Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hạnh Phúc Không Đắt Như Bạn Nghĩ

Suốt quá trình viết quyển sách này, tác giả kể nhiều chuyện đời mình và chuyện đời của những người mà cô ấy phỏng vấn, đưa ra “những hành động nhỏ” để hiện thực hóa ý tưởng. Ngoài ra, tác giả còn chia sẻ một số bài học gợi cảm hứng mà bản thân đã thẩm thấu được, gồm có: Hạnh phúc bắt nguồn từ việc kết nối với cộng đồng và xây dựng các mối quan hệ bền vững. Tiền có thể mua được hạnh phúc nhưng còn tùy vào cách chi tiêu. Dư dả của cải không khiến bạn hạnh phúc về lâu dài. Học cách “có ít hơn mà vui hơn” là một phương pháp tìm kiếm hạnh phúc, giành lại thời gian và sống theo chuẩn mực của riêng bạn. Bất cứ hình thức thay đổi cuộc sống nào cũng đòi hỏi nỗ lực, lòng kiên nhẫn và thái độ sẵn sàng tiếp nhận quan điểm mới. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể những bài học trong quyển sách này. Về cơ bản, quyển sách này là lời mời gọi bạn suy ngẫm về các mối quan hệ với tiền bạc, thời gian và của cải vật chất, đồng thời cân nhắc lại những thứ mang đến hạnh phúc cho bạn. Quyển sách đưa ra một quan điểm khác biệt, một góc nhìn khích lệ bạn xem xét những ý tưởng và những lựa chọn mới mẻ so với lẽ thông thường. Ý tưởng sống giản dị đi kèm với nhiều tên gọi và xu hướng; ví dụ như xu hướng sống đơn giản, xu hướng ngôi nhà nhỏ, sống đơn giản tự nguyện, chủ nghĩa thu nhỏ, và tối giản. Ý tưởng cốt lõi đằng sau đó chính là chủ ý lựa chọn của bạn. Ví dụ như nếu bạn ủng hộ xu hướng ngôi nhà nhỏ, bạn không bị buộc phải sống trong một ngôi nhà nhỏ theo một kích cỡ quy định. Chuyển đến sống trong một ngôi nhà nhỏ có thể là mục tiêu dài hạn của bạn, song bạn vẫn có thể ủng hộ xu hướng trên mà không cần phải làm vậy. Sống giản dị là một triết lý sống, chứ không phải những gì bạn sở hữu. *** LỜI GIỚI THIỆU Ngẫm Lại Những Điều Vốn Dĩ Bình Thường Chúng ta vẫn còn mê muội trước phiên bản con người mà lẽ ra ta nên trở thành. WILLIAM JAMES Bạn đã từng trải qua một bước ngoặt nào đó trong đời chưa? Khi giông bão vừa qua đi, và bạn bắt đầu nghĩ tới một hướng đi hoàn toàn mới? Vào ngày 31 tháng 12 năm 2007, tôi đã trải qua một bước ngoặt - một ý tưởng nảy ra khiến tôi bừng tỉnh, thoát khỏi màn sương mù dày đặc. Tất cả bắt nguồn từ một đoạn video ngắn trên YouTube về Dee Williams. Trong đoạn video, Dee trình bày một ý tưởng sống đơn giản, hay cái mà cô gọi là “sống-đơn-giản-thông-minh”, và lý do cô quyết định xây một chỗ trú ngụ bé nhỏ, ấm cúng lưu động. Xem xong đoạn video, tôi liền ấp ủ ý tưởng đơn giản hóa cuộc sống của mình, và ngay sau đó, tôi tìm đọc nhiều bài viết khác về Dee và ngôi nhà nhỏ bé ấy. Trong một bài báo, cô mô tả chuyến đi đến Guatemala giúp xây dựng trường học. Trở về nhà, cô chợt nhận ra rằng có quá nhiều thứ cô hoàn toàn chẳng cần đến trong cuộc sống. Trong một tập san nhỏ có tên The Little House (Căn Nhà Nhỏ), Dee mô tả chuyến đi của mình qua lời kể, “Tôi gặp những con người thật đáng kinh ngạc. Họ rộng rãi, tốt bụng, và rất, rất nghèo. Trong nhà họ, không có ống nước, không có điện. Họ nấu ăn ngoài sân và sử dụng chung nhà tắm với hàng xóm xung quanh. Nhưng mà họ có vẻ sống hạnh phúc.” Khi Dee trở về Portland, Oregon, cô bán đi “ngôi nhà khang trang rộng rãi”, và thu nhỏ kích thước chỗ ở một cách đáng kể bằng cách xây một ngôi nhà nhỏ xíu lưu động, chưa đầy 26 mét vuông, bằng cỡ những ngôi nhà mà cô đã thấy ở Guatemala, để làm chỗ trú ngụ. Câu chuyện của Dee tác động đến tôi ở một chừng mực nào đó. Cô thuộc dạng người mà tôi muốn trở thành; cô biết ưu tiên cho điều quan trọng nhất trong cuộc sống, như thiết lập các mối quan hệ bền vững, cống hiến cho cộng đồng và làm công việc yêu thích để kiếm sống. Cô không dành tâm sức tích