Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vòng Tay Học Trò

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Vòng Tay Học Trò của tác giả Nguyễn Thị Hoàng: Tác giả   Tìm chân dung đích thực của tác giả ‘Vòng Tay Học Trò’ Trong sinh hoạt văn chương miền Nam 20 năm (1955-1975), Nguyễn Thị Hoàng là một trong vài nhà văn nữ, nổi tiếng ngay với tác phẩm văn xuôi đầu tay “Vòng Tay Học Trò.” Nhưng, nếu Nhã Ca (ở lãnh vực văn xuôi) cũng nổi tiếng ngay với truyện vừa “Ðêm Nghe Tiếng Ðại Bác,” lấy bối cảnh sinh hoạt của một gia đình viết về chiến tranh thì, Nguyễn Thị Hoàng lại nổi tiếng khi bà vượt qua vạch phấn cấm kỵ (taboo) của truyền thống đạo đức xã hội Việt Nam, khi viết về lãnh vực tình yêu và, tình dục giữa một cô giáo và học trò của mình, theo xu hướng hiện sinh. Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và ‘Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về’ qua nét bút của họa sĩ Chóe. Trong phần giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, trang mạng Wikipedia-Tiếng Việt, cũng ghi nhận như sau: “Tác phẩm đầu tay của bà (NTH) có nhan đề Vòng Tay Học Trò dưới bút danh Hoàng Ðông Phương. Ðây là một tiểu thuyết hiện sinh mô tả vấn đề tình yêu, tình dục giữa một cô giáo tên Tôn Nữ Quỳnh Trâm và học trò Nguyễn Duy Minh được đăng dưới hình thức nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa. Tác phẩm trở thành một trong những tác phẩm gây tranh cãi nhất thời kỳ này, và về sau được tái bản nhiều lần.” Tuy nhiên, theo một vài tư liệu hiện có trên Wikipedia thì, bước chân đầu tiên tìm đến với cõi giới văn chương của người nữ văn sĩ này, vốn là thi ca chứ không phải văn xuôi. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho nhà văn Mai Ninh (hiện cư ngụ tại Paris) năm 2003, tác giả “Vòng Tay Học Trò” cũng xác nhận rằng: “...NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất 'dốt' và sợ cái gì liên quan đến khoa học...” Thực tế cũng cho thấy, bà không chỉ làm thơ đăng báo mà, còn có tới hai thi phẩm đã được xuất bản. Ðó là các tập thơ “Sầu Riêng,” XB năm 1960 và “Kiếp Ðam Mê” XB năm 1961.[1] Tuy nhiên, cũng khác với Nhã Ca. Nếu tác giả “Ðêm Nghe Tiếng Ðại Bác” gây xôn xao dư luận những người yêu thơ cũng như văn giới ngay tự những bài thơ thứ nhất của bà, đăng tải trên Tạp chí Hiện Ðại của nhà thơ Nguyên Sa thì, dường như thơ Nguyễn Thị Hoàng lại kém may mắn hơn! Chúng không nhận được sự chào đón hay, chú ý của dư luận quần chúng. Chính vì thế mà số người biết nhà văn Nguyễn Thị Hoàng là một người làm thơ trước khi viết văn không bao nhiêu - Trừ những người có mối quan tâm đặc biệt, muốn tìm hiểu hoặc, nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của bà. Trong số những người có mối quan tâm đặc biệt tới lộ trình chữ, nghĩa của Nguyễn Thị Hoàng, tôi trộm nghĩ, chúng ta phải kể tới nhà văn Nguyễn Ngọc Chính. Ông là người có nhiều bài viết nhất về tác giả “Vòng Tay Học Trò.” Với loạt bài nằm trong “Hồi Ức Một Ðời Người,” họ Nguyễn đã sưu tập về cõi thơ Nguyễn Thị Hoàng và, ghi nhận: “...Trước khi nổi tiếng trong nhóm nhà văn nữ trước 1975, Nguyễn Thị Hoàng là một nhà thơ của xứ Huế với hai tập thơ Sầu Riêng (1960) và Sau Phút Ðam Mê (1961). (2) Nổi bật hơn cả là bài thơ Chi lạ rứa với 40 câu thơ mang đặc những ngôn từ của miền Trung như chi lạ rứa, bởi vì răng, bên ni bờ, đau chi mô, hiểu chi mô (...). “Những vần lục bát là thế mạnh trong thơ Nguyễn Thị Hoàng với những câu thơ rất da diết nhưng cũng rất tự nhiên như văn viết:   Em mười sáu tuổi tơ măng Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu Trong cơn chăn gối rã rời Im nghe từng chuyến xe đời đi qua Ðường về không nhịp trùng lai Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình   Nhìn lên thành phố không đèn Âm u còn một màn đêm cuối cùng Mắt sâu dòng lệ ngập ngừng Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian   Lênh đênh tiếng hát kinh