Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo - Vật tổ và cấm kỵ

Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng.

Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng.

Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh. Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học. Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít. Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.

Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học.

Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít.

Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Tự Do Vượt Trên Sự Hiểu Biết (Jiddu Krishnamurti)
M LỜI NÓI ĐẦU.9 CHƯƠNG I: HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM - TÂM TRÍ KHỔ NÃO - LỐI TIẾP CẬN TRUYỀN THỐNG - CẠM BẪY CỦA SỰ TÔN KÍNH - CON NGƯỜI VÀ CÁ NHÂN - CUỘC ĐẤU TRANH SINH TỒN - BẢN CHẤT LOÀI NGƯỜI - TRÁCH NHIỆM - CHÂN LÝ - CUỘC CÁCH MẠNG NỘI TẠI - SỰ HOANG PHÍ SỨC LỰC - TỰ DO KHỎI UY QUYỀN..19 CHƯƠNG II: KHÁM PHÁ BẢN THÂN - DUNG DỊ VÀ KHIÊM NHƯỜNG - TÌNH TRẠNG BỊ KHUÔN ĐỊNH..47 CHƯƠNG III: TÂM THỨC - TÍNH TOÀN THỂ CỦA CUỘC SỐNG - TỈNH GIÁC...68 Tìm mua: Tự Do Vượt Trên Sự Hiểu Biết TiKi Lazada Shopee CHƯƠNG IV: ĐEO ĐUỔI KHOÁI LẠC - HAM MUỐN - SUY NGHĨ GÂY SAI LỆCH - KÝ ỨC - AN LẠC...80 CHƯƠNG V: QUAN TÂM ĐẾN BẢN THÂN - KHÁT KHAO ĐỊA VỊ - NỖI SỢ - SỰ PHÂN TÁN TƯ TƯỞNG - CHẤM DỨT SỢ HÃI.90 CHƯƠNG VI: BẠO LỰC - GIẬN DỮ - BIỆN MINH VÀ PHÁN XÉT - LÝ TƯỞNG VÀ HIỆN THỰC.110 CHƯƠNG VII: MỐI TƯƠNG QUAN - XUNG ĐỘT - XÃ HỘI - SỐNG GIẢN DỊ - TÁC NHÂN KÍCH THÍCH - SỰ LỆ THUỘC - SO SÁNH - MONG CẦU - Ý NIỆM - THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ.129 CHƯƠNG VIII: TỰ DO - KHUYNH HƯỚNG NỔI LOẠN - ĐƠN ĐỘC - HỒN NHIÊN - SỐNG THẬT VỚI CHÍNH MÌNH..149 CHƯƠNG IX: THỜI GIAN - PHIỀN NÃO - CÁI CHẾT.160 CHƯƠNG X: YÊU THƯƠNG..176 CHƯƠNG XI: QUAN SÁT VÀ LẮNG NGHE - NGHỆ THUẬT - VẺ ĐẸP - SỰ KHỔ HẠNH - HÌNH TƯỢNG - VẤN ĐỀ - KHOẢNG CÁCH.201 CHƯƠNG XII: NGƯỜI QUAN SÁT VÀ CÁI ĐƯỢC QUAN SÁT.219 CHƯƠNG XIII: SUY NGHĨ - Ý TƯỞNG VÀ HÀNH ĐỘNG - THÁCH THỨC - VẬT CHẤT - KHỞI ĐẦU CỦA SUY NGHĨ...229 CHƯƠNG XIV: GÁNH NẶNG QUÁ KHỨ - TÂM TRÍ TĨNH LẶNG - SỰ TRUYỀN THỤ - THÀNH TỰU - KỶ LUẬT - THINH LẶNG - CHÂN LÝ VÀ THỰC TẠI.242 CHƯƠNG XV: TRẢI NGHIỆM - SỰ THỎA MÃN - TÍNH NHỊ NGUYÊN - THIỀN.254Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jiddu Krishnamurti":Dưới Chân ThầyNghĩ Về Những Điều NàyLửa Trong Cái TríThâm Nhập Thấu TriệtThư Gửi Trường HọcBài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi SaoBạn Đang Nghịch Gì Với Đời MìnhTự Do Vượt Trên Sự Hiểu BiếtBàn Về Cách Kiếm Sống Đúng ĐắnBàn Về Tình Yêu Và Sự Cô ĐộcCái Gương Của Sự Liên HệĐánh Thức Trí Thông MinhGiáo Dục Và Ý Nghĩa Của SốngGiáp Mặt Cuộc ĐờiSổ Tay Của KrishnamurtiTương Lai Của Nhân LoạiTuyển Tập KrishnamurtiVượt Khỏi Bạo LựcQuyển Sách Của Cuộc Đời Jiddu KrishnamurtiĐối Mặt Với Thế Giới Hoảng LoạnGhi Chép Của KrishnamurtiĐường Vào Hiện SinhKhai Sáng Trí NăngHướng Đi Cho Cuộc ĐờiNỗi Đau Thời GianÝ Nghĩa Về Sự Chết, Đau Khổ Và Thời GianĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tự Do Vượt Trên Sự Hiểu Biết PDF của tác giả Jiddu Krishnamurti nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Triết Lý Nhân Sinh Cuộc Đời (Nguyễn Gia Linh)
