Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếng Sóng - Yukio Mishima

Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. Mishima chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Năm 1968, ông thành lập Hiệp hội Shield (Tate no Kai - Hội lá chắn) - một tổ chức bán quân sự tập hợp khoảng 100 thanh niên trai tráng với mục đích chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo Bushido, tán dương chủ nghĩa quốc gia và bảo vệ Hoàng đế Nhật. Không biết do đâu, Hội lá chắn cũng được quyền tham gia huấn luyện cùng quân đội Nhật. Ngày 25/11/1970, ông cùng những người bạn bao vây Cục Phòng vệ Nhật Bản ở Tokyo, bắt giam Tướng Kanetoshi Mashita và xúi giục quân sĩ tiến hành chính biến. Lời thỉnh cầu này của ông gặp sự phản ứng dữ dội của quân đội. Thất bại, tuân thủ tinh thần võ sĩ đạo, ngày 25/11/1970, ông đã tự sát bằng cách tự mổ bụng moi gan theo nghi thức seppuku. Trước khi chết nhà văn còn hô to: "Hoàng đế muôn năm". Cũng trong ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông giao nốt cho nhà xuất bản những trang viết còn lại của bộ cuốn tiểu thuyết The Sea of Fertility. Cái chết của Mishima được tác giả Christopher Ross miêu tả trong cuốn sách Mishima's Sword (Lưỡi kiếm của Mishima) như sau: "Lưỡi kiếm đã ngập sâu vào khoang bụng cỡ 10 cm, ông ấn lưỡi kiếm chầm chậm từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mở toác từng lớp da. Máu tràn ra lênh láng trên sàn nhà. Một cuộn nội tạng màu hồng hồng xam xám nhờ nhờ thòi ra từ vết thương. Mùi tanh nồng xông lên khắp căn phòng". Không thanh lịch, không tao nhã, nghi thức chết của Mishima cũng không hề khoa trương. Nhà văn từng gợi ý cho một nhà báo là nên quay lại cảnh ông tự sát. Nhưng họ cũng không chuẩn bị gì trước để đón nhận sự kiện này. Khoảng 2 giờ trước khi tiến hành nghi thức tự sát, ông gọi điện cho hai phóng viên và úp mở với họ rằng: "Có chuyện sắp sửa xảy ra". Cái chết của nhà văn lúc bấy giờ đã gây nên một chấn động dữ dội không chỉ với Nhật Bản mà đặc biệt là đối với người phương Tây. Nhiều học giả phương Tây đã đến Nhật Bản để tìm hiểu ý nghĩa cái chết của ông: Liệu đó là một bức thông điệp chính trị của nhà văn hay là một tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông theo tinh thần võ sĩ đạo. Cho đến nay, hầu như họ không có được câu trả lời như mong đợi. Người dân Nhật hiện đại ngày nay coi cái chết phi thường của nhà văn là vô nghĩa, là "ngớ ngẩn" và "không đáng". Tác giả của cuốn sách Mishima's Sword - Christopher Ross - kể: Trong một lần Ross đang ngồi đọc các tác phẩm của Mishima trong một hàng cà phê sách, một nhân viên cửa hàng bảo ông: "Mishima là quá khứ, không phải là hiện tại và càng không phải là tương lai". Dẫu vậy, Yukio Mishima vẫn là một tên tuổi quan trọng trên văn đàn Nhật thế kỷ 20. *** Bây giờ thì Shinji đã có thể công nhiên đến chơi gia đình Miyata. Một tối, sau khi đi đánh cá trở về, anh đứng trước cổng réo tên Hatsue mà gọi. Anh chàng mặc cái quần mới giặt, chiếc áo thể thao trắng bong, mỗi tay xách lủng lẳng một con cá điêu to tướng. Hatsue đã sửa soạn sẵn sàng và đang chờ đợi anh chàng. Hai người đã hẹn cùng nhau tới thần xã Yashiro dâng lễ tạ rồi đến ngọn hải đăng báo tin đính hôn. Bóng chiều tăm tối trong căn phòng nền đất chợt rực sáng hẳn lên khi Hatsue bước ra. Nàng mặc tấm áo mỏng mùa hè - may bằng thứ vải mua của ông lão bán hàng rong ngày nọ - in hình lá triêu nhan trên nền trắng - màu vải trắng tinh đến nỗi ban đêm cũng nhìn thấy nổi bật. Dựa lưng vào cổng, Shinji đứng chờ, thế nhưng lúc Hatsue từ trong nhà đi ra, anh chàng lại vội vã cúi mặt nhìn xuống, đưa đẩy một bàn chân đang đi guốc làm như thể đang xua đuổi côn trùng và lẩm bẩm: “Muỗi ghê quá!” “Thế hả?” Hai cô cậu cùng sóng vai đi lên những bậc thềm đá dẫn tới thần xã Yashiro. Họ có thể chạy thẳng một mạch lên tới nơi thực nhẹ nhàng nhưng lòng tràn trề hạnh phúc, họ chậm rãi bước lên từng bậc như để thích thú, say sưa tận hưởng niềm sung sướng của từng bước chân đi. Lên tới bậc thềm thứ một trăm, chàng và nàng dừng lại như tiếc rẻ không muốn lên ngay tới đỉnh. Chàng muốn cầm tay nàng nhưng hai tay vướng hai con cá điêu nên lại đành thôi. Cả thiên nhiên cũng ban ân sủng cho chàng và nàng. Khi lên tới đỉnh rồi, chàng và nàng quay nhìn chung quanh rồi đưa mắt về phía vịnh Ise. Bầu trời ban đêm đầy những sao nhưng chỉ có một vài áng mây thấp vắt ngang chân trời phía bán đảo Chita; những ánh chớp im lìm thỉnh thoảng lại lóe lên, ngoằn ngoèo phía đó. Ngay cả tiếng sóng cũng không ồn ào mà chỉ lùa tới đều đều, êm ả như thể mặt biển đang thở nhẹ trong giấc ngủ ngon lành. Đi qua khu rừng thông nhỏ, chàng và nàng tới ngôi thần xã, ghé vào lễ tạ. Chàng thanh niên cảm thấy kiêu hãnh ngập lòng khi nghe tiếng đôi bàn tay người yêu chắp lại, đập vào nhau vang vang ròn rã, ngân xa. Thế rồi chàng cũng chắp tay vái lạy. Hatsue đã cúi đầu lễ bái và đang khấn khứa thì thầm. Nổi bật trên cổ áo trắng bong, phần thịt da sau gáy nàng trông tuy xạm nắng không được trắng trẻo nhưng lại làm Shinji say sưa ngây ngất hơn là bất cứ cái cần cổ nào trắng nhất trên đời. Một lần nữa, chàng thanh niên lại nhắc nhở lại cho lòng mình niềm hạnh phúc tràn trề mà thần linh đã thực sự ban cho theo đúng những lời mình cầu nguyện. Chàng và nàng nguyện cầu, khấn vái một lúc lâu nữa. Vì chưa bao giờ nghi ngờ sự gia hộ của thần linh nên hai người có thể cảm thấy cả sự gia hộ ấy bao trùm quanh khắp thân mình. Phòng việc của thần xã thắp đèn sáng choang. Shinji cất tiếng gọi và ông thủ từ liền thò mặt ra bên khung cửa sổ. Shinji trình bày qua loa mấy nét chính của câu chuyện nhưng vì anh chàng nói năng có vẻ mơ hồ nên trong một lúc, ông thủ từ chẳng hiểu rõ đầu