cóp của cải, mà sống thật với những lý tưởng của mình. Trên hết, dường như cô lấy làm hạnh phúc vì điều ấy. Câu chuyện của Dee gợi cảm hứng để tôi đi từ những việc nhỏ bé và bắt đầu nghĩ lớn. Sau khi đọc qua mấy trang blog và nhiều quyển sách viết về cuộc sống giản đơn, hai vợ chồng tôi quyết định thu hẹp không gian sống của mình. Chúng tôi cho đi hầu hết đồ đạc trong nhà. Thú vị ở chỗ là, càng cho đi, chúng tôi càng cảm thấy vui vẻ hơn. Các nhà nghiên cứu về niềm vui gọi đây là “trạng thái phấn khích của người giúp đỡ”, theo đó, việc giúp đỡ người khác bằng cách xung phong tình nguyện hoặc cho đi sẽ làm giảm căng thẳng và giải phóng chất endorphin. (Endorphin còn được gọi là "hormone hạnh phúc" vì nó giúp cải thiện tâm trọng, mang đến cám giác vui vẻ, yêu đời.) Trước bước ngoặt này, tôi từng sống một “cuộc đời bình thường” và chẳng lấy gì làm vui vẻ. Logan và tôi nợ 30 ngàn đô-la, “có đồng nào xào đồng nấy” và cảm thấy mình đang sống mòn. Phải thay đổi điều gì đó, nhất là khi chúng tôi muốn biến ước mơ thành hiện thực. Lúc đang nghiên cứu thông tin để viết quyển sách này, tôi đã tự hỏi ở cái xứ này thì một “cuộc đời bình thường” là như thế nào. Rồi tôi phát hiện ra vài xu hướng bất ổn. Lấy ví dụ, tháng 9 năm 2011, tỷ lệ nghèo đói trong nước tăng 15,1%, mức cao nhất trong vòng 17 năm qua. Theo Cục Thống kê Dân số Mỹ, mức thu nhập hộ gia đình sụt giảm giữa năm 2009 và 2011, và số người không có bảo hiểm y tế gia tăng. Vào tháng 9 năm 2011, Đài Phát thanh Mỹ báo cáo, “Thu nhập của tất cả mọi người đều sụt giảm, thật sửng sốt, giảm còn nhanh hơn so với năm 2008, khi mà tình trạng suy thoái ở đỉnh điểm.” Thêm nữa, bản báo cáo còn chỉ ra bình quân mỗi người Mỹ nợ thẻ tín dụng 8.000 đô-la và có 6,5 thẻ. Giống như nhiều người Mỹ khác, Logan và tôi có nhiều ý định tốt đẹp - muốn trả bớt nợ nần, cải thiện sức khỏe, và đóng góp cho cộng đồng. Chúng tôi chẳng thực hiện được điều nào trong số này mãi cho đến khi thay đổi hẳn lối sống. Sống đơn giản giúp chúng tôi hiện thực hóa ước mơ của mình. Thay đổi lối sống giúp chúng tôi cải thiện đời sống hôn nhân và các mối quan hệ với bạn bè người thân. Chẳng hạn, bằng cách bán đi hai chiếc xe hơi, chúng tôi đã giảm được cân - bây giờ chúng tôi di chuyển bằng xe đạp - và chẳng còn lo lắng đến chuyện phải kiếm đủ tiền để trả phí xe hơi hàng tháng. Thay vì vậy, chúng tôi dùng khoản phí xe hơi đó để trả nợ. Chúng Ta Đang Đi Đâu Trong cuốn The Art of Non-conformity (Nghệ Thuật Lập Dị), Chris Guillebeau viết, “Tôi theo triết lý tự do. Tôi không khẳng định mình có tất cả các câu trả lời.” Tôi đồng ý với Chris. Tôi không phải là chuyên gia hạnh phúc hay là chuyên gia giản đơn, và tôi không biết hết mọi thứ. Như một độc giả đói chữ, tôi học được nhiều từ những câu chuyện. Suốt quá trình viết quyển sách này, tôi kể nhiều chuyện đời tôi và chuyện đời của những người mà tôi phỏng vấn. Tôi đưa ra “những hành động nhỏ” để hiện thực hóa ý tưởng. Ngoài ra, tôi còn chia sẻ một số bài học gợi cảm hứng mà tôi đã tiếp thu được, gồm có: - Hạnh phúc bắt nguồn từ việc kết nối với cộng đồng và xây dựng các mối quan hệ bền vững. - Tiền có thể mua được hạnh phúc nhưng còn tùy vào cách chi tiêu. - Dư dả của cải không khiến bạn hạnh phúc về lâu dài. - Học cách “cổ ít hơn mà vui hơn” là một phương pháp tìm kiếm hạnh phúc, giành lại thời gian và sống theo chuẩn mực của riêng bạn. - Bất cứ hình thức thay đổi cuộc sống nào cũng đòi hỏi nỗ lực, lòng kiên nhẫn và thái độ sẵn sàng tiếp nhận quan điểm mới. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể những bài học trong quyển sách này. Về cơ bản, quyển sách này là lời mời gọi bạn suy ngẫm về các mối quan hệ với tiền bạc, thời gian và của cải vật chất, đồng thời cân nhắc lại những thứ mang đến hạnh phúc cho bạn. Quyển sách đưa ra một quan điểm khác biệt, một góc nhìn khích lệ bạn xem xét những ý tưởng và những lựa chọn mới mẻ so với lẽ thông thường. Ý tưởng sống giản dị đi kèm với nhiều tên gọi và xu hướng; ví dụ như xu hướng sống đơn giản, xu hướng ngôi nhà nhỏ, sống đơn giản tự nguyện, chủ nghĩa thu nhỏ, và tối giản. Ý tưởng cốt lõi đằng sau đó chính là chủ ý lựa chọn của bạn. Ví dụ như nếu bạn ủng hộ xu hướng ngôi nhà nhỏ, bạn không bị buộc phải sống trong một ngôi nhà nhỏ theo một kích cỡ quy định. Chuyển đến sống trong một ngôi nhà nhỏ có thể là mục tiêu dài hạn của bạn, song bạn vẫn có thể ủng hộ xu hướng trên mà không cần phải làm vậy. Sống giản dị là một triết lý sống, chứ không phải những gì bạn sở hữu. Cuộc Sống Ngắn Ngủi Dịp Giáng sinh năm 2010, tôi tình cờ bắt gặp vài lá thư cũ của bà dì Mamie. Thường thì tôi không phải kiểu ủy mị về mấy thứ này. Nhưng lần đó tôi rất vui khi nhìn thấy xấp thư giấu trong tủ quần áo hồi bé. Vừa bắt đầu đọc thư, mắt tôi đã đẫm lệ, bởi tôi nhớ bà quá đỗi. Vừa đọc, tôi vừa nhớ lại cái cách bà luôn đi ngược lại những quan niệm xã hội lúc bấy giờ. Bà sống bình dị và chẳng khi nào chi nhiều tiền sắm sửa những món đồ không cần thiết. Thêm nữa, bà không lập gia đình, sinh con, hay có một chiếc xe hơi nào. Bà thích đi du lịch, bắt xe buýt và đi bộ khắp nơi. Kết quả là bà đã thực hiện một chuyến đi dài xuyên đất nước, và bà luôn biên thư cho gia đình bạn bè để kể cặn kẽ về những chuyến phiêu lưu của mình. Đối với một phụ nữ sống trong thời Đại Suy Thoái thì sự chọn lựa này quả là bất thường. Tập tục văn hóa khi ấy định rằng phụ nữ là phải lấy chồng, sinh con, chứ không phải đi thăm thú hết mọi miền đất nước hoặc chuyển từ một tỉnh hẻo lánh nhỏ bé ở Washington để đến sống ở một thành phố lớn thuộc San Francisco. Qua những lá thư, bà dạy tôi về hạnh phúc, tình yêu, và về một cuộc sống tươi đẹp. Trong một lá thư, bà miêu tả những công việc đời thường có vẻ bình dị, như tưới hoa, đi bộ ra cửa hàng tạp hóa, và trò chuyện cùng hàng xóm láng giềng. Gần cuối thư, bà viết đôi ba dòng khiến tôi bất ngờ. Bà bảo, “Hãy nhớ lấy, Tammy, cuộc sống ngắn ngủi lắm. Hãy làm những gì con thích và giúp đỡ người khác nữa. Nếu con cho rằng mình sẽ hạnh phúc khi tuân theo những chuẩn mực thông thường thì cũng dễ hiểu, nhưng bà nghĩ điều đó không đúng. Hãy là chính mình. Bà chỉ nhắc con nhớ một câu: Đừng để lạc những ước mơ.” Tôi nhận được lá thư này hồi còn học phổ thông, và những câu chữ của bà là những gì tôi cần nghe. Lúc đó tôi không hạnh phúc và cảm thấy suy sụp, bởi tôi không có bạn trai và chẳng có gì nổi bật. Tôi tìm đến sự thừa nhận ở bên ngoài để chứng tỏ mình cũng “bình thường như ai”. Việc tìm kiếm kiểu thừa nhận đó không khiến tôi thấy vui hơn, bởi chẳng có ai “bình thường” cả. Thế mà, các thông điệp từ các nhà quảng cáo lại khác hẳn. Khi tôi xem ti-vi hoặc quảng cáo trên Internet, những thông điệp ấy cứ xúi giục tôi cần phải mua một sản phẩm nào đó để được hạnh phúc, mãn nguyện và hòa nhập với cộng đồng. Trực giác cho tôi biết điều này là không đúng, bởi ta không thể nào mua được hạnh phúc ở các khu mua sắm. Tuy nhiên, các mẩu quảng cáo này rất thuyết phục. Norman MacEwan, tác giả đồng thời là học giả, từng nói, “Hạnh phúc không phải sở hữu, mà là sẻ chia. Chúng ta kiếm sống bằng những thứ ta có, nhưng chúng ta sống bằng những thứ ta cho.” Câu nói của MacEwan phản ánh những việc bà dì Mamie của tôi đã cố gắng làm qua những bức thư bà kể lại. Quyển sách này, cũng tựa như những lá thư của bà dì tôi, đưa ra những góc nhìn khác nhau và những câu chuyện. Tôi không muốn các bạn mộng du trong cuộc sống như tôi đã từng. Chúng ta hãy cùng bắt đầu nào! *** Ai cũng nói