cầu Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ Trên cao tháp cũ nhà thờ Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang   “Lối gieo vần trong thơ 8 chữ cũng là một thể nghiệm mới lạ của nhà thơ nữ:   Em đợi anh về những chiều thứ bẩy Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật   Cho em xin một chiều vui thứ bẩy Có nhạc phòng trà có lá me bay Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay   “Và cuối cùng là những vần thơ 5 chữ trong bài Lời Rêu:   Uống cùng nhau một giọt, Ðắng cay nào chia đôi Chung một niềm đơn độc, Riêng môi đời phai phôi.   Say giùm nhau một giọt! Chút nồng thơm cuối đời. Vướng giùm nhau sợi tóc, Ràng buộc trời sinh đôi. (...)   Và người thứ ai, theo tôi, là nhà văn Trần Áng Sơn. Trong bài viết nhan đề “Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng-Người đàn bà đẹp,” họ Trần kể, vào thời điểm tháng 4, 2002, khi ông viết bài đó, trong tay ông “...không có 1 tác phẩm nào, như một tài liệu, để gọi nói có sách, mách có chứng. Nhưng, vì quá yêu ngòi bút của bà, khởi đi từ chi tiết rất xa xăm - bài thơ Lạ Rứa! - do 1 người bạn ở Huế chép tặng 1957- tôi thực hiện cuộc trở về trong sương mù, viết bằng ký ức, cảm xúc. Cũng rất có thể, tôi bị lạc lối, nhưng tấm lòng dành cho bài thơ Lạ Rứa! vẫn như xưa...”[2] Dưới đây là nguyên văn bài thơ “Chi Lạ Rứa” của Nguyễn Thị Hoàng, trong ký ức của nhà văn Trần Áng Sơn:   “Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc, Ngó chi tui đồ cỏ mọn, hoa hèn. Nhìn chi tui hình đom đóm đêm đen, Cho tui tủi bên ni bờ cô tịch.   “Tui ao ước có bao giờ tuyệt đích, Tui van xin răng mà cứ làm ngơ. Rồi ngó tui, chi lạ rứa hững hờ, Ghét, yêu, mến, vô duyên và trơ trẽn!   “Tui đã tắt nỗi ngại ngùng bẽn lẽn, Bởi vì răng, ai biết được người hè. Nhưng màu chiều đã rũ bóng lê thê, Ni với nớ, có chi mô gần gũi!   “Chi lạ rứa, răng cứ làm tui tủi? Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau! Khối tình câm nên không sắc, không màu, Và vạn thuở chẳng nên câu luyến ái!   “Chi lạ rứa, người cứ làm tui ngại, Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời? Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi, Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể.   “Không muốn khóc, nhưng cứ từng ngấn lệ, Ðọng làn mi ấp ủ mối tâm tình. Bên ni bờ hoa thắm bớt tươi xanh, Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy.” Nguyễn Thị Hoàng[3] Tuy chỉ với vài bài thơ do hai tác giả Nguyễn Ngọc Chính và Trần Áng Sơn ghi lại, nhưng cũng đã có một số người tự hỏi, nếu không xẩy ra cuộc tình nhiều tai tiếng giữa tác giả Nguyễn Thị Hoàng và câu học trò tên Mai Tiến Thành và (vẫn nếu), họ Hoàng không viết lại thành truyện thì không biết hôm nay, người đọc sẽ có một Nguyễn Thị Hoàng thi sĩ hay, Nguyễn Thị Hoàng văn sĩ? Nhất là khi bà từng nhấn mạnh, với bà, trước sau, căn bản vẫn là thi ca?   Dư luận chung quanh ‘Vòng tay học trò’ và đời thường của nhân vật chính Mặc dù căn cứ vào cuộc phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng dành cho nhà báo Tố Tâm ở tạp chí Ðất Mới, số 4 bộ 2, tháng 4, 1990, Việt Nam thì, cả hai tập thơ mà trang mạng Wikipedia liệt kê trong danh sách tác phẩm đã xuất bản, được bà nói rõ rằng: “...Thơ chưa in thành tập, nhưng rải rác có đăng báo. Khởi đầu năm 1960 ở Bách Khoa và từ 1961-1962 thì ở tạp chí Văn. Nhưng khi những chương đầu tiên của Vòng Tay Học Trò được in ở Bách Khoa thì tiểu thuyết là chính, thơ chỉ còn là tô điểm thế mà.”