TÓM TẮT Có một người thợ mộc chuẩn bị về hưu, ông đã nói với ông chủ của mình rằng, muốn rời khỏi nghề xây dựng để về quê chung hưởng niềm vui tuổi già với vợ con. Ông chủ không đành lòng cho người thợ già giỏi giang về quê và đã hỏi ông là có thể giúp mình xây thêm một căn nhà nữa hay không, người thợ mộc đã đồng ý. Nhưng sau này mọi người đều nhận ra trái tim của ông không còn dành cho công việc nữa, ông làm để làm thôi cho qua ngày đoạn tháng. Căn nhà được làm xong thì ông chủ đã đưa chìa khoá ngôi nhà cho ông thợ già. "Đây là nhà của anh", ông chủ nói, "Đây là món quà tôi tặng cho anh". Người thợ mộc ngạc nhiên trợn tròn cả đôi mắt và ngại ngùng đến nỗi mất hết cả tự nhiên. Tìm mua: Triết Lý Nhân Sinh Cuộc Đời TiKi Lazada Shopee Nếu như ông biết xây ngôi nhà này là cho mình thì làm sao ông có thể làm như vậy được chứ? Bây giờ ông phải sống trong một ngôi nhà được xây rất vớ vẩn. Chúng ta tại sao lại không như vậy? Chúng ta đang "xây dựng" cuộc sống của chính mình, không phải là hành động tích cực thì là đối phó tiêu cực, làm chuyện gì cũng không chịu hết lòng hết sức, lúc quan trọng nhất cũng không thể cố gắng được hết sức mình. Đợi đến khi chúng ta chợt nhận ra hoàn cảnh của mình thì chúng ta đã bị chôn chặt trong "ngôi nhà" mà mình đã xây. Bạn hãy coi mình như người thợ mộc già kia nhé, hãy nghĩ đến ngôi nhà của mình, hàng ngày bạn phải đóng từng chiếc đinh, từng tấm gỗ hoặc là bức tường... vì vậy hãy xây dựng ngôi nhà thật tốt bằng chính trí tuệ của mình! Cuộc sống của bạn chính là sự sáng tạo duy nhất trong cuộc đời bạn, không thể xây dựng một cách tầm thường. Cho dù có một ngày để sống thì cũng phải sống cho cao quý, đẹp đẽ. Nếu bạn muốn thoát khỏi cuộc sống bình thường, nếu bạn muốn có phẩm chất tuyệt vời, nếu bạn muốn tìm hiểu những bí quyết thành công, nếu bạn muốn phát triển bản thân mình đầy đủ nhưng không tìm được điểm đột phá thì bạn hãy đặt cuốn sách này ở đầu giường nhé. Hãy đọc cuốn sách này trong những lúc rảnh rỗi. Cho dù là bạn đọc lướt, đọc qua thì cuốn sách này sẽ cho bạn sức mạnh, hướng dẫn, an ủi và khuyến khích bạn. LỜI NÓI ĐẦU Cuộc sống do chính bản thân mình tạo ra. Mỗi người đều phải thường xuyên đối mặt với các vấn đề của cuộc sống, công việc, xã hội. Cách đối nhân xử thế, thái độ làm việc, mức độ cố gắng, cách tư duy và niềm tin... của chúng ta sẽ quyết định sự thành bại trong cuộc đời của chúng ta. Bất kể thế nào thì chúng ta đều muốn thành công và tìm cách tránh thất bại hoặc đi đường vòng. Triết lý nhân sinh của cuộc đời chính là cây đèn soi sáng để bạn đi đến lý tưởng, thành công. Qua cuốn sách này các bạn có thể dễ dàng đối mặt được các vấn đề trong cuộc sống, hiểu và nắm chắc được cuộc sống. Trong tương lai sẽ được nhiều hơn, mất ít hơn, thành công nhiều hơn và thất bại ít hơn. Chúc các bạn thành công!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Triết Lý Nhân Sinh Cuộc Đời PDF của tác giả Nguyễn Gia Linh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tôi Làm Việc Tôi Hạnh Phúc (Trí Quang)
