Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Cầu cho Một Đứa Trẻ Không Ra Đời

Nhà văn Hung gốc Do thái Kertész Imre sinh ngày 9 tháng 11 năm 1929 tại Budapest- Hungary. Năm 1943, mới 14 tuổi, ông đã trải qua trại Auschwitz, rồi Buchenwald, những trại tập trung phát xít Đức dựng lên để lùa nhốt dân Do thái toàn cõi châu Âu, với mục đích thủ tiêu họ dần dần. Năm 1945, sau khi các trại tập trung được Hồng quân liên Xô giải phóng, Kertész Imre quay về Hungary. Ông làm nhiều nghề khác nhau: nhà báo, biên tập viên cho các báo và văn phòng Bộ công nghiệp, viết lời cho một số nhạc kịch, có lúc làm công nhân trong một thời gian ngắn. Từ 1953 trở đi, Kertész là nhà báo tự do, kiếm sống chủ yếu bằng công việc dịch thuật. Tiểu thuyết đầu tay của Kertész Imre, tác phẩm Không số phận viết trong 13 năm, sau nhiều chờ đợi và chối từ, năm 1975 mới được xuất bản tại Hungary. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một thiếu niên, sau khi đã trải qua những kinh nghiệm sống hãi hùng, trong các trại tập trung của phát xít Đức trở về, cậu trở thành người lớn, một người lớn, vĩnh viễn không bao giờ có thể sống đời sống bình thường như những người khác, chính vì dấu ấn nạn nhân, từ chủ nghĩa bài Do thái, đã để lại sâu sắc trong tâm hồn cậu. Ngày 10 tháng 10 năm 2002, Kertész Imre nhận giải Nobel văn học với cuốn tiểu thuyết Không số phận. Ông trở thành nhà văn Hungary đầu tiên đoạt Nobel văn chương. Tác phẩm Không số phận đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới, và được chuyển thể thành phim năm 2005. Trong các tác phẩm khác viết sau này, Kertész Imre thường phân tích một cách độc đáo và sâu sắc, số phận của những con người, bị quy định như một bi kịch định mệnh trong các tình huống xã hội đặc thù, như trong xã hội Hungary nói riêng và trong lịch sử Đông Âu nói chung. Đó là các tác phẩm: Sự thất bại (1988), Lá cờ Anh (1991), Nhật ký khổ sai (1992) Kẻ khác (1997), Tính sổ (2003)… Tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời , viết năm 1990, thường được coi là câu trả lời tiếp nối của Không số phận. Giới phê bình và độc giả trong nước, đánh giá tác phẩm này là một trong những kiệt tác văn học Hungary- kể cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện- trong thập kỷ đầu tiên, khi Hungary trở lại thành một xã hội dân chủ. Ngay với tên cuốn sách, tác giả đã lưu ý bạn đọc đến một loại kinh cầu nguyện, thường sử dụng trong các buổi tang lễ, phúng những người đã mất: đó là kinh Kaddis trong tôn giáo Do thái. Cuốn tiểu thuyết được viết như một lời cầu nguyện, các ý tưởng nối tiếp nhau, dàn trải theo một nhịp điệu nhịp nhàng, Kertész Imre đã sử dụng lối viết độc đáo của văn học truyền thống Do thái khi xây dựng tác phẩm này. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một người đàn ông Do thái, lấy một người vợ Do thái, nhưng ngay từ điểm xuất phát vào đời, người đàn ông này đã quyết định sẽ không có con. Trong một đêm giông tố của cuộc đời, nhân vật chính kể lại tại sao mình lại nhất quyết nói: "Không!” với người vợ (cũ) khi nàng muốn có con, muốn xây dựng tổ ấm với mình. Ông từ chối cơ hội sinh ra những đứa trẻ, từ chối cơ hội, để cuộc sống của mình tiếp nối với những thế hệ con, cháu. Ông chuẩn bị một cái chết từ từ cho mình, và quay lưng lại với cuộc sống. Cuộc đời của nhân vật, là một chuỗi phủ nhận những gì đang tồn tại với mình, và quanh mình. Nguyên nhân của sự phi lý này, chính là toàn bộ quá khứ, đã gây ra những vết thương, giết chết tâm hồn con người, mà Kertész Imre đã phân tích cực kỳ sâu sắc, trong những triết lý thiên tài, về những vết thương còn "mạnh hơn cả tri thức…” Đấy là hậu quả của một quá khứ tổng hợp, của một con người được nuôi dạy trong nền giáo dục thiên chúa giáo cực kỳ nghiêm khắc, của tuổi thơ bị mất, vì sự hà khắc của người cha, của những kinh nghiệm sống sót từng trải, thu thập từ trại tập trung của phát xít Đức. Đấy là toàn bộ sự hiện hữu bi kịch của một người Do thái, trong lịch sử bi thương của dân tộc Do thái. Tiểu thuyết kết thúc bằng kết quả lạc quan bất ngờ: người vợ ly hôn, nàng kết hôn với người khác, và sinh ra những đứa con. Cuộc sống, dù cay đắng bao nhiêu, vẫn tiếp tục đơm hoa kết quả. Người đàn ông- nhân vật chính của tác phẩm, là một nhà văn và một dịch giả - tuy lựa chọn con đường sống độc thân, nhưng với các tác phẩm và dịch phẩm của mình, vô hình chung vẫn kéo dài cuộc sống của chính mình bằng nghệ thuật và văn chương, bằng những giá trị đích thực từ một nền văn hóa tạo ra thế giới con người. Đây là giá trị vĩnh cửu của văn chương và nghệ thuật trong đời sống con người, được nhắc đến như ý nghĩa của tác phẩm. Giá trị nhân bản của tác phẩm, cùng với những triết lý, tuy rất”tự thân”, rất đặc