[4] Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. (Hình: NAG Trần Cao Lĩnh chụp) Nhưng, có dễ trước sau thi ca vẫn là “cây bài chủ,” hay ngọn hải đăng tâm hồn họ Nguyễn. Nên khi bước qua văn xuôi, ngay tự những trang viết thứ nhất của tiểu thuyết “Vòng Tay Học Trò,” bên cạnh sự hấp dẫn, lôi cuốn của cốt truyện chắt, chiết từ đời thật, tác giả vẫn có những đoạn tả cảnh, tình ắp đầy thi tính như: “...Một tiếng chim hót lên đầu cành thông gần mái nhà. Trâm nhìn ra. Vòm trời xanh mênh mông in hình nét đồi cong thoai thoải, sáng rực nắng chiều. Một đám mây trắng sắp sửa nhô lên sau ngọn đồi thấp nhất. Hình ảnh của những buổi chiều yên tĩnh, cuộc đời cô quạnh, buồn lãng mạn và nên thơ thoáng qua trong trí Trâm. Nàng chợt vừa sợ vừa thích nỗi cô đơn hiện tại (...). “Trâm đứng lên mở rộng cánh cửa kính. Mùi thơm quen thuộc của cỏ khô và đất mới xới, lẫn với mùi dâu chín dưới thung lũng thoảng theo gió bay lên làm Trâm tự nhiên ấm áp trong lòng, tưởng như đang đời đời yên ổn sống trên đất quê hương...” (Trích VTHT, chương 1)[5] Hoặc một đoạn khác, ở chương 2, tác giả ghi lại, những “cảm nhận” về cậu học trò tên Minh, nhân vật sẽ sớm trở thành người yêu của cô giáo Trâm (biến thân của chính tác giả): “...Trâm giấu nụ cười trong bàn tay vừa đưa lên che môi. Bây giờ, bọn học trò chăm chú vào công việc, không nhìn lên nàng nữa. Trâm tự do, dễ chịu, tha hồ nhìn xuống, quan sát từng đứa để ‘trả thù’ bị nhìn lúc mới vào. Vài đôi mắt nhìn ra cửa sổ. Trâm nghĩ, thế nào cũng có thông reo gió thổi. Có đôi mắt nhìn sững vào khoảng không hay trên vách tường trống trải. Có cặp mắt sáng rỡ nhìn lên như vừa bắt gặp một ý tưởng, một hình ảnh thần tiên nào đó đang chiếu vào khoảng tâm hồn u tối. Có cặp mặt đăm đăm nhìn xuống tờ giấy trắng như chờ mong những hàng chữ bỗng nhiên hiện hình theo phép lạ. “Cuối cùng, Trâm nhìn xuống chỗ Minh ngồi. Cậu bé đang lơ đãng chống tay vào má nhìn lên phía nàng. Cây bút xoay tròn tinh nghịch trên mấy ngón tay trắng nhỏ. Nàng mỉm cười thật nhẹ như thầm nhắc, sao em không viết gì đi. Minh mỉm cười yên lặng. Nụ cười nửa đầm ấm bắt gặp vẻ quen thân trong xa lạ, nửa ngại ngùng bối rối muốn lẩn trốn, che giấu chính mình và những ý nghĩ mình trước đôi mắt dò xét và phán đoán của kẻ khác. Rồi đôi mắt Minh cúi xuống. Ngòi bút loay hoay trong tay, bây giờ bị cắn nhẹ giữa hai hàm răng đều và nhỏ. Minh vò một mẩu giấy nhỏ vứt xuống đất, giở trang giấy khác, nhưng không viết gì được. Trâm biết Minh muốn đứng lên, chạy bay ra khỏi phòng, chạy thật xa cái nhìn xoi mói của nàng. Nhưng Trâm cứ nhìn như kẻ đi săn nhìn con thú lúng túng tìm cách thoát thân khỏi cái bẫy của mình...[6] Ðược biết “Vòng Tay Học Trò” của Nguyễn Thị Hoàng trước khi in thành sách, đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa, Saigon, 1964. Ngay khi còn ở dạng truyện đăng nhiều kỳ, VTHT cũng đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trẻ thời điểm đó. Nhưng mãi tới năm 1966, tiểu thuyết này mới được in ra. Và đó mới là thời điểm “cơn bão VTHT” đạt tới đỉnh điểm cao nhất.   Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Tay Học Trò của tác giả Nguyễn Thị Hoàng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nếu Biết Trăm Năm Là Hữu Hạn - Phạm Lữ Ân
“Nếu biết trăm năm là hữu hạn, cớ gì ta không sống thật sâu…” Chỉ xuất hiện vỏn vẹn trong hơn bốn mươi bài viết trên chuyên mục Cảm thức của Bán nguyệt san 2! (số Chuyên đề của báo Sinh Viên Việt Nam), Phạm Lữ Ân là một tác giả đã âm thầm tạo nên hiện tượng đặc biệt trong văn hoá đọc của giới trẻ Việt nam hiện nay. Các bài viết của Phạm Lữ Ân được đăng tải, trích dẫn rất nhiều lần trên các trang web, trên blog cá nhân, đươc đọc trên Youtube, thành cảm hứng cho sáng tác ca khúc và cả kịch bản phim với những lời bình ưu ái. Với nhiều bạn trẻ, những bài viết này như đã thưc tỉnh trái tim và nhận thức của họ về cuộc đời, vốn chứa đựng nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đầy ắp lo toan. Bằng giọng văn dung dị, thân mật, giàu cảm xúc và có khi rất quyết liệt, tác giả dẫn dắt người đọc đi sâu vào những cảm nhận khác nhau về cuộc đời, về tình yêu trong góc nhìn tỉnh táo và không ngộ nhận (Hãy nói yêu thôi, đừng nói yêu mãi mãi), về tình bạn (Dư vị từ những tình bạn nhạt nhoà), về sự thành bại trong cuộc đời (Còn thời cưỡi ngựa bắn cung), về sự chờ đợi một cơ hội ngắn ngủi và cả một vận hội trong sự an nhiên và điềm tĩnh (Như chờ tình đến rồi hãy yêu)...  