chúng ta đang đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Tôi nghĩ không hẳn là như vậy. Tôi nghĩ cái chúng ta đang tìm kiếm là trải nghiệm của việc sống. JOSEPH CAMPBELL Những cái móc kim loại va leng keng khi tôi lướt qua thanh treo đồ. Tôi đang đi cùng cô bạn Lisa, và chúng tôi lại đi mua sắm trong giờ ăn trưa. Tôi chẳng có nhiều bộ quần áo chỉn chu, còn Lisa luôn ăn mặc có phong cách, thế nên tôi nhờ cô ấy giúp tôi làm mới tủ đồ. Ngoài ra, mua sắm vào giờ ăn trưa là cơ hội hoàn hảo để chúng tôi chuồn khỏi “trường”. Trường là tên gọi mà các trụ sở doanh nghiệp đặt cho văn phòng của chúng tôi. Có bốn tòa nhà khổng lồ, mỗi tòa chứa khoảng bốn trăm con người. Khối phức hợp không hề có nét riêng, khiến tôi liên tưởng đến một bãi sa mạc, bởi những cấu trúc ấy quá đơn điệu và tẻ nhạt. Nhìn bên ngoài, nó giống như một ngôi trường nhộn nhịp với những con người hạnh phúc. Nhưng bên trong thì không. Để thoát khỏi môi trường ấy, Lisa và tôi lái xe đến khu thương mại này mua sắm vào giờ nghỉ trưa hàng tuần. Khu mua sắm cũng chẳng khá khẩm hơn ngôi trường kia là mấy. Được ở chỗ, dọc theo các lối đi trong khu thương mại có trồng dăm bụi cây và mấy khóm hoa rực rỡ sắc màu. Những bông hoa tươi thắm là thế, nhưng dòng người lại có vẻ toát ra nguồn năng lượng tiêu cực. Ai nấy đều cuống cuồng, vội vã. Đặc biệt vào mùa giảm giá, nơi đây nhốn nháo như bầy voi đang tháo chạy tán loạn. Tôi cũng ở trong bầy đàn ấy, bởi tôi chỉ có rất ít thời gian để lựa đồ. Tôi phải trở về khu rừng được ngăn thành từng ô nhỏ trước 1 giờ đúng, không được muộn hơn. Thông thường, tôi sẽ mua một cái áo kiểu dễ thương để mặc chung với bộ com-lê, và sau đó tôi luôn thấy vui hơn - ít ra là tạm thời. Cảm giác hưng phấn mà tôi có được từ những chuyến mua sắm chẳng kéo dài lâu. Tôi rơi vào trạng thái mà Sonja Lyubomirsky trong quyển The How of Happiness (Cách Thức Hạnh Phúc) gọi là “máy chạy bộ vui thú”. Đây không phải là loại máy chạy bộ giúp bạn có vóc dáng cân đối. Nếu cứ chạy mải miết trên đó, bạn sẽ thấy kiệt sức, trĩu gánh nợ nần và đầy nỗi lo âu. Lấy ví dụ, toàn bộ số quần áo mua được ở khu thương mại mang đến cho tôi cảm giác thích thú trong thoáng chốc, nhưng rốt cuộc, nhìn riết rồi quen nên tôi đâm chán, về bản chất thì tôi chẳng thu được lợi ích tốt đẹp gì từ việc đầu tư này. Tôi luôn cho rằng mua sắm đồ đạc sẽ làm cho tôi hạnh phúc dài lâu. Nhưng thật sai lầm. Những nghiên cứu về chủ đề này cho ra những kết quả khác. Trong quyển The High Price of Materialism (Cái Giá Đắt Đỏ của Sự Đề Cao Chủ Nghĩa vật Chất), Giáo sư Tim Kasser của Đại học Knox viết rằng, năm 1957, khoảng 35% người Mỹ tự nhận mình “vô cùng hạnh phúc”. Kể từ lúc ấy đến nay, chúng ta vẫn chưa đạt đến ngưỡng hạnh phúc đó, và đó là điều bất ngờ, nhất là khi chúng ta đang kiếm nhiều tiền hơn bao giờ hết và đồ đạc thì chất đầy nhà. Thậm chí ngay cả những người Mỹ có nhiều của cải vẫn không hạnh phúc như bạn tưởng. Theo Chỉ số Hành tinh Hạnh Phúc (HPI) do Quỹ Kinh tế Mới quản lý, Mỹ xếp thứ 114 trong số 143 quốc gia được khảo sát. Cuộc khảo sát HPI là “một thước đo tiên tiến thể hiện mối tương quan giữa môi trường sống với hạnh phúc của con người trên khắp thế giới. Đó là chỉ số đầu tiên đo đạc mức độ tác động của môi trường sống lên cảm giác hạnh phúc, trên từng quốc gia, nhằm biết được môi trường sống nào giúp người dân sống thọ sống vui.” Những quốc gia như Costa Rica, Malta, và Malaysia, cũng như hầu hết các quốc gia ở châu Âu và tất cả các nước châu Mỹ La-tinh, đều xếp trên Mỹ. Một lý do giải thích hợp lý cho kết quả kém này của Mỹ là quan niệm lầm lạc xem của cải vật chất như là chỉ số hạnh phúc. Một cuộc nghiên cứu mở rộng đã tìm ra mối liên hệ giữa nỗi buồn chán và cảm xúc tiêu cực với những nếp nghĩ thiên về của cải vật chất. Ví dụ, vào năm 1976, các nhà nghiên cứu đã khảo sát 12 ngàn tân sinh viên ở lứa tuổi 18 và sau đó đánh giá mức độ hài lòng của họ đối với cuộc sống một lần nữa vào năm họ 38 tuổi. Những sinh viên nào bày tỏ ham muốn của cải vật chất năm 18 tuổi thì 20 năm sau, họ cảm thấy ít hài lòng với cuộc sống hơn. Tim Kasser lập luận rằng “sự coi trọng giá trị vật chất có liên quan đến tình trạng suy yếu cảm giác hạnh phúc của con người ở khắp mọi nơi, từ không hài lòng với cuộc sống và kém hạnh phúc, đến chán chường và lo âu, đến những vấn đề về thể chất như đau đầu, đến việc rối loạn tính cách, ái kỷ và hành vi chống đối xã hội.” Kasser chỉ ra rằng những kết quả tiêu cực này dẫn đến lối sống tiêu thụ ngày càng nhiều - chẳng hạn như trường hợp của tôi. Thêm nữa, những người đề cao của cải vật chất đặt nhiều kỳ vọng vào tính năng và công dụng của món đồ đối với họ. Tóm lại, đề cao của cải vật chất khiến chúng ta quên đi hai khía cạnh quan trọng tạo ra hạnh phúc trong cuộc sống - các mối quan hệ bền vững và làm công việc mình yêu thích. Tin vui là ngày càng có nhiều người không còn đặt nặng của cải vật chất và lựa chọn cuộc sống giản đơn hơn. Mời các bạn đón đọc Hạnh Phúc Không Đắt Như Bạn Nghĩ của tác giả Tammy Strobel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tư Duy Như Một Kẻ Lập Dị
Steven D. Levitt và Stephen J. Dubner là hai cái tên không hề xa lạ với độc giả Việt Nam, với những tựa sách "Kinh tế học hài hước", "Siêu kinh tế học hài hước", "Tư duy như một kẻ lập dị".  Một cuốn sách siêu hài hước hướng dẫn bạn: - Học cách nói tôi không biết. - Gạt phăng đạo đức của bạn sang một bên. - Suy nghĩ giản đơn như một đứa trẻ. - Thuyết phục những người không muốn được thuyết phục. - Buông bỏ những khó khăn ngày hôm nay. Thế giới hiện đại luôn đòi hỏi ta phải suy nghĩ một cách hiệu quả hơn, sáng tạo hơn, lý trí hơn, nhìn từ mọi góc độ, với mọi tư duy khác nhau. Bởi vậy, hãy nhìn thế giới theo một cách khác đi, như một kẻ lập dị. Chắc chắn, khi đọc cuốn sách này, bạn đọc sẽ bắt gặp những khoảnh khắc khiến các bạn ồ lên vì thú vị, thậm chí là bật cười vì sự độc đáo và hài hước của câu chuyện mà các tác giả mang lại. Nhưng không chỉ hài hước, đó còn là những thực trạng có phần phi lý đang tồn tại ngay trước mắt mà chúng ta không hề hay biết (hoặc không đủ hài hước để nhận ra, cũng có thể là như vậy). *** Steven D. Levitt, nhà kinh tế học trẻ đang giảng dạy tại đại học Chicago (Mỹ) và Stephen J. Dubner là nhà báo, nhà văn nổi tiếng, tác giả nhiều bài viết sắc sảo trên các tờ The New Yorker và New York Times, gặp nhau và cùng giải quyết nhiều vấn đề cuộc sống từ góc độ kinh tế học không hàn lâm mà thiên về những phân tích xã hội, nhân sinh. Ví dụ: khảo sát thị trường mại dâm Mỹ để phô bày nhiều quan niệm, hành xử của người Mỹ với tình dục ngoài hôn nhân qua các thời kỳ, người môi giới bán dâm thì khác gì với người môi giới... nhà đất và giống gì với ông già Noel? Vì sao người ta lại chịu chung sống với sự vô cảm trong lúc bỏ hoang những suy nghĩ giúp mình vị tha hơn? Truyền thông đã làm gì trong việc thổi bùng nỗi sợ cái chết hiếm hoi do cá mập mang tới trong khi lại bình thường hoá những ca tử vong vì tai nạn giao thông? Làm sao để các cảnh sát và chính trị gia ba hoa nước Mỹ bớt hoang tưởng về "thành tựu" trong việc hạn chế tệ nạn xã hội? Hai cuốn sách này giúp người đọc khám phá những phép màu của tư duy; bằng sự tinh tường, hài hước, thông minh đó mà nhiều hiện tượng xã hội được giải mã phía sau những quan điểm kinh tế học khiến người đọc dễ dàng bị hấp dẫn, chinh phục một cách bất ngờ!   Mời các bạn đón đọc Tư Duy Như Một Kẻ Lập Dị của tác giả Stephen J. Dubner & Steven D. Levitt.
Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn - Anthony Robbins
Khi thấy một ai đó thành đạt ta thường tự hỏi “làm thế nào để anh ta có được thành quả ấy?”, mặc dù xét về xuất phát điểm có thể họ không đủ tư chất bằng ta, thế nhưng sao họ lại sớm đạt được sự thành công như ý... Sự khác biệt này thường đơn giản là vì bạn luôn có những nỗi sợ hãi tiềm ẩn trong tư tưởng, nhận thức của mình - Nó được tích lũy và phát triển, đôi lúc lại dâng cao để tự bảo vệ, ngăn chặn những rủi ro có thể xảy đến, dần dần biến thành một lớp vỏ bọc - đó chính là trở lực của thành công. Vận dụng được nguồn năng lực vô hạn, không những loại bỏ được sự sợ hãi mà còn cho ta một thái độ sống tích cực, tự tin, dám nghĩ dám làm. Đó là nguồn nhiên liệu không bao giờ cạn kiệt đang chờ sự khởi động đúng lúc, nhịp nhàng để mọi người có thể đạt đến đỉnh điểm của thành công. Con người chỉ có thể chuyển đổi cuộc sống của mình một cách ngoạn mục, thần kỳ khi biết tìm cách khai thông, giải phóng nguồn năng lực tiềm ẩn đó. Nội dung sách sẽ là hồi chuông Đánh thức nguồn năng lực vô hạn trong mỗi chúng ta. *** Nếu bạn chưa bao giờ mơ tưởng mình sẽ có được cuộc sống tốt hơn, Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn (Unlimited Power) sẽ chỉ cho bạn cách để có cuộc sống như ý muốn và xứng đáng thụ hưởng, thông qua một lĩnh vực khoa học mới giúp phát huy thành tựu xuất sắc của cá nhân. Tác giả sẽ giúp bạn: - Nhận ra bạn thật sự mong muốn điều gì - Khám phá 7 giả phỏng về thành công - Tái lập trình cho trí não để vượt qua nỗi sợ và nỗi ám ảnh - Tạo ra sự hòa hợp ngay tức thì với những người lần đầu tiên gặp gỡ - Sở hữu 5 chìa khóa mang lại hạnh phúc và thịnh vượng Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn (Unlimited Power) là một quyển sách mang tính “cách mạng” dành cho trí não, từng bước hướng dẫn bạn phát huy tối đa năng lực của bản thân trong khi vẫn cảm thấy thoải mái và an tâm về tài chính, rèn khả năng lãnh đạo và nuôi dưỡng lòng tự tin, đắc nhân tâm và có được sự hợp tác của mọi người. Mời các bạn đón đọc Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn của tác giả Anthony Robbins.
Thay Đổi Tư Duy - Nghệ Thuật Và Khoa Học Thay Đổi Tư Duy Của Bản Thân Và Những Người Khác
CẦN LÀM GÌ ĐỂ THAY ĐỔI TƯ DUY? Hãy nhớ lại lần gần nhất bạn muốn thay đổi tư duy của người nào đó về vấn đề quan trọng, như: niềm tin chính trị của một cử tri; nhãn hàng yêu thích của một khách hàng; sở thích trang trí của người bạn đời; thái độ học tập của một trẻ vị thành niên. Khả năng nhiều là bạn không thể thay đổi niềm tin của người đó một cách đáng kể. Chúng ta hay cố thay đổi tư duy nhưng vẫn thường thất bại, tại sao hiện tượng này lại bí ẩn đến vậy? Tư duy được thiết lập như thế nào? Và chính xác là cái gì có thể thay đổi cách suy nghĩ đó? Cuốn sách đột phá của nhà tâm lý học nổi tiếng thế giới từ Đại học Harvard Howard Gardner đã đưa ra những quan điểm sâu sắc về vấn đề nan giải nhưng thú vị này. Qua đó thay đổi cách mọi người tác động lẫn nhau trong công việc, gia đình và mọi lĩnh vực cuộc sống. Với công trình nghiên cứu mang tính cách mạng về trí thông minh, sáng tạo và lãnh đạo hơn 30 năm qua, Gardner cho rằng tư tưởng truyền thống xem thay đổi tư duy là một "hiện tượng" đột ngột xảy ra hoàn toàn sai lầm. Thay vào đó, Gardner chỉ rõ tư duy của chúng ta thay đổi dần dần dưới một số tác động tích cực và mạnh mẽ. Trên cơ sở nghiên cứu về nhận thức hàng thập kỷ, Gardner xác định có 7 yếu tố đòn bẩy hỗ trợ hoặc cản trở quá trình thay đổi tư duy, trong đó có: lý luận, nghiên cứu, các sự kiện trong hoàn cảnh thực tế, và sự chống đối. Thông qua các câu chuyện minh họa về những "đối tượng thay đổi" nổi tiếng hay đời thường trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh, nghệ thuật, cũng như trong cuộc sống hàng ngày, cuốn Thay đổi tư duy đưa ra một quy chuẩn vận dụng những yếu tố đòn bẩy để tạo ra sự thay đổi to lớn trong quan điểm và hành động. Dù là việc tái định hướng nước Anh của bà Margaret Thatcher hay là việc chuyển hóa BP của Ngài John Browne, hay cuộc cách mạng về tiến hóa của Charles Darwi, dù là quá trình tác động lẫn nhau giữa vợ chồng, bạn bè, hay những quyết định thay đổi tư duy bản thân, ở đó Garner vẫn khám phá ra những nét tương đồng đáng ngạc nhiên bên cạnh những nét khác biệt cần học hỏi của các yếu tố tác động đến quá trình thay đổi tư duy trong những hoàn cảnh khác nhau.  Giải mã hiện tượng đã ăn sâu vào tâm lý hành xử của con người, Thay đổi tư duy chia sẻ một số ý kiến sâu sắc, qua đó mở rộng tầm hiểu biết và làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. *** Thông qua “Thay đổi tư duy”, Gardner mô tả bảy nhân tố, hoặc bảy mức độ, có thể được một cá nhân sử dụng để thay đổi tư duy thành công: •    Lý luận. Một sự tiếp cận dựa trên lý trí bao gồm nhận biết các yếu tố có liên quan, cân nhắc từng yếu tố và đi đến đánh giá toàn diện. Lý do có thể bao gồm tính logic tuyệt đối, việc vận dụng phép loại suy hay sự sáng tạo của các nguyên tắc phân loại. •    Nghiên cứu. Bổ sung cho vai trò của lý luận là thu thập những dữ liệu có liên quan. Tuy vậy, việc nghiên cứu không phải lúc nào cũng mang tính chất chính quy; mà chỉ cần xác định những trường hợp có liên quan và đánh giá xem chúng có tác động đến việc thay đổi tư duy hay không. •    Sự cộng hưởng. Một quan điểm, một ý tưởng, hay một cách nhìn phải tạo sự cộng hưởng khiến người ta cảm thấy nó đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, và thuyết phục người đó không cần phải xem xét gì thêm. Gardner cũng chỉ ra rằng thuật hùng biện là phương tiện cốt yếu cho sự thay đổi tư duy. Ông giải thích rằng thuật hùng biện có hiệu quả nhất khi chứa đựng logic chặt chẽ, rút ra từ những nghiên cứu có liên quan, và có tác động cộng hưởng với người nghe. •    Tiếp cận ý tưởng theo nhiều cách khác nhau (hay còn gọi là Tái diễn giải). Sự thay đổi tư duy trở nên thuyết phục hơn khi nó được thể hiện ở những hình thức khác nhau, bổ sung lẫn nhau. Từ cái nhìn tâm lý học, việc cung cấp nguồn hậu thuẫn là một trường hợp tăng cường mang tính tích cực. Tuy nhiên, rốt cuộc nếu cách suy nghĩ mới không phù hợp với những tiêu chí khác – như lý luận, nghiên cứu, sự cộng hưởng – thì nó sẽ không thể tồn tại khi không còn nguồn hậu thuẫn. •    Những biến cố trên thế giới. Đôi khi, một sự kiện lớn diễn ra trong xã hội có ảnh hưởng đến nhiều người, không chỉ những cá nhân muốn thay đổi tư duy. Những sự kiện này bao gồm chiến tranh, bão tố, khủng bố, hay sự suy thoái kinh tế. •    Những sự phản kháng. Không phải mọi yếu tố đều giúp thay đổi tư duy. Muốn tìm hiểu về thay đổi tư duy phải xét đến sức mạnh của những ý nghĩ phản kháng khác nhau.   Mời các bạn đón đọc Thay Đổi Tư Duy Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và những người khác của tác giả Howard Gardner.
Tư Duy Như Một Hệ Thống - David Bohm
Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia seminar, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order (Cái toàn thể và Trật tự ẩn), David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hậu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** David Joseph Bohm sinh ngày 20.12.1917 tại Wilkes-Barre, Pennsylvania, trong một gia đình Do Thái. Tuổi thơ của ông trôi qua không êm đềm. Nhận được ít sự chia sẻ từ cha mẹ, ông đã tìm cảm hứng trong thế giới của riêng mình, và ngay từ những năm đầu đời ông đã bộc lộ tính cách của một người thiết tha kiếm tìm chân lí. Là một nhân vật hàng đầu trong thế giới vật lí lượng tử, và là giáo sư Vật lí lí thuyết tại Trường Birkbeck, Đại học London các năm 1961-1983, từ khi bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình, Bohm đã đặt niềm tin vào trực giác nhiều hơn là vào con đường toán học thông thường. Ông tin rằng bằng cách chú ý đến cảm xúc và trực giác của mình, ông có thể đi đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của vũ trụ mà con người là một phần trong đó. Tốt nghiệp Đại học Pennsylvania năm 1939, và hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ tại Berkeley dưới sự hương dẫn của Robert Oppenheimer, công việc của ông ban đầu liên quan tới sự tán xạ neutron-proton và các vấn đề nguyên lí thiết kế của máy gia tốc hạt. Ông chuyển tới Phòng thí nghiệm Bức xạ nơi ông làm việc trong Dự án Manhattan. Từ đây ông đã phát triển công cụ lí thuyết mới để mô tả dao động plasma và trở nên nổi tiếng với vai trò một nhà vật lí lí thuyết. Năm 1947, Bohm chuyển đến Đại học Princeton. Ở đây ông đã áp dụng những ý tưởng của mình về plasma để nghiên cứu hành vi của các electron trong kim loại. Những nghiên cứu này của ông cùng các cộng sự đã được quốc tế công nhận. Cũng tại Princeton, mối quan tâm đặc biệt của Bohm về những nền tảng của cơ học lượng tử đã bén rễ. Để hiểu hơn về chủ đề này, ông đã quyết định viết một cuốn sách giáo khoa, Quantum Theory (Lí thuyết lượng tử - 1951‖. Cuốn sách được đón nhận rộng rãi, và đến nay đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của vật lí lượng tử. Nhưng sau khi hoàn thành Quantum Theory, Bohm cho rằng cuốn sách này chưa thật thỏa đáng. Và ngay sau đó, ông đã đăng hai bài báo cho thấy một cách tiếp cận khả dĩ khác, và cách tiếp cận này dường như đã hiện thực hóa những điều mà quan điểm chính thống coi là không thể. Sau những hiểu nhầm và rắc rối về chính trị, Bohm chuyển đến Brazil và Israel, rồi tới Đại học Bristol năm 1957. Tại đây, cùng với Yakir Aharanov, ông đã đăng một bài báo quan trọng vạch rõ những hệ quả quan sát đáng ngạc nhiên về vector trường thế. Lúc đầu, ý tưởng của họ không được đó nhận, nhưng nó đã sớm được xác nhận qua thí nghiệm. Ý tưởng này được John Maddox, biên tập viên của tạp chí Nature uy tín, gợi ý đến một giải Nobel. Trong những năm 1970-1980, Bohm lần lượt gặp Krishnamurti và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Và hai con người này đã mở cho Bohm những cánh cửa khác nhau nhìn vào vũ trụ tự nhiên và tâm linh. Bohm mất tại London ngày 27.10.1992. Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order ― Cái toàn thể và Trật tự ẩn, David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hấu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lí nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lí vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** Joseph David Bohm là một nhà vật lí lượng tử người Anh. Ông nguyên là giáo sư danh dự Đại học Birkbeck thuộc Đại học Tổng hợp London. Ông là tác giả nhiều cuốn sách và bài báo, trong đó có Thuyết nhân quả và Ngẫu nhiên trong Vật lý hiện đại, Cái toàn thể và Trật tự ẩn, Vũ trụ không phân chia (viết cùng với Basil Hiley). David Bohm là một trong những người có nhiều ảnh hưởng tới mô hình lí thuyết hiện đại. Sự thách thức của Bohm với những hiểu biết thông thường về lí thuyết lượng tử đã khiến các nhà khoa học suy nghĩ lại về những việc họ đang làm, đặt câu hỏi về bản chất của lí thuyết mà họ đang theo đuổi và xác định phương pháp luận khoa học của họ. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lý nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lý vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Mời các bạn đón Tư Duy Như Một Hệ Thống của tác giả David Bohm.