thù của Kertész Imre, nhưng có nhiều tương đồng với những yếu tố triết học đương đại của thế kỷ XX, khiến tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời đã trở thành một trong những kiệt tác văn chương xuất sắc, trong văn chương hiện đại châu Âu, và thế giới. Là một dịch giả tiếng Đức nổi tiếng, tác phẩm của Kertész Imre chắc chắn chịu nhiều ảnh hưởng từ các nhà triết học Đức, Áo mà ông dịch như: Elias Canetti, Sigmund Frend, Hugo Von Hoffmannstahl, Friedrich Nietzsche, Jozseph Roth, Arthur Schnitzler, Ludwig Wittgenstein Để lần đầu tiên tác phẩm của Kertész Imre được xuất bản tại Việt nam, người dịch đã bỏ rất nhiều công sức, cố gắng mang lại cho bạn đọc Viêt nam một ấn phẩm dịch có chất lượng, với mong muốn, sau tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời , người dịch sẽ có dịp giới thiệu tiếp, những tác phẩm ưu tú khác, của nhà văn đoạt giải Nobel Hungary Kertész Imre, giúp bạn đọc tìm hiểu thêm một nền văn học châu Âu cực kỳ đặc sắc: văn học Hungary. Budapest 18-05-2008 Người dịch: Nguyễn Hồng Nhung "Không!” – tôi nói luôn và ngay tức khắc, không do dự và có thể nói, theo bản năng, bởi vì hoàn toàn hiển nhiên, những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại chính những bản năng của chúng ta, nói cách khác, những bản năng đối kháng của chúng ta hoạt động thay cho những bản năng thuần tính, thậm chí không quá lời – tôi đang ví von, nếu điều này có thể coi như sự ví von, hoặc cũng vậy, nếu sự thật trần trụi và thảm hại có thể xem là sự ví von. – tóm lại, tôi đang kể cho nhà thông thái đi ngược về phía tôi, sau khi cả ông ta lẫn tôi cùng dừng lại trong cánh rừng sồi đang héo mòn và hổn hển thở có thể nghe thấy được, bởi mắc một căn bệnh, có thể là bệnh lao phổi, rừng cây sồi, hay gọi là cây gì nhỉ: xin thú thật, tôi yếu kém về môn thực vật, riêng cây thông thì tôi nhận ra ngay, do những lá kim nhọn của nó, và những cây sung dâu, bởi vì tôi thích chúng. Cái gì tôi thích, cho đến tận hôm nay, ngay cả bằng bản năng đối kháng, nếu không phải bằng cái cảm giác buốt nhói trong ngực, đau quặn ruột, muốn nhảy dựng lên, như khi tôi phát hiện ra những điều tôi thù ghét, nói thẳng ra là, với sự nhận biết cảm hứng, tôi vẫn nhận ra nó. Tôi không biết, ở tôi, tại sao mọi cái với nhau, luôn luôn khác, đơn giản hơn, nếu tôi biết tại sao tôi không biết. Bởi vì điều này giải thoát tôi khỏi vô số lời giải thích. Nhưng, có vẻ không thể chạy trốn khỏi những lời giải thích, chúng ta luôn luôn giải thích và phân trần, bản thân cuộc sống đòi chúng ta phải giải thích, đây là cái hiện tượng-, cảm giác phiền toái không thể cắt nghĩa, môi trường xung quanh chúng ta đòi lời giải thích, và sau cùng, chúng ta cũng đòi lời giải thích từ ngay bản thân chúng ta, rốt cuộc, chúng ta thành công tiêu diệt tất cả những gì có xung quanh chúng ta, kể cả bản thân mình, hay nói cách khác, chúng ta thành công thanh minh đến vỡ đầu – tôi giải thích cho nhà thông thái hiểu, bằng thái độ nói chuyện gượng ép mà đối với bản thân tôi thật kinh tởm, nhưng không thể chống lại, cái thái độ luôn xâm chiếm tôi khi không có gì để nói, và là thứ, tôi e rằng, cùng gốc rễ với các đồng tiền boa tôi trả trong các quán ăn, trên những taxi, khi đút lót những nhân viên hành chính chính thống, chính xác hơn, nửa chính thống, và tiếp nữa, bằng thái độ lịch sự quá ư tự dâng hiến bản thân, như thể tôi đang sám hối không ngừng vì sự tồn tại, vì sự hiện hữu của mình. Lạy Chúa! Chỉ đơn giản là tôi vào rừng dạo chơi – cho dù đây chỉ là một cánh rừng sồi còi cọc –, trong bầu không khí thoáng đãng – cho dù bầu không khí này đã ô nhiễm chút ít –, với mục đích làm thông thoáng cái đầu của mình, hãy nói như vậy, bởi vì nếu chúng ta không quan tâm vào ý nghĩa của từ ngữ, thì nghe như thế thật hay ho, còn giả sử chúng ta có quan tâm đi nữa, thì, các từ ngữ này cũng chẳng có ý nghĩa gì, như việc cái đầu của tôi không cần thiết phải làm thông thoáng, trái lại, tôi là người rất dễ bị trúng gió. Tôi đốt – đã đốt – thời gian của tôi ở đây, một cách tạm thời (lúc này tôi không lan man sang những điều ngoài đề tài mà từ này tiềm tàng), trong cái thung lũng của dãy núi miền trung nước Hung này, trong một căn nhà, hãy gọi là nhà nghỉ mát, tuy nó xứng đáng được coi là nơi làm việc (tôi vẫn luôn luôn làm việc, và không chỉ sự sống còn buộc tôi phải thế, bởi nếu tôi không làm việc, thì tôi tồn tại, và nếu tôi tồn tại, thì điều đó, tôi không biết, nó buộc tôi làm gì, thành ra tốt hơn, tôi cũng không nên biết, cho dù các tế bào, phủ tạng của tôi, chúng chắc mẩm rồi, chính vì vậy tôi làm việc không ngừng: chừng nào tôi còn làm việc, chừng ấy tôi còn hiện hữu, nếu như tôi không làm việc, có giời biết, tôi có còn hiện hữu hay