Không ít người cho rằng mình đã tìm thấy điều gì đó lạ lẫm và tươi mát trong nhận thức từ những bài viết này. Một số thú nhận mình đã đọc đi đọc lại những bài viết của Phạm Lữ Ân và mỗi lần đọc đều tìm thấy một ý nghĩa mới mẻ tiềm ẩn trong đó. Với hiệu ứng của các bài viết, cái tên Phạm Lữ Ân luôn khiến bạn đọc tò mò. Và thật thú vị khi biết được bút danh này là sự kết hợp của hai nhà báo viết cho giới trẻ, cũng là một đôi vợ chồng. Nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái nhìn trong trẻo, tinh tế và sắc sảo với sự từng trải, thương yêu và khoan dung, những bài Cảm thức này đã đưa ra được những kiến giải đầy thú vị và vô cùng sâu sắc về cuộc đời, không chỉ cho giới trẻ mà cho bất cứ ai trong chúng ta, ở bất kỳ lứa tuổi nào. Có đôi khi những bộn bề của cuộc sống cuốn ta đi như dòng nước hững hờ cuốn trôi chiếc lá. Cứ thế, ta vội vã làm, vội vã ăn, vội vã ngủ, vội vã yêu và vội vã…để sống! Chắc hẳn đã không ít lần mỗi chúng ta đều thốt lên “giá như…” Nếu biết trăm năm là hữu hạn, đưa người đọc đến nhiều tầng của cung bậc cảm xúc, đến nhiều không gian tưởng chừng ta không thể quay về. Vừa hoài niệm, sâu sắc, vừa giản dị, chân thành, vừa quá khứ, hiện tại. Nếu biết trăm năm là hữu hạn cứ thế cuốn ta đi một cách nhẹ nhàng và đầy sâu lắng… Với tập hợp 40 truyện ngắn, chắc hẳn đâu đó xung quanh những câu chuyện ấy, ta sẽ vô tình bắt gặp chính ta. Nếu biết trăm năm là hữu hạn là một quyển sách dành cho nhiều người. “Người ta gọi tuổi mới lớn là “tuổi biết buồn”. “Biết buồn” tức là chạm ngõ cuộc đời rồi đó. Biết buồn tức là bắt đầu nhận ra sự hiện hữu của những khoảng trống trong tâm hồn. Biết buồn là khi nhận ra rằng có những lúc mình cảm thấy cô độc. Khi đó, hãy dành cho sự cô độc một khoảng riêng, hãy đóng khung sự cô đơn trong giới hạn của nó, như một căn phòng  trống trong ngôi nhà  tâm hồn. Mỗi lần vào căn phòng ấy, dù tự nguyện hay bị xô đẩy, thì bạn vẫn có thể điềm tĩnh khám phá bản thân trong sự tĩnh lặng. để rồi sau đó, bạn bình thản bước ra, khép cánh cửa lại và trở về với cuộc sống bề bộn thường ngày, vốn lắm nỗi buồn nhưng cũng không bao giờ thiếu niềm vui...” (Trích "Những khoảng trống không phải để lấp đầy") *** "Nếu biết trăm năm là hữu hạn" đưa bạn đọc đến nhiều cung bậc cảm xúc, những không gian tưởng chừng không thể quay về, vừa hoài niệm, sâu sắc, lại giản dị, chân thành... Phạm Lữ Ân là bút danh chung của 2 tác giả đồng thời là một cặp vợ chồng được rất nhiều bạn đọc trẻ yêu mến: Đặng Nguyễn Đông Vy và Phạm Công Luận. Nhờ kết hợp giữa cái nhìn trong trẻo, tinh tế, sắc sảo với sự từng trải, thương yêu và khoan dung, những bài viết của tác giả được những kiến giải đầy thú vị và sâu sắc về cuộc đời, không chỉ cho giới trẻ mà cho bất cứ ai, ở bất kỳ lứa tuổi nào. Nếu biết trăm năm là hữu hạn là cuốn sách đưa bạn đọc đến nhiều cung bậc cảm xúc, những không gian tưởng chừng ta không thể quay về, vừa hoài niệm, sâu sắc, vừa giản dị, chân thành, vừa quá khứ, hiện tại. Cuốn sách cứ thế cuốn ta đi một cách nhẹ nhàng và đầy sâu lắng… Đôi khi giữa bộn bề cuộc sống, bạn không nhận ra bản thân đã lãng phí thời gian, tiền bạc, công sức... vào những thứ vô bổ. Nhiều lúc bạn vội vàng chạy đua cùng thời gian mà quên cảm nhận những thay đổi, điều thú vị, hạnh phúc xung quanh ta. Cứ thế, ta vội vã làm, ăn, ngủ, yêu và vội vã… sống. "Người ta gọi tuổi mới lớn là 'tuổi biết buồn'. 