đuôi hai cô cậu định kéo nhau lên đây làm gì. Nhưng cuối cùng nghe mãi cũng hiểu nhất là khi Shinji đưa ông con cá điêu bảo để làm lễ vật dâng lên thần linh. Nhận món quà biếu từ biển cả đưa lên, ông thủ từ còn được nhắc nhở là ông sẽ được mời dự lễ cưới của chàng và nàng; ông tỏ lời chúc tụng nồng nhiệt cho cả hai cô cậu. Vượt con đường mòn qua khu rừng thông nhỏ phía sau ngôi thần xã, chàng và nàng lại đắm mình trong hương đêm mát dịu êm đềm. Tuy mặt trời đã lặn từ lâu nhưng những con ve sầu hãy còn kêu ra rả. Con đường đất nhỏ dẫn lên ngọn hải đăng dốc tuột thực là nguy hiểm, lúc này một tay rảnh rang không còn vướng mắc gì nữa, Shinji mới nắm tay Hatsue trong tay mình và nói: “Anh đang tính sẽ học thi lấy bằng đệ nhất hàng hải phó quan. Mình có thể học để lấy bằng khi trên hai mươi tuổi, Em ạ!” “Ồ! Như vậy thì hay tuyệt!” “Đến lúc lấy được bằng, anh nghĩ chúng mình cưới nhau là vừa đẹp”. Hatsue không đáp, chỉ e thẹn mỉm cười. Họ đi vòng theo Dốc Bà tới nhà ông trưởng đài hải đăng. Chàng thanh niên lên tiếng chào hỏi như thường lệ ngay khi vừa tới khung cửa kính - nơi họ có thể nhìn thấy bóng bà chủ nhà đi qua đi lại trong lúc làm cơm. Bà chủ nhà mở cửa. Đứng trong tối nhìn ra bà thấy chàng thanh niên và vị hôn thê của anh chàng đang đứng dùng dằng nửa vào, nửa không. “Ồ! hai cô cậu đây rồi, vào nhà đi!” Bà vợ lớn tiếng gọi ra rồi đưa cả hai tay đón nhận con cá to mà Shinji chìa về phía mình. Rồi bà gọi vói vào trong nhà: “Bố nó ơi! Chú Shinji lại đem cho mình con cá điêu đẹp quá là đẹp!” Đang ngồi nghỉ thoải mái trong phòng, ông trưởng đài hải đăng nói vọng ra nhưng vẫn chưa đứng dậy: “Cảm ơn vô cùng. Và lần này, có lời chúc mừng nữa đấy. Hãy vào nhà chơi, vào nhà chơi một lúc đã nào”. Bà trưởng đài nói thêm: “Vào một chút đã nào! Ngày mai em Chiyoko nó cũng về thăm nhà nữa đấy!” Chàng thanh niên chẳng hề hay biết chút gì về những cảm động mình đã khơi dậy trong lòng Chiyoko cùng những khắc khoải nội tâm mà nàng đã chịu đựng vì mình, nên anh đã nghe câu nói đột ngột của bà mẹ mà cũng chẳng thấy một ý nghĩa gì đặc biệt. Vì bị giữ lại ăn cơm tối, chàng và nàng đã nấn ná thêm tới hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó ông trưởng đài hải đăng lại quyết định dẫn cả hai cô cậu đi một vòng xem ngôi hải đăng trước khi ra về. Vì mới trở về đảo nên Hatsue chưa được thấy bên trong ngôi hải đăng một lần nào cả. Thoạt tiên, ông trưởng đài dẫn họ lên xem căn phòng trực nho nhỏ. Muốn đi từ khu nhà ở tới đây, họ phải đi men theo mảnh vườn rau nhỏ bé, nơi vừa mới gieo hạt thìa là hôm trước, rồi trèo lên những bậc thềm xi-măng. Trên cao là ngọn hải đăng dựa lưng vào vách núi và cái phòng trực ngay mép vách đá dốc tuột, dựng đứng, đâm thẳng xuống mặt biển. Ánh ngọn đèn pha trên ngôi hải đăng trông giống như một cột sương mù óng ánh, quét từ bên phải sang bên trái qua gồi phòng trực, phía trông ra ngoài biển. Người gác mở cửa phòng trực, bật đèn lên. Ba người trông thấy những cây thước tam giác định quy treo lủng lẳng trên khung cửa sổ, cái bàn giấy thu xếp hết sức ngăn nắp với tấm bảng ghi tàu bè qua lại và cái kính viễn vọng đặt trên một cái giá ba chân quay mặt về phía các cửa sổ. Ông trưởng đài hải đăng mở một cửa sổ, điều chỉnh viễn vọng kính rồi hạ xuống cho vừa tầm mắt Hatsue. Nàng nhìn qua kính viễn vọng, dừng lại một lúc, lấy tay áo lau ống kính rồi nhìn lại lần nữa, buột một tiếng kêu vui thích: “Ôi, đẹp quá chừng!” Thế rồi trong khi Hatsue xoay ống kính về các đốm sáng ở nhiều phương giác khác nhau, Shinji dùng ngay đôi mắt thị lực mạnh mẽ, sắc bén của mình mà nhìn theo và giải thích cho nàng nghe. Dán chặt mắt vào kính viễn vọng, Hatsue trước tiên chỉ về hàng chục điểm sáng lốm đốm trên mặt biển về phía Đông nam: Những điểm sáng ấy ư? Đó là ánh đèn trên ngọn đèn trên mặt biển đều tìm thấy một hình ảnh chiếu ứng trong vô số các vì sao ở một nơi nào đó trên bầu trời. Ngay trước mặt là ánh đèn từ ngọn hải đăng trên mỏm Irako. Phía sau ngọn hải đăng ấy là ánh đèn rải rác khắp thành phố trên mỏm Irako và ở phía trái những ánh đèn trên đảo Shino lấp lánh tỏ mờ. Thật xa về phía trái, họ có thể nhìn thấy ngọn hải đăng trên mũi Noma tại bán đảo Chita. Bên phải ngọn hải đăng này là những chùm ánh sáng trên hải cảng Toyohama - ở ngay giữa là ngọn đèn trên cái đê ngăn sóng của hải cảng. Và xa hơn, chếch sang bên phải là ngọn đăng đài hàng không lung linh nhấp nháy trên đỉnh núi Oyama. Hatsue một lần nữa lại buột ra một tiếng kêu thích thú. Một chiếc tầu chở hàng vượt đại dương to lớn vừa đi vào tầm kính viễn vọng. Đối với mắt thường thực khó mà nhìn ra, tuy nhiên trong lúc con tầu hiên ngang tiến vào tầm viễn vọng kính, thì nó ghi vào ống kính một ảnh tượng uyển chuyển, đẹp đẽ, nổi bật đến nỗi chàng thanh niên và nàng thiếu nữ phải thay phiên nhau ghé mắt vào ống kính mà ngắm nhìn. Hình như đó là một chiếc tầu chở cả hàng hóa lẫn hành khách trọng tải đến hai ba ngàn tấn. Trong một căn phòng bên ngoài boong đi dạo mát họ có thể nhìn thấy rõ ràng nhiều chiếc bàn trải khăn trắng và một số ghế ngồi. Không thấy một bóng người ở đó. Căn phòng có vẻ là phòng ăn và trong lúc họ đang ngắm nghía bức vách lát gạch hoa men trắng thì bất thình lình, một người bồi bàn mặc quần áo trắng từ bên phải bước vào rồi đi về phía những khung cửa sổ. Trong khoảnh khắc, con tầu thắp đèn xanh ở đằng mũi cũng như đằng đuôi, vượt ra ngoài tầm viễn vọng kính rồi lướt vào thủy đạo Irako đi ra Thái Bình Dương. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Sóng của tác giả Yukio Mishima.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đội Trinh Sát Và Con Chó Sara
