Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người hành khách bí ẩn - Georges Simenon

Tên ebook: Người hành khách bí ẩn Tác giả: Georges Simenon Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Người dịch:  Đặng Phú - Lê Việt Dũng   Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân   Kích thước: 13 x 19 cm   Số trang: 385   Năm xuất bản: 2004   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Đ ây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau “tai hoạ bất ngờ” làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc canot lại dại dột lao vào sống mũi tàu? Nhưng đó vẫn chưa phải là “cái nhìn xúi quẩy”. Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. ○○○ Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Petersen đã mơ hồ cảm thấy “cái nhìn xúi quẩy” rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na Uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na Uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoten, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na Uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Petersen dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà Lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Petersen đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn, ngơ ngác, đứng nghiêm. — Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng! — Này, anh Vriens - Petersen nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe taxi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Petersen xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. — Anh ta ốm yếu như một con chó! - Một lúc sau người phục vụ nói. - Anh ta yêu cầu tôi cà phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta... Tất nhiên đó không phải là thảm hại! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới! ○○○ Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống một tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. — Anh làm gì ở đây? Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. — Thủy thủ tiếp than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bến cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... — Anh ta có giấy tờ không? — Đúng thể thức! Gã ra tù ở Cologne... - Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. “Vậy là hai!" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò, dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. — Anh tên là gì? — Peter Krull. — Anh đã làm gì để phải vào tù? — Lần cuối cùng tôi không làm gì hết! Đó là sự sai lầm của tư pháp... - Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. — Vriens đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu! — Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. “Mặc kệ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ!" Một sự đe dọa theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. — Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng... Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. ○○○ Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. — Năm suất hả? - Petersen nhận xét. — Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. — Thuyền trưởng? - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. — Mời bà vui lòng ngồi xuống! Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: — Thời tiết thật tồi tệ!. Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Berlin và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. — Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm... Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. — Người ở phòng số mười tám không trả lời. — Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. — Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc! - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. — Này, ông Vriens hử? Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. — Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta. — Ông ta là ai? — Ernst Ericksen ở Copenhagen. Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành! — Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không? — Đúng thế! Tôi đã tìm khắp nơi. — Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. — Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. — Có chuyện gì xảy ra thế? — Tôi không biết... có lẽ tôi sợ. Tôi vừa vào phòng hút thuốc. Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình. Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi. Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn. — Qua đâu? — Qua cửa này, cửa trông ra boong đi dạo, phải không? — Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không? — Xám, vâng. Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy? Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. — Hãy đi xem! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. — Xin bà hãy bình tâm, thưa bà. Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải. Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: — Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư? — Các bạn bà sẽ sớm lên đây. — Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravate của mình. Evjen bước vào. ○○○ Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. — Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làm thế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. — Cảm ơn... chúng ta tới biển chưa? — Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. — Anh đã tìm thấy ông ta chưa? — Không. Chắc chắn ông ta đang náu mình. Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi. Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: — Thì sao? — Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. — Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... — Hết chưa? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. — Anh đi ngủ đi! Ngày mai sẽ sao! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. — Ông nghĩ tôi còn say ư? Tôi xin thề với ông... — Đi đi! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. — Chưa đến ư? Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. — Cuxhaven! - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe, mà dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn acetylene phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. “Chúc ngủ ngon!" Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: — Này! Thuyền trưởng. Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc canot bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc vali rất to. — Ông muốn nói gì? — Tôi sẽ giải thích cho ông. Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. — Cố vấn cảnh sát Von Sternberg! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ôtô. Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. — Tôi sẽ ăn trong buồng tôi! - Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... — Tôi có ba hành khách tất cả! — Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường. Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông. Tôi sẽ trả tiền chuyến đi. — Ông có công vụ ư? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên. - Có người nào trên tàu cần...? — Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra. — Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. — Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu. Mất tích rồi! Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn. Ông gọi: — Phục vụ viên đâu! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống. Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ. Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: — Đúng thế, phải không? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. — Mọi người đã ngủ rồi ư? — Không phải tất cả. Còn người đàn bà... — Cô ta vẫn chơi trò phá trận à? — Xin lỗi! Cô ta dạo chơi trên boong với... — Với ai? — Với ông Vriens. — Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư? — Không! Anh ta ở trong buồng mình. Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ảo Dạ
“Chúng ta không còn lựa chọn nào khác, chỉ có thể đi trên con đường ở trong bóng tối. Dẫu cho bốn phía xung quanh sáng rực như ban ngày, cũng chỉ là ánh sáng không chân thực mà thôi.” Để thoát một khoản nợ, Masaya đã lợi dụng trận động đất kinh hoàng để giết chết ông cậu rồi dàn dựng thành một vụ tai nạn. Nhưng tất cả không qua được mắt Mifuyu, cô gái bí ẩn nhà hàng xóm. Mang theo bí mật của Masaya, Mifuyu cùng anh lên Tokyo, bỏ lại sau lưng một Kyoto hoang tàn sau cơn địa chấn. Song ở nơi đô hội là một chuỗi bi kịch nối tiếp nhau, nơi bóng đen của tội ác trong quá khứ như vũng dầu loang, vĩnh viễn không bao giờ xóa sạch, ngày một lan rộng. Bí ẩn nối liền bí ẩn, mọi người tiếp cận Mifuyu đều gặp chuyện không may, những ai chạm đến quá khứ của cô đều mất tích. Rốt cuộc, cô gái bí ẩn luôn sát cánh bên Masaya trong bóng đêm tăm tối là ai? *** Sơn Lương Review: Đó là một tối thứ 7 hiếm hoi mà mình biết rằng sẽ có chủ nhật trọn vẹn vào hôm sau, nên mình bèn đọc nốt 100 trang cuối của Ảo dạ. Kết thúc lúc 12h48, và dĩ nhiên mình không thể ngủ ngay sau đó. Giữa đêm mình ngồi nhớ lại tất cả những gì đã được biết về Shinkai Mifuyu về những chuyện cô đã làm, và mình thoáng rùng mình khi nhìn lại bìa sách một lần nữa. Cho đến khi ngủ, mình mơ thấy Shinkai Mifuyu tìm cách hại mình, vì mình đã trót biết quá nhiều. Cũng đúng, vì như thói quen lâu nay, mình không bao giờ đọc lời giới thiệu ở bìa 4, sợ bị đóng khung suy nghĩ trước khi đọc. Tối ấy sau khi kết thúc quyển sách, mình mới đọc bìa 4 và thấy cái ý “mọi người tiếp cận Mifuyu đều gặp chuyện không may, những ai chạm đến quá khứ của cô đều mất tích” trong lời dẫn. Vậy là mình đã lỡ “động đến” cô gái bí ẩn luôn trong bóng đêm, mà lòng dạ, thủ đoạn thì ngút trời mất rồi. Thật khó để review sách của Keigo Higashino mà không nói nhiều về nội dung, nên các bạn cân nhắc trước khi đọc tiếp nhé. Ảo dạ được xem là tác phẩm sinh đôi với Bạch dạ hành nhưng ngoài việc có một cặp nhân vật và người nữ nhiều thủ đoạn để đạt được cái mình muốn, thì có nhiều khác biệt. Dù Mifuyu chọn đứng trong bóng tối nhưng Keigo Higashino không giấu tham vọng, các âm mưu và thủ đoạn của cô với độc giả, trái lại dành rất nhiều đất để Mifuyu nêu lên “tuyên ngôn” của mình. Thông qua điều tra viên Kato, Higashino sensei cũng nhiều lần hệ thống lại quá trình, khiến câu chuyện dễ nắm bắt. Hệ thống các nhân vật cũng không quá nhiều, đến nỗi khó nhớ như Bạch dạ hành. Như nhiều câu chuyện khác, Higashino sensei luôn làm như vô tình để các nhân vật nhắc đến một giai đoạn đáng chú ý nào đó, như một cách ngầm thông tin với người đọc bối cảnh của câu chuyện. Với Bạch dạ hành là thời điểm máy tính cá