Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà số 1205 - Thu Đường Miêu
Bạn tỉnh dậy sau cơn ác mộng, rồi bạn nhận ra, bạn đã mất ký ức của một tháng trước. Bạn muốn tìm rõ ngọn nguồn. Nào ngờ tới, bạn đã tự mình nhảy xuống vực sâu. *** “Chào cô Tô, tôi tên Dương Duệ, rất vui được biết cô.” “Cô Tô có hứng thú với chụp ảnh không? Chẳng hay cô thích nhà nhiếp ảnh nào nhất?” “Tôi thì thích nhiếp ảnh gia người Ba Lan, tác phẩm Aclove. Tác phẩm mới nhất của ông ta được chụp ở một thị trấn nhỏ, bầu không khí lúc đó khá ẩm ướt, tối tăm. Tuy rằng nhìn ảnh gợi cho người ta cảm giác cô độc, u buồn, nhưng dường như thị trấn đó cất giấu rất nhiều chuyện cũ xưa, khiến tôi không ngừng bị lôi cuốn. Nếu có dịp, tôi và cô Tô cùng thưởng thức ảnh thì tốt rồi.” ... Mời các bạn đón đọc Nhà số 1205 của tác giả Thu Đường Miêu.
Người Điều Khiển Tâm Lý I - Dực Tô Thức Quỷ
Tôi phân tích tâm lý của họ, tôi cũng giống như họ? Đội trưởng đội Điều Tra Đặc Biệt và đội viên làm bảo mẫu cho cô gái mặt lạnh? *** Đây là câu chuyện kể về Đội Điều tra đặc biệt chuyên xử lí các vụ án khó. Đội trưởng tên Tần Uyên, tính cách hơi nóng nảy, là người cuồng công việc. Một ngày, cục trưởng đưa một cô gái trẻ tên Mộc Cửu, là tiến sĩ tâm lí tội phạm, gia nhập vào đội. Đội trưởng Tần Uyên dù khó chịu nhưng cũng đành chấp nhận, còn phải cho cô ta ở cùng nhà. Mộc Cửu còn rất ít tuổi mà đã là thiên tài, tuy nhiên tính cách lại có phần kì dị. Cô nàng đến máy tính cũng không dùng mà khi phân tích tâm lý tội phạm lại không lệch một li. Cô làm việc rất năng suất, nhưng ăn uống cũng năng suất không kém, đặc biệt còn ham ngủ. Không ít lần tính cách này làm Tần Uyên và cả đội “ngã ngửa”. *** Tần Uyên và Mộc Cửu về đến nhà thì đã là 6 giờ rưỡi tối Mộc Cửu vuốt bụng, "Đói quá đi." "Không phải một tiếng trước em vừa mới ăn sao." Đối với việc ăn uống của Mộc Cửu, Tần Uyên không còn gì để nói, "Được rồi, trong nhà hết đồ ăn rồi, lát nữa anh sẽ nấu mì và làm trứng chần cho em." Mộc Cửu bĩu môi, có chút bất mãn. Đến cửa nhà, Tần Uyên bỏ hành lý xuống, lấy chìa khóa, vừa mở cửa thì phát hiện căn nhà vốn phải tối đen thì lại có ánh đèn. Mộc Cửu tiến lên phía trước dùng mũi ngửi được một hương vị, "Là mùi thịt." "Ai ở bên trong?" Tần Uyên đi lên trước, kéo Mộc Cửu ra phía sau, vừa đi vào trong vừa gọi. Người ở trong phòng bếp nghe được âm thanh bên ngoài, đi đến cửa, trong tay cầm xẻng xào thức ăn, vừa nhìn thấy Tần Uyên liền chạy đến ôm anh, "A, con trai, cuối cùng con cũng về rồi." ... Mời các bạn đón đọc Người Điều Khiển Tâm Lý I của tác giả Dực Tô Thức Quỷ.
Mật Mã Phù Thủy tập 3
Một buổi chiều muộn tháng 9, Diana Bishop, nữ sử gia đồng thời là một học giả hóa học trẻ tuổi và tài năng đang miệt mài nghiên cứu giữa đống cổ thư trong thư viện Bodleian, trường Oxford. Diana vô tình cầm một bản thảo cổ xưa về thuật giả kim, cuốn sách Ashmole 782, lên xem. Ngay lập tức, cô nhận ra nó có một sức mạnh bí ẩn vô cùng lôi cuốn và huyền bí. Thực tế, Diana còn là hậu duệ của một dòng dõi phù thủy lâu đời và xuất chúng, song cô không muốn thừa nhận và sử dụng năng lực siêu nhiên của mình – và bao nhiêu năm qua, cô đã cố gắng sống như bao cô gái bình thường khác. Chính vì thế, sau một thoáng lướt qua cuốn Ashmole 782, Diana đã trả nó lại cho thư viện và lờ đi những linh tính phù thủy của mình Tuy nhiên, Diana không phải nhân vật duy nhất nhận ra sự trở lại của cuốn sách huyền bí, và những khám phá của cô sau đó ngay lập tức đã khuấy đảo cả thế giới ngầm. Ashmole 782 là một kho báu vô giá đã thất lạc hàng thế kỷ và Diana là sinh vật đầu tiên cũng như duy nhất biết được thần chú mở ấn. Ngay lập tức, cô nhận ra mình cùng lúc bị ba loài sinh vật thần bí trên trái đất bao vây – yêu tinh, phù thủy, và ma cà rồng – những kẻ đang ùn ùn kéo về Oxford hòng tìm kiếm cuốn cổ thư. Trong số đó, cô cảm nhận được mối liên hệ mạnh mẽ với Mathew Clairmont, một nhà di truyền học điển trai, mạnh mẽ và cũng là một ma cà rồng. Mathew là nhân vật có những thành tựu học thuật xuất chúng sau hàng trăm năm miệt mài nghiên cứu. Hai nhân vật thuộc về hai giống loài vốn cố mối thâm thù, nhưng sau những bữa tối bên ánh nến lung linh, những lớp học yoga với các bài tập siêu nhiên thần bí, và sau chuyến đi về ngôi nhà cổ kính của Matthew (mà thực ra là một lâu đài) ở miền Nam nước Pháp, họ đã dần xích lại gần nhau… Khi những thử thách hai người phải đối đầu ngày một nghiêm trọng, năng lực của Diana cũng ngày càng mạnh lên, cô cùng với Matthew đã phải sát cánh bên nhau để chiến đấu chống lại những thế lực đang thèm khát giải mã cuốn cổ thư với những trang sách hứa hẹn sẽ hé mở những bí mật động trời trong quá khứ cũng như tiết lộ những tiên đoán về tương lai đầy bí ẩn. *** Deborah Harkness là Giáo sư khoa Lịch sử tại trường Đại học Nam California. Bà từng nhận học bổng của Fulbright, Guggenheim và Trung tâm Nhân loại Quốc gia. Công trình nghiên cứu gần đây nhất của bà là Ngôi nhà đá quý: London thời Elizabeth và cuộc Cách mạng khoa học. “Harkness viết với một sự thích thú đến nghẹt thở về thế giới phép thuật. Dù bà miêu tả những lớp tập yoga cho phù thủy, yêu tinh và ma cà rồng, hay những đoạn Dianna đến thăm lâu đài của Matthew, tất cả đều hồi hộp và tinh tế đến khó tin... Khi những điều huyền bí bắt đầu được hé lộ, tôi bắt đầu lật trang sách nhanh hơn, như thể chúng tự động lật giở vậy. Đến lúc thiên truyện kết thúc hoàn toàn gây thỏa mãn, Harkness đã biến tôi thành một tín đồ...” “Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah nhưng đã gây tiếng vang rộng rãi và gây kinh ngạc cho các nhà phê bình. Đây là một trong những cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền của nó đã được bán đi cho 36 quốc gia, và trong tuần phát hành đầu tiên đã đạt số lượng bán kỉ lục: hơn 300.000 bản...”    Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah và là cuốn đầu tiên trong bộ ba All Souls. Đây là một trong các cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền đã được bán cho 32 quốc gia ngay từ khi sách chưa được xuất bản. Một thiên tiểu thuyết vô cùng mê hoặc, Mật mã phù thủy là sự cân bằng hài hòa giữa lịch sử và phép màu huyền bí, giữa lãng mạn và ly kỳ… Mật mã phù thủy được bình chọn là một trong những cuốn sách hay nhất của tháng 2 năm 2011 trên trang www.amazon.com 11/ 2/ 2011, số bản in của cuốn sách đã lên tới 210.000 bản, và còn 100.000 bản đã được đặt hàng. Cuốn sách xếp thứ 6 trong danh mục best seller của tờ Sunday Times ở Anh. 18/2/2011, cuốn sách vươn lên xếp thứ 2 trong danh mục bestseller của New York Times. *** Các hồn ma không có nhiều vật chất. Tất cả đều được tạo thành trong những ký ức và tư tưởng. Trên đỉnh một trong những tháp tròn của Sept-Tours , Emily Mather ép một bàn tay mờ mờ trên vị trí ở trung tâm lồng ngực mà ngay cả bây giờ cũng vẫn đang bị đè nặng với nỗi sợ hãi. Liệu nó có bao giờ được dễ dàng hơn? Giọng nói, giống như phần còn lại của bà, hầu như không thể nhận thấy. Quan sát? Chờ đợi? Nhận biết? Không phải là tôi không lưu ý, Philippe de Clermont trả lời vắn tắt. Ông đang ngồi gần đó, nghiên cứu những ngón tay trong suốt của mình. Trong số tất cả những điều Philippe không thích về việc đã chết : không có khả năng chạm vào người vợ của mình, Ysabeau, thiếu nhận biết về mùi hoặc hương vị, thực tế là ông không có chút cơ bắp nào cho một đấu sĩ vô hình truyệt hảo đứng đầu danh sách. Đó là một lời nhắc nhở liên tục rằng ông đã trở nên tầm thường như thế nào. Mặt Emily cúi gằm, và Philippe thầm nguyền rủa bản thân mình. Kể từ khi qua đời, bà phù thủy đã là kẻ bầu bạn vĩnh hằng của ông, đã chia nỗi cô đơn của ông làm hai. Ông nghĩ gì thế, quát tháo bà như thể bà là một người đầy tớ sao? Có lẽ sẽ dễ dàng hơn khi họ không cần chúng ta nữa, Philippe nói bằng một giọng nhẹ nhàng. Ông có thể là hồn ma nhiều kinh nghiệm hơn, nhưng Emily mới là người hiểu rõ tính siêu hình trong tình huống của họ. Những gì bà phù thủy nói với ông đi ngược lại tất cả mọi thứ Philippe đã tin về kiếp sau. Ông đã nghĩ rằng người sống nhìn thấy những kẻ chết vì họ cần một cái gì đó từ họ: sự hỗ trợ, sự tha thứ, sự trừng phạt. Emily khăng khăng những điều này không có gì khác hơn là những chuyện hoang đường của con người, chỉ khi sự sống đi tiếp và buông bỏ để thì cái chết mới có thể xuất hiện với họ. Thông tin này đã khiến những thất bại trong việc gây chú ý cho Ysabeau phần nào dễ chịu hơn, nhưng không nhiều. "Em không thể chờ để xem phản ứng của dì Em. Dì ấy sẽ rất ngạc nhiên. " Giọng nữ trầm ấm áp của Diana trôi nổi lên những bờ thành châu mai. Diana và Matthew, Emily và Philippe đồng thanh nói, nhìn xuống khoảnh sân rải sỏi bao quanh lâu đài. Nhìn này, Philippe nói, chỉ vào lối đi. Ngay cả khi đã chết, ông vẫn có tầm nhìn ma cà rồng sắc bén hơn so với bất kỳ con người nào. Ông cũng vẫn còn đẹp trai hơn bất kỳ người đàn ông nào, với đôi vai rộng và nụ cười quỷ quái. Ông quay nhìn Emily, người không thể không mỉm cười đáp lại. Chúng là một cặp đẹp đẽ, đúng không? Nhìn xem con trai tôi đã thay đổi nhiều như thế nào kìa. Ma cà rồng không bị thay đổi bởi tác động của thời gian, và do đó Emily mong đợi sẽ thấy cùng mái tóc đen, thẫm đến nỗi lấp lánh màu xanh; cùng đôi mắt xanh xám có thể biến đổi, lãnh lẽo và xa xăm như một vùng biển mùa đông; cùng màu da nhợt nhạt và khuôn miệng rộng. Dù vậy, có một vài sự khác biệt tinh tế như Philippe đã nêu. Tóc Matthew ngắn hơn, và mang bộ râu đó khiến anh trông thậm chí nguy hiểm hơn, giống như một tên cướp biển. Bà thở hổn hển. Liệu nó có bao giờ được dễ dàng hơn? Giọng nói, giống như phần còn lại của bà, hầu như không thể nhận thấy. ... Mời các bạn đón đọc Mật Mã Phù Thủy tập 3: Cuốn Sách của Sự Sống của tác giả Deborah Harkness.
Xin Đừng Ốm - R. L. Stine
Đây là lần thứ hai Corey cùng chị Meg và bố mẹ rời xa khu phố Fear thân quen, vì chị Meg của nó cần tham gia buổi diễn thử múa ba lê ở xa nhà. Theo kế hoạch, chị Meg và bố mẹ tạm trú ở khách sạn, còn nó bị "ra rìa", về nông thôn sống với bà ngoại Marsha. Trước khi bỏ nó lại, bố mẹ không quên dặn dò "Đừng ốm ở nhà bà", nhưng thật không may, nó đổ bệnh... *** R.L.STINE là bút hiệu của Robert Lawrence Stine. Ông sinh ngày 8 tháng 10 năm 1943 tại Columbus (Ohio), là một nhà văn Mỹ, tác giả của hơn 12 truyện khoa học giả tưởng kinh dị dành cho độc giả thuộc lứa tuổi thanh thiếu niên. Những tác phẩm ấy được biết đến nhiều nhất là Goosebumps, Rotten School, Mostly Ghostly, The Nightmare Room và Fear Street . Tất cả các cuốn sách của ông đều có một series các đoạn truyện tạo nên một “cảm giác sợ hãi an toàn”, vì cho dù tạo cho các đọc giả một cảm giác sợ hãi đến đâu nhưng các nhân vật trong truyện “chẳng có ai chết cả”. Sách của ông được dịch ra thành 32 sinh ngữ và đã được bán hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới … Liên tiếp trong 3 năm từ 1990, nhật báo USA Today đã mệnh danh ông là tác giả có sách bán chạy nhất của Hoa Kỳ . Những câu chuyện kỳ bí được dịch và xuất bản tại Việt nam gồm có: Miếng Bọt Biển Ma Quái Ai Đã Nằm Trong Mộ Trò Chơi Trốn Tìm Ác mộng trong không gian ba chiều Cái nhìn ma quỷ Căn phòng cấm Chuyện trại Fear Con vượn bơi trong bể kính Đảo giấu vàng Đêm của ma mèo Hiệp sĩ sắt Những bức ảnh tiên tri Trở thành Ma cà rồng Nào Chúng Mình Hãy Biến Cái Đầu Khô Của Tôi Máu Quỷ Căn Hầm Bí Ẩn Chào Mừng Đến Với Ngôi Nhà Chết Lời Nguyền Trại Lãnh Hồ Chiếc Đồng Hồ Cúc Cu Vật Tìm Thấy Dưới Chậu Rửa Bát Ma Sói Trong Đầm Sốt Rét Ngôi Nhà Cây Xin Đừng Ốm Cái Máy Ăn ... *** — Corey! Đừng có đá vào lưng ghế! – Bố lên tiếng từ ghế ngồi đằng trước ô tô. — Và hãy rụt cái cùi trỏ của em khỏi mạng sườn chị. – Chị Meg của tôi rên lên. — Và hãy quay cánh cửa xe lên. – Mẹ đề nghị. – Nó làm tóc mẹ bay lung tung hết cả. — Tại sao tất cả mọi người lại cứ chỉ nhằm vào mình mà kêu ca nhỉ? – Tôi than vãn. – Mình chẳng làm gì cả. Tôi cuộn tròn người lại và gườm gườm nhìn ra cửa sổ. Tôi không muốn tham dự chuyến đi này. Tôi chỉ muốn ở lại nhà tại Shadyside với bạn bè của mình, với cô mèo mắt xám đen bên hàng xóm. Nhưng không được! Chị Meg phải đi diễn thử ở một trường ba lê vớ vẩn nào đó. Vì thế mà chúng tôi phải tự lèn mình vào chiếc xe ngốc nghếch này và đang trên đường tới bang Pennsylvania trong cái nắng nóng như thiêu mà không có điều hoà nhiệt độ. Đây là lần thứ hai chúng tôi phải rời khu phố Fear. — Nóng quá! – Tôi càu nhàu khi chúng tôi đã đi được hoảng hơn năm dặm. – Khi nào chúng ta mới tới nơi ạ? — Tự con cũng biết tới nhà bà Marsha thì mất bao lâu mà. – Từ ghế trước mẹ xoay người lại nhìn tôi. – Chính xác là mất bốn tiếng tính từ cửa chính nhà mình đến cửa nhà bà. Tôi tròn mắt nhìn mẹ. — Bà Marsha? – Tôi đáp lại. Tôi ngạc nhiên nhìn mẹ mấy lần. Bà Marsha ư? Tôi không hề biết người mà mẹ nhắc đến. Đầu óc tôi hoàn toàn không có bóng dáng cái tên đó. — Bà Marsha sẽ rất vui khi gặp con. – Mẹ lùa tay vào mái tóc vàng hoe của tôi trìu mến nói. Tôi lại rất ghét mẹ làm vậy. Tôi đã mười hai tuổi rồi vậy mà mẹ cư xử như thể tôi mới lên bốn. Tôi né đầu khỏi bàn tay mẹ và hỏi: — Con gặp bà lần gần đây nhất là hồi nào mẹ nhỉ? Mẹ ngờ vực nhìn tôi đăm đăm: — Đừng có nói với mẹ là con đã quên đấy! — Vâng con sẽ không quên đâu ạ. Tôi nói khoác. Thực sự thì tôi chẳng nhớ ra. Chị Meg đưa mắt nói: — Corey…, chúng ta đã tới thăm bà Marsha tháng bảy năm ngoái nhân dịp sinh nhật em. Bà đã tặng em một đống quà còn gì. Tôi cười ngượng nghịu và gật đầu: — À, đúng rồi… Thật là kỳ lạ. Làm sao mình có thể quên chính bà mình nhỉ? Meg mở nắp một hộp sữa chua không béo và cắm thìa vào: — Bà thường gửi cho em những món quà giá trị như ván trượt tuyết, những quả bóng rổ, cả tấm bia phi tiêu kia nữa. Còn chị bà chỉ gửi séc thôi. — Bà đã gửi cho em tấm ván trượt ấy à? – Tôi giật mình. Tại sao mình vẫn không nhớ ra nhỉ? Mình đã dùng cái ván trượt đó suốt cả năm trời. — “Bà Marsha” hẳn là một “vấn đề” đó, Corey nhỉ? – Bố cười thích thú. — Hê hê… Đúng rồi, đúng như vậy. – Bà là một “ vấn đề”, đúng thế. Một người hoàn toàn xa lạ. Cổ họng tôi khô khốc. Tôi không thể tin được điều này! Tôi hoàn toàn không có một ý tưởng nào trong đầu rằng bà Marsha là ai. Mẹ vỗ vào đầu gối tôi: — Thôi nào, Corey. Con đừng đùa cợt nữa. — À vâng. – Tôi ngồi ngay ngắn lại. – Con chỉ đùa thôi mà. Làm sao tôi có thể nói với gia đình mình rằng tôi không thể nhớ ra chính bà ngoại mình nhỉ? Mọi người sẽ nghĩ mình gàn dở. Tôi liếc sang phía chị Meg. Chị ấy đang nhìn tôi đầy vẻ ngờ vực. — Đó là em đùa đấy mà! – Tôi khẳng định với một giọng hơi to. – Được chứ? Đùa thôi mà! ... Mời các bạn đón đọc ​Xin Đừng Ốm của tác giả R. L. Stine.