Cuốn sách thuộc loại tiểu thuyết chiến tranh, thông qua câu chuyện về chú chó Sara được một anh bộ đội Việt Nam nhặt được trên vỉa hè gần bến cá ở Kampong Ch’nang, Campuchia. Nhờ cặp móng huyền đề, sự thông minh, nhanh nhẹn và sự trung thành, Sara thoát khỏi món “rựa mận” và gia nhập vào “đời lính”. Một trang sử được lột tả một cách chân thật và gần gũi thông qua những mẩu chuyện xung quanh chú chó Sara và các anh bộ đội Việt Nam trong quá trình đấu tranh chống lại tội ác diệt chủng của Kh’mer Đỏ. *** "Với Sara, khẩu DKZ 75 ly chỉ là một con chó điên, sủa ra lửa cả đằng đầu lẫn đằng đuôi. Một con chó vô dụng dài ngoằng, không có lông và hay gây phiền nhiễu. Đã thế, có mỗi ba chân, thua hẳn nó một chân nên trông thậm vô lý và buồn cười…". Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết chiến tranh đang được chú ý trên văn đàn có tên Sara - nghĩa là "Rượu" trong tiếng Campuchia - một con chó nhách có huyền đề kép lang thang xin ăn được Phong lượm về ở bến cá bên bờ Tonle Sap. Từ mối duyên lành đó, số phận của nó gắn liền với số phận những người lính trinh sát thuộc một tiểu đoàn chủ lực, dọc ngang mọi nẻo chiến trường trên đất nước Chùa Tháp. Văn thơ Việt Nam có nhiều trang viết về vùng thôn quê mộc mạc, đơn sơ cùng sự xuất hiện của những chú chó trung thành là vật nuôi giữ nhà, là người bạn thân thiết của con người; tạo dựng nên những thông điệp nhân văn sâu sắc trong các tác phẩm văn học nổi tiếng như Đôi mắt, Lão Hạc… Việc đưa loài vật trở thành nhân vật trong văn học không hề đơn giản nếu thiếu sự quan sát tinh tế hay cảm nhận sâu sắc về thế giới muôn màu muôn vẻ. Trong cuốn sách Đội trinh sát và con chó Sara, nhà văn Trung Sỹ đã khéo léo đưa hình ảnh chú chó xuất hiện ngay từ tên tác phẩm và xuyên suốt cốt truyện, khêu gợi sự háo hức, tò mò của độc giả. Sara không khác với các con chó trung đội Phong từng bầu bạn và… chén thịt trước đây nhưng nó đã thoát chết do sở hữu cái huyền đề kép theo kinh nghiệm dân gian là quý tướng loài cẩu hay vì sự trống vắng, tàn khốc do chiến tranh gây ra? Đội trinh sát 12 người, đã tử trận 4, anh em chí cốt lần lượt ra đi để lại quá nhiều khoảng trống lạnh lẽo, sự trống vắng thấu tim cảm nhận rõ rệt nhất trong những ca gác đêm mỗi đầu hai vọng. Vậy là Sara không bị giết, được ăn cơm lính và trở thành đứa bạn đêm trường thính tai, biết sủa, đỡ đần các ca gác thiếu người… Những con chó trung thành vẫn luôn xuất hiện như thế, khi mà người ta khốn khó, cô độc và đau thương nhất! Anh bạn bốn chân này được tác giả miêu tả như một nhân vật rất khôn ngoan và tình cảm. Sara thấu hiểu từng ngõ ngách tâm tư của các ông chủ, biết thân biết phận thực thi nhiệm vụ được giao nhưng cũng luôn đòi hỏi được đối xử công bằng, đúng tinh thần "chó có suất". Tình cảm giữa chú chó hoang và những người lính ngày càng khăng khít sau những lần "tác chiến" bắt rắn mối, băng qua "cơn mưa" đạn pháo hay đối diện với những mẩu vụn thịt người rã nát, thối khắm nồng nặc… Ấn tượng nhất là những phen cứu mạng thót tim: trong một lần đánh chiến dữ dội, Sara với linh tính của chú chó chiến, đã kịp thời báo cho chủ về quả lựu đạn M67 giấu trong áo một đứa trẻ. Sự ví von "len lét như rắn mùng năm, cúp đuôi như chó sợ pháo" không đúng với Sara khi chú đã quá quen thuộc với chiến trường rền vang tiếng đại bác gầm, tiếng hỏa lực tức ngực nổ gần. Chú thành thạo nằm áp xuống đất, dạt ngang né bom rơi đạn lạc... Tác giả khắc họa Sara như một "nhân chứng" chiến tranh ấn tượng, chú vật vã đi tìm dấu vết chủ của mình, dù bị bỏ quên vẫn quay về sau mấy ngày lưu lạc như một lữ khách chân chính. Tình nghĩa keo sơn đâu phải một sớm một chiều nên bắt gặp một mùi hương quen thuộc, hay cử chỉ búng tay của anh lính lạ cũng khiến nó bồi hồi, xao xuyến. Sara qua ngòi bút Trung Sỹ được nhân cách hóa vô cùng sinh động, biết sán đến ve vãn các nàng chó như một gã "trai lơ" bụi bặm đích thực; biết vênh váo, hãnh diện khoe chiến tích trước sự thán phục của bầy chó cái; biết giả vờ nịnh bợ các ông chủ; biết đau đớn, tức tưởi khi bạn tình bị giết; biết nhớ nhung tình nghĩa với cô chủ cũ… Cuốn theo những trang sách, độc giả cảm nhận hai năm chinh chiến dường như dài bằng nửa đời người. Những mảnh xác người vương vãi khắp chốn, chiếc bi đông cạn khô khai nồng mùi nước tiểu, đôi mắt trõm sâu một em bé gần chết đói đăm đăm nhìn nắm cơm vắt của Phong hay xác con voi đen toác bụng ngầu máu đỏ? Chưa ở đâu, ranh giới giữa sự sống và cái chết là mong manh nhường vậy: "Tử thần hóa trang giấu mặt bao giờ cũng nguy hiểm và đáng sợ. Một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh, một thiên nhiên thật thà hoang dã bội nhiễm bởi những trái mìn dày đặc. Mìn dày như những cái gai độc cắm vào lòng trái đất. Chớ nên tin một khóm lan rừng đang ra hoa, một bụi sâm tươi tốt, một bãi nghỉ râm mát, một bờ suối trong lành. Tất cả có thể đã bị gài mìn". Cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Phong bị thương nặng phải chuyển viện tuyến trên. Ở cứ, Sên hy sinh vì dính đạn nhọn của kẻ thù khi truy quét ở núi Tà Đạt, Phương ôm trọn trái mìn KP2 lúc ra Krako nhận thuốc đem về Svay Chek tiêm chủng cho trẻ con… Và Sara vẫn âm thầm đồng hành cùng họ! Sara đôi khi là hiện thân của những người lính can trường nhưng cũng bị bủa vây bởi nỗi cô đơn. Họ có thể không màng đến tính mạng trong những trận đánh sinh tử nhưng đêm về vẫn đối diện với bao khát khao rất đời thường, dằn vặt nỗi nhớ nhà, cháy bỏng trong tim ước mơ hòa bình và ngày về bình yên trong vòng tay mẹ. "Có những thứ trên đời kim bất hoán, là tính mạng người lính, bây giờ không phải của anh mà thuộc về mẹ anh đang trông chờ…". Cách tiếp cận và miêu tả chiến tranh của tác giả với sự xuất hiện của Sara khiến cho cuộc chiến bớt phần nào bi thương, áng văn cuồn cuộn chất