Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiếc Lồng Đèn Của Má - Khởi Huỳnh

Tập truyện ngắn đưa ta trở về dòng sông tuổi thơ nhiều nhiều khó nhọc nhưng thấm đẫm tình người ở một làng quê vùng Nam Bộ. Trên dòng sông ấy có nhiều xuồng ghe từ các nơi đổ về.  Những người đàn ông, đàn bà nghèo khổ đến đây gặt thuê, bắt cá và làm nhiều việc khác để sinh nhai. Ghe nào cũng chở theo những đứa trẻ. Chúng bị những đứa trẻ trên bờ ghét bỏ, xa lánh, thậm chí bị cấm không cho lên đó chơi. Truyên nào trong tập sách cũng khiến đọc giả rưng rưng xúc động. Đó là câu chuyện kể về người mẹ cõng đứa con tật nguyền mười hai tuổi mới xin được vào học lớp một. Mỗi ngày đi học phải qua cánh đồng lau sậy. Bờ ruộng trơn trượt khi trời mưa, người mẹ phải gồng mình bấm hai ngón chân cái xuống đất để khỏi ngã.  Đó là nỗi day dứt của đứa em chỉ vì muốn lấy lòng mẹ để được mặc thử bộ đồ tết mà nhẫn tâm làm khổ cả cuộc đời người chị. Tác giả cho biết những câu chuyện kể ra trong cuốn sách chủ yếu đều là ký ức về tuổi thơ của anh và bạn bè thuở cắp sách tới trường làng. Con sông êm đềm, cánh đồng lúa vàng rực rỡ, những trò chơi trận giả, buổi chiều ngóng gánh hát về quê… là những hình ảnh đẹp về quê hương, những  kỷ niêm ai lớn lên ở nông thôn cũng có một thời như thế. Bởi thế, bạn sẽ tìm thấy mình đâu đó khi đọc tập truyện này. Bằng giọng văn mộc mạc, giản dị Chiếc lồng đèn của má như một món ăn tinh thần dành cho các bạn tuổi mười bốn, mười lăm. Đọc cuốn sách này để hiểu hơn về tuổi thơ bố mẹ ta, yêu hơn những vùng đất trên quê hương mình. Tác giả cuốn sách là họa sĩ Khởi Huỳnh. Ngoài chuyên môn chính ra anh còn viết thơ, đóng phim, diễn kịch, viết văn, dạy vẽ.  *** Năm mười hai tuổi, lần thứ ba má xin cho tôi vào học lớp một. Má nói so với mấy đứa bằng tuổi trong xóm thì tôi đã trễ đến năm năm. Nghĩ vậy nên má khuyên tôi nếu được nhận vào thì phải ráng học cho thiệt giỏi, kẻo người ta coi không ra gì. Vả lại, con người ta “khi mất cái này thì phải cố gắng đạt được cái khác để bù lại”. Tôi chẳng hiểu ý má nói gì, cứ tưởng là má nói mất đồ nên tôi vội kiểm tra lại tập vở và tiền má cho thì vẫn còn y nguyên, tôi khoe với má. Má xoa đầu tôi rồi cười ý nhị. Nói nào ngay(1), lúc đó tôi cũng không để ý đến chuyện mất còn gì đó mà má vừa nói. Cái tôi lo nhất là năm nay biết có được nhận vào lớp một không (vì đã hai lần trước đều bị từ chối) nên trong lòng tôi lúc nào cũng phập phồng lo sợ. Trước ngày khai giảng, đêm nào tôi cũng lấy đồ đi học của thằng em mặc vào, rộng thùng thình, tay cầm mấy quyển tập cứ đi tới đi lui, gặp ai cũng thưa đi học, rồi ra trước sân đi một vòng lại trở vô thưa đi học mới về (những động tác này là tôi học được từ đứa em, khi tôi mới xuất viện). Trong nhà ai cũng ôm bụng cười ngất. Riêng mỗi mình má tôi là không cười, má nhìn về một hướng nào đó xa xăm, đôi mắt buồn hiu. Rồi ngày khai giảng đã đến. Đêm đó má bảo tôi ngủ sớm để ngày mai đi học. Tôi ngoan ngoãn nghe lời má lên giường nằm nhưng không tài nào ngủ được, cứ lăn qua lộn lại, trong lòng thì mừng lo lẫn lộn. Má thì ngồi cặm cụi dưới ngọn đèn dầu lo chuẩn bị cho tôi, nào là tập vở, nào là thước kẻ, bút chì rồi lấy chiếc áo của đứa em đã mặc chật sửa