Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bách Gia Chư Tử

Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc.

Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc.

Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.

Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.

Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó. Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.

Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.

Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.

Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu. Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.

Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.

Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.

Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.

Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

DUY MA CẬT - SỞ THUYẾT KINH - ĐOÀN TRUNG CÒN
SỰ TÍCH CỦA CUỐN KINH “DUY-MA-CẬT”LÀ NHƯ VẦY:(Lời của người trực tiếp viết Kinh cho “Bác” lúc bấy giờ)Vào dịp giữa hè 1988, gia đình tôi đang sắp sửa để dùng bữa cơm trưa, bỗng nhiên thấy một người con dắt người cha mù hai mắt tới xin ăn. Tôi vội vàng chào hỏi hai cha con và bảo rằng: “Mời hai cha con vào nhà uống nước nghỉ ngơi, thế nào gia đình cũng có ít nhiều gì về gạo cho cha con”.  Hai cha con cảm ơn rối rít, nhưng tâm trạng vẫn còn rụt rè. Tôi lại bảo: “Không việc gì cả, cứ tự nhiên, tôi cũng như ông, không có thì phải xin chớ sao?” Lúc đó, hai cha con đành mạnh dạn uống nước. Tôi bảo các con dọn cơm ra để ăn kẻo trưa. Hai cha con vội vã ra đi, nhưng tôi ngăn lại không cho và bảo: “Ở lại ít nhiều ăn với gia đình bữa cơm đạm bạc". Hai cha con thấy gia đình tôi mời niềm nở đành ở lại. Xong bữa cơm đạm bạc, tôi mời hai cha con nằm nghỉ kéo đi nắng quá.Thế là tôi lên nhà Thờ Học Kinh Tẩy Tâm. Người cha ở dưới nhà nghe tôi đọc hay quá. Khi đọc xong, tôi quay lại học chuyện với hai cha con và để biết ở đâu đến.Người cha nói với tôi là “Quê ở vùng Sơn cước cách xa lắm. Sao anh đọc sách gì mà nghe thật ý nghĩa?”.Tôi bảo: “Tôi đọc sách “Tẩy Tâm' cho thuộc”.Người ăn xin ấy lại hỏi tiếp tôi: “Như vậy anh theo Phật, Thánh”. Tôi bảo: “Tôi đang tập”.Kẻ ăn xin lại nói với tôi rằng: “À, như vậy, nhà tôi từ đời cố đến đời ông còn dự một quyển, nghe nói là quyển Kinh, không biết Kinh gì bằng Hán Nôm. Hiện tại cố đã mất, cha của tôi không còn, tôi thì mù hai mắt làm sao xem được. Thôi, hôm nào tôi quay lại đây, tôi sẽ tặng lại cho anh, nhờ người xem mà giữ lấy nó.”Nghe thấy nói là Kinh, tôi sẵn sàng.Quả nhiên ba ngày sau, hai cha con người mù đó cũng đến đúng giờ đó và, đưa cho tôi quyến Kinh bằng chữ Hán Nôm và dặn tôi bảo vệ lấy cuốn sách đó. Tôi nhận lời, và hỏi: “Hai cha con tên gì?”Người đó bảo: “Tôi tên là Tại”, con tôi tên là “Cư”.Tôi bèn giật mình, thật hay giả? Rồi mời hai cha con ở lại ăn cơm trưa với gia đình. Hai cha con từ chối, ra đi một mạch. Thấy vậy, các con tôi xúc một bơ gạo, chạy theo hai cha con và đổ vào đạy.Cách vài hôm, Bác (tên là "VƯƠNG ĐÌNH THỤ”. Mật danh “TÂM TUỆ HỌ VƯƠNG") đi Cửa Lò về, tôi liền kề đầu đuôi như vậy và dâng lên Bác cuốn sách Kinh bằng chữ Hán Nôm đó.Bác xem đi, xem lại nhiều ngày. Lúc đầu, tôi không giám hỏi. Sau nhiều ngày, tôi mạnh dạn hỏi: “Thưa Bác cuốn Kinh là gì?”Bác quay lại nói tôi rằng: “Chắc là Trời