không, nên, tôi cho là quan trọng, và tôi cũng lấy làm quan trọng, bởi vì đây là cả một mối tương quan nghiêm túc nhất giữa sự sống còn và công việc của tôi, điều này hoàn toàn rõ ràng). Tóm lại, trong một căn nhà, nơi tôi được thưởng cái quyền đến ở với đám trí thức đồng quan điểm hoành tráng, những kẻ mà tôi không có cách gì để tránh họ, tôi có nằm bẹp bất động trong phòng mình cũng vô ích – tiếng lách cách của cái máy chữ của tôi sẽ tố giác ngay nơi tôi ẩn nấp –, tôi vô ích rón rén đầu ngón chân trên hành lang, vẫn cần phải đi ăn, những lúc đó, bằng hiện thực tồn tại không thương tiếc, đồng loại cùng bàn xúm xít quây quần, cũng cần phải đi dạo, thế là ngay giữa rừng tôi đụng trán với tiến sĩ Obláth đi ngược lại, nhà thông thái với cái dáng dấp mập mạp thô thiển, trên đầu sùm sụp phi lý cái mũ lưỡi trai kẻ ca-rô màu nâu xám, trong cái áo khoác cháo lòng tay rộng, với cặp mắt ti hí và khuôn mặt rộng, béo tốt, nhàu nát, giống như bột mỳ chứa bột nở và quả thực đã phồng to, ngài đã tỉnh ngủ hẳn. Thông thái gia, đây là chức danh nghề nghiệp thị dân của ngài, bên cạnh đó, cũng nên biết thêm rằng, và điều này có thể chứng minh bằng danh mục có ghi trong chứng minh thư của ngài, tiến sĩ Obláth là nhà triết học, giống như Immanuel Kant, như Baruch Spinoza, hoặc như triết gia Herakleitos của xứ Ephesos, như bản thân tôi là nhà văn và dịch giả, nhưng tôi không đính thêm vào người một danh hiệu đáng nực cười màu mè nào khác với những tên tuổi khổng lồ, những người là nhà văn và – đôi khi – cũng là dịch giả đích thực, bởi vì ngay khi chưa làm điều này, tôi, với nghề nghiệp của mình, cũng đã đủ là một trò cười rồi, và bởi vì hoạt động dịch thuật mang tính chất khách quan, trong mắt của vài người – chủ yếu của các cơ quan chính quyền và, tất nhiên do nhiều nguyên nhân khác, nhưng của bản thân tôi nữa – đôi khi, với chút dáng dấp của những nghề nghiệp minh bạch, nó là tấm ngụy trang cho biết bao bận bịu của tôi. "Không” – một cái gì đó tru lên, rền rĩ trong tôi, ngay lập tức, chính lúc đó, khi vợ tôi (người thực ra từ lâu đã hết là vợ tôi) lần đầu tiên rào đón về chuyện này – về con – và sự khiếm khuyết này của tôi rất chậm rãi, đúng thế, sau rất – rất nhiều năm mới dịu dần đi trong tôi, biến thành nỗi đau nhân thế buồn bã vô tận, như thể cơn giận dữ bùng nổ của Wotan trong buổi chia ly lừng danh, cho đến tận khi, trở thành bè vĩ cầm tắc nghẹn từ những ảo ảnh, rất chậm rãi và nhức nhối, như một căn bệnh từ lâu ấp ủ, như một câu hỏi mạnh mẽ xoáy trong tôi, câu hỏi đó chính là con, chính xác hơn là ta, nhưng được đặt ra vì con, chính xác hơn nữa là (điều này tiến sĩ Obláth cũng đồng tình):): Sự hiện hữu của ta chính là khả năng tồn tại sự hiện hữu của con, xét cho cùng. Hay nói cách khác, tôi như một kẻ giết người, nếu chúng ta muốn chính xác đến tột cùng, muốn tăng đến tận cái không thể, và với chút tự gặm nhấm bản thân cho phép điều này, bởi vì, lạy Chúa, muộn mất rồi, luôn luôn sẽ là sự chậm trễ mất rồi, con không xuất hiện, còn ta tự biết một cách chắc chắn, sau cái khăng khăng ”Không! Không!”, ta đã làm đổ vỡ tất cả, nghiền nát mọi thứ thành bụi, trước tiên là cuộc hôn nhân bất hạnh ngắn ngủi của mình – tôi kể – tôi đã kể – cho ngài Obláth, tiến sĩ khoa Nhân văn nghe, bằng một thái độ lãnh đạm thờ ơ, mà cuộc sống chưa bao giờ dạy thế, nhưng rốt cuộc tôi đã thể hiện thuần thục, khi cần thiết vô điều kiện. Và tất nhiên là cần, vì nhà thông thái đến gần tôi với vẻ mơ màng, tôi lập tức nhìn thấy nó trên cái đầu ngoẹo sang một bên, trên là một cái mũ lưỡi trai nằm bẹp dí, như thể một tên côn đồ láu cá đang tiến lại gần, sau khi đã nốc vài chén, bần thần tính toán, nên tống tôi một cú hay chỉ vòi tiền, nhưng tất nhiên, suýt nữa tôi nói: rất tiếc, ngài Obláth không bần thần, một nhà thông thái không có thói quen trầm ngâm giữa đường, còn nếu có, điều này hiện ra trong hình thái một vấn đề triết học nghiêm trọng, những công việc thấp hèn do những kẻ chuyên nghiệp thực hiện, tương tự, ta đã thấy, cho dù điều chợt lóe trong đầu tôi liên quan đến tiến sĩ Obláth là sự chuyên quyền đích thực và gần như đáng ngờ, bởi tôi không biết quá khứ của ngài, hy vọng ngài đừng kể. Không, nhưng ngài khiến tôi ngạc nhiên, vì một câu hỏi chẳng tế nhị chút nào, như thể một tên du côn vặn hỏi có bao nhiêu tiền trong túi tôi, tóm lại, ngài bắt đầu tra hỏi hoàn cảnh đời tư của tôi, tuy rằng, để mào đầu, ngài cho biết về đời riêng của ngài, với mục đích tạm ứng, làm tiền đề cho trường hợp nếu tôi muốn biết tất cả về ngài, dù tôi không hề quan tâm mảy may, với việc này ngài có thể nhào nặn cái quyền về… nhưng tôi phải dừng cuộc suy diễn này, tôi cảm thấy những chữ cái, những từ ngữ bắt đầu bị cuốn đi, bị trôi dạt theo