'Biết buồn' tức là chạm ngõ cuộc đời rồi đó. Biết buồn tức là bắt đầu nhận ra sự hiện hữu của những khoảng trống trong tâm hồn. Biết buồn là khi nhận ra rằng có những lúc mình cảm thấy cô độc. Khi đó, hãy dành cho sự cô độc một khoảng riêng, hãy đóng khung sự cô đơn trong giới hạn của nó, như một căn phòng trống trong ngôi nhà tâm hồn. Mỗi lần vào căn phòng ấy, dù tự nguyện hay bị xô đẩy, thì bạn vẫn có thể điềm tĩnh khám phá bản thân trong sự tĩnh lặng. Để rồi sau đó, bạn bình thản bước ra, khép cánh cửa lại và trở về với cuộc sống bề bộn thường ngày, vốn lắm nỗi buồn nhưng cũng không bao giờ thiếu niềm vui...". Cuốn sách với cách viết nhẹ nhàng, giọng văn như thủ thỉ, khiêm nhường khiến người đọc như được đắm mình trong những dòng cảm xúc. Đọc 40 truyện ngắn, độc giả có thể bắt gặp bản thân ở những câu chuyện ấy. Những điều ấy khiến ta phải dừng lại suy ngẫm, chiêm nghiệm lại bản thân mình để sống tốt hơn cho mình và mọi người xung quanh. “Có những món quà mà bạn không cần phải tốn tiền mua. Có những món quà mà bạn luôn muốn được nhận. Có những món quà mà người khác chờ đợi bạn tặng”. Bạn hãy sống trọn vẹn cho ngày hôm nay, sống thật và dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất để cảm nhận cuộc sống từ chính tâm hồn mình vì “Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay”. Có thể nói, Nếu biết trăm năm là hữu hạn là quyển sách dành cho những người đang mất phương hướng trong cuộc sống. Bởi cuốn sách là các chân lí, quan niệm nhân sinh của người từng trải viết về tình yêu, tình bạn, gia đình... giúp bạn suy nghĩ lạc quan, xác định được hướng đi đúng đắn cho cuộc đời.   Mời các bạn đón đọc Nếu Biết Trăm Năm Là Hữu Hạn của tác giả Phạm Lữ Ân.
Mộ Bia Giữa Biển - Mảnh Đất Cuối Cùng Nơi Người Cha Nằm Lại - Nakamoto Teruo
Quyển sách ghi chép lại việc chuẩn bị và hoàn thành cuộc tế lễ vong linh trên biển “Mảnh đất cuối cùng nơi người cha nằm lại” mà tôi viết nhằm an ủi những kỷ niệm đầy nuối tiếc về cha mình đã được xuất bản ở Nhật Bản hơn năm năm. Tôi đã được rất nhiều người giúp đỡ trong việc chuẩn bị buổi lễ tế vong linh trên biển ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Những người bạn thân thiết đã giúp tôi tìm kiếm vị trí tàu chìm, xin giấy phép Hải quân cũng như chuẩn bị thuyền để ra đến nơi. Chủ tịch tỉnh Quảng Ngãi và những người liên quan đã tổ chức tiệc đón tiếp cũng như chuẩn bị vòng hoa cho buổi tế lễ vượt ngoài mong đợi của tôi khiến tôi cảm động vô cùng sâu sắc. Sau khi hoàn thành buổi lễ tế và quay trở về Nhật Bản, tôi luôn day dứt muốn làm một điều gì đó để cảm tạ người dân Quảng Ngãi. Tôi bàn với những người ở Hiệp hội hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản và quyết định xây một trường Mầm non cho tỉnh Quảng Ngãi. Sau đó, trong một năm tôi đã quyên góp được ba trăm năm mươi vạn yên (tương đương bảy trăm triệu đồng) từ hơn ba trăm người và trao số tiền này cho đơn vị thi công. Vào tháng 12 năm 2015, việc xây cất trường mầm non ở xã Tịnh Ấn Đông, tỉnh Quảng Ngãi hoàn thành và tôi cũng tham dự lễ khánh thành. Mặc dù trời mưa nhưng có rất đông người đến tham dự. Trên băng khánh thành có ghi “Trường Mầm non này được xây dựng trong tình yêu thương hữu nghị Việt – Nhật. Tôi mong những em bé học ở đây tương lai sẽ trở thành những người bắc nhịp cầu hữu nghị Việt Nam và Nhật Bản” và trường được lấy tên là trường “Nhịp cầu” (架け橋 Kakehashi). Phòng ốc rộng rãi như sẵn sàng đợi chờ các em vào nhập học. Trường được hoàn thành nhờ vào thiện ý quyên góp của nhiều người dân Nhật Bản, sự giúp đỡ của nhiều người tình nguyện và ý tưởng của các thầy cô giáo trong trường. Tôi thực sự mong mỏi các em sẽ được nuôi dạy mạnh khỏe, trở thành người bắc nhịp cầu hữu nghị hai nước trong tương lai. Nhờ sự giúp đỡ nhiệt thành của ông Hoàng Long mà quyển sách này được dịch sang tiếng Việt để nhiều người có thể tìm đọc, khiến tôi rất lấy làm vui mừng. Nhân dịp tái bản, cùng với việc đưa vào các tư liệu hình ảnh buổi khánh thành trường Mầm non, tôi cũng mong muốn sẽ có nhiều người tìm đọc quyển sách để suy ngẫm về sự tàn khốc của chiến tranh cũng như cầu nguyện cho hòa bình. Viết tại Nhật Bản Nakamoto Teruo Mời các bạn đón đọc Mộ Bia Giữa Biển - Mảnh Đất Cuối Cùng Nơi Người Cha Nằm Lại của tác giả Nakamoto Teruo.
Con Kỳ Lân Cuối Cùng - Peter S. Beagle
Đầu xuân năm nay, (1973), tôi được anh bạn thân trao cho cuốn THE LAST UNICORN với lời giới thiệu trước rằng đây là một trong những best-sellers hiện thời. Tôi vốn không tin cẩn những best-sellers nên cũng chỉ hững hờ đọc mươi trang đầu, nhưng rồi kế đó tôi đọc miết mải và đọc kỹ. Peter S. Beagle là một trong những tác giả Tây Phương hiếm hoi thấu hiểu tinh thần Dịch lý âm trung chi dương, dương trung chi âm, và tinh thần phá chấp, vô cầu cực kỳ thanh thoát của Thiền. Tôi dịch THE LAST UNICORN với một tinh thần tri kỷ. Hãy xin ghi chú rất nhanh quan điểm dịch của tôi. Tôi muốn tác phẩm được thật gần gũi với độc giả Việt Nam, nên chủ trương dịch thật thoát nghĩa. Rất nhiều khi tôi phải thêm lời vào cho tròn trịa ý của nguyên tác, và cũng đôi khi tôi tước bỏ đi một vài ý nhỏ xét ra chỉ làm rườm lời tối nghĩa với độc giả Việt Nam. Đặc biệt những bài thơ, những bài đồng dao trong tác phẩm, hầu hết tôi chỉ giữ lấy ý chính, còn hoàn toàn sáng tác lại theo lời Việt, tinh thần Việt. Tất cả những thay đổi nhào nặn nhỏ đó chỉ để phục vụ nguyên tác, luôn luôn theo sát nguyên tác về ý, cũng như về giọng điệu. Đặc biệt cách viết và trình bày đối thoại, tôi cố ý giữ đúng theo dáng dấp nguyên bản, vì đó là nét đặc biệt của văn chương Anh ngữ mà tôi muốn chúng ta làm quen dưới hình thức Việt ngữ. Còn về nội dung CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG - THE LAST UNICORN ra sao đây? Tôi không dại gì tiết lộ trước tình tiết câu truyện ra đây để các độc giả mất thú bất ngờ, chỉ xin ghi mấy cảm nghĩ nhân đọc và dịch CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG mà nẩy sinh. Những cảm nghĩ rất rời rạc, tôi cố ý vậy và cũng chẳng thể nào khác hơn, nhưng khi các bạn đọc xong tác phẩm những cảm nghĩ rời rạc đó sẽ kháp lại thành một hệ thống tô đậm mang nhiều ý nghĩa hơn. Xin được tuần tự nêu như sau đây: - Kỳ lân, lý tưởng chân thiện mỹ, nay với người đời chỉ còn là một huyền thoại thôi hay sao? Có thực người đời ngày nay sa đọa đến nỗi không những quay đi, mà còn cười mũi vào những gì là lý tưởng chân thiện mỹ, nhìn con kỳ lân cuối cùng mà cho là con ngựa cái trắng? Biết kính trọng kỳ lân, mỉa mai thay, lại là lũ gà, vịt, ngan, ngỗng, và bất kỳ con vật lớn nhỏ nào. Nhận được ra kỳ lân chỉ có mấy người: Schmendrick và Molly vốn yêu kỳ lân; Bà Má Định Mạng và Vua Haggard, kẻ thì muốn dùng kỳ lân như phương tiện, kẻ thì muốn độc quyền kỳ lân. Kể ra giữa đám người trần mắt thịt nhìn kỳ lân ra ngựa cái, thì kẻ nhận ra kỳ lân, dù với tâm trạng nào, cũng vẫn là những cặp mắt tri kỷ. Có điều Bà Má Định Mạng ở vào trường hợp tài bất cập chí, thực tội nghiệp, như đứa trẻ cố sử dụng cây trùy lớn hơn mình và bị trùy đè bẹp. Giá trị phù phép của Bà Bá Định Mạng nhẹ như hình nộm mà lại nhốt giữ hai trái núi Thái Sơn của Thiện (lân) và của Ác (ác điểu Celaeno). Bùa phép chỉ là thứ bụi phấn vô cùng mong manh phủ ngoài, khi được tự do, những thứ thiệt cỡ lớn đó chỉ sẽ rùng mình là phủi đi hết, có còn gì nữa đâu. Sự thực nung chảy tà thuyết. Bi kịch của những kẻ tài bất cập chí, đi vào tà đạo lừa người và tự lừa mình bằng ảo thuật là ở đó. Chúng ta há chẳng đương sống trong thời đại yêu thuật của tuyên truyền chính trị? Vua Haggard mới đích thực là phù thủy thứ thiệt đại diện cho Ác, kẻ muốn độc quyền kỳ lân, kẻ có một chính sách vô úy, dùng Con Bò Mộng Đỏ làm phương tiện khủng bố, đẩy hiệu năng tới mức vô tiền tuyệt hậu. Chỉ còn chút xíu nữa, bắt nốt con kỳ lân cuối cùng, là ông ta làm bá chủ, dìm cả thế giới vào vùng ảo thuật đen của ông, trong đó tất cả những vì sao lý tưởng đều bị dập tắt ngấm. Trong thế cheo leo chỉ còn đường tơ kẽ tóc đó, phải làm thế nào để cứu mình và cứu người? Thực ra chẳng ai cứu nổi mình, nếu mình không có ý chí tự cứu mình trước. Điều này chẳng mới lạ gì, nhưng không vì thế, mà chúng ta không nhắc nhở luôn, khi có dịp. Trí nhớ con người nào hơn gì thỏ, dao năng mài mới sắc. Vai trò của chàng ảo thuật gia tưởng như nửa mùa, Schmendrick là ở đó. Chàng là hiện thân của nếp sống nghệ sĩ, chân thành trong thiên nhiên, tiên tri tiên giác dưới hình thức lẩm cà lẩm cẩm, đã dạy ta một cách trọn vẹn nhất về cái nhìn toàn diện và nếp sống vô cầu. Kỳ lân tiếc nuối khi phải trở về với bất tử, Schmendrick tràn trề hạnh phúc khi được trở lại kiếp phù du có sống có chết, nhưng chính vì có sống có chết mà trở thành sống động và quyến rũ muôn vàn, trong đó thiện ác đều có vai trò của chúng. Cái nhìn sâu sắc nhất của Peter S. Beagle chính là ở điểm này. Tình yêu tất nhiên có sự hiện diện và đóng giữ vai trò tích cực lớn lao của nó. Nếu như con kỳ lân cuối cùng không qua kinh nghiệm làm người có sống có chết, có tình yêu trong cõi vô thường, con kỳ lân tất cũng bị dồn nốt xuống biển để cho vua Haggard hoàn toàn làm chủ thế giới bằng thứ ảo thuật đen của ông, dưới trướng là thứ phương tiện vô biên, sự khủng bố của Con Bò Mộng Đỏ. Chính tình yêu là điểm le lói cuối cùng nổ tung thành cả một vùng hào quang cứu lấy thế giới chỉ còn cách sự diệt vong có đường tơ kẽ tóc. Lý tưởng đơn thuần cao vòi vọi của kỳ lân vẫn có thể bị con Bò Mộng Đỏ dễ dàng nhận chìm, nhưng tình yêu thì không, dù là chỉ là một điểm nhỏ. Tình yêu thắp bừng ngọn đèn bất úy, điều kiện cần và đủ để thắng Khủng Bố dưới mọi hình thức mà cứu lấy thế giới này. Cái Ác luôn luôn còn đó. Cái Ác không bao giờ bị tiêu diệt. Chỉ có chúng ta là có thể bị tiêu diệt nếu để mất tình yêu. Đó là bức thông điệp tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG muốn để lại cho chúng ta. Tất cả tình tiết truyện, nhân vật truyện, đối thoại, đều như xuất hiện trong một giấc mộng bàng hoàng, không hẳn là ác mộng mà chìm đắm miên man trong suy tư cho tới khi bừng tỉnh giữa ánh sáng, âm thanh, và hình ảnh quen thuộc thường nhật. Thoạt vào truyện, quả tình, chúng ta có cảm tưởng như thế giới ngày nay hết chỗ cho kỳ lân, sau đó mới hay chẳng phải thế đâu. Mê có thể trải nhiều kiếp, nhưng ngộ có thể chỉ trong sát na liền. Thiện - Ác, Phúc - Tội chẳng hai! Như nước kia, gió thổi động thì thành sóng, gió dứt, sóng vẫn là nước, cũng là ý trong Pháp Bảo Đàn kinh mà ra. Nhưng tuổi trẻ nào cũng khao khát được chiêm ngưỡng lý tưởng tuyệt đối, được ôm ấp, được thờ phụng cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ tuyệt đối. Đành vậy chứ biết sao bây giờ. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng. Đường đời là thế, chẳng thể đốt giai đoạn được. Điều thành công - điểm cuối cùng tôi muốn ghi nhận nơi đây - của tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG là đã khiến chúng ta phải lúng túng một cách đáng yêu khi đọc truyện này, lúng túng trong việc loay hoay tìm cách đặt những hình ảnh tượng trưng trong truyện sao cho khít khao với những hình ảnh ngoài đời. Ta cứ phải loay hoay hoài, nghĩa là phải suy nghĩ hoài, vì có cái gì trong lý tưởng tìm được chỗ nằm khít khao ngoài thế giới thực tai đâu. Tìm tòi, suy nghĩ hoài, thấy được một ít, tiếp tục tìm tòi suy nghĩ... Một tác phẩm mà đặt được những câu hỏi, những vấn đề vừa đứng đắn vừa ỡm ờ, vừa rõ ràng, vừa huyền ảo như vậy, ta còn đòi hỏi gì hơn? DOÃN QUỐC SỸ *** Peter S. Beagle sinh tại New York năm 1939. Ông tốt nghiệp Đại học Pittsburgh năm 1959 và hành nghề viết báo chuyên nghiệp. Suốt một thập niên viết báo và tiểu luận cho các tạp chí, ông chuyên trách nhiều lĩnh vực, từ đá gà tại Bắc Carolina cho đến Chiến dịch người nghèo ở Washington D.C. Từ giữa thập niên 1970, ông viết kịch bản cho điện ảnh và truyền hình, trong đó có một phần của bộ phim khoa học viễn tưởng nổi tiếng Cuộc du hành giữa các vì sao (Star Trek) và phim hoạt hình dựa theo tiểu thuyết Chúa nhẫn (Lord of the Rings). Hai tiểu thuyết đầu tay của ông vẫn tiếp tục được in lại cho đến nay và xếp vào loại “kinh điển” của thể loại truyện bestseller. Tiểu thuyết Con kỳ lân cuối cùng (The Last Unicorn) được chuyển thành phim hoạt hình năm 1982, còn Một nơi đẹp đẽ riêng tư (A Fine and Private Place) được chuyển thành nhạc kịch. Năm 1993, vở opera Thiên thần nửa đêm (Midnight Angel) được dựng dựa theo truyện ngắn Khiêu vũ với thần Chết (nguyên tác: Come Lady Death) của ông. Mời các bạn đón đọc Con Kỳ Lân Cuối Cùng của tác giả Peter S. Beagle.
Năm Em Gặp Anh - Cecelia Ahern
Năm Em Gặp Anh nhẹ nhàng, lãng mạn, sâu sắc và tinh tế trong từng chi tiết nhỏ. Cecelia Ahern là một nhà văn nổi tiếng với các truyện dài: Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Có một nời gọi là chốn này... viết sâu sắc và hư ảo, luôn biết cách khơi gợi để người đọc nhìn thấy những phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn mình. Cô bị trầm cảm nặng nề, nhưng cũng chính nhờ một năm ở nhà theo chế độ "về vườn", cô khám phá ra những sở thích của chính mình lâu nay bị guồng quay công việc che lấp, tình cảm gia đình, xóm giềng, và tìm được một  tình yêu đích thực. *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'Flawed' và đã được xuất bản cuối năm 2017.   Trước khi bắt tay vào sự nghiệp viết lách, Cecelia Ahern đã có bằng Báo chí và Truyền thông đại chúng. Hai mươi mốt tuổi, cô viết tiểu thuyết đầu tiên, Tái bút Anh yêu em. Cuốn sách ngay lập tức trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất trên thế giới và được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của Hilary Swank. Những tiểu thuyết tiếp theo của cô: Nơi cuối cầu vồng, Nếu em thấy anh bây giờ, Có một nơi gọi là chốn này, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Cuốn sách của ngày mai đều là những cuốn sách bán chạy nhất. Tiểu thuyết của cô được xuất bản ở bốn mươi sáu quốc gia và bán ra trên mười triệu bản. Cecelia cũng là nhà đồng sáng tạo seri hài kịch ăn khách trên kênh ABC Network Samantha Who? với sự tham gia diễn xuất của Christina Applegate. Năm 2008, Cecelia giành giải thưởng Nhà văn mới xuất sắc nhất tại lễ trao giải Người phụ nữ của năm của tạp chí Glamour. Cecelia hiện đang sống ở Dublin, Ireland. Để đăng ký nhận những bản tin độc quyền về Cecelia Ahern Harper-Collins và tìm hiểu thêm những cuốn sách, bài phỏng vấn, hình ảnh ... của Cecelia, hãy ghé vào trang www.cecelia-ahern.com. Các tác phẩm của Cecelia Ahern đã được xuất bản tại Việt nam: Sức Mạnh Tình Yêu - PS I Love You Nhật Ký Của Ngày Mai Năm Em Gặp Anh Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ Nơi Cuối Cầu Vồng Cô Gái Trong Gương Mời các bạn đón đọc Năm Em Gặp Anh của tác giả Cecelia Ahern.