đã sai khiến cho Bác cháu ta có quyển Kinh này làm đèn sáng để dẫn dắt mọi người”.Tôi lại hỏi: “Quan trọng như vậy, thưa Bác?”Bác bảo: “Thật là quan trọng, những ai đã được đọc Kinh này thì ít nhiều cũng đã biết đúng nghĩa như thế nào là xuất gia? Tu ở nhà ra sao? Những lớp người này, ở thời hiện tại cũng có nhưng số lượng chăng được là bao”.Thế rồi, một hôm sau, Bác bao tôi lấy bút giây, đồng thành sách, Bác dịch ra nghĩa từng câu và bảo tôi viết. Khi xong, Bác khảo duyệt lại, nơi nào đúng, nơi nào sai để chỉnh sửa. Khi được Bác chấp nhận, Bác bảo tôi chép ra cho nhiều để thiên hạ đọc. Từ đó, tôi đã không biết bao đêm tranh thủ chép ra nhiều quyển để Thiên hạ có dùng. Riêng tôi đành một quyển.Đó, chính là sự tích của cuốn "DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH" này vậy. Xin Thiện nam, Tín nữ lưu giữ và bảo vệ nó!Nguyễn Đắc Khôi
An Nam phong thổ thoại (bản chép tay) - Trần Tất Văn lược biên
 An Nam phong thổ thoại (bản chép tay) - Trần Tất Văn lược biên
An Lãng Chiêu thuyền tự Từ Đạo Hạnh sự tích thực lục (bản chép tay)
 An Lãng Chiêu thuyền tự Từ Đạo Hạnh sự tích thực lục (bản chép tay)
ÂM DƯƠNG KINH - TƯ MÃ SƠN NHÂN, NGUYỄN AN biên soạn
Đời người như một giấc mơ, phút chốc đã trăm năm. Vì sao trên đời có người được làm quan thuận lợi, tốt dẹp, có người thì không làm nổi quan? Có người dễ dàng kiếm được khoản tiền lớn, có người thì sống nghèo khổ? Có người sự nghiệp hưng vượng phát đạt, có người lại vận mệnh gập ghềnh? Có người tình yêu mỹ mãn. có người lại gặp nhiều bất hạnh trắc trở? Có người ... Đời người như một giấc mơ, phút chốc đã trăm năm. Vì sao trên đời có người được làm quan thuận lợi, tốt dẹp, có người thì không làm nổi quan? Có người dễ dàng kiếm được khoản tiền lớn, có người thì sống nghèo khổ? Có người sự nghiệp hưng vượng phát đạt, có người lại vận mệnh gập ghềnh? Có người tình yêu mỹ mãn. có người lại gặp nhiều bất hạnh trắc trở? Có người ... Việc này hẳn có những điều huyền bí và bí quyết của nó, chắc chắn có nhiều người muốn biết. Thực ra chân lý rất giản đơn: Mọi người thành đạt trong cuộc sống đều là những người tìm ra đường đi đúng, hay gọi là dắc "đạo", nghĩa là người ta sinh ra ở đời, sẽ phải xem có đắc "dạo" hay không. Vậy "đạo" là gì? "Nhất âm nhất dương" chính là đạo. Âm Dương kinh, kỳ thực là lợi dụng chính diện và phản diện của sự vật để giải quyết vấn đề một cách khéo léo. Âm Dương kinh có thể xem là "Chính phản luận", mâu thuẫn luận, biện chứng luận. Sách này hướng dẫn người ta vận dụng quy luật đối lập thống nhất như thế nào để giải quyết vấn đề. Đây cũng là chỗ đặc biệt khác với một số sách tương tự. Việc này hẳn có những điều huyền bí và bí quyết của nó, chắc chắn có nhiều người muốn biết.Thực ra chân lý rất giản đơn: Mọi người thành đạt trong cuộc sống đều là những người tìm ra đường đi đúng, hay gọi là dắc "đạo", nghĩa là người ta sinh ra ở đời, sẽ phải xem có đắc "dạo" hay không.Vậy "đạo" là gì?"Nhất âm nhất dương" chính là đạo.Âm Dương kinh, kỳ thực là lợi dụng chính diện và phản diện của sự vật để giải quyết vấn đề một cách khéo léo. Âm Dương kinh có thể xem là "Chính phản luận", mâu thuẫn luận, biện chứng luận. Sách này hướng dẫn người ta vận dụng quy luật đối lập thống nhất như thế nào để giải quyết vấn đề. Đây cũng là chỗ đặc biệt khác với một số sách tương tự.