hướng sai lầm, hướng của luân lí mù mờ, thứ mà đáng tiếc, gần đây tôi nhận ra mình cũng mắc vào, và các nguyên nhân của nó hiển hiện quá rõ ràng trước mắt tôi (nỗi cô độc, sự cách ly, việc lưu đày tự nguyện), như thể những nguyên nhân này khiến tôi phải lo âu, bởi suy cho cùng, chính tôi đã gây nên chúng, như vài nhát cuốc ban đầu vào một cái hố sâu thăm thẳm, đến tận cùng, với từng nhát bổ, tôi cần phải đào xong, để sau này nó nuốt chửng mình (giá có thể, tôi không đào vào đất mà nên đào vào không khí, vì ở đó có đầy chỗ) – Tóm lại, tiến sĩ Obláth hỏi tôi đúng một câu vô tội, tôi có con hay không, trong mọi trường hợp, đây là sự thẳng thắn vô lại, đặc trưng cho một nhà thông thái, hay nói cách khác, bất lịch sự, nhất là trong giây phút tồi tệ nhất, tất nhiên làm sao ngài biết, câu hỏi của ngài không thể phủ nhận, thậm chí còn làm tôi bối rối. Vì sau đấy, tôi đành trả lời bằng sự lên tiếng bắt buộc không thể đừng, bắt nguồn từ nỗi lịch sự quá ư tự dâng hiến bản thân, làm tôi vừa trả lời vừa kinh tởm, mà vẫn cứ phải kể lại, rằng: "Không!” – tôi nói ra luôn và ngay tức khắc, không chút lưỡng lự và có thể nói, theo bản năng, bởi vì hoàn toàn hiển nhiên là những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại chính những bản năng của chúng ta, nói cách khác, những bản năng đối kháng của chúng ta đang hoạt động thay cho những bản năng thuần tính, thậm chí: đúng thế, vì những lời nói ngu xuẩn, vì sự hạ thấp bản thân một cách tự nguyện, riêng tư và không động cơ gì của tôi (cho dù tôi có hàng tỷ lý do để nói, như vài dẫn chứng tôi đã nêu trên, nếu tôi nhớ không nhầm), tôi muốn trả đũa ngài Obláth, vị tiến sĩ của khoa Nhân văn, khi tôi tô vẽ lại chân dung ngài giữa cánh rừng sồi (hay rừng phong gì đấy) cằn cỗi, như tôi đã tô vẽ, với cái mũ lưỡi trai bẹp dí, cái áo khoác raglan, và đôi mắt ti hí nhờ nhờ sữa đục trên khuôn mặt rộng, nặng nề nhàu nát, giống tảng bột mì có bột nở phồng to – tôi vẫn cho như thế – đúng, hoàn toàn phù hợp với thực tế. Toàn bộ những điều này, hoàn toàn có thể viết khác đi, một cách cân bằng hơn, rộng lượng hơn, tôi muốn nói thêm: với nhiều tình thương mến hơn nhưng e rằng, tôi chỉ biết viết như thế về tất cả, với ngòi bút tẩm mực châm chọc, một cách chế riễu, có thể hơi nực cười (nhận định điều này không phải việc của tôi), nhưng từ góc độ nào đấy, thật vụng về, như thể có một ai đấy cứ đẩy chệch ngòi bút của tôi đi, khi nó chuẩn bị viết những từ định sẵn, nhưng cuối cùng bàn tay tôi lại cho ra những từ khác, khiến bức tranh phác họa, chả bao giờ chứa tình yêu thương nào trong đấy, đơn giản hơn, sợ rằng, trong lòng tôi chả có tí yêu thương nào, nhưng, – lạy Chúa tôi! – tôi có thể yêu thương ai chứ, và tại sao. Trong khi tiến sĩ Obláth nói một cách trìu mến, đến nỗi vài chia sẻ cốt tủy khiến tôi phải chú ý, cuối cùng (sau này tôi gọi là: một cách định mệnh) đã được tôi ghi lòng tạc dạ. Rằng: ngài không có con, ngài nói, ngài chẳng có ai, ngoài một bà vợ già nua, đang vật lộn với tuổi già, nếu tôi hiểu đúng, bởi vì nhà thông thái giảng giải một cách mờ mịt, hay nói cách khác, định nghĩa một cách bóng bẩy, vì ngài tin là tôi hiểu được, thứ mà tôi muốn hiểu, mặc dù tôi không hề muốn, nhưng tuy vậy tôi vẫn hiểu, tất nhiên. Rằng, tiến sĩ Obláth nói tiếp, cái việc không có con của ngài thực ra chỉ gần đây mới xuất hiện trong đầu, và giờ trở nên thường xuyên, vì thế đúng lúc này, ngài ngẫm nghĩ về nó, trên con đường mòn trong rừng, không thể dừng lại mà không nói về nó, có lẽ, vì ngài đã đứng tuổi, và những khả năng ở tuổi này, ví dụ khả năng có thể sinh được con, đối với ngài ngày càng ít khả năng, thậm chí tuyệt đối mất khả năng, chính vì thế giờ đây ngài thường xuyên nghĩ đến, ngài bảo, ngài nghĩ đến nó "như một cơ hội bị bỏ lỡ”. Đến đây, tiến sĩ Obláth dừng lại giữa con đường mòn, vì trước đó cả hai chúng tôi cùng bắt đầu rảo bước, hai sinh vật xã hội, hai thằng đàn ông trung niên trò chuyện giữa đống lá khô, hai chấm buồn trên nền vải vẽ bức tranh thiên nhiên, hai vết loang phá hoại sự hài hòa vốn chưa bao giờ có của thiên nhiên, chỉ có điều tôi quên mất, tôi lẽo đẽo sau ngài tiến sĩ, hay ngài lẽo đẽo theo tôi, tất nhiên ta không nên đặt câu hỏi kiêu ngạo này ra làm gì, đúng thế, tất nhiên tôi lẽo đẽo sau ngài Obláth, có thể, với mục đích thoát khỏi ngài, bởi vì trong giây phút thích hợp nhất cho mình, tôi có thể quay trở lại; Tóm lại, tiến sĩ Obláth dừng lại giữa đường mòn trong rừng, bằng duy nhất một động tác buồn bã mênh mông, ngài căng cái khuôn mặt phồng to, xệ xuống, thêm nữa, ngài ngước cái đầu có chiếc mũ kỳ quái, lấc cấc về phía sau, rồi ngài treo ánh mắt của mình vào một cành cây ngang tầm mắt, như móc manh áo rách rưới thảm hại, nhưng vẫn