ai có thể thấy rõ mặt chàng, đủ rõ để có thể mô tả chàng tương đối chính xác. Tuy nhiên, để cho an toàn, chàng lỉnh vào con đường rẽ có treo tấm bảng bằng gỗ lớn: ”Cấm trẻ vị thành niên!” Trông nó cũng giống như bất kỳ con phố nào khác cho đến khi chàng quẹo ở góc phố. Chàng đã “sa chân lỡ bước” vào khu phố St Pauli nổi tiếng của Hamburg, khu vực được thành phố dành riêng cho việc mại dâm hợp pháp. Khu phố được chiếu sáng rực rỡ và đông đảo khách tìm hoa qua lại. Những căn nhà ba tầng thoạt trông có vẻ bình thường, ngoại trừ là mọi nơi đều rộn ràng như đang mở hội. Những tầng trệt có những cửa sổ thật rộng để phô bày, cho thấy các phòng bên trong. Ngồi trên các ghế bành, đọc sách báo, uống cà-phê và tán gẫu hay nằm ườn trên ghế sofa và nhìn lên trần mơ màng là một vài trong số những cô gái trẻ đẹp nhất mà Rogan từng thấy. Một vài cô ả còn làm bộ như đang lau chùi nhà bếp và chỉ mặc có mỗi cái tạp dề buông xuống đến nửa đùi phía trước còn nguyên phía sau thì... trống trơn! Mỗi nhà đều có tấm biển: ” Ba mươi Marks cho Một Giờ Mê Ly. ”Trên một số cửa sổ màn được kéo xuống. In bằng chữ vàng trên các tấm màn đen là chữ Ausverkauft, “Hết hàng,” để thông báo một cách tự hào là có vị khách sộp nào đấy đã bao cô gái trọn đêm rồi. Có một nàng tóc vàng đang đọc sách trên một cái bàn bằng thiếc nơi nhà bếp. Cô nàng có vẻ sầu muộn ủ ê, không bao giờ liếc nhìn ra ngoài phố phường nhộn nhịp; một ít giọt cà-phê rơi ra gần quyển sách đang mở của nàng. Rogan đứng bên ngoài căn nhà và chờ cho nàng ta ngẩng đầu lên để chàng có thể mục sở thị dung nhan của nàng. Nhưng có vẻ như nàng chẳng muốn nhìn lên. Chắc là tại nàng hơi xí? Cho nên nàng mặc cảm thua chị kém em, chàng Rogan đóan già đoán non như vậy. Cho dầu thế nào đi nữa chàng cũng sẵn lòng chi cho em ba mươi Marks chỉ để có thể nghỉ ngơi thư giãn một tí trước khi bắt đầu cuộc đi bộ khá dài để trở về khách sạn. Đối với thể trạng của chàng mà để bị kích thích tình dục thì cũng không tốt lắm đâu, các vị đốc tờ đã phán như thế, và một phụ nữ với khuôn mặt xấu xí thì sẽ không làm chàng hứng chí được và như thế lại hóa hay. Với tấm bạc đó trong sọ chàng Rogan bị cấm uống rượu nặng, cấm làm tình quá độ, và ngay cả là không được giận dữ. Nhưng các vị đốc tờ lại chẳng nói gì với chàng về chuyện có được giết người hay không. Khi chàng bước vào phòng bếp được chiếu sáng choang kia chàng thấy rằng cô gái đang ngồi đọc sách đó đẹp quá đi chứ! Nàng gấp lại quyển sách với vẻ hối tiếc, đứng lên, rồi nắm tay chàng và dẫn chàng vào phòng riêng ở phía trong. Rogan cảm thấy một cơn thèm muốn nhanh chóng bốc lên khiến đôi chân chàng run rẩy, đầu chàng nặng và căng. Phản ứng của việc giết người và trốn chạy đập mạnh vào chàng và chàng cảm thấy muốn ngất đi. Chàng để rơi người xuống giường và giọng nói vi vu như tiếng sáo của cô gái trẻ dường như đến từ nơi xa xôi nào. ”Anh sao thế? Anh có đau ốm gì không?” Rogan lắc đầu và lóng ngóng với cái ví tiền của mình. Chàng lôi ra một xấp tiền để trên giường và nói,” Anh bao em trọn đêm nay. Kéo màn xuống đi. Rồi để yên cho anh ngủ. ”Trong lúc nàng trở lại nhà bếp Rogan lấy một lọ thuốc nhỏ từ túi áo sơ-mi và thảy hai viên vào mồm. Đó là chuyện cuối cùng chàng làm mà chàng còn nhớ trước khi mất ý thức và chìm vào giấc ngủ mê man. Khi Rogan thức giấc bình minh xám nhạt xuyên qua những cửa sổ bụi mờ để chào chàng. Chàng nhìn quanh. Cô gái đang ngủ trên sàn dưới một tấm nệm mỏng. Một mùi hương hoa hồng toát ra từ thân thể nàng. Rogan lăn mình để có thể ra khỏi giường ở phía bên kia. Những dấu hiệu nguy hiểm đã tan đi. Miếng bạc không còn phập phồng nữa; cơn nhức đầu cũng đã tan biến. Chàng cảm thấy thoải mái, thư thái và sung sức. Không có gì trong ví của chàng bị lấy đi. Khẩu Walther vẫn nằm trong túi áo jacket. Chàng đã “hái lượm” được một cô gái lương thiện, biết điều, Rogan thầm nghĩ. Chàng đi vòng qua phía bên kia của chiếc giường để đánh thức nàng dậy, nhưng nàng đã ngọ ngoạy đôi chân, thân hình xinh đẹp của nàng đang run lên trong cái lạnh ban mai. Căn phòng sực nức mùi hoa hồng, Rogan để ý và có nhiều hoa hồng được thêu nơi các màn cửa sổ và trên các tấm trải giường. Có cả những hoa hồng được thêu trên chiếc áo ngủ mỏng dính, hầu như trong suốt của cô gái. Nàng cười với chàng. “Tên em là Rosalie. Em thích mọi thứ với hoa hồng – nước hoa, quần áo, mọi thứ.” Nàng có vẻ tự hào một cách rất là...con gái về tính mê hoa hồng của mình, như thể điều đó đem lại cho nàng một nét riêng, đặc biệt. Rogan thấy chuyện ấy cũng vui vui. Chàng ngồi trên giường và vẫy gọi nàng. Rosalie đến và đứng giữa hai chân chàng. Chàng có thể ngửi được mùi hương dìu dịu thoảng ra từ người nàng, và trong lúc nàng từ từ cỡi chiếc áo ngủ bằng lụa ra chàng có thể thấy bộ ngực nàng với hai đầu vú như hai trái dâu chín, đôi chân trắng dài; và rồi thân hình nàng bọc quanh thân xác chàng như những đài hoa lụa mịn màng và miệng nàng với đôi môi dày nhục cảm nở hoa bên dưới miệng chàng, bối rối xốn xang, vỗ cánh phất phới với đam mê nồng nàn. *** Con của những người nhập cư Ý đến sinh sống tại khu Hell’s Kitchen của Thành phố New York, Mario Puzo sinh ngày 15, tháng mười, 1920. Sau Đệ nhị Thế chiến – trong thời gian đó ông là một Hạ sĩ của Quân đội Mỹ - ông theo học Trường Cao đẳng Thành phố New York và bắt đầu làm một nhà văn tự do. Trong thời kỳ này ông viết hai quyển truyện đầu tay "Đấu Trường Đen Tối" (The Dark Arena, 1955) và "Người Hành Hương May Mắn" (The Fortunate Pilgrim, 1965). Khi những quyển sách của ông làm ra ít tiền mặc dầu được giới phê bình hoan nghênh, ông thề phải viết ra một quyển bestseller làm rung động văn đàn. "Bố già" (The Godfather - 1969) là một thành công vang dội không chỉ tại nước Mỹ mà hầu như trên gần khắp thế giới. Ông cộng tác với đạo diễn Francis Ford Coppola để viết kịch bản cho cả ba phim Godfather và thắng giải của Hàn lâm viện Điện ảnh cho cả hai phim The Godfather (1972) và The Godfather, Part II (1974). Ông cũng hợp tác viết kịch bản cho những phim như Superman (1978), Superman II (1981), và The Cotton Club (1984). Ông tiếp tục viết những quyển truyện thành công rất ấn tượng như "Fools Die (1978)", "The Sicilian(1984)", "The Fourth K (1991)", và "The Last Don (1996)". Mario Puzo mất ngày 02, tháng bảy, 1999. Quyển truyện cuối của ông "Omerta" -(Luật Im Lặng), được xuất bản trong năm 2000. Tại Việt Nam, hầu hết các tác phẩm của Mario Puzo đều đã được Nhà xuất bản Phương Đông mua tác quyền và chuyển ngữ tiếng Việt. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) Công Lý & Báo Thù ... Mời các bạn đón đọc Công Lý & Báo Thù của tác giả Mario Puzo.