nhân bắt đầu phổ biến, với Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya là kỳ thế vận hội sắp diễn ra, còn Ảo dạ là thời điểm bong bóng kinh tế bị vỡ và nhân loại chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới cùng nỗi sợ sự cố Y2K. Câu chuyện bắt đầu bằng một bi kịch - một trận động đất kinh hoàng, khiến Masaya phải giết người và từ đó gắn đời mình với Mifuyu, người đã chứng kiến khoảnh khắc anh ra tay sát nhân. Mifuyu sẽ dẫn dắt Masaya cùng xây dựng kế hoạch tương lai mà cô đã vạch ra, sống “theo cách sinh tồn của riêng mình”. "Chúng ta chỉ có thể đi trên con đường ở trong bóng tối. Dẫu cho bốn phía xung quanh sáng rực như ban ngày, cũng chỉ là ánh sáng không chân thực mà thôi". Và từ đó hai người bắt đầu một mối quan hệ mà "khi một người đau khổ, người còn lại sẽ có thể ở phía sau đưa tay giúp đỡ" và “chỉ ở trong bóng đêm mới bộc lộ bản tính với người còn lại". Hay chỉ là Masaya tin thế. Không như câu chuyện cộng sinh kỳ lại của “tôm pháo-cá bống trắng” trong Bạch dạ hành, mà ở đó Ryoji coi mình là tôm pháo, có nhiệm vụ bảo vệ cá bống trắng Yukiho đến chết, mối quan hệ của Masaya và Mifuyu là kẻ thao túng và kẻ phục tùng. Nếu Ryoji xem việc bảo vệ Yuhiko là mục tiêu duy nhất của đời mình, thì Masaya tình nguyện làm “một tên đồng bọn trung thành” không phải vì muốn bảo vệ lớp mặt nạ của Mifuyu, mà “chỉ vì yêu, vì ‘hạnh phúc của hai người’ mà cô luôn nhắc đến, ngoài ra không có lý do nào khác.” Tất cả chỉ đổi đến đắng cay và cay đắng nhất là gen’ya - ảo dạ, những đêm tưởng là hạnh phúc trần đời nhưng hóa ra chỉ là hư ảo. Và giống như nhiều quyển khác của Keigo, mỗi nhân vật đã xuất hiện thì chắc chắn sẽ có vai trò. Luôn sẽ có người làm nhiệu vụ connecting the dot - kết nối các điểm rời rạc với nhau để vén màn bí ẩn. Trong Ảo dạ, không chỉ điều tra viên Kato, là anh chàng Soga mà còn cả chính Masaya, người đã thề trung thành với Mifuyu và tin tưởng có thể cùng Mifuyu có được hạnh phúc, làm công việc đi tìm sự thật đằng sau những bí ẩn đó. Mình ghét Masaya quá nhu nhược nhưng nghĩ lại rằng có phải vì Mifuyu quá đáng sợ? Masaya đáng thương hơn là trách vì bị nắm điểm yếu từ đầu và đã thực lòng mong có thể cùng Mifuyu đắp xây hạnh phúc. Nhân vật Shinkai Mifuyu được xây dựng tận cùng tàn ác, lạnh lùng, mưu mô, thường xuyên làm người đối diện “không rét mà run”. Mifuyu "tuyệt đối không mềm lòng với bất cứ ai. Mặc cho người khác gặp phải bất hạnh thế nào, cô ta hoàn toàn không quan tâm". Cách xây dựng nhân vật quả thật để lại nhiều ấn tượng. Đến mức mình có lúc nghĩ giả thử có gặp một Shinkai Mifuyu trong đời thực, mình sẽ bị bùa mê đến mức nào và gục ngã trước cô ta ra sao? Nhưng điều mình cho rằng còn thiếu là lý do Mifuyu lại hành xử như vậy, dù đã có khát khao từ trước nhưng chẳng lẽ chỉ vì đeo đuổi tham vọng mà tán tận lương tâm đến vậy ư? *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Higashino Keigo là một tác giả người Nhật Bản được biết tới rộng rãi qua các tiểu thuyết trinh thám của ông. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Ông đã thắng giải Edogawa Rampo lần thứ 31 vào năm 1985 cho tiểu thuyết Hōkago. Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư ... *** Trong nhà xưởng tối tăm, bóng các máy móc đổ thành một hàng dài. Cảnh tượng ấy khiến Masaya liên tưởng đến nghĩa địa về đêm. Có điều, nấm mồ mà cha anh sắp nằm xuống chẳng được bề thế như thế. Bóng những cỗ máy trông như những người hầu trung thành đã mất chủ. Có lẽ chúng cũng có cùng tâm trạng với Masaya, im lìm đón đợi đêm nay. Masaya đưa chén rượu đầy lên miệng. Chỗ sứt trên miệng chén chạm vào môi. Uống cạn, anh thở hắt ra. Bên cạnh chìa ra một chai rượu, rót vào cái chén không của anh. “Sau này việc gì cũng sẽ khó khăn, nhưng cháu đừng nản lòng, phấn chấn lên.” Ông cậu Toshirou của anh nói. Bộ râu che kín cằm của ông ta đã lốm đốm muối tiêu. Mặt ông ta đỏ bừng, hơi thở phả ra mùi cà chua thối. “Cũng làm phiền cậu nhiều rồi ạ.” Masaya nói đãi bôi. “Chuyện này có đáng gì đâu. Cậu đang lo sau này không biết cháu sẽ làm thế nào. Nhưng cháu có nghề trong tay, chắc là không lo tìm việc. Nghe nói có nhà máy bên Nishinomiya đã tuyển cháu rồi à?” “Công việc thời vụ thôi ạ.” “Việc thời vụ cũng được. thời buổi này có bát cơm ăn là khá lắm rồi.” Toshirou khẽ vỗ lên vai Masaya. Masaya thấy không thoải mái khi ông ta chạm vào mình như vậy, nhưng vẫn cười lấy lòng. Trước ban thờ vẫn còn người khác đang uống rượu, đó là ba người có quan hệ thân thiết nhất với ông Yukio, bố Masaya: ông chủ công ty xây dựng, tay buôn sắt thép phế liệu và ông chủ siêu thị. Bọn họ đều thích đánh bài, thường xuyên tụ tập tại nhà Masaya. Hồi việc làm ăn còn thuận lợi, năm người từng cùng đi du lịch Busan. Đêm nay canh trước linh sàng, chỉ có ba người này và vài người họ hàng. Masaya không báo cho quá nhiều người nên vắng vẻ là lẽ đương nhiên, nhưng anh cho rằng kể cả có thông báo hết thì cũng chẳng khác nhau mấy. Đám khách hàng thì khỏi cần phải nói, các đồng nghiệp không có khả năng đến, kể cả những người họ hàng cũng chỉ thắp nhang xong là vội vã ra về, chừng như sợ rằng ở lâu Masaya sẽ mở miệng đòi tiền. Trong đám người thân, chỉ có mình cậu anh ở lại. Còn nguyên nhân ông ta không ra về, trong lòng Masaya hiểu rất rõ. Ông chủ công ty xây dựng đã rót hết