Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Bốc Phệ Chính tông - Trần Khang Ninh - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Từ xưa, về truyền thuyết bốc phệ không có ai bằng họ Tả đời Xuân-Thu. Ông Chu Tử ở núi Tử Dương có nói: “Thời tam đại, về thái bốc – thái phệ đều có quan chuyên giữ chức, cho nên chuyên nghệ tinh vi, ứng nghiệm thần diệu. Những thời sau phế bỏ chức quan ấy đi; hơn nữa, sách chiêm bốc cũng không được lưu truyền cho nên ít người đạt đến chỗ thần minh”. Trong thời cận đại, các thiên Hoàng Kim Sách có thể nói là đến cùng được lý thâm ảo của âm dương, lường được huyền vi của tạo hoá, nhưng vì giải thích chưa được rõ nên người sau tôn theo đó để chiêm nghiệm mà không thể không sai lầm. Lại có sách truyền lại mà không thấu đáo được tinh ý của cổ nhân. Nếu như có bậc học rộng, hiểu sâu, thấu được thần minh thì tự mình làm ra sách cũng không khó, mà còn có thể phát huy được đến chỗ tinh vi, bỏ được những chỗ u tối nữa. Lâm ốc Vương Sơn nhân buông rèm ở mé sông quân, trị Ngô quận, ta ở gần bên cạnh đấy, gặp chỗ nào ngờ liền đến hỏi, đem thử hằng nghiệm không sai, rõ ràng như đếm, xa gần đều xưng tụng là thần. Nhưng Sơn Nhân cố từ chối không nhận và nói thác rằng: đã được thụ giáo ở người khác. Tân An Dương Quảng Hàm tiên sinh là thầy ta có truyền cho ta một quyển sách chiêm nghiệm. Các sách khác đều không thể sánh kịp. Những năm gần đây, ta tặng bổ biên soạn rồi cho khắc in để tựa rằng: “ Xưa kia thánh hiền nói về lý, không nói về số, mà thực Kinh dịch là sách vì bốc phệ mà đặt ra để có thể biết trước được cát, hung, hối, lận. Tuy vậy, gọi là lấy Số mà suy lường, nhưng thực ra là lấy Lý mà đoán vậy.”  Nay sách của Sơn Nhân ta còn giữ đủ. Phần tinh vi, ảo diệu thì cố nhiên là thần tình về Số. Nhưng nếu không quán triệt được Lý âm dương biến hoá, ngũ hành sinh khắc, thì cũng không đoán được phần Số học. Vì vậy, sách nay tuy nói về Số, mà chính là sách nói về Lý vậy. Nếu nghiên cứu đến chỗ thật tinh vi, thì dù là bậc thần minh thời xưa về bốc phệ cũng không thể hơn được. Niên hiệu Khang Hy, năm Kỷ Sửu, mùa Đông, tháng Mười. Ngô Quận Trương Cảnh Tùng viết tại Dung Giang Thảo đường.     

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Luật Ông Thầy Chùa PDF (NXB Tiếng Dân 1928) - Trang Quảng Hưng
Tôi Trang Quảng Hưng chủ chùa Từ Vân ở Tourane có lời cáo bạch cùng quí ngài rõ. Đạo phật trong nước ta, bên Tàu truyền qua xưa nay vẫn chưa có chùa nào thể theo lời phật dạy cấp độc, tế cô, từ bi, bác ái, nay tôi xin phép: Hai chánh phủ cho các điện nhỏ học chữ quốc ngữ và dịch kinh luật ra chữ quốc ngữ, có nuôi trẻ con nghèo ăn học làm phước. Vậy các học trò đã phần nhiều biết chữ quốc ngữ soạn dịch quyển luật này lớp trung học đạo phật cho dễ thông dụng, dịch rồi năm 1928, Triều vua Bảo Đại năm thứ ba. Mậu thìn niên, tôi có nhờ quan bác sĩ y khoa, quan tư Monsirur Sa-Lê, xét gởi ra trường bác cổ Hà Nội.Luật Ông Thầy ChùaNXB Tiếng Dân 1928Trang Quảng Hưng222 TrangFile PDF-SCAN
Lục Kiếm Đồng PDF (NXB Mai Lĩnh 1930) - Văn Tuyền