lính, thấm thía chất đời và để lại trong lòng người đọc thật nhiều suy ngẫm, day dứt khôn nguôi: "Sara ươn ướt mắt, âu yếm ngắm ân nhân cũ trong chiếc áo vá rộng thùng thình của Phong. Bóng đêm giấu bớt đi vẻ khổ hạnh, phô ra những nét thanh tú của cô chập chờn trong ánh lửa. Hương ngọt đường cô chủ ngày xưa giờ có thêm mùi mồ hôi mặn vai áo lính. Đã lâu lắm những mùi đời thường thân quen này mới trở lại…". Gia nhập làng văn chưa lâu nhưng "lính mới" Trung Sỹ (tên thật là Xuân Tùng, sinh năm 1960) đã có những tác phẩm nổi tiếng về đề tài chiến tranh và Hà Nội. Xuất thân là trai Hà Thành chính hiệu, từng đi qua thời "mũ rơm", "tem phiếu", đồng thời là một người lính bộ binh đã tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, những trang viết của ông vừa mang nét tài hoa duyên dáng, vừa thấm đẫm những nguyên liệu chắt lọc từ thực tế. Chuyện lính Tây Nam viết về quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn Campuchia những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX gây được tiếng vang lớn trên văn đàn. Điều này khích lệ tác giả viết tiếp tiểu thuyết Đội trinh sát và con chó Sara (NXB Lao Động - 2020)... Không quá khốc liệt như Chuyện lính Tây Nam nhưng Đội trinh sát và con chó Sara giúp người đọc hình dung được những khó khăn, hiểm nguy chết chóc luôn rình rập tấn công người lính tình nguyện Việt Nam đóng quân ở Svay Chek. Sự hiện diện của quân tình nguyện Việt Nam là chỗ dựa vững chắc cho Xã trưởng Sok Un, Xã đội trưởng Loung, cô giáo Chanrithy và bà con ở Svay Chek chung tay xây dựng cuộc sống mới... Là cây bút bước ra từ chiến trường, trực tiếp đối mặt với quân diệt chủng, nhà văn Trung Sỹ không chỉ viết bằng ngòi bút mà bằng mọi giác quan, bằng cả hơi thở gấp gáp và trái tim bị bóp nghẹt. Chính điều đó đã tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả! Được biết đến là một trong những thương hiệu sách đi đầu về dòng sách quản trị kinh doanh/ phát triển kỹ năng trong ngành xuất bản với các cuốn sách hướng dẫn khởi nghiệp, các bài học, phương pháp và kinh nghiệm quản trị của các chuyên gia, các hãng và tập đoàn nổi tiếng trên thế giới. Nổi bật với các cuốn sách: HBR Onpoint, Quốc gia khởi nghiệp, Trí tuệ Do Thái, Phi lý trí, Tư duy nhanh và chậm, Tiểu sử Steve Jobs, Thiên nga đen, Chiến lược đại dương xanh, Phù thủy sàn chứng khoán,.. Sau 16 năm hình thành và phát triển, Alpha Books đang từng bước khẳng định tên tuổi của mình, đặc biệt đối với các thế hệ doanh nhân, nhà quản lý và những người trẻ luôn khát khao xây dựng sự nghiệp thành công. *** Là cây bút bước ra từ chiến trường, trực tiếp đối mặt với quân diệt chủng, tận mắt thấy những xác người không toàn thây sau những thảm sát phi nhân tính, giọng văn của Trung Sỹ không chỉ có cái mùi khói đạn đặc trưng mà còn có mùi đắng hắc của ký ninh, mùi vết thương hoại, mùi xác chết đang trương, mùi tanh gây của máu, của những mảnh nhuyễn thịt vụn thân người người trộn lẫn với khói đen khét lẹt. Có lẽ, ông không chỉ viết bằng bút mà bằng mọi giác quan, bằng súng! Trên đường hành quân, trong trùng vây rừng khộp, bất cứ nơi nào, người lính Việt Nam tình nguyện cũng có thể phải đối mặt với đói khát, với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ, bom đạn, quân thù, khiến ranh giới giữa sự sống và cái chết trở thành mong manh: “Một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh, một thiên nhiên thật thà hoang dã đã bội nhiễm bởi những trái mìn dày đặc. Mìn dày như những cái gai độc cắm vào lòng trái đất. Chớ nên tin một khóm lan rừng đang ra hoa, một bụi sâm tươi tốt, một bãi nghỉ râm mát, một bờ suối trong lành… Tất cả có thể đã bị cài mìn”. Chứng kiến nhiều cái chết đau đớn của đồng đội, người chết khát giữa rừng, người liệt tim vì bị rắn cắn, nhiều người bị mảnh bom găm vào da thịt, cắt lìa tay, chân, chết dần mòn trong đau đớn kéo dài, đến mức tác giả chỉ ước nếu lỡ tử thần có dạo bước ghé thăm thì được chết tốt bởi một loạt đạn bắn gần hay một trái mìn chớp nổ. Chết tốt là phải chết ngay! Cái chết tức thì nhẹ nhàng, không đớn đau khắc khoải. Bối cảnh cuộc chiến được tái hiện qua thể loại tiểu thuyết chiến tranh với hai tuyến nhân vật đối nghịch và kết thúc có phần có hậu, song có lẽ như lời thề của lính, Trung Sỹ đã rất mực tôn trọng sự thật. Bên cạnh những trang viết nhuốm màu huyền bí mô tả trận lốc ma cuốn dựng thảm lá khô nơi bìa rừng hay những đoạn tái hiện vẻ u tịch bí hiểm của một ngôi đền hoang giữa rừng khộp nắng hun là sự đói khát của những chàng lính trẻ trong rừng sâu núi thẳm, là những lần phải uống nước tiểu của chính mình để qua cơn khát. Bên cạnh những cảm tình trai gái lãng mạn, những đụng chạm da thịt đầy rạo rực đưa đẩy hồn yêu và khát khao tuổi trẻ là những “nỗi buồn chiến tranh”, những đêm gác trõm mắt, những trận sốt rét rừng quằn quại, là nỗi nhớ mong khắc khoải quê nhà. Là phút phân vân vì bản năng sống, là lúc hoang mang nghĩ tới cái chết. Là ước mong đến ngày giải ngũ, về đến ngõ nhà gặp mẹ, gặp em, để sống nốt những tháng năm tuổi trẻ. Những chất liệu thô tháp ấy, những tình cảm rất thật của con người ấy khó lòng mà hư cấu nổi. Cũng qua Đội trinh sát và con chó Sara, người đọc có thể hình dung phần nào đời sống đen tối và số phận khổ hạnh của con người ở đất nước chùa Tháp trong thời kỳ này.  Rõ ràng, chiến trường Tây Nam để lại trong những người lính chiến những ký ức ám ảnh chẳng kém một trận địa khốc liệt nào trên dải đất Việt nhiều thương đau, nhưng bao trùm và xuyên suốt trong hình tượng người lính vẫn là tấm lòng yêu thương, nỗi nhớ mong tha thiết đối với gia đình, Tổ quốc, vẫn là ước vọng hòa bình và đoàn tụ...   Mời các bạn mượn đọc sách Đội Trinh Sát Và Con Chó Sara của tác giả Trung Sỹ.
Bà Nội Găngxtơ
Bà nội của Ben là một bà nội chuẩn không cần chỉnh - bà có tóc bạc, răng giả, và giấy ăn giắt đầy tay áo. Bà chỉ thích ăn mỗi món bắp cải và chơi trò xếp chữ. Theo Ben thì bà chán kinh khủng. Cho đến khi cậu phát hiện ra bí mật vĩ đại của bà: Bà là một tên trộm nữ trang quốc tế! Hết sảy nhất là bà còn đang lên kế hoạch cho vụ trộm nữ trang đỉnh nhất từ trước đến giờ - trộm bộ Báu vật Hoàng gia từ Tháp London! Đã thế Ben còn có thể tham gia! Thế là tối thứ Sáu ở nhà bà nội bỗng trở thành ngày hào hứng nhất tuần! Và vụ trộm đã kết thúc theo một cách không ai ngờ tới nhất... "Trong tuyệt phẩm này, Walliams đã cân bằng giữa hài kịch đỉnh cao với một thông điệp đầy xúc động." *** Review sách “Bà nội Găngxtơ” – David Walliams Bài review này dành cho những bạn đã và đang tò mò về cuốn sách mà phân vân không biết có nên rước em nó về không? Thì câu trả lời là có nha. Rước lẹ ạ Cuốn truyện vẫn lôi cuốn mình như lần đầu mình đọc nó. Bạn nghĩ nó là một câu chuyện hài hước ư, chỉ một phần thôi. Bởi sâu trong nó là rất nhiều ý nghĩa về gia đình, đời sống xã hội và cả những ẩn khuất của cuộc sống hiện đại, nơi mà những người như bà nội của Ben không tìm được ý nghĩa cho những ngày còn lại ngắn ngủi của bà. Bà nội của Ben là hình mẫu điển hình y hệt như những bà nội khác. Tóc bạc xoăn tít, kính đít chai, răng giả, máy trợ thính đeo trên tai. Bà luôn có khăn giấy dùng rồi trong túi áo khoác và người bà lúc nào cũng sặc mùi bắp cải. Đối với Ben bà nội chán thôi rồi. Thế nhưng rồi trong một ngày chán phải biết khi ở với bà nội, Ben phát hiện ra một chuyện kinh thiên động địa. Bà nội của cậu là một Găng x tơ chính hiệu, một tên trộm nữ trang quốc tế. Khỏi phải nói Ben bàng hoàng cỡ nào, cậu không thể ngờ rằng bà nội của mình lại ngầu bá cháy con bọ chét như thế. Thế rồi cái nhìn của Ben về bà nội quanh ngoắt 180 độ. Cậu hâm mộ bà ghê gớm. Rồi câu chuyện tiếp diễn, mang theo những tình tiết dở khóc dở cười dành cho Ben, mang đến cho cậu biết bao nhiêu là rắc rối. Thế nhưng chính những điều ấy khiến Ben nhận ra một sự thật đến đau lòng, bà nội của cậu cô đơn đến mức nào, và bà yêu cậu tới mức nào. Khoảnh khắc khi Ben chuẩn bị rời khỏi phòng bệnh của bà, cậu ngập ngừng quay lại và nói với bà nội: “Cháu yêu bà, bà nội ạ.” đã thực sự chạm đến trái tim mình. Đó không phải là lời nói an ủi, cũng không phải là sự bồng bột. Mà đơn giản nó là điều đã tồn tại trong trái tim bé nhỏ của cậu nhóc từ lâu rồi, chỉ là bây giờ cậu mới nhận ra nó. Câu chuyện còn có một điểm rất thú vị đối với mình nữa đó là việc Ben có một đam mê mãnh liệt với việc trở thành một thợ sửa ống nước. Eo ôi! Có lẽ là điều đầu tiên mà người lớn nghĩ ngay khi biết được ước mơ của cậu, ngay cả cha mẹ của Ben cũng phải vô cùng thất vọng về cái ước mơ của con trai mình. Trong khi những đứa trẻ cùng trang lứa mơ ước những điều lớn lao, nào là trở thành ngôi sao, trở thành bác sĩ này nọ, thì Ben lại chỉ thích làm một thợ sửa ống nước. Thế thì sao chứ, đó là giấc mơ của một cậu bé và người lớn chúng ta hoàn toàn không có quyền để phán xét nó. Ai cũng có một ước mơ, và chúng ta làm tất cả mọi việc để theo đuổi nó, bằng chính sức lực của mình. Đó vốn đã là một điều tuyệt vời rồi đấy thôi. Mà còn tuyệt vời và lạ lùng hơn nữa là chính cái ước mơ tưởng chừng như dở hơi và quái đản ấy đã giúp cho Ben có một kế hoạch để đời cùng với bà nội ngầu bá cháy của mình. Liệu một cậu nhóc mê sửa ống nước và tay trộm nữ trang quốc tế đã rụng gần hết răng có thực hiện được phi vụ lớn nhất quả đất, mà theo lời Ben là sẽ gây chấn động đến toàn cầu này không. Hai bà cháu sẽ trót lọt chứ? Nếu bạn thực sự tò mò, hãy đọc nó nhé. Câu chuyện không quá dài này sẽ đem đến cho bạn trọn vẹn những cung bậc cảm xúc từ thú vị, hài hước đến những phút chạm nhẹ và sự cảm động tới tận trái tim. Review của độc giả Nguyễn Châu – Nhã Nam reading club *** Cảm ơn mọi người:   Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến một vài người đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này. Đầu tiên là Tony Ross siêu tài năng với những bức tranh minh họa kỳ diệu. Tiếp theo là Ann-Janine Murtagh, người đứng đầu sáng suốt bộ phận sách thiếu nhi của HarperCollins. Nick Lake, người bạn và biên tập viên mẫn cán của tôi. Hai nhà thiết kế tuyệt vời James Stevens - thiết kế bìa và Elorine Grant - xử lý văn bản. Người dàn trang vô cùng tỉ mỉ của tôi, Lizzie Ryley. Samantha White và những nỗ lực giúp sách của tôi được phát hành. Tanya Brennand-Roper đáng mến, người sản xuất phiên bản audio của cuốn sách này. Và tất nhiên là người đại diện văn học luôn thấu hiểu của tôi, Paul Stevens từ công ty Independent. Trên hết, chú muốn cảm ơn các bạn đọc nhí đã đọc sách của chú. Chú chân thành biết ơn vì các cháu đã đến gặp chú ở buổi ký tặng, viết thư rồi gửi cho chú tranh vẽ của các cháu. Chú thực sự thích kể chuyện cho các cháu nghe. Chú cũng mong mình có thể nghĩ ra nhiều câu chuyện hơn nữa. Cứ tiếp tục đọc sách đi nhé, rất tốt cho các cháu đấy! *** “Nhưng mà bà nội chán lắmmmm,” Ben nói. Đó là một tối thứ Sáu giá lạnh của tháng Mười một, và như mọi khi, cậu nhóc ngồi thõng người ở hàng ghế sau xe bố mẹ. Và một lần nữa, cậu lại đang trên đường đến ngủ ở căn nhà khủng khiếp của bà nội. “Người già ai cũng thế.” “Đừng có nói về bà nội con như thế,” bố nói yếu ớt, cái bụng bia tì lên tay lái chiếc xe màu nâu bé tẹo của gia đình. “Con ghét ở với bà,” Ben phản đối. “Ti vi nhà bà không bật được, lúc nào bà cũng muốn chơi xếp chữ và bà còn bốc mùi bắp cải nữa!” “Công bằng mà nói, bà bốc mùi bắp cải thật,” mẹ đồng tình trong khi cố tô nốt son viền lên môi. “Nói thế chẳng giúp được gì đâu vợ,” bố lẩm bẩm. “Cùng lắm mẹ anh chỉ hơi có mùi rau luộc thôi.” “Con đi với bố mẹ được không ạ?” Ben nài nỉ. “Con thích trò khiêu khích,” cậu nói phét. “Người ta gọi đó là khiêu vũ,” bố chữa lại. “Và con không hề thích môn đó. Con đã nói, để bố nhắc lại nhé, ‘Con thà ăn gỉ mũi còn hơn xem thứ nhảm nhí đó’.” Bố mẹ Ben đều rất thích khiêu vũ. Đôi khi Ben nghĩ bố mẹ còn yêu môn đó hơn cả yêu cậu. Có một chương trình truyền hình vào tối thứ Bảy mà bố mẹ không bao giờ bỏ lỡ tên là Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo, nơi các ngôi sao sẽ nhảy cặp cùng vũ công chuyên nghiệp. Thực ra, nếu có một đám cháy ở nhà Ben và mẹ chỉ có thể cứu được hoặc là chiếc giày bịt mũi màu vàng lấp lánh từng được Flavio Flavioli sử dụng (gã vũ công đào hoa người Ý với làn da rám nắng lấp lánh bóng loáng xuất hiện trong mọi kỳ của chương trình truyền hình tiếng tăm kia) hoặc đứa con trai duy nhất của mình, Ben nghĩ mẹ có lẽ sẽ cứu chiếc giày. Tối nay, bố mẹ cậu sẽ đến tận trường quay để xem trực tiếp chương trình Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. “Mẹ không hiểu sao con không chịu từ bỏ cái giấc mơ viển vông muốn trở thành thợ sửa ống nước để nghĩ về khiêu vũ chuyên nghiệp đi Ben ạ,” mẹ nói và đường son môi ngoác hẳn lên tận má khi chiếc xe nẩy tưng trên một con lươn giảm tốc mấp mô. Mẹ có thói quen trang điểm trên xe, khiến cho lúc đến được nơi cần tới, trông mẹ chẳng khác gì một tên hề. “Biết đâu, chỉ là biết đâu thôi nhé, cuối cùng con lại được lên Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo!” mẹ hào hứng nói thêm. “Vì nhảy chồm chồm như vậy thật là ngốc nghếch,” Ben nói. Mẹ hơi thút thít rồi với tay lấy giấy ăn. “Con làm mẹ buồn đấy. Giờ thì yên lặng và ngoan ngoãn đi Ben,” bố trả lời kiên quyết trong khi bật to loa trên xe. Hiển nhiên, đó là một đĩa Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. 50 tuyệt phẩm vàng của chương trình truyền hình đình đám được in rõ nét trên bìa đĩa. Ben ghét cái đĩa này, không phải chỉ vì cậu đã nghe nó đến cả tỷ lần. Thực tế thì cậu đã nghe quá nhiều lần đến nỗi việc này giờ chẳng khác gì tra tấn. Mẹ Ben làm việc trong một tiệm làm móng trong vùng, “Tiệm sửa móng Gail”. Vì chả có mấy khách nên mẹ và một cô nữa làm việc tại đây (chẳng có gì bất ngờ khi cô đó tên là Gail) gần như cả ngày chỉ toàn ngồi sửa móng cho nhau. Đánh bóng, làm sạch, tỉa móng, giữ ẩm, sơn phủ, gắn móng, sơn bóng, giũa móng, sơn móng, nối dài và vẽ móng. Hai người cứ làm mấy thứ đó cho nhau suốt cả ngày (trừ lúc Flavio Flavioli xuất hiện trên ti vi). Thế nên mẹ sẽ luôn về nhà với bộ móng giả đủ màu dài hết cỡ. Trong khi đó, bố Ben làm bảo vệ trong siêu thị địa phương. Điểm sáng trong hai mươi năm sự nghiệp của bố chỉ là chặn được một ông già đã giấu hai ống bơ thực vật trong quần. Mặc dù bây giờ đã quá béo để đuổi trộm, bố chắc chắn vẫn có thể chặn đường chúng. Bố gặp mẹ khi tưởng nhầm mẹ định thó một túi bim bim của cửa hàng, và chỉ một năm sau hai người lấy nhau. Mời các bạn mượn đọc sách Bà Nội Găngxtơ của tác giả David Walliams & Snorlax (dịch).
Tình Yêu Vị Kem Ý
"Ai đó đã nói người ta đến Ý để nếm mật ngọt tình yêu và vị kem gelato, nhưng đôi khi họ còn tìm thấy nhiều điều hơn thế." Năm mười sáu tuổi, sau khi mẹ qua đời, Lina một mình đến Ý để sống cùng một người được giới thiệu là bố của mình. Nhưng người bố nào lại vắng mặt trong suốt mười sáu năm cuộc đời của con gái mình cơ chứ? Và hơn thế, khi đến nơi Lina mới biết ông ấy đang sống trong một nghĩa trang. Những nỗi buồn mất mát vẫn đeo bám Lina, cùng lúc cô bé phải học cách hòa nhập với cuộc sống mới, tại một nơi hoàn toàn xa lạ, giữa nghĩa trang vắng lặng nơi nước Ý xa xôi. Tình cờ nhận được cuốn nhật kí của mẹ kể về quãng thời gian sống ở Ý trước đây, Lina bị cuốn vào một hành trình đặc biệt. Cô đã đi theo những nẻo đường mẹ cô từng đi, khám phá những vẻ đẹp ẩn giấu lãng mạn và cổ tích của nước Ý, đồng thời cũng hé mở một bí mật đã bị chôn vùi bấy lâu. Bí mật đó sẽ thay đổi tất cả những gì Lina từng biết về cuộc đời mình. Một cuốn sách ra mắt vào mùa hè này, sẽ đưa bạn đến với nước Ý - của tình yêu, tuổi trẻ và những sự lựa chọn trong đời... *** Review Nhi Nguyễn:   “Cháu biết đấy, người ta đến Ý vì nhiều nguyên do, nhưng khi họ ở lại thì chỉ vì hai điều.” “Là gì ạ?” “Tình yêu và kem gelato.” “Tình yêu vị kem Ý” là cuốn tiểu thuyết Young Adult cực kỳ hợp để đọc trong mùa hè, không chỉ bởi vì khoảng thời gian diễn ra câu chuyện là vào mùa hè ngập nắng tại Florence - một trong những thành phố đẹp tuyệt của nước Ý, với kem gelato cùng những công trình kiến trúc cổ kính, đặc trưng cho cả một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật Phục hưng. Cuốn sách này hoàn hảo cho mùa hè của bạn, còn bởi vì nó ẩn chứa một câu chuyện tình yêu bí mật, được kể qua những trang nhật ký của một người đã khuất, dẫn dụ nhân vật chính cùng người bạn của mình đến với một chuyến phiêu lưu tìm ra sự thật cuối cùng, mà mùa hè là mùa của những chuyến phiêu lưu, du lịch, khám phá mà ^^ Khi mẹ của Lina - một cô bé 16 tuổi không biết cha mình là ai - qua đời vì căn bệnh ung thư tuyến tụy, bà đã gửi gắm Lina đến sống với chú Howard - một người bạn cũ của bà thời bà còn học đại học tại Florence. Bà ngoại của Lina ngỡ rằng điều này có nghĩa Howard chính là cha ruột của Lina, và hết sức khuyên nhủ cháu gái mình hãy lên đường đến với miền Trung Ý để đón nhận cha của mình. Lina miễn cưỡng ra đi, đến sống với người đàn ông đã từng có thời thân thiết với mẹ của cô, nhưng đối với cô là hoàn toàn xa lạ, ngay tại nghĩa trang dành cho lính Mỹ đã hy sinh tại Ý trong Chiến tranh thế giới thứ hai - nơi chú Howard là người quản lý. Trước đó, mẹ của Lina đã gửi đến Florence cuốn nhật ký chứa trọn những bí mật về mối tình thuở sinh viên của bà - câu chuyện mà bà chưa bao giờ tiết lộ cho Lina. Lật giở từng trang cuốn nhật ký của người mẹ thân yêu đã mất, Lina khám phá ra một người phụ nữ mạnh mẽ, sống vì đam mê của bản thân, sẵn sàng cãi lời cha mẹ, bỏ học ngành y tá ở quê nhà để thân chinh đến Florence - thành phố của nghệ thuật - theo tiếng gọi của trái tim để học ngành nhiếp ảnh tại Đại học Nghệ thuật Florence. Trên những trang nhật ký ấy, Lina cũng khám phá ra mối tình đắm say giữa mẹ cô và một người đàn ông bà gọi là X, thể hiện qua từng câu từ lãng mạn, ngập tràn yêu đương của một sinh viên 22 tuổi khi đứng trước sự choáng ngợp và những cảm xúc say mê của tình yêu. Liệu X và Howard có phải là cùng một người? Hay còn điều gì ẩn khuất đằng sau những trang nhật ký đó, đằng sau sự nghiễm nhiên cho rằng Howard chính là bố ruột của Lina. Cùng với cậu bạn Ren (tên thật là Lorenzo) mới quen nhưng mau chóng trở thành tình yêu đầu đời của Lina, cô bé đã dấn bước trên một hành trình phiêu lưu vô tiền khoáng hậu để đi đến tận cùng sự thật về danh tính cha ruột của mình, cùng sự thật về mối tình giữa mẹ cô và X. Tất cả đã diễn ra từ Florence đến Rome, giữa những từ ngữ, địa danh, công trình kiến trúc đậm chất Ý, mang đến một bầu không khí vừa nghệ thuật vừa cổ kính cho một chuyến phiêu lưu tìm hiểu về một câu chuyện tình.  Nếu ai biết mình đủ lâu thì sẽ rõ, mình yêu mến, tôn thờ và mê mệt nước Ý, văn hóa Ý, kiến trúc Ý, nghệ thuật Ý đến như thế nào. Và đọc cuốn tiểu thuyết này, đối với mình, giống như thể mình đang thực sự được chu du đến Florence vậy. Từ Ponte Vecchio (nghĩa là “cây cầu cổ”) - nơi ngắm hoàng hôn đẹp muốn rụng tim, vườn Boboli, kem gelato hương vị stracciatella (cái này là kem có vụn chocolate trong đó hay sao đấy các bạn ạ, google thử xem ^^) hay hương bacio (hương chocolate hạt phỉ - hazelnut), palazzo (quảng trường vây quanh bốn cạnh là các tòa kiến trúc) và Piazzale Michelangelo (piazzale cũng là quảng trường, nhưng phải có ít nhất một cạnh có cửa thông ra ngoài. Google bảo thế :D), cho đến bức tượng “The Abduction of the Sabine Women”, tất cả chỉ khiến mình muốn xách ba lô lên và đi ngay đến thành phố Florence nói riêng và vùng Tuscany miền Trung Ý nói chung để được tận mắt ngắm nhìn những công trình, cảnh vật tuyệt đẹp ở đó thôi!!! Đoạn kết của “Tình yêu vị kem Ý” - đúng như tên gọi của câu chuyện - ngọt ngào và rất có hậu, nhưng không phải là không có những trường đoạn gây đau lòng nức nở trước đó để mang đến những cung bậc cảm xúc khác nhau cho độc giả. Các bạn sẽ hồi hộp theo dõi mối tình đầu của Lina và cậu bạn Ren liệu có thành sự thật hay không, khi mà như bao mối tình tuổi mới lớn khác, tình yêu của họ cũng đã trải qua những ngượng ngùng, hiểu lầm và cãi vã. Nhưng trên tất cả, các bạn chắc hẳn sẽ rơi nước mắt vì sự thật về mối tình giữa mẹ Lina và X, cùng quyết định của một người phụ nữ, vì con mình mà phải đành đoạn cắt đứt với người đàn ông mình thực sự yêu. Đó cũng là người phụ nữ, vì tôn trọng mong muốn của người đàn ông mình thực sự yêu ấy mà phải rời xa ông, ôm ấp một mình cái bí mật về bào thai đang lớn dần trong bụng… Thật sự rất tội nghiệp mẹ của Lina, và nếu như bà không mang thai Lina, sự thể có lẽ đã khác đi rất nhiều, bà đã có cơ hội được đến với người đàn ông bà yêu… (view spoiler) Nhưng nếu được lựa chọn lại, mình chắc chắn bà vẫn sẽ lựa chọn có Lina trong đời, và mọi thứ sẽ diễn ra như nó đã diễn ra một lần nữa, để giờ đây một cô bé 16 tuổi như Lina có cơ hội tìm được cho mình một gia đình mới, và cả một tình yêu đầu đời tại một trong những thành phố đẹp nhất và lãng mạn nhất thế giới. Bên cạnh một số lỗi dịch thuật về từ ngữ xưng hô, ngôi thứ, cùng một số lỗi chính tả mà nếu độc giả nào dễ tính thì hoàn hoàn có thể bỏ qua được, “Tình yêu vị kem Ý” vẫn là một cuốn sách tuyệt vời, gây xúc động và cực kỳ lôi cuốn. Mình chỉ tốn có trọn một ngày, từ đêm hôm trước cho đến đêm hôm sau, để đọc xong cuốn sách thôi đó, thể là đủ hiểu nó hấp dẫn đến thế nào rồi ha? Chuyến du hành cùng Lina và Ren qua gần một tuần để giải mã sự thật đằng sau câu chuyện tình của mẹ Lina tại Florence, cùng lý do thực sự bà gửi cuốn nhật ký của mình đến chỗ chú Howard, đồng thời đắm mình trong bầu không khí thấm đẫm chất nghệ thuật và lịch sử nước Ý, thực sự là một trải nghiệm khó quên. Bạn nào yêu thích thể loại tình cảm lãng mạn phiêu lưu tìm hiểu khám phá dành cho Young Adult thì tậu ngay cuốn này đi thôi, đảm bảo sẽ ưng lắm đó :)))) P.S.: Một lần nữa xin được trân trọng cảm ơn Wings Books đã gửi tặng mình cuốn sách này để đọc, review và giới thiệu cho nhiều người khác cùng thưởng thức. *** [#BOOK_REVIEW] ----
Màu Của Nước
Màu Của Nước là cuốn tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride viết để tưởng nhớ người mẹ của mình, một phụ nữ gốc Do Thái da trắng kết hôn với những người đàn ông da đen. Vượt lên bi kịch cá nhân, sự thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi sự phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy mười hai đứa con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Đó cũng là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, cái tôi, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai da đen, đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ. Màu Của Nước ra mắt bạn đọc lần đầu vào năm 1995, trở thành một hiện tượng xuất bản với kỷ lục nằm trong danh sách Sách bán chạy nhất của New York Times trong 100 tuần (hơn 2 năm) , được coi là tác phẩm văn học kinh điển của Mỹ, từng được trao các giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc, và là cuốn sách về người mẹ mà Amazon khuyên mọi độc giả nên đọc. - Trích từ bài giới thiệu của dịch giả Nguyễn Bích Lan. *** 'Màu của nước' - sách về nạn phân biệt chủng tộc Tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride do dịch giả Bích Lan chuyển ngữ vừa ra mắt bạn đọc trong nước.  Nhà văn Mỹ James McBride mất 14 năm để "khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ" - con gái một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1942 ở Mỹ. Vượt lên thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy 12 người con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Cuốn sách là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai - đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ.  Màu của nước được kể với giọng tự sự chân thực, hóm hỉnh, giản dị và không kém phần sâu sắc. Qua đó, tác giả gửi gắm ước mơ xóa nhòa ranh giới phân biệt chủng tộc. Theo James McBride, mỗi con người dù có màu da và xuất thân khác nhau đều cần được đối xử công bằng. Mọi phân biệt, kỳ thị không thể ngăn cản nhân loại chia sẻ tình yêu thương, lòng trắc ẩn. Theo tờ Wall Street Journal, "cuốn sách nói cho chúng ta về sự yếu kém liên quan đến vấn đề chủng tộc của quốc gia và về những khả năng vượt lên sự yếu kém đó". Trang Publisher Weekly đánh giá tác phẩm là tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, "bất cứ ai mang màu da nào, theo tôn giáo nào cũng nên đọc cuốn tự truyện cảm động và khó quên này".                          Màu của nước ra mắt bạn đọc năm 1995. Tác phẩm nằm trong danh sách "Sách bán chạy nhất" của tờ New York Times suốt 100 tuần, từng được trao giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc. Đến nay, tác phẩm bán được 2,5 triệu bản trên toàn thế giới, cuốn sách được dịch ra 16 thứ tiếng và xuất bản ở 20 nước. James McBride sinh năm 1957 tại New York, Mỹ. Ông là nhà báo, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng. James từng đoạt giải National Book Award (Giải thưởng sách Quốc gia Mỹ năm 2013 với tác phẩm The Good Lord Bird (Con chim đầu đàn).  Vĩ Thanh *** Khi còn nhỏ tôi không biết gì về xuất thân của mẹ mình - Tôi không biết mẹ sinh ra ở đâu, ông bà ngoại của tôi là ai. Khi tôi hỏi về gốc gác của mẹ, mẹ nói: Chúa sinh ra mẹ. Khi tôi hỏi mẹ có phải là người da trắng không, mẹ nói: “Da mẹ sáng màu, rồi lập tức chuyển chủ đề. Mẹ nuôi mười hai đứa con da đen của mẹ, cho tất cả học đại học và hầu như tất cả đều tốt nghiệp đàng hoàng. Các con của mẹ trở thành bác sĩ, giáo sư, nhà hóa học, giáo viên - Tuy nhiên cả mười hai anh chị em chúng tôi không ai biết họ tên thời con gái của mẹ cho đến khi chúng tôi trở thành người lớn. Tôi phải mất tới mười bốn năm khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ - chuyện về con gái của một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1912 - và mẹ tiết lộ chuyện đời mình như một đặc ân dành cho tôi hơn là muốn ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Đây là câu chuyện cuộc đời mà mẹ kể cho tôi nghe, và xen kẽ giữa những trang viết về cuộc đời của mẹ, các bạn cũng sẽ tìm thấy những trang kể về cuộc đời tôi. *** Chết Con muốn mẹ kể về gia đình của mẹ, mà đối với cái gia đình ấy mẹ đã chết từ năm mươi năm trước rồi. Hãy để mẹ yên. Đừng làm phiền mẹ. Gia đình mẹ không muốn có mẹ chút nào và mẹ cũng chẳng hề muốn có họ. Có hỏi thì hỏi nhanh lên rồi kết thúc mau đi. Mẹ muốn ngắm Dallas. Mà này, nếu con là một phần của gia đình ấy, con sẽ không có thời gian dành cho điều vớ vẩn này đâu, không có thì giờ để nghĩ về gốc gác của con đâu. Thà con đi xem phim “Ba Chàng Ngốc” còn hơn là hỏi họ, hỏi cha đẻ của mẹ chẳng hạn, quên chuyện đó đi. Nếu ông ngoại của con gặp con, ông sẽ lên cơn đau tim. Dẫu sao ông cũng chết rồi, nếu không thì bây giờ ông đã một trăm năm mươi tuổi rồi. Mẹ sinh ra là một người Do Thái chính thống vào ngày 1 tháng 4 năm 1921, đúng vào ngày Cá tháng Tư ở Ba Lan đấy con ạ. Mẹ không nhớ tên của cái thị trấn nơi mẹ chào đời, nhưng mẹ còn nhớ tên Do Thái của mình: Ruchel Dwajra Zylska. Ông bà ngoại của con đã xóa cái tên đó khi họ đến Mỹ và đổi tên mẹ thành Rachel Deborah Shilsky, và chính mẹ đã tống khứ cái tên ấy ra khỏi cuộc đời mình khi mẹ mười chín tuổi, không bao giờ sử dụng nó nữa sau khi mẹ đi khỏi Virgina năm 1941 mà không bao giờ quay trở lại. Đối với mẹ, Rachel Shilsky đã chết. Cô ta chết để mẹ, phần còn lại của mẹ, được sống. Khi mẹ lấy cha của con, gia đình mẹ than khóc vật vã. Họ đọc Kinh kaddish và ngồi shiva[1]. Đó là cách người Do Thái chính thống khóc người thân qua đời. Họ cầu nguyện, úp các tấm gương xuống, ngồi trên những cái hộp trong bảy ngày và dùng khăn trùm đầu. Nó có tác dụng thật đấy và có lẽ đó là lý do tại sao giờ đây mẹ không còn là một người Do Thái nữa. Có quá nhiều luật lệ phải tuân theo, quá nhiều điều cấm kỵ và quá nhiều những điều “Mày không thể làm” và “Mày không được phép làm”, nhưng có ai nói họ yêu thương mẹ không nhỉ? Không, trong gia đình của mẹ không ai nói thế với ai. Gia đình mẹ không nói thế. Mọi người nói với nhau những lời đại loại như “Liệu hồn đấy,” hoặc ông ngoại con sẽ nói, “Hãy im miệng trong lúc tao ngủ.” Tên ông ngoại của con là Fishel Shilsky và ông là một giáo sĩ Do Thái chính thống. Ông đã trốn khỏi trại của quân Nga, lẩn sang biên giới Ba Lan và cưới bà ngoại của con trong một cuộc hôn nhân sắp đặt. Ông thường nói rằng khi ông chạy trốn ông phải chạy dưới những làn đạn và khả năng lẩn trốn những gì không tốt cho bản thân tồn tại cùng ông từ khi mẹ biết ông. Bọn mẹ gọi ông là Tateh. Trong tiếng Do Thái “Tateh” có nghĩa là cha. Ông là một con cáo, nhất là trong chuyện tiền bạc. Ông có dáng người thấp, nước da sẫm màu, râu tóc rậm và là người cộc cằn, lỗ mãng. Ông mặc sơ mi trắng, quần đen, quấn một chiếc tallis[2], và những thứ đó giống như đồng phục của ông. Ông mặc cái quần đen đó hoài cho tới khi nó nhẵn bóng và cứng queo đủ để tự đứng được bằng chính hai ống của nó mà không cần xỏ chân, nhưng chỉ Chúa Trời mới có thể cứu con nếu như con đụng phải cái quần đó trong lúc vội, bởi ông ngoại của con không phải là người để đùa giỡn. Ông khó tính lắm. Bà ngoại của con tên là Hudis và bà trái ngược hoàn toàn với ông, rất dịu dàng và nhu mì. Bà sinh năm 1896 ở thị trấn Dobryzn, Ba Lan, nhưng nếu bây giờ con hỏi thông tin thì không ai còn nhớ gia đình bà nữa bởi vì bất cứ người Do Thái nào không rời khỏi đó trước khi quân Hitler tràn vào Ba Lan cũng đều bị giết hại trong cuộc tàn sát người Do Thái rồi. Bà có khuôn mặt xinh xắn, mái tóc đen, gò má cao nhưng bà bị bại liệt. Chứng bệnh đó làm bà bị liệt nửa người bên trái và khiến sức khỏe của bà không được tốt. Tay trái của bà không sử dụng được. Nó bị khòng khèo ở cổ tay và nó cong lên gần đến ngực. Mắt trái của bà gần như bị mù và bà đi cà nhắc, kéo lê cái chân trái bị liệt. Bà là một người phụ nữ ít nói, Mameh yêu quý của mẹ. Đó là lý do tại sao bọn mẹ gọi bà là Mameh. Bà là người mà trong cõi đời này mẹ đã đối xử không tốt khi… Mời các bạn mượn đọc sách Màu Của Nước của tác giả James McBride & Nguyễn Bích Lan (dịch).