chỗ rượu trong chai rượu cuối cùng của nhóm bọn họ, chỉ còn mỗi chai mà Toshirou ôm trong lòng như của báu kia thôi. Ông chủ công ty xây dựng vừa chậm rãi nhấm nháp chén rượu chỉ còn một phần ba, vừa đưa mắt nhìn Toshirou. Toshirou ngồi phịch xuống cạnh bếp lò, vừa nhai mực khô, vừa uống rượu một mình. “Bọn chú phải về đây.” Tay buôn sắt thép phế liệu nói trước. Chén của ông ta đã hết từ lâu. “Đúng vậy.” Hai người còn lại cũng từ từ dợm đứng lên. “Masaya, vậy bọn chú về đây.” Chủ công ty xây dựng nói. “Hôm nay các chú bận rộn như vậy mà vẫn dành thời gian đến đây, cháu vô cùng cảm ơn.” Masaya đứng dậy cúi đầu đáp tạ. “Mặc dù không giúp được việc gì to tát, nhưng nếu có việc gì trong khả năng của bọn chú thì cháu cứ nói, bọn chú nhất định sẽ giúp.” “Đúng đấy, trước đây bọn chú cũng được ông cụ nhà cháu đỡ đần nhiều mà.” Tay buôn sắt thép phế liệu đứng bên cạnh nói. Ông chủ siêu thị lặng lẽ gật đầu. “Các chú nói vậy làm cháu thấy yên tâm hơn nhiều rồi. Đến lúc ấy xin nhờ các chú quan tâm giúp.” Masaya lại cúi đầu tỏ ý cảm ơn. Ba người đàn ông đứng tuổi cũng gật đầu đáp lễ. Sau khi họ ra về, Masaya khóa cửa rồi trở vào nhà. Trong căn nhà nối liền với công xưởng, chỉ có một gian phòng kiểu Nhật rộng chừng sáu chiếu và một gian bếp chật hẹp, trên tầng hai còn hai căn phòng kiểu Nhật liền kề nhau. Ba năm trước, khi bà Sadako mẹ anh chưa qua đời vì bệnh, Masaya còn không có phòng riêng. Trong căn phòng kiểu Nhật đặt ban thờ, Toshirou vẫn đang uống rượu. Mực khô hình như đã hết, ông ta đang vươn tay ra chỗ đậu phộng mà ba người kia để lại. Masaya bắt đầu thu dọn đồ đạc bừa bãi, lúc này Toshirou đột nhiên cất tiếng, giọng rất khó nghe: “Nói thì rõ là hay.” “Dạ?” “Lão già Maeda ấy. Bảo cái gì mà có việc gì trong khả năng bọn chú thì cháu cứ nói, bọn chú sẽ giúp. Đúng là nghĩ một đằng nói một nẻo.” “Chẳng qua là lời khách sáo thôi mà cậu. Bọn họ cũng đang rất kẹt.” “Thế thì chẳng phải đâu. Cứ như lão Maeda ấy, làm mấy vụ lặt vặt, nhưng kiếm được không ít món hời nho nhỏ. Cậu cảm thấy lý ra lão ta đã giúp được bố cháu một tay.” “Bố cháu đâu có muốn dựa dẫm vào những người này.” Toshirou nghe vậy liền lạnh lùng “hừ” một tiếng, nhệch miệng ra nói: “Sao lại thế chứ, cháu không nghe nói gì à?” Những lời này của Toshirou làm Masaya đang xếp dọn đĩa phải dừng lại. “Lúc trong tay không có tiền trả khoản vay mua máy móc, điều đầu tiên anh Yukio nghĩ đến chính là thương lượng với ba người đó. Nhưng mà, bọn họ chẳng hiểu nghe được tin tức ở đâu, tất cả đều đóng cửa không tiếp. Lúc bấy giờ, chỉ cần có người đưa một triệu yên, chắc tình hình đã khác hẳn rồi.” “Cậu à, chuyện này cậu nghe ai nói vậy?” “Bố cháu chứ ai. Anh ấy từng tức giận nói, đám người đó lúc mình làm ăn được thì cười tít mắt quây xung quanh, hễ mình làm ăn sa sút là đổi thái độ ngay.” Masaya gật đầu, lại bắt đầu dọn dẹp. Đây là lần đầu tiên anh được nghe chuyện này, nhưng cũng không ngạc nhiên. Anh vốn dĩ đã không tin tưởng ba người kia, người mẹ đã khuất của anh cũng ghét bọn họ. Câu cửa miệng của mẹ anh là: “Đi với ai cũng thế, người trả tiền bao giờ cũng là bố mày.” “Cậu đói rồi.” Toshirou lầm bầm. Một lít rượu đã uống hết, đậu phộng trong đĩa cũng đã hết, Masaya bỏ cái đĩa không vào khay. “Còn gì ăn được không?” “Có bánh bao thôi.” “Bánh bao hả?” Masaya liếc mắt nhìn Toshirou đang nhíu mày, sau đó bưng cái khay đựng bát đĩa bẩn vào bếp, thả vào bồn nước. Bồn nước lập tức đầy ứ lên. “Masaya, cậu hỏi cháu chút chuyện khác nữa.” Sau lưng anh vang lên tiếng nói. Masaya ngoảnh đầu lại nhìn, thấy Toshirou đã đứng ở cửa bếp từ lúc nào. “Đã nói chuyện với bên công ty bảo hiểm chưa?” Cuối cùng đã đề cập đến chủ đề chính rồi. Masaya thầm nghĩ, nhưng vẻ mặt vẫn tỉnh bơ như không, chỉ lắc đầu: “Vẫn chưa ạ.” Anh cắm điện ấm đun nước, đổ nước nóng bên trong ra, bắt đầu rửa bát đĩa. Căn nhà của gia đình Mizuhara xây từ bốn mươi năm trước, không có vòi nước nóng lạnh. “Cháu đã liên lạc với họ chưa?” “Bận việc nọ việc kia, vẫn chưa lo được ạ. Lúc này nếu người bên công ty bảo hiểm mà đến, lại còn phiền phức ấy chứ.” “Có lẽ vậy, nhưng vẫn nên xử lý cho sớm thì hơn. Thủ tục chậm trễ, tiền bồi thường cũng chậm theo.” Masaya không dừng tay, chỉ im lặng gật đầu. Anh ta hiểu rõ dụng ý của ông Toshirou. “Có hợp đồng bảo hiểm không?” Toshirou hỏi. Masaya dừng tay một thoáng, nhưng ngay sau đó lại bắt đầu cọ rửa chiếc đĩa. “Có ạ.” “Cho cậu xem được không?” “Ừm... để chốc nữa cháu lấy.” “Cậu muốn xác nhận vài chuyện. Những thứ này để mai rửa cũng được, giờ cháu lấy ngay ra cho cậu xem đi. Không thì bảo cậu để ở đâu, cậu tự đi lấy.” Masaya thở dài, buông miếng bọt biển đầy xà phòng xuống. Trong góc căn phòng kiểu Nhật có một tủ trà nhỏ. Đó là đồ mua từ thời bố mẹ anh mới kết hôn, niên đại cũng tương đối xa rồi. Bên trong ngăn kéo nhỏ dưới cùng có một tập hồ sơ màu xanh lam, trong đó cẩn thận lưu giữ các tài liệu hợp đồng như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hỏa hoạn và bảo hiểm xe cộ. Mẹ Masaya rất giỏi những công việc cần đến sự cẩn trọng chu đáo thế này. Masaya có cảm giác, sau khi mẹ qua đời, công xưởng mới bắt đầu xuất hiện những sơ suất trong kinh doanh, mặc dù trước đây chỉ cần mẹ có ý kiến gì với công việc là bố anh sẽ lại nổi giận đùng đùng, bảo rằng đàn bà không nên chõ miệng vào chuyện làm ăn. “30 triệu yên à, quả nhiên.” Ngón tay Toshirou kẹp điếu thuốc lá đã châm lửa, liếc nhìn tập hồ sơ. Ông ta có vẻ không vừa ý, có lẽ vì số tiền ít hơn so với dự tính. “Nghe nói đây là bảo hiểm bị yêu cầu tham gia lúc vay tiền ngân hàng.” Masaya nói. “Hồi mở rộng quy mô công xưởng ấy hả?” “Vâng.” Đó là năm 1986, đúng lúc cả nước Nhật đều đang sôi lên sùng sục. Toshirou gật đầu, khép tập hồ sơ lại. Ông ta ngước lên phả ra mấy vòng khói thuốc, đoạn nói với Masaya: “Số nợ còn lại là bao nhiêu?” Trong một khoảnh khắc, con ngươi đục ngầu của ông ta như sáng lóe lên. “Chừng khoảng... 