lại cho tôi. Má đi nhóm lửa đốt than ủi lại cho thẳng thớm treo lên vách, má đứng ngắm hoài như thể tôi đang mặc vậy. Nhà tôi cách trường xã chừng năm cây số, cái khó là phải băng qua hai cánh đồng đầy lau sậy, mùa mưa trơn trợt rất khó đi nên lúc màn trời còn một màu đen kịt thì má đã gọi tôi thức dậy. Tất cả má đã chuẩn bị từ đêm hôm, má chỉ tôi chỗ treo bộ đồ rồi nói khi nào mặc xong lại đây má biểu. Tôi rất hồi hộp không biết có chuyện gì. Đoạn tôi vừa đi đến thì má cũng vừa mở tủ lấy ra một cái chai chừng bằng ngón tay út có nước màu vàng nhạt, bên trong có một cọng dây bằng mủ màu trắng dính liền với cái nút đậy. Má lấy ra rẩy rẩy, quét quét lên đầu tôi. Mùi thơm nhanh chóng tỏa ra rất dễ chịu. Tôi cứ lấy tay quẹt lên đầu rồi đưa xuống mũi ngửi hoài. Má biết tôi thích nên ra điều kiện: nếu con đi học được điểm mười thì hôm nào má cũng xức dầu thơm cho. Tôi hí hửng dạ thiệt lớn rồi chạy quanh nhà một vòng với bước chân khập khiễng. Má lại có vẻ buồn. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Lồng Đèn Của Má của tác giả Khởi Huỳnh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trảm Long Tập 4: Thiên Địa Phong Thủy - Hồng Trần
Cùng với sự lớn mạnh của Thái bình thiên quốc, Lục Kiều Kiều ngày càng nhận ra sự khắc nghiệt và tàn phá khủng khiếp của mỗi cuộc thay triều đổi đại. Cô không khỏi tự vấn, liệu dưới mỗi long mạch thiên tử đều nuôi dưỡng một minh chúa chân chính có thể đem lại thái bình cho nhân dân? Mang trên mình sứ mệnh định đoạt chân long, An Long Nhi đã hạ quyết tâm đứng về phía bách tính lầm than dù có phải san bằng trời đất đánh đổi tính mạng. Cuộc đấu trí giữa các đại phong thuỷ sư Lục Kiều Kiều, An Long Nhi và An Thanh Nguyên đã đến hồi quyết liệt nhất. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tuyệt kỹ trảm long xuất hiện làm rung chuyển càn khôn, là khoảnh khắc kì diệu làm thay đổi đại cục phong thuỷ Trung Hoa, từ đó mở ra một thời đại mới. Mời các bạn đón đọc tập 4 của bộ truyện Trảm Long.
Thần Hổ - Đái Đức Tuấn
Tác giả: Tchya ( 1908 - 8.VIII.1968 ). Tên thật là Đái Đức Tuấn. Bút hiệu khác là Mai Nguyệt. Ông là người xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá. Đỗ bằng tú tài, Trước 1945 đã từng nhiều năm làm Tham tá ở Nha học chính Đông Dương. Viết cho các báo Đông Tây, Nhật Tân, Tiểu thuyết thứ bảy. 1946 tham gia Việt Nam Quốc dân đảng, sau đó bỏ sang Trung Quốc. Từ 1947 - 1968, sống ở Hà Nội, rồi vào Sài Gòn, dạy học và viết báo. Từng tham gia Trung tâm văn bút Sài Gòn và đi dự hội nghị Trung tâm văn bút thế giới ở Tôkyô, 1957. Thần hổ là tập truyện dài gồm 3 chương, có tính cách 3 truyện ngắn tương đối biệt lập: Biệt cố hương, Ma trành, Báo phục. Tác phẩm được đăng trên Phổ thông bán nguyệt san, số 10, ra ngày 1 tháng 9 năm 1937. Tác giả tiếp thu những cốt truyện truyền kỳ trong sách cũ, phối hợp với nhiều mẩu chuyện ly kỳ được lưu truyền trong nhân dân các huyện miền núi Thanh Hoá khoảng ba bốn thập kỷ đầu thế kỷ XX, tạo nên một câu chuyện rùng rợn với không ít tình tiết thần bí hoang đường. Có thể coi Thần Hổ là kiểu truyện phỏng truyền kỳ tiếp sau Trại Bồ Tùng Linh, Vàng và máu... của Thế Lữ. Mời các bạn đón đọc Thần Hổ của tác giả Đái Đức Tuấn.
Sống Mòn - Nam Cao
Nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Nam Cao (1915 – 1951), Nhà xuất bản Kim Đồng vừa ra mắt ấn bản mới tiểu thuyết “Sống mòn” và tập truyện ngắn “Đôi mắt” – tuyển tập những sáng tác sau năm 1945 của Nhà văn. Sống Mòn là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, tiểu thuyết “Sống mòn” đề cập đến một vấn đề nhức nhối của người trí thức trong thời đại cũ, những văn nghệ sĩ nhiều khao khát, giàu lý tưởng nhưng cuộc sống cứ mòn dần, lụi dần bởi mối lo cơm áo. Nhưng kiếp “sống mòn” của giáo Thứ không chỉ là bi kịch của trí thức cách đây hơn nửa thế kỉ mà nó còn là sự day dứt của những con người không chấp nhận một cuộc đời bé mọn, vô nghĩa, phải sống “với đầy đủ giá trị của sự sống”. Tiểu thuyết “Sống mòn” ban đầu có tên là “Chết mòn”, tác giả viết xong năm 1944, nhưng mãi đến năm 1956 mới được in. Mời các bạn đón đọc Sống Mòn của tác giả Nam Cao.
Đôi Lứa Xứng Đôi - Nam Cao
Văn học tiếng Việt nửa đầu thế kỷ XX chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ, phong phú, đặc sắc của văn xuôi tự sự trong các thể tài phóng sự, truyện ngắn, truyện dài, tùy bút... Đến nay, sau gần một thế kỷ, trải qua nhiều thăng trầm, không ít tác phẩm trong số này đã chứng tỏ giá trị lâu dài của mình và trở thành những mẫu mực hầu như không thể vượt qua - những tác phẩm kinh điển. Tuy vậy, sự lắng đọng của giá trị, sự kết tinh của mẫu mực, ở khu vực di sản này vẫn là những tiến trình đang diễn biến hơn là đã hoàn tất. Do vậy, việc chọn ra và giới thiệu một cách tương đối có hệ thống những tác phẩm thuộc phần di sản này, là việc cần thiết. Ở cuốn sách bạn đọc đang cầm trên tay, chúng tôi giới thiệu tập truyện ngắn Đôi lứa xứng đôi của nhà văn Nam Cao (1917-1951).   Tập truyện ngắn Đôi lứa xứng đôi, ký bút danh Nam Cao, ra mắt bởi nhà xuất bản Đời Mới tại Hà Nội năm 1941, gồm 7 truyện: “Đôi lứa xứng đôi”, “Nguyện vọng”, “Hai khối óc”, “Giờ lột xác”, “Chú Khì người đánh tổ tôm vô hình”, “Ma đưa”, “Cái chết của con Mực”. Được biết, truyện đứng đầu tập vốn được tác giả đặt tên trong bản thảo là “Cái lò gạch cũ”, nhưng người viết lời tựa cho tập truyện - nhà văn Lê văn Trương - đổi thành “Đôi lứa xúng đôi”, có lẽ nhằm gây chú ý cho công chúng đương thời, về sau, khi đưa in lại truyện này trong tập Luống cày (tập truyện của 4 tác giả: Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1945!, tác giả Nam Cao đổi tên truyện của mình thành “Chí Phèo”.   Xuất hiện giữa những năm mà cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) đang ngày càng khốc liệt, khi các diễn biến cuộc chiến ở tận giời Âu hay ở ngay châu Á hầu như chi phối, thu hút mọi sự quan tâm của người đương thời, kể cả các giới làm báo làm văn, tập truyện Đôi lứa xứng đôi hầu như đã không gây được động tĩnh gì trong dư luận văn nghệ. Song điều đó không hề làm nản chí tác giả Nam Cao: chính đây là lúc ông bước vào những năm tháng sáng tác sung sức và hiệu quả nhất của mình, với hàng loạt truyện ngắn, truyện vừa, truyện thiếu nhi, xuất hiện hầu như hằng tuần trên các tờ báo ở Hà Nội.   Phải qua gần hai chục năm sau, trong đời sống hòa bình, giá trị thực sự của các sáng tác của Nam Cao mới được thừa nhận rộng rãi trong các giới sáng tác và phê bình, nghiên cứu văn học.   Truyện “Chí Phèo” hầu như được nhất trí xem như một kiệt tác, đỉnh cao trong văn nghiệp Nam Cao. đồng thời là kiệt tác đỉnh cao của văn xuôi tự sự Việt Nam những năm 1930-1945. Mời các bạn đón đọc.