TỪ GIỜ, TA HÃY LÀ MỘT NGƯỜI HẠNH PHÚC Nhắc tới hạnh phúc, người ta thường nghĩ nó gắn liền với sự giàu có nhất nhì một vùng, sự xuất sắc hơn người, tiếng tăm vang dậy xa gần; nói khác đi, đó chính là vinh, hoa, phú, quý. Mọi chúng sinh đều theo đuổi vinh hoa phú quý. Vì nó, họ làm việc không quản ngày đêm. Thế nhưng, công việc lại mang đến biết bao phiền não: dù là một nông phu bận rộn việc cấy cày trồng trọt hay một nhà sáng lập khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng, một công chức bôn ba từ cơ quan này sang cơ quan khác, tất cả đều phải đối mặt với muôn nỗi muộn sầu phát sinh trong lao động. Để sinh tồn, con người phải làm việc, nhưng công việc luôn mang lại khổ đau; để cảm nhận sự ấm áp của tình người, con người phải chung sống với nhau, nhưng cuộc sống tập thể lại luôn song hành cùng mâu thuẫn; khát khao được người khác thấu hiểu và cảm thông, nhưng những gì nhận được chỉ là sự hiểu lầm và ánh mắt lạnh lùng. Tìm mua: Tôi Làm Việc Tôi Hạnh Phúc TiKi Lazada Shopee Công sở là nơi mọi người cùng nhau làm việc, khó tránh khỏi nảy sinh vấn đề này hay vấn đề khác. Nếu phần lớn thời gian làm việc trong ngày bạn tự dày vò, dằn vặt mình thì hơn một nửa cuộc đời, bạn phải sống với nỗi đau triền miên không dứt. Kết quả một cuộc điều tra trắc nghiệm cho thấy, “Vì cuộc sống mưu sinh” là đáp án được chọn nhiều nhất của câu hỏi “Mục đích của bạn khi đến công ty làm việc là gì?” Khó ai có thể đạt được cảnh giới “Tôi mong muốn được thể hiện mình và đúc rút nhiều bài học bổ ích qua cuộc sống ở công sở”. Có một thực tế là, càng làm việc lâu, con người càng mất đi lòng hăng say cống hiến, trong họ chỉ còn nỗi mệt mỏi vô cùng vô tận. “Đi làm vì cuộc sống mưu sinh”, tất nhiên đó là câu trả lời chính xác và thẳng thắn nhất, nhưng nếu chỉ dừng lại ở ý nghĩa ấy thì một ngày nào đó, bạn sẽ băn khoăn tự hỏi: “Rốt cuộc, mình sống trên đời là vì cái gì?” Công việc nhiều khi khiến bạn bận rộn tới mức không còn đủ thời gian để suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống. Nỗi lo lắng vì chưa thể thấy sự nghiệp tương lai, nỗi muộn phiền vì mối quan hệ giữa người với người, áp lực phải làm việc để được hưởng mức lương cao hơn và khát khao được đề bạt, nỗi dằn vặt vì không thể cân bằng giữa gia đình và sự nghiệp, sự khác biệt quá lớn giữa lý tưởng và hiện thực, tình cảnh tiến thoái lưỡng nan ở công ty, những khó khăn chưa thể tháo gỡ trong công việc, nỗi mệt mỏi về thể chất lẫn tinh thần do công việc nhiều và nặng… khiến con người chỉ muốn mau chóng thoát khỏi tình cảnh khó khăn ấy. Quá nhiều phiền não làm con người đánh mất tình yêu công việc, thậm chí vứt bỏ sự nghiệp; mâu thuẫn trong quan hệ xã hội khiến con người chọn cách xa rời tập thể; gánh nặng kinh tế làm con người không còn sức lực. Nhưng sau khoảng thời gian dừng lại, nghỉ ngơi và điều chỉnh, con người vẫn sẽ chọn công việc, chọn cách kết giao với những người mới và vẫn tiếp tục tham gia vào cuộc cạnh tranh đầy khốc liệt. Tuy đã nỗ lực giải quyết vấn đề nhưng họ chẳng những không thể giải quyết vấn đề mà còn rơi vào vòng quay đau khổ không dứt của nhân gian, để rồi cuối cùng lại cảm thấy mệt mỏi, chán chường, nản lòng và tuyệt vọng: “Chẳng nhẽ đây là tất cả ý nghĩa của cuộc sống sao?” Chúng ta hãy cùng đi tìm nguyên nhân bên trong của tình trạng ấy. Mỗi khi đối diện với khó khăn, mâu thuẫn và đau khổ, bạn đừng vội oán trời trách người, mà trước tiên hãy xét hỏi lại bản thân mình. Bạn sẽ thấy rằng, trăm nỗi lòng đau khổ không phải do người khác mang đến mà là do chính bạn tự tạo mà thôi. Khi đã tìm được căn nguyên, bạn sẽ biết phải giải quyết sao cho thuận lợi. Nếu phủ định mối liên hệ giữa cuộc sống nơi công sở với niềm hạnh phúc của bản thân mỗi người, chúng ta không thể có được cuộc sống hạnh phúc. Nếu bạn cho rằng làm việc chỉ vì mục đích kiếm tiền và dùng số tiền ấy để kiếm tìm hạnh phúc và tự do thì hạnh phúc và tự do - hai chữ ấy sẽ ngày càng rời xa bạn. Hãy vứt bỏ quan niệm “Hi sinh hôm nay cho ngày mai” để nỗ lực làm việc hơn nữa và cảm nhận niềm vui sướng hạnh phúc trong từng phút giây của hiện tại. Tôi thực lòng mong cuốn sách này có thể giúp các bạn độc giả tiến một bước lớn trên con đường hướng tới hạnh phúc. Xuân 2009 Đại sư Pomnyun SunimĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tôi Làm Việc Tôi Hạnh Phúc PDF của tác giả Trí Quang nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Quyển 7: Đức Phật Dạy Tu Thiền Và Công Thức Giải Thoát (Nguyễn Nhân)
MỤC LỤC 01. Lời nói đầu 02. Dẫn nhập - Đối đáp 03. Xuất hoàng cung 04. Đức Phật dạy về 10 Pháp Giới Tìm mua: Quyển 7: Đức Phật Dạy Tu Thiền Và Công Thức Giải Thoát TiKi Lazada Shopee 05. Đức Phật dạy về 16 thứ Tánh Người 06. Đức Phật dạy tu Thanh tịnh Thiền 07. Công dụng 3 phần Thanh tịnh - Rỗng lặng - Hằng tri? 08. Con người có TÂM không? 09. Sao không thể nhìn được cửa “Hải triều Dương”? 10. “Nhất tự Thiền” là tu làm sao? 11. Sao chúng con lại nói Như Lai bị ma ám? 12. Làm nghề buôn bán, làm sao tu theo Thanh tịnh Thiền? 13. Đang làm việc tự nhiên bị “mất thân”? 14. Phương pháp giải thoát tiện và nhanh nhất? 15. Công Đức lưu giữ ở đâu và để làm gì? 16. Sao con được “Rơi vào Bể Tánh thanh tịnh Phật Tánh” dễ như vậy? 17. Lý do gì loài người bị luân hồi? 18. Làm cách nào cho tâm tự nhiên thanh tịnh? 19. Sao gọi là Địa Ngục và Ngục tối? 20. Tại sao khi lìa bỏ thế giới này mà thân vẫn còn đau nhức? 21. Ngoài thế giới này ra, còn gọi là gì nữa? 22. Để không bị luân hồi 23. Làm sao để Giải thoát? 24. Pháp môn Thanh tịnh thiền đơn giản vậy mà sao không ai thực hành? 25. Thế Tôn dạy có mấy pháp môn nơi thế giới này? 26. Tri Kiến lập Tri, tức vô minh bổn? 27. Pháp môn Thanh tịnh Thiền, đời sau có nhiều người tu theo không? 28. Căn bản Phật Tánh? 29. Nguyên lý trở về Bể Tánh thanh tịnh 30. Tiếng nói có còn hoài trong không gian không? 31. Tu các pháp môn khác không giải thoát được sao? 32. Con đường nhanh nhất để trở về nguồn cội? 33. Tu làm sao để trở về Bể Tánh thanh tịnh? 34. Vì sao Như Lai dạy 5 pháp môn tu dụng công? 35. Cách vượt ra thế giới loài người để trở về Phật Giới? 36. Đoán biết sự luân hồi của người thân trước khi họ qua đời? 37. Thôi! Dứt! 38. Sao Như Lai lại dạy các pháp môn trước? 