20 triệu.” Tuần trước, họ đã trao đổi với chủ nợ. Lúc đó, Masaya cũng có mặt. “Vậy thì, kể cả trả hết tiền nợ, cũng vẫn còn lại 10 triệu yên.” “Coi như là vậy, nhưng không rõ tình hình thực tế ra sao, cũng không biết tiền bảo hiểm có được chi trả toàn bộ hay không nữa.” “Chắc chắn là sẽ chi trả, có phải là chết kiểu lạ thường gì đâu.” Masaya trầm mặc. Anh muốn nói, không phải chết kiểu lạ thường thì là cái gì nữa? “Masaya à, chắc cháu cũng có nghe nói...” Toshirou cho tay vào túi áo. Masaya cũng đoán được ông ta sẽ lấy ra thứ gì. Không ngoài dự liệu, ông Toshirou móc ra một phong bì màu vàng nâu, rồi rút từ trong đó một tờ giấy gấp gọn gàng, mở ra trước mặt Masaya. “Trước khi mẹ cháu qua đời... chuyện xảy ra ba bốn năm trước rồi... nói là cần một khoản tiền lớn, đã đến hỏi cậu, cậu bèn gom góp cho chị ấy bốn triệu yên. về sau kinh tế sa sút, cậu cũng không tiện thúc giục chị ruột mình trả tiền, vì vậy cứ dây dưa mãi đến hôm nay, nhưng mà, việc làm ăn của cậu cũng không ổn rồi.” Toshirou bán buôn kính mắt và đồng hồ ở vùng Kobe và Amagasaki, giao sỉ cho các cửa hàng bán lẻ trong thành phố, cả ngày từ sáng đến tối lái chiếc xe chở hàng nhỏ đi khắp chốn, nhờ bán nhiều mà tăng thu nhập. Sau khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ, thu nhập của ông ta sụt giảm rõ rệt, những cửa hàng bán lẻ kia không thể tiếp tục nhập hàng nữa. Nhưng nguyên nhân Toshirou thiếu vốn để quay vòng không chỉ có vậy. Masaya nhớ hồi trước mẹ anh từng nói, cậu Toshirou chơi cổ phiếu kiếm được khá nhiều tiền, sau khi ăn quen bén mùi, bèn không muốn cố gắng làm việc nữa. “Cậu thật tình không muốn nói những chuyện này.” Toshirou khổ sở chau mày, gãi đầu nói, “Cậu cũng đi vay tiền, hơn nữa còn vay nặng lãi. Nếu mãi không trả, không biết bọn họ sẽ xử lý cậu thế nào, nói thực lòng, cậu cũng khó xử lắm.” “Vâng, cháu hiểu.” Masaya gật đầu, “Sau khi thanh toán hết nợ nần ở chỗ khác, cháu sẽ trả tiền cho cậu.” “Vậy sao? Cháu nói vậy là cậu được cứu rồi.” Toshirou cười nhe cả hàm răng vàng, “Đối phương không phải người bình thường đâu, bọn họ cũng biết là cậu vay tiền cho nhà cháu rồi. Thế nên nếu cậu không trả tiền được, bọn họ sẽ bắt cậu giao giấy nợ ra, cuối cùng lại còn gây phiền phức thêm cho cháu nữa. Bấy lâu nay, cậu vẫn khó xử lắm.” “Chắc chắn cháu sẽ trả cho cậu.” Masaya nhắc lại. “Ừm... tốt quá rồi. Nói ra vào thời điểm thế này, thật tình cậu ngại lắm.” Toshirou trưng ra bộ mặt áy náy, ngón tay kẹp điếu thuốc, hai tay đan vào nhau tỏ ý xin lỗi. Uống nốt ít bia còn sót lại, Toshirou bảo buồn ngủ, rồi đi lên tầng hai. Ngày trước ông ta thường đến đây, đã biết rõ chăn nệm dùng cho khách để ở trong tủ âm tường nào. Không ngờ lại nói mẹ đi cầu xin ông ta, vay một khoản tiền lớn! Bố Masaya có kể lại câu chuyện vay tiền này. Bố mẹ anh nghe Toshirou xúi giục, mua cổ phiếu đầu cơ, không, nói một cách chuẩn xác là bị cuốn vào vụ đầu cơ do Toshirou thao túng. Toshirou nói để ông ta ứng tiền ra trước, bảo ông Yukio viết giấy nợ, hình như còn nói giấy nợ chẳng có ý nghĩa gì to tát, chẳng qua chỉ là hình thức thôi. Ông Yukio có nằm mơ cũng không ngờ lại bị em vợ lừa gạt. Đã đến nước này, ngay cả việc Toshirou có thực sự mua cổ phiếu đầu cơ hay không cũng rất đáng nghi. Masaya chuyển hướng sang chỗ chiếc quan tài rẻ nhất mà nhà tang lễ giới thiệu, khoanh chân ngồi xuống. Gương mặt bố anh trong di ảnh toát lên vẻ trống rỗng. Có thể hình dung, vẻ mặt của ông trước khi chết cũng y như vậy: mất hết tất cả, tuyệt vọng, không còn niềm tin với tương lai. Masaya đứng dậy, mở cánh cửa kính thông sang công xưởng. Không khí lạnh lẽo nhanh chóng bao bọc lấy thân thể, anh rùng mình, đi dép lê vào. Nền nhà xi măng lạnh buốt như băng, mùi dầu máy và bụi bặm xộc vào mũi nồng nặc. Anh không thích thứ mùi này, nhưng từ nhỏ đã ngửi quen rồi. Anh ngửa đầu nhìn lên trần nhà. Xà nhà cốt thép vắt ngang từ trái qua phải. Mặc dù ánh sáng lờ mờ, không nhìn rõ được, nhưng anh có thể vẽ lại trong óc hình dạng của những chỗ gỉ sét và tróc sơn trên xà nhà. Trong đó có một chỗ rất giống bản đồ Nhật Bản. Tối ngày hôm kia, Masaya về nhà, phát hiện ra bên dưới chỗ tróc sơn hình dạng như bản đồ nước Nhật ấy có một sợi thừng buông thõng, bố anh treo lơ lửng ở đó. Mời các bạn đón đọc Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ của tác giả Higashino Keigo.
Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp - Rebecca James
Sau một tấn thảm kịch khủng khiếp đã xô đẩy cả một gia đình từng rất hoàn hảo rơi vào vực thẳm tuyệt vọng, Katherine - một cô gái 17 tuổi, chuyển đến một thành phố khác sinh sống, bắt đầu tại một ngôi trường mới, khởi đầu một cuộc sống mới, hầu mong xóa hết ký ức cũ. Cô đã sống những ngày lặng lẽ ẩn dật cho đến khi gặp Alice - một hotgirl xinh đẹp, quảng giao và rất nổi tiếng trong trường. Alice đã khéo léo đưa Kath ra khỏi bóng tối bằng sự quan tâm nồng nhiệt, sự khích lệ đúng lúc và nhiệt tình sống lúc nào cũng căng tràn. Kath đã kết thân với Alice, và khi tình bạn trở nên khắng khít, cô bàng hoàng khám phá ra một bộ mặt thật của Alice: ích kỷ, tàn bạo, thủ đoạn…Đặc biệt, Alice không thích mình bị coi như một kẻ vứt đi… Tình bạn không còn là cứu cánh của Kath mà đã trở thành một thứ chết người…Cô đã vùng vẫy để ra khỏi cái bẫy của chính mình, và phải trả một giá đắt cho hạnh phúc. Truyện viết lôi cuốn, dành cho bạn đọc trẻ. Tác phẩm này được nhà văn Cecelia Ahern (tác giả của P/s, I love you, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn…) khen tặng: “Cực kỳ hấp dẫn”. *** Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp sẽ không chỉ được xuất bản mà còn trở thành một hiện tượng xuất bản kỳ lạ và đã châm ngòi cho một cuộc chiến tranh giành bản quyền trên khắp toàn cầu. Tuần trước, C&W mang bản thảo cuốn tiểu thuyết đến hội chợ sách Frankfurt và lập tức nhận được hàng loạt đề nghị mua bản quyền từ rất nhiều nhà xuất bản trên toàn thế giới, trong đó có cả những hãng từng từ chối cô James. Dù đại diện của C&W chưa từng gặp trực tiếp Rebecca James, nhưng cuốn sách của cô sẽ được dịch sang ít nhất 30 thứ tiếng, và các nhà xuất bản sẽ đặt hàng cô viết thêm hàng loạt tiểu thuyết "giật gân tâm lý" tương tự. Nhà xuất bản Bantam Books (Mỹ) quyết tâm đến mức đã trả tới 600.000 USD mua bản quyền cuốn Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp và cuốn sách thứ hai mà tác giả James sắp hoàn thành có tên Cooper Bartholomew is dead (Cooper Barthomew đã chết). Tại Ðức, Nhà xuất bản Rowohlt Verlag đã đánh bại sáu đối thủ khác khi bỏ ra 378.000 USD để mua bản quyền Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp. Nhà xuất bản lớn như Faber & Faber của Anh và Allen & Unwin của Úc cũng đã mua với mức giá không tiết lộ. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở nhiều nước khác như Ý, Anh, Hà Lan... Thậm chí một nhà xuất bản Romania đã tham gia cuộc đấu giá mua bản quyền Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp dù chưa đọc một dòng nào trong bản thảo cuốn sách. Với bối cảnh ở Sydney, Úc, cuốn sách kể về tình bạn đầy sóng gió giữa cô gái trẻ cô độc Katherine - có chị bị giết hại dã man - với Alice, một cô gái ăn chơi, rất quyến rũ nhưng tính cách vô cùng đáng sợ. Với đề tài gai góc, giới chuyên gia đánh giá cuốn sách có sức hút lớn đối với cả người lớn và thanh thiếu niên. Một nhà xuất bản đã so sánh Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp với loạt tiểu thuyết Twilight (Chạng vạng) cực kỳ ăn khách của tác giả nữ người Mỹ Stephenie Meyer. "Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp khiến tôi bị mê hoặc theo cái cách mà không một cuốn sách nào làm được trong nhiều năm qua" - bà Julia Heydon-Wells, giám đốc xuất bản Hãng Faber, nhận xét. Bà Kate Miciak, giám đốc biên tập Hãng Bantam Books, cũng ca ngợi hết lời: "Bạn chỉ cần đọc đoạn mở đầu là lập tức bị cuốn hút với giọng văn mạnh mẽ và không thể nào rời cuốn sách". *** Rebecca James là một nhà văn của tiểu thuyết dành cho người lớn trẻ tuổi người Australia. Từ một nhà thiết kế nhà bếp thất bại, Rebecca James, nữ văn sĩ người Úc, đang trên đường trở thành một J.K. Rowling - tác giả Harry Potter - mới với cuốn tiểu thuyết đầu tay Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp. Rebecca James là một nhà thiết kế nhà bếp ở Armidale, Úc, 39 tuổi. Ngoài công việc, niềm đam mê chính của cô là viết truyện và cô mới hoàn thành cuốn sách đầu tay Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp, một dạng tiểu thuyết hành động giật gân. Cô đã gửi bản thảo cuốn tiểu thuyết cho rất nhiều nhà xuất bản ở Úc và một số ở Mỹ, nhưng chỉ nhận được những bức thư từ chối lạnh lùng. Tuy nhiên, cuộc đời của bà mẹ có bốn người con của một gia đình đang trong tình trạng phá sản vì suy thoái kinh tế đã thay đổi hoàn toàn khi cô gửi bản thảo Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp cho hãng văn học Anh Conville & Walsh (C&W). Dù phải đến năm 2010 cuốn Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp mới ra mắt độc giả, nhưng tác giả James đã thật sự thành công bởi các nhà xuất bản lớn trên thế giới đã chấp nhận trả những cái giá rất đắt để mua bản quyền cuốn sách vào thời điểm khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mới tháng trước, các hiệp hội tác giả ở Anh đã lên tiếng cảnh báo các nhà xuất bản đang lấy cớ khủng hoảng tài chính để cắt giảm tiền bản quyền và nhuận bút. Sau Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp, Rebecca James dự kiến dành cả phần đời còn lại của mình để viết tiểu thuyết. Mời các bạn đón đọc Sự Hiểm Ác Xinh Đẹp của tác giả Rebecca James.
Vụ Án Erwin