sẵn sàng dâng hiến sự phục vụ. Rồi chúng tôi dừng lại giữa chừng như thế, câm lặng, tôi trong luồng thôi miên của ngài, còn ngài, tiến sĩ Obláth, của cây rừng, tôi có cảm giác, mình sắp làm nhân chứng cho một phát ngôn cực kỳ tin cẩn sắp phát ra của ngài; đúng vậy, vì sau cùng, tiến sĩ Obláth lên tiếng, ngài bảo, ngài nói rằng, ngài cảm thấy điều đã xảy ra, hay nói đúng hơn, điều chưa xảy ra, là cơ hội bị bỏ lỡ, có nghĩa là ngài nghĩ không phải đến việc nối dõi, mà đến một điều mang chút tính trừu tượng, và cần phải thú thực rằng, về bản chất cũng là niềm an ủi làm khuây khỏa con người, trong trường hợp ngài đã đáp ứng được – đúng hơn, và chính vì điều này, không đáp ứng được, công việc cá nhân và trên cả cá nhân ở thế gian này, nói cách khác, ngoài sự tồn tại ra, còn cần đảm bảo cuộc sống tiếp tục, sự thoát chết, những thứ được kéo dài và nhân rộng bởi chính các thế hệ tiếp theo, đó là (ngoài sự tồn tại ra) trách nhiệm, có thể nói, mang tính tiên nghiệm, nhưng lại vô cùng thực tiễn của con người đối với cuộc sống, để mình không cảm thấy là què cụt, là dư thừa, và nước đường cùng, là liệt dương bất lực; và ngài cũng không nghĩ đến những viễn cảnh đang đe dọa của tuổi già không nơi nương tựa, không, thực ra ngài sợ cái khác kia, sợ "sự vôi hóa tình cảm”, ngài nói như thế, tiến sĩ Obláth sử dụng đúng những từ này, khi giữa chừng, ngài tiến bước có vẻ như về phía điểm tựa của chúng tôi, phía căn nhà nghỉ mát, nhưng thực ra bây giờ tôi đã hiểu, là về phía sự vôi hóa tình cảm. Và trên con đường này của ngài, tôi lẽo đẽo theo ngài như một kẻ tháp tùng trung thành, trong trạng thái tâm hồn bị khuấy động đến độ thích đáng bởi những từ ngữ đầy khích động của ngài, nhưng tôi không chia sẻ nỗi sợ hãi với ngài, cái mà, tôi e rằng (chính xác hơn là tôi tin rằng, thậm chí tôi biết chắc chắn rằng) chỉ là phút chốc, và, tuy trong mọi trường hợp đều thiêng liêng, nhưng trong hiện thực vĩnh cửu, vẻn vẹn chỉ là nỗi sợ hãi cần được nhúng vào chậu nước thánh mà thôi, vì khi nó xuất hiện, chúng ta không còn sợ nó nữa, không còn nhớ thứ mình đã sợ, bởi vì nó đã lấy đi sức mạnh trên chúng ta, và chúng ta ngập tận cổ trong nó, nó đã là của chúng ta và chúng ta là của nó. Bởi vì đấy cũng chỉ là nhát cuốc vào cái hố, cái hố chôn, mà tôi đang đào vào không khí (vì ở đó tôi nằm xuống thoải mái hơn), cho nên, tôi nói, không phải với nhà thông thái, chỉ với bản thân, rằng đối với sự vôi hóa tình cảm, không cần phải sợ, mà cần phải tiếp nhận nó, ngay cả khi không chào đón trực diện, như chào đón bàn tay cứu vớt hướng về phía chúng ta, bàn tay hiển nhiên giúp chúng ta đi về phía nấm mồ, chắn chắn: vì thưa ngài Kappus, thế giới này không chống lại chúng ta, và nếu nó mang nhiều nỗi hiểm nguy đi chăng nữa, chúng ta hãy cần thử yêu lấy chúng, nếu như, tôi nói xen vào, nhưng không phải với nhà thông thái, cũng không phải với ngài Kappus – anh chàng may mắn đã nhận biết bao thư từ Rainer Maria Rilke – tôi nói với bản thân, là tôi chỉ yêu những nỗi hiểm nguy này, và tôi nghĩ, tuy vậy điều này có gì đấy chưa hợp lý, trong nó cũng có cái gì đấy không thực, mà tôi lúc nào cũng không ngừng nghe thấy, kiểu như một vài nhạc trưởng nghe thấy lập tức cái nốt nhạc kèn đồng, do lỗi in ấn, thổi cao hơn nửa âm. Cái âm thanh giả này, không chỉ từ trong bản thân tôi, mà xung quanh tôi, trong không gian, có thể nói, vũ trụ hạn hẹp hoặc rộng lớn của tôi, lúc nào tôi cũng không ngừng nghe thấy, ngay cả trong khung cảnh thiên nhiên đáng ngờ này, với rừng (sồi, hay phong) còi cọc, với lạch nước hôi hám và bầu trời u ám xỉn màu, lộ ra khỏi hàng cây hom hem, tại nơi, thưa ngài Kappus thân mến, kiểu gì tôi cũng không nghe thấy tiếng gọi thôi thúc của ý nghĩ "trở thành Tạo hóa, để sản sinh, để sáng tạo”, cái ý nghĩ đó, đúng không, chẳng đạt được điều gì trong thế giới nếu không kiểm chứng liên tục và biến nó thành hiện thực to lớn, sẽ chẳng thành gì, nếu thiếu sự đồng thuận của hàng nghìn âm thanh vang lên từ các loài vật và các vụ việc. . . Đúng thế, bởi vì vô ích chúng làm cụt hứng chúng ta (về điều này, tôi chỉ nói có thế), trong bí mật, nếu chúng ta thầm lặng và kỹ lưỡng theo rõi sự tuần hoàn của máu, và những giấc mơ kinh hãi của chúng ta, có nghĩa là, trong bí mật – tôi chỉ trong bí mật này, mới cảm thấy sự đồng thanh của hàng ngàn giai điệu vang lên từ mọi vật và mọi người – chúng ta luôn luôn và khăng khăng muốn sống, một cách rũ rượi, vô hồn, một cách bệnh hoạn, đúng thế, kể cả khi sống như thế này, cũng không được, như thế kia, cũng không xong… Chính vì vậy, hãy đừng mắc kẹt vào cái trạng thái tình cảm này, hay đúng hơn, vào gần như tất cả các trạng thái, hoặc ít nhất, trong tất cả những trạng thái mà tôi cũng tham dự, tôi