39. Cách tu pháp môn Thanh tịnh thiền 40. Sau khi con người rời thân tứ đại, thời gian luân hồi các nơi là bao lâu? 41. Đức Phật thọ ký cho một cư sỹ thành Phật 42. Kệ kính mừng Phật Đản 43. Phân tích 6 pháp môn tu 44. Đức Lục Tổ dạy về ý sâu mầu của pháp môn Thanh tịnh thiền 45. Đức Lục Tổ dạy về cấp giấy và bằng chứng nhận 46. Đức Lục Tổ dạy về nguy hiểm của pháp môn Thanh tịnh Thiền 47. Ngọc Xá Lợi hiện nay lấy từ đâu ra? 48. Sao hiện nay có đến 3 nơi dạy tu Thiền tông? 49. Sao tu theo Thiền tông có cấp bằng chứng nhận? 50. Đã là Thiền tông của Đức Phật dạy, sao lại có khác? 51. Tiêu chuẩn của một Thiền sư? 52. Khi tu dẹp hết vọng tưởng có thành Phật được không? 53. Cách “nếm” mùi vị của Thanh tịnh Thiền? 54. Thiền gia đối đáp với Thiền sư 55. “Tâm ta không ngữ cú, không một pháp cho người”? 56. Sao pháp môn Thanh tịnh thiền có sức “công phá” các pháp môn trước? 57. Người khi Ngộ Tánh như thế nào? 58. Sao lại nói “nghiệp chướng bổn lai không”? 59. Không lẽ các pháp môn khác của nhà Phật, không giải thoát được sao? 60. Truyền tâm ấn có phải là truyền Thiền tông không? 61. Tu cần, tu chánh, tu tối, tu sáng? 62. Người tu theo Thiền tông, tại sao không được dụng công? 63. Tâm hằng sanh muôn pháp? 64. Lý giải cụ thể về Tam Giới mà Đức Phật nói 65. Sao Phật Hoàng Trần Nhân Tông lại để hiệu là “Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử”? 66. Tánh và linh hồn có giống nhau không? 67. Cúng trai tăng thế nào cho đúng? 68. Tôi là một giảng sư, nếu tu theo Thiền tông, tôi thất nghiệp sao? 69. “Tánh Thấy, không Thấy, chỗ xưa Niết Bàn” là thế nào? 70. Tại sao dụng công tu là còn bị luân hồi? 71. Phật là gì? Ai Thấy? Ai Nghe? 72. Sao tôi nói pháp Thiền tông cho người khác nghe lại bị chửi? 73. Sao không công khai đứng ra phổ biến Thiền tông cho nhiều người biết? 74. Lộ trình của người hành Thiền tông để trở về nguồn cội? 75. 48 Lời nguyện của Đức Phật A Di Đà là sai sao? 76. Xin chứng minh là Thầy nhận được “mạch nguồn Thiền thanh tịnh” 77. Trong 12 bộ Kinh Đại thừa, chẳng lẽ không có Kinh nào dạy chỗ Giải thoát? 78. Căn cứ vào đâu mà nói các pháp môn tu hiện nay không Giải thoát? 79. Mê tín dị đoan là sao? 80. Hùn xây 3 chùa lớn và phụ xây 7 ngôi chùa nhỏ, có được Giải thoát? 81. Tu theo Thiền tông cốt để thành Phật? 82. Thí nghiệm đo đạt Thanh tịnh thiền bằng máy đo “Gia tốc” 83. Những gia đình đặc biệt Ngộ Thiền 84. Lời soạn giả 85. Liên hệ để biết thêm Thiền tôngDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Nhân":Quyển 1: Tu Theo Pháp Môn Nào Của Đạo Phật Dễ Giác NgộQuyển 2: Những Câu Hỏi Về Thiền Tông - Tập 1Quyển 3: Hành Đúng Lời Đức Phật Dạy Chắc Chắn Được Giải ThoátQuyển 4: Những Câu Hỏi Về Thiền Tông - Tập 2Quyển 5: Khai Thị Thiền TôngQuyển 6: Huyền Ký Của Đức Phật Và Những Vị Ngộ ThiềnQuyển 7: Đức Phật Dạy Tu Thiền Và Công Thức Giải ThoátQuyển 9: Sách Trắng Thiền TôngQuyển 10: Huyền Ký Của Đức Phật Truyền Theo Dòng Thiền TôngQuyển 8: Cuộc Đời Và Ngộ Đạo Của 36 Vị Tổ Sư Thiền TôngQuyển 11: Đức Vua Trần Nhân Tông Dạy Con Cách Giữ Nước, Tín Ngưỡng, Công Thức Giải Thoát...Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Quyển 7: Đức Phật Dạy Tu Thiền Và Công Thức Giải Thoát PDF của tác giả Nguyễn Nhân nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.