Vụ án Erwin (tựa nguyên bản Schlumpf Erwin Mord, sau đó là Wachtmeister Studer) là tác phẩm trinh thám đầu tiên của Friedrich Glauser. Nó cũng là một cột mốc đầu tiên của thể loại trinh thám hình sự phê phán xã hội. Thương gia Witschi bị bắn chết trong khu rừng ở rìa làng Gerzenstein ở Thụy Sĩ. Ông bị cướp tất cả tiền bạc mang theo người. Vào ngày hôm sau, người trong quán rượu “Bären” nhìn thấy Schlumpf Erwin, một anh chàng đã có tiền án trộm cắp, có rất nhiều tiền mang theo người. Schlumpf bỏ chạy trước khi cảnh sát đến tìm anh ta ở phòng trọ, nhưng rồi lại bị hạ sĩ Studer bắt được và đưa về trại tạm giam. Tại đây, Schlumpf toan treo cổ tự tử nhưng không thành vì Studer đã kịp thời cứu anh ta trong giây phút cuối cùng.   Trực giác cho Studer biết rằng anh chàng Schlumpf này vô tội. Nhưng khi về làng Gerzenstein để điều tra thì càng lúc vụ việc lại càng rối rắm hơn. Schlumpf lại yêu chính cô con gái của nạn nhân bị bắn chết. Người anh của cô và bà vợ của Witschi dường như giấu giếm điều gì đó. Không những thế mà cả ông già Ellenberger, ông chủ lao động của Schlumpf, ông trưởng làng, người thầy giáo làng, tất cả mọi người đều có dính líu như thế nào đó vào vụ việc này. Ai dường như cũng che giấu điều gì đó và đều muốn lái công cuộc điều tra của Studer đi theo một chiều hướng nhất định. Đây là một quyển tiểu thuyết trinh thám khiến cho độc giả phải cùng suy luận, đoán xem ai là thủ phạm. Người đọc bị lôi cuốn theo những dấu vết sai lầm, được mớm cho những chỉ dẫn nào đó, ngạc nhiên vì những bước ngoặc mới trong cuộc điều tra, và thế là lại phải quay lại từ đầu. Căng thẳng, thú vị vâng, buồn cười xuất phát từ công việc điều tra của Studer, chứ không phải từ máu me, bạo lực hay rùng rợn như những tiểu thuyết hình sự hiện đại. Tuy vậy, tác phẩm vẫn có một kết cuộc khó lòng đoán trước, nhưng hợp lý và nhất quán. “Vụ án Erwin” lôi cuốn người đọc cũng từ các tương phản trong nông thôn Thụy Sĩ những năm 30 của thế kỷ trước. Friedrich Glauser đã mang ít nhiều nét hiện thực của xã hội thời đó vào trong quyển tiểu thuyết, mô tả một ngôi làng với những người dân của nó, với nhiều mối quan hệ rối rắm phức tạp, những xung đột ngấm ngầm cũng như những số phận con người mà người ta không muốn hé lộ ra cho người ngoài biết. Không những là một quyển tiểu thuyết trinh thám đầy thú vị và nhiều bất ngờ, đây còn là một bức tranh hài hòa về tập tục và lối sống ở nông thôn Thụy Sĩ. Một quyển tiểu thuyết hình sự hay, với giọng văn miêu tả nổi bật, mang nhiều nét duyên dáng cũng như buồn cười bên cạnh câu hỏi gây đau đầu hầu như suốt cả tác phảm: Ai là thủ phạm? Ngay từ lúc mới ra đời, Vụ án Erwin đã nhận được nhiều lời khen ngợi. Ví dụ như nhật báo “Der Bund” vào ngày 10 tháng 12 năm 1936 đã viết rằng “Quyển tiểu thuyết này nổi bật lên trên mức trung bình của ‘văn học trinh thám’ quen thuộc, và không chỉ đơn giản là một vụ bí ẩn có sức lôi cuốn đến nghẹt thở theo một mô hình gương mẫu. Glauser còn nâng truyện của ông lên đến một mức nghệ thuật, mà người viết nhiều tác phẩm Edgar Wallace sẽ mãi mãi không sánh kịp và cả một Conan Doyle cũng chỉ ngang bằng trong những khoảnh khắc hiếm hoi. Là một bậc thầy trong phân tích, Glauser thêm vào đó còn là một nhà thơ có nhiều tình cảm nồng ấm và có tài quan sát tuyệt vời.” Vụ án Erwin đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đã được chuyển thể phim ngay từ năm 1939. *** MỘT NGƯỜI  KHÔNG CÒN MUỐN SỐNG NỮA Người cai tù có cái cằm ba ngấn và cái mũi đỏ lầu bầu điều gì đó nghe giống như “lúc nào cũng gấp rút”, – vì Studer lôi ông ta ra khỏi bữa ăn trưa. Nhưng ít ra thì Studer cũng là một hạ sĩ điều tra của Cảnh sát Tiểu bang Bern, vì vậy không thể cứ xua đuổi ông ấy đi như xua tà đuổi ma được. Thế là cai tù Liechti đứng dậy, đổ đầy rượu vang đỏ vào ly uống nước, uống một hơi cạn cả ly, cầm lấy xâu chìa khóa và cùng đi đến chỗ tù nhân Schlumpf, người mà ông hạ sĩ vừa mới bàn giao cách đây chưa tới một giờ đồng hồ. Lối đi… Những lối đi dài tối tăm… Những bức tường thật dày. Lâu đài Thun dường như đã được xây cho sự vĩnh cửu. Cái giá lạnh của mùa đông ở khắp nơi. Thật khó tưởng tượng được, rằng ở ngoài kia đang có một ngày tháng Năm ấm áp ở trên hồ nước, rằng người ta đang đi dạo, thanh thản, rằng có những người khác đang nằm đong đưa trong những chiếc thuyền trên mặt nước, và phơi nắng để có được một làn da nâu. Cửa phòng giam mở ra. Studer dừng lại ở ngưỡng cửa một khoảnh khắc. Hai thanh sắt ngang, hai thanh sắt dọc băng ngang qua cái cửa sổ nằm ở trên cao. Có thể nhìn thấy mái của một ngôi nhà – với những viên gạch ngói đen, cũ kỹ – và bầu trời bay phấp phới ở trên như một mảnh vải xanh sáng chói mắt. Có một người bị treo lủng lẳng ở trên thanh sắt phía dưới! Chiếc thắt lưng da được cột chặt và tạo thành một nút thắt. Một thân thể tối tăm nổi bật trên bức tường được quét vôi trắng. Đôi chân nằm yên trên giường, vặn vẹo một cách khác thường. Và cái khóa thắt lưng sáng óng ánh ở sau gáy người bị treo cổ, vì có một tia nắng mặt trời chiếu vào nó từ ở trên cao. “Trời ơi!”, Studer kêu lên, lao tới trước, nhảy lên giường – người cai tù kinh ngạc trước sự nhanh nhẹn của người đàn ông đã lớn tuổi – ôm chặt lấy thân hình đó bằng cánh tay phải, trong khi bàn tay trái tháo cái nút thắt ra. Studer văng tục, vì bị gãy mất một cái móng tay. Rồi ông bước xuống giường và nhẹ nhàng đặt cái thân thể bất động đó xuống. “Nếu như các anh không quá lạc hậu đến như thế này”, Studer nói, “và ít nhất là gắn lưới trước cửa sổ, thì những việc như thế này đã không xảy ra. – Này! Bây giờ thì hãy chạy đi, Liechti, và gọi bác sĩ lại đây!” “Vâng, vâng”, người cai tù sợ sệt nói và khập khiễng đi ra. Đầu tiên, ông hạ sĩ điều tra tiến hành hô hấp nhân tạo. Việc đó giống như một phản xạ. Một cái gì đó xuất phát từ thời mà ông còn học khóa cấp cứu. Và mãi năm phút sau Studer mới sực nhớ ra, đặt tai lên ngực của con người đang nằm đó và lắng nghe xem tim có còn đập không. Có, nó còn đập. Chậm. Nghe giống như tiếng tích tắc của một cái đồng hồ mà người ta đã quên lên dây cót; Studer tiếp tục bơm với hai cánh tay của người đang nằm. Chạy ngang qua ở dưới cổ, từ tai này qua đến tai kia, là một cái vạch đỏ. “Schlumpf à!”, Studer nói nhỏ. Ông lấy cái khăn tay ra khỏi túi, lau trán mình trước, rồi lau qua gương mặt của anh chàng đó. Một gương mặt còn non nớt, trẻ, có hai nếp nhăn to trên sống mũi. Bướng bỉnh. Và trắng nhợt. Đó chính là Schlumpf Erwin, người mà hôm nay người ta đã bắt giữ trong một cái làng ở vùng Oberaargau. Schlumpf Erwin, bị cáo buộc giết chết Witschi Wendelin, một thương gia và người đi bán dạo ở Gerzenstein. Ngẫu nhiên mà người ta đã đến đúng lúc! Trước đây một giờ đồng hồ, người ta đã giao tên Schlumpf đúng theo quy định cho nhà giam, người cai tù với cái cằm ba ngấn đã ký tên – người ta có thể thong dong lên tàu hỏa trở về Bern và quên đi toàn bộ sự việc. Đó không phải là lần đầu tiên người ta bắt người, cũng sẽ không phải là lần cuối cùng. Tại sao người ta lại linh cảm là phải tới thăm Schlumpf Erwin thêm một lần nữa? Ngẫu nhiên? Có thể… Ngẫu nhiên là gì?… Không thể chối cãi được là người ta đứng đối diện đầy cảm thông với số phận của Schlumpf Erwin. Nói cho đúng hơn, người ta đã yêu mến Schlumpf Erwin… Tại sao?… Trong phòng giam, Studer dùng tay vuốt gáy vài lần. Tại sao? Vì người ta không có con trai? Vì người bị bắt cứ quả quyết là mình vô tội trên suốt cả chuyến đi? Không. Tất cả họ đều vô tội. Nhưng những lời quả quyết của Schlumpf Erwin nghe có vẻ thành thật. Mặc dù… Mặc dù trường hợp này thật ra thì đã rõ hoàn toàn. Người ta tìm thấy thương gia kiêm người bán dạo Wendelin Witschi vào sáng ngày thứ Tư với vết đạn bắn ở phía sau tai phải, nằm sấp, trong một khu rừng ở gần Gerzenstein. Túi của nạn nhân trống rỗng… Vợ của người bị giết quả quyết rằng chồng bà có mang theo trên người ba trăm franc Thụy Sĩ. Thế rồi vào tối thứ Tư, Schlumpf đổi một tờ một trăm franc trong quán trọ “Bären”… Vào sáng ngày thứ Năm, cảnh sát muốn bắt anh ta, nhưng Schlumpf đã chạy trốn. Vì vậy mà ông đại úy cảnh sát đã tới gặp hạ sĩ Studer trong phòng làm việc của ông này vào chiều tối ngày thứ Năm: “Studer này, anh phải đi ra ngoài hít thở không khí trong lành. Sáng sớm ngày mai, anh đi bắt tên Schlumpf Erwin nhé. Sẽ tốt cho sức khỏe của anh thôi. Anh béo lên đấy…” Đúng là như vậy, rất đáng tiếc… Tất nhiên, ở những vụ bắt giữ như thế này thì thường người ta gửi binh nhì đi. Nhưng lần này thì ông hạ sĩ điều tra phải đi… Cũng là ngẫu nhiên?… Số mệnh?… Đủ rồi, người ta vướng vào anh chàng Schlumpf, và người ta đã yêu mến anh chàng này. Một sự thật! Người ta phải chấp nhận sự thật, ngay cả khi chúng chỉ liên quan đến cảm xúc. Tên Schlump! Chắc chắn không phải là một người có giá trị cao! Ở Sở Cảnh sát Tiểu bang, người ta quá quen thuộc với hắn. Một đứa con ngoài giá thú. Chính quyền hầu như phải liên tục làm việc với hắn. Hồ sơ trong Sở An sinh Xã hội chắc chắn phải nặng ít nhất là một ký rưỡi. Lý lịch? Mời bạn đón đọc Vụ Án Erwin của tác giả Friedrich Glauser & Phan Ba (dịch).
Ngôi Mộ Bí Ẩn - Vũ Khúc
Một câu chuyện trinh thám với diễn biến nhịp nhàng, nhưng tình tiết gây cấn, hấp dẫn."– Nhà văn Uông Triều WARNING: CUỐN SÁCH NÀY KHÔNG DÀNH CHO NGƯỜI SỢ MA!!! Một vụ án đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại tam giác Bon Phấn thuộc huyện Hoài Nhân: ba người trong một gia đình đã chết vì chất kịch độc xyanua. Chỉ còn Nga – người phụ nữ nhan sắc – may mắn thoát chết và khai ra kẻ thủ ác – chính là người hàng xóm bấy lâu nay vẫn thường bằng mặt mà không bằng lòng với gia đình. Nội tình vụ án tưởng đã rõ như ban ngày, ban chuyên án chỉ việc truy bắt hung thủ. Nhưng… Hàng loạt tình tiết mới đã bất ngờ hé lộ: một chuyện tình sâu đậm, một âm mưu tàn độc, một lòng tham không đáy… *** Xã Vân Trung hiện lên tuyệt đẹp dưới ánh nắng mặt trời mùa hạ. Sông Tích Giang như một dải lụa đính kim cương lấp lánh nằm vắt ngang một cách hờ hững trên một vùng đất xanh mướt màu lúa non. Gần đó là một ngọn núi đá vôi hình búp măng có phần chóp đỉnh vươn lên đến tận mây. Phần chân núi phình tướng, chiếm cứ một vùng đất rộng đến hàng kilomét vuông. Những cánh cò trắng bay qua bay lại tạo nên khung cảnh đồng quê nên thơ. Cuộc sống vừa sôi động vừa thanh bình của tam giác Bon Phấn cứ thế trôi qua, những tưởng cũng vĩnh hằng như dòng nước trên sông Tích Giang. Nhưng đúng vào thời điểm khó ngờ nhất thì tai họa ập đến… Gia đình ông Tuấn, bà Nga đột nhiên đều bị trúng độc Xyanua, ba người thiệt mạng, chỉ còn mình bà Nga qua cơn nguy kịch. Khi tỉnh dậy, câu đầu tiên bà nói là tố giác kẻ giết người. Nhưng vụ án có đơn giản như thế? Vụ án trước đó cũng xảy ra tại nơi này có liên quan gì tới vụ giết cả nhà bà Nga không? Ngôi mộ trong vườn nhà ông Tuấn có bí mật gì? "Ngôi mộ bí ẩn" của nhà văn Vũ Khúc được đánh giá là "một câu chuyện trinh thám với diễn biến nhịp nhàng, nhưng tình tiết gay cấn, hấp dẫn" - Nhà văn Uông Triều.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Mộ Bí Ẩn của tác giả Vũ Khúc.