Loại “cựu trào” từng được dịch và in thành sách từ thời tiền chiến, có thể kể đến Giang hồ kỳ hiệp, Hỏa thiêu Hồng Liên tự... Mỗi tập sách chưởng chỉ 16 trang, giá bán 3 xu/tập, phát hành hằng tuần. Cụm từ “Tiểu thuyết ba xu” có lẽ ra đời trong thập niên 1930 là nhằm chỉ loại sách viết nhanh, viết vội, đọc giải trí, đọc xong rồi bỏ, do đó, tác giả bịa ra bút danh nào đó vì không dám chường mặt ra. Thế nhưng, khi nhà văn Phạm Cao Củng xuất hiện (ký bút danh Văn Tuyền) với bộ Lục kiếm đồng, lập tức đánh bạt các bộ kiếm hiệp khác.Ông Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh là ký giả chuyên viết bình luận thời sự cho các báo Dân Chủ Mới, Thần Chung, Trắng Đen, Sống Mới... lý giải: “Thật ra, kỹ thuật... phi kiếm của Văn Tuyền có lẽ không hơn gì kỹ thuật nội công của truyện chưởng Hồng Kông nhưng bộ Lục kiếm đồng được ưa chuộng là vì anh Văn Tuyền biết đưa sắc màu “diễm tình” vào tiểu thuyết. Bộ Lục kiếm đồng hay hơn ở điểm chẳng những có phi đao phi kiếm mà còn có những chuyện yêu nhau theo trào lưu mới”.Lục Kiếm ĐồngNXB Mai Lĩnh 1930Văn Tuyền (Phạm Cao Củng)576 TrangFile PDF-SCAN
Lục Súc (1887) - Trương Vĩnh Ký PDF NXB Sài Gòn
Những năm cuối thế kỷ XX có một hiện tượng tiêu cực và đặc biệt ngày càng trầm trọng, đó là việc các nhân vật lịch sử và văn hóa Việt Nam liên tục bị hạ bệ, vẽ trấu: Nguyễn Huệ, Gia Long, Nguyễn Du, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, ... cũng như một số lãnh tụ, tướng lãnh bất kể phe phái nào. Có khi là những nỗ lực đi tìm sự thực lịch sử, có khi là những đánh giá lại, có khi gián tiếp chửi bới một chế độ, phe nhóm, có khi vì kỳ thị tôn giáo hay vì mặc cảm, dị ứng, biến ứng, có người riêng rẻ, lại có những tổ chức qui mô. Sự kiện 30-4-1975 đã chứng minh vai trò của „hoả mù“ tuyên truyền, phản thông tin trong cuộc chiến tranh đó! Trong một tình cảnh chung của người Việt lúc này sống chết với ... lịch sử, với hiện tượng hồi ký tạp loại, nhất là tiểu thuyết lịch sử, dã sử. Dĩ nhiên đó cũng là lý do trong nước gần đây (4-2000), tại đại hội Nhà văn lần thứ 6, việc sáng tác về các đề tài lịch sử đã được Ban Chấp hành Hội Nhà văn đề ra như là một phương hướng nhiệm vụ cần thiết cho ngũ niên tới, 2000-2005 (1). “Hoả mù“ cứ thế mà tiếp tục thôi ! Dĩ nhiên, Trương Vĩnh Ký không thoát những đòn hỏa mù đó! Từ ngày ông qua đời đến nay và qua nhiều cuộc đổi đời, đã có nhiều công trình biên khảo và nghiên cứu về ông, khen có chê có. Trong bài này chúng tôi với chủ ý đặt lại một số vấn đề nghiên cứu căn bản, do đó chỉ xin nêu ra một số sai lầm và nghi vấn về con người và sự nghiệp Trương Vĩnh Ký, một người Việt Nam-kỳ, theo đạo Thiên chúa, làm việc cho Pháp và là người mở đường báo chí và văn học chữ quốc ngữ ở hậu bán thế kỷ XIX. Ông sống đồng thời với Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, ... nhưng mỗi người một cuộc đời khác nhau, đại diện cho các khuynh hướng người Việt lúc bấy giờ đối với thực dân Pháp thôn tính Nam-kỳ.Lục SúcNXB Sài Gòn 1887Trương Vĩnh Ký26 TrangFile PDF-SCAN
Lược Sử Tên Phố Hà Nội PDF (NXB Hà Nội 1964) - Lê Thước
Giới thiệu sơ lược các tên phố ở Hà Nội. Phần 1: Là những phố lấy tên người và tên sự kiện lịch sử (những phố lấy tên của những danh nhân anh hùng hoặc tên của những sự việc lớn trong lịch sử như những cuộc chiến thắng, khởi nghĩa, quốc hiệu, quê hương một vị anh hùng..). Phần 2: gồm những phố lấy tên đất, phần lớn là những tên gọi cổ truyền, ghi lại tên 36 phố phường cũ, hay tên làng mạc cũ, đánh dấu vị trí của đường phố. Phần cuối gồm những tên phố cổ truyền ghi lại 36 tên phố cổ. Có bảng đối chiếu tên phố cũ và tên phố hiện tại.Lược Sử Tên Phố Hà NộiNXB Hà Nội 1964Lê Thước371 TrangFile PDF-SCAN