lại nghe thấy âm thanh sai điệu của chiếc kèn đồng, tôi đặt cho ngài một câu hỏi đụng chạm mạnh đến chuyên môn của ngài, mang tính chất bác học, nhưng tuyệt đối không phải là một câu hỏi thông thái, rằng tại sao cái điều này lại như vậy? toàn bộ đây là sự ốm yếu?, rằng rốt cuộc ở đâu và khi nào "chúng ta đã làm đổ bể những cái quyền của mình”? rằng tại sao, một cách không thể thay đổi được và không gì có thể lay chuyển nổi, chúng ta vĩnh viễn không thể biết cái chúng ta biết? và cứ thế, cứ thế, như thể tôi không biết cái tôi biết, nhưng do bị bắt buộc phải lên tiếng, cái thái độ bất khả kháng, như nỗi sợ hãi nào đấy, kiểu như ngài đang ở giữa đồng hoang ma quỷ: thế là trên khuôn mặt tiến sĩ Obláth, quay trở lại cái nét mặt của nhà thông thái hành chính vùng núi trung nguyên Hungary, nét mặt của kế sinh nhai hạng trung, nét mặt của tầng lớp trí thức hạng trung với những quan điểm hạng trung, vóc dáng hạng trung, tuổi tác hạng trung, tương lai hạng trung, những nếp nhăn của nụ cười thỏa mãn, hạnh phúc, hoàn toàn nuốt chửng đôi mắt ti hí của ngài. Giọng nói của ngài ngay lập trở lại khách quan, thậm chí, cụ thể rành mạch, cái giọng mà đã quen với lối nói bóng nói gió trơn tru, vốn dĩ đầy tự tin, và mới đó vài giây còn thoáng run nghẹn bởi sự đe dọa gần kề của các sự việc rất thực tiễn cuộc sống. Thế là chúng tôi thong thả rảo bước quay về, hai kẻ ăn mặc gọn ghẽ, được nuôi nấng no đủ, tư thế chỉnh chu, hai trí thức thường thường bậc trung, trạc ngoại tứ tuần, quan điểm trung lưu, hai kẻ sống sót theo hai kiểu riêng của mỗi người, hai kẻ vẫn đang tiếp tục sống, hai kẻ đã chết một nửa, và trò chuyện, về những gì có thể trò chuyện, giữa hai kẻ trí thức và hoàn toàn vô bổ. Chúng tôi thảo luận, một cách ôn hòa, nhạt phèo, tại sao không thể tồn tại; bản thân sự tồn tại của cuộc sống, nói cho cùng là một sự vô lại, bởi vì, từ góc độ cao hơn, trong ý nghĩa cao hơn, không được phép tồn tại, đơn giản vì các sự kiện cứ lặp đi lặp lại, ta hãy bằng lòng như thế, lý do để ngao ngán có đủ; chưa nói đến việc đã từ lâu, những tư tưởng tân tiến hơn cũng không cho phép đồng nhất sự hiện diện với sự tồn tại. Chúng tôi đề cập – tất nhiên, tôi không thể nhớ ra tất cả, bởi có hàng trăm đề tài tương tự, vang lên, đúng hơn là kêu boong boong từ cuộc nói chuyện lộn xộn và vô tình này, như một ngàn đêm yêu đương hồi sinh từ quên lãng, với bậc vua chúa, trải dài bằng duy nhất một ý nghĩ sáng tạo – quả thật, tôi không nhớ ra tất cả, nhưng tôi tin: có chăng – toàn bộ bộc lộ vô thức hướng về sự hiện diện của tồn tại, khác xa dấu hiệu của nỗi ngây thơ vô vị, nói như vậy hơi quá, và thực ra không tồn tại – trái lại, đây là triệu chứng cho thấy cần phải tiếp tục, cần diễn biến một cách vô thức, nếu mọi giá cần phải tiếp tục. Và, nếu khả năng sống sót không thành công, điều mà tất nhiên ở mức độ cao hơn (tiến sĩ Obláth), lúc đó không chỉ những biểu hiện mơ hồ được bộc lộ, mà thậm chí sự trái ngược của nó cũng phơi bày, rơi vào vô thức một cách rõ ràng…và tiếp tục, sự vô thức này được biết đến như những nỗi phân tâm… Nhưng, theo những điều trên, để đạt đến sự cảm nhận của nhân loại (tôi) và sự hiện hữu của nó (tiến sĩ Obláth), là trạng thái mà nhân loại luôn cố gắng vươn tới, là niềm tin, là nền văn hóa, và những nghi lễ khác, ngày nay thuần túy là một tai họa… Vì vậy, chúng tôi lại tiếp tục, tiếp tục thổi tiếng kèn đồng lạc điệu, giữa lúc sương mù xanh mỏng hoàng hôn bắt đầu phủ kín ngọn những rặng cây cao đứng sừng sững, che kín một đám đông đang ẩn náu trong khu nghỉ mát, như mầm cây chen chúc dưới lòng đất sâu, nơi bàn đã phủ khăn và bữa tối đang chờ đợi, dao dĩa kêu leng keng, cốc tách chạm nhau tanh tách, đám đông đó đang trò chuyện rì rào, từ nơi đang diễn ra sự thật trần trụi này, tiếng kèn đồng lạc lõng cũng vang lên; vì không thể tự phơi bày bản thân, cuối cùng tôi cũng không rút lui, để thoát khỏi tiến sĩ Obláth: có trời biết tại sao, từ sự trống rỗng, che đậy bằng nỗi bị thôi miên và lối chuyện trò bắt buộc, tôi luôn luôn cảm thấy buồn phiền (kinh tởm), tôi ở lại đến cùng với ngài tiến sĩ để khỏi nghe, khỏi thấy, khỏi nói về điều cần nói, thậm chí, ai mà biết được, cần viết. Đúng thế, và màn đêm đã trừng phạt – hay tặng thưởng?, – vì tất cả những điều này, mang đến một bước ngoặc, một cơn giông bất ngờ ập đến, những tiếng sấm rền trên bầu trời, và chớp giật từng hồi, từng hồi, khắp vũ trụ, rồi lắng xuống, rõ ràng, khúc chiết, ít nhất đối với tôi, những chữ cái rành rọt xuất hiện, và… "Không!” – tôi nói, bởi vì quá tất yếu, những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại bản năng, có thể nói, những bản năng chống đối của chúng ta hoạt động thay những bản năng thuần tính. "Không!” – một cái gì đó tru lên, rền rĩ trong tôi, ngay lập tức, chính lúc đó, nỗi ca thán đã gọt rũa, sau rất nhiều năm trôi qua, biến thành nỗi đau da diết, câm lặng, khi chưa qua đi, nó âm ỉ và nhức nhối, như một căn bệnh đang ủ, khắc vào trong tôi một câu hỏi – rằng, con sẽ là một cô bé mắt đen chăng? xung quanh chiếc mũi bé nhỏ của con sẽ là những chấm tàn hương mơ hồ chăng? Hay con sẽ là một cậu bé bướng bỉnh? Đôi mắt vui tươi và ngỗ ngược của con sẽ giống như những viên sỏi xám nhỏ xinh chăng? – đúng, cuộc đời của ta sẽ chính là khả năng tồn tại hiện hữu của con. Cả đêm hôm đó ta chỉ nghiền ngẫm câu hỏi này, lúc dưới ánh chớp chói lòa, khi với cặp mắt hoa lên trong màn đêm, trong khoảnh khắc nén thở, ta như nhìn thấy câu hỏi này khắc trên tường. Những câu chữ tôi viết ra trên giấy, giờ đây, cần coi như tôi đã viết ra hồi đêm, dù trong đêm, tôi sống, đúng hơn là viết, tôi đã trải qua, hay đúng hơn, những nỗi đau khác nhau của tôi, nhất là của những kỷ niệm đã vật vã (với nửa lít rượu cô nhắc). Có thể, tôi ghi bừa vài câu rối rắm vào sổ tay, vào tập giấy trắng luôn bên mình, những câu chữ sau đó tôi không thu thập lại, hoặc nếu có, tôi cũng không hiểu, rồi quên đi. Chỉ sau nhiều năm, đêm hôm đó mới sống lại trong tôi, để sau nhiều năm nữa, giờ đây tôi thử ghi lại, những gì đáng lẽ lúc ấy tôi phải viết ra, vì một đêm quá ngắn ngủi, với những gì cần viết, nếu tôi định viết. Nhưng sao viết được, bởi đêm hôm đó mới là sự mở đầu, có thể không phải sự mở đầu sớm nhất, nhưng chắc chắn là một trong những bước đi đầu tiên của nỗi tỉnh ngộ chín chắn, hay đúng hơn, sự sám hối lâu dài, ai mà biết, dài đến bao giờ, là nhát bổ đầu tiên để đào nấm mồ, cho bản thân tôi – không còn nghi ngờ gì nữa – tôi sẽ trải giường vào những đám mây. Câu hỏi này – cuộc đời của ta chính là khả năng cho sự tồn tại hiện hữu của con – có vẻ đi đúng hướng, đúng vậy, như thể bằng bàn tay bé bỏng, mảnh khảnh, con dắt, kéo ta đi trên đường, mà tận cùng đường chẳng dẫn đến đâu, cùng lắm dẫn đến sự nhận biết vô ích và không thể thực hiện được của bản thân, con đường chỉ đẩy lùi những trở ngại và chướng ngại vật mới tiếp tục tiến bước. Cái gì "có thể?” thậm chí "cần!” không mang ý nghĩa gì hết. Đầu tiên, phải chặn đứng cái thể chất trí thức bậc trung của tôi lại, phải dứt tận gốc rễ, kể cả khi thể chất này, chỉ được tôi sử dụng như bao cao su tránh thai, như thể tôi là một kẻ tình dục bừa bãi, cần thận trọng trong môi trường chứa bệnh AIDS. Chính xác hơn, tôi đã như vậy, bởi từ lâu, tôi không còn là một trí thức bậc trung, tuyệt đối không phải là một trí thức, tôi chẳng là cái gì, tôi sinh ra làm một con người tự thân, ngài J.W.G. từng nói thế, tôi là một kẻ sống sót tự thân, tôi nói, cùng lắm là nhà dịch thuật, đại loại như thế, một khi tôi đã xuất hiện và cần phải tồn tại. Là gì đi nữa, trái với hoàn cảnh đe dọa này, tôi đã tẩy hết thể chất đáng hổ thẹn của một nhà văn Hung thành đạt trên mình, vợ tôi (người từ lâu đã là vợ kẻ khác) bảo: mọi đặc tính của anh đều toát lên thể chất đó (lúc đó, khiến tôi hơi hoảng), nàng không bảo, vợ tôi nói, tôi phải từ bỏ những quan điểm nghệ sỹ, hoặc gì gì của tôi đi, nàng chỉ bảo, vợ tôi nói, tôi đừng tự ti như thế, có nghĩa là nếu anh càng (từ bỏ những quan điểm nghệ sỹ, hoặc bất kỳ lí thuyết gì) anh sẽ càng phải quan tâm đến nó, nghĩa là rốt cuộc, anh phải tự thực hiện bản thân mình, tóm lại phải đạt được thành công, vợ tôi bảo, bởi vì ai cũng cố gắng đạt điều ấy, kể cả nhà văn vĩ đại nhất thế giới, anh đừng tự lừa dối mình, vợ tôi nói, nếu anh không thích sự thành công, thì anh viết để làm gì cơ chứ? nàng hỏi, thật là một câu hỏi độc đáo, nhưng lúc đó tôi chưa có dịp lảng tránh; điều đáng buồn, có thể nàng đã nhìn thấu ruột gan tôi, có thể nàng nói hoàn toàn đúng, có thể tôi có – đã từng có – đủ tư chất, xứng với thể trạng đáng hổ thẹn của một nhà văn Hung thành đạt, tôi có – đã từng có – khả năng bẩm sinh. Nếu không có , tôi phải tạo ra – cần tạo ra, để toàn bộ nỗi do dự và sợ hãi sinh tồn của tôi, có thể biến thành sự ngưỡng mộ bản thân giản dị, mù quáng, không giới hạn, đầy say mê, nếu không đầy lôi cuốn, chí ít cũng hoành tráng, nếu tôi biến nó thành bệnh hoang tưởng đạo đức, và thành một chiến dịch kết tội liên tục, chống những người khác; Mời các bạn đón đọc Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời của tác giả Imre Kertesz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký Vũ Trụ Của Ion Lặng Lẽ
Tên eBook: Nhật ký vũ trụ của Ion Lặng Lẽ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Xtanixlap Lem Thể loại: Tiểu thuyết, Viễn tưởng, Văn học Ba Lan Dịch giả: Đoàn Tử Huyến và Hiếu Trang Nhà xuất bản: NXB LENIZDAT  Hiệu đính: hathanh725  Nhà xuất bản: NXB Khoa học và kỹ thuật Hà nội Tạo prc: Nguyễn Kim Vỹ  Nguồn: vnthuquan.net Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Tiếp theo các tập sách Cuộc thử thách trí tuệ, Thực nghiệm cuối cùng, Máy thời gian, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc tác phẩm Nhật ký vũ trụ của Ion Lặng Lẽ của Xtanixlap Lem, nhà văn Ba Lan chuyên viết truyện giả tưởng khoa học nổi tiếng thế giới.  Cũng như các tác phẩm chính khác của Lem - Địa đàng, Soliaris, Bất khả chiến thắng..., Nhật ký vũ trụ của Ion Lặng Lẽ đề cập đến những vấn đề cấp thiết của thời đại chúng ta, thông qua các dự đoán khoa học táo bạo và nội dung triết lý sâu sắc. Tuy nhiên, về hình thức, Nhật ký vũ trụ của Ion Lặng Lẽ là một tác phẩm hết sức độc đáo, được viết theo thể du ký, vừa mang yếu tố hài, vừa mang yếu tố viễn tưởng khoa học. Bằng trí tưởng tượng vô cùng phong phú, dựa trên cơ sở những hiểu biết về khoa học kỹ thuật và văn hóa xã hội hiện tại, tác giả dẫn dắt chúng ta theo các chuyến bay của Ion Lặng Lẽ đến với các nền văn minh khác nhau trong vũ trụ. Là sản phẩm của trí tưởng tượng không biết đâu là cùng của tác giả, các thế giới được phản ánh đó thật muôn màu muôn vẻ, thậm chí còn có vẻ khó chấp nhận nữa, nhưng suy cho cùng thì đó đều là những hệ quy chiếu giúp chúng ta nhìn nhận lại nền văn minh Trái Đất một cách tỉnh táo và đúng mực hơn. Cũng vậy, những tình huống hài hước được tạo ra trong các chuyến bay của Ion Lặng Lẽ không phải chỉ nhằm mục đích giải trí đơn thuần, mà bao giờ cũng gắn liền với những hiện tượng xã hội và các biểu hiện tâm lý không lấy gì làm hay hớm nhưng lại khá phổ biến trong con người chúng ta, để qua đó phê phán và cảnh báo những thói hư tật xấu trong đời sống thường ngày (thói đùn đẩy việc, sự lãng phí thời gian vào các cuộc họp hành vô bổ, chủ nghĩa giáo điều trong khoa học, tệ quan liêu, thói nệ sách vở v.v...). Một vấn đề lớn khác mà tác giả rất quan tâm, đó là tệ nạn sử dụng và khai thác bừa bãi hành tinh chúng ta, mà kết quả tất yếu là sự hủy hoại và ô nhiễm môi trường ngày một trầm trọng, được đề cập đến với một mối lo ngại xác đáng trong "Bức thư ngỏ của Ion Lặng Lẽ". Chỉ riêng với phần này, tác giả đã tỏ ra là một nhà sinh thái học đi trước thời đại (nên nhớ là cuốn sách được viết ra từ năm 1957).  Nhật ký vũ trụ của Ion Lặng Lẽ, ngoài "Lời nói đầu" và "Bức thư ngỏ của Ion Lặng Lẽ", bao gồm cả thảy sáu cuộc phiêu lưu khác nhau của Ion Lặng Lẽ trong vũ trụ. Các cuộc phiêu lưu đó có thể nói là hoàn toàn độc lập đối với nhau, trong đó "Cuộc phiêu lưu thứ hai mươi tám" là một chương khá rắc rối, tác giả kể về lai lịch của dòng họ Lặng Lẽ với rất nhiều chi tiết khó theo dõi. Xét thấy đó là những vấn đề không thật phù hợp với trình độ bạn đọc phổ thông, nên chúng tôi mạn phép không giới thiệu trong lần xuất bản này.   Rất mong được các bạn cho ý kiến đóng góp. 
Khu Vườn Mùa Hạ - Kazumi Yumoto
Tên eBook: Khu vườn mùa hạ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Kazumi Yumoto Thể loại: Tiểu thuyết, Sách thiếu nhi, Văn học Nhật bản Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển (gram): 220 Kích thước: 12 x 20 cm Dịch Giả: Nguyễn Thanh Hà Số trang: 232 Ngày xuất bản: 03-2014  Hình thức: Bìa Mềm Giá bìa: 50.000 ₫ Nguồn: Romance Book Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Chắc rằng nhiều người trong chúng ta đã trải qua một tuổi thơ với đầy những thắc mắc mà người lớn luôn bảo rằng "Khi lớn lên con sẽ hiểu," hoặc họ sẽ nói đại khái một điều gì đấy mà chúng ta chẳng kịp nhớ và hiểu. Ba cậu học sinh lớp 6 (học sinh cuối cấp ở một trường tiểu học Nhật Bản) cũng có những thắc mắc về cuộc sống, về những điều mà có khi sống gần trọn cuộc đời người ta vẫn chưa hiểu nổi. Bọn nhóc cứ mãi loay hoay suy nghĩ: Chết thực ra là như thế nào và liệu có thế giới dành riêng cho người chết không? Bị ám ảnh bởi những hồn ma và cuộc sống sau cái chết của bà một người bạn, ba đứa trẻ lên kế hoạch làm thám tử, theo dõi một cụ già sống trong một căn nhà tồi tàn, biệt lập nơi cuối phố mà chúng cho là cụ có thể là đã chết hoặc ít ra cũng sắp chết. Kế hoạch thất bại. Nhưng nhờ thế mà chúng lại có người bạn mới - một người bạn lớn thực sự và cùng chúng tạo ra mùa hè không thể quên. Họ - một người già cùng với ba đứa trẻ đã cùng nhau chia sẻ niềm vui, nỗi buồn về con người, về cuộc sống xung quanh, về những sinh hoạt bình dị thường nhật theo đúng tâm hồn, tính cách Nhật, vừa thơ bé vừa già dặn. Câu chuyện, theo đúng như tựa đề, Khu Vườn Mùa Hạ, bắt đầu vào cuối mùa xuân và đầu mùa hạ, xoay quanh tình bạn kì lạ giữa bộ ba học trò và cụ già cuối phố. Wakabe, sống chung với mẹ trong chung cư và luôn khao khát một người bố, là một cậu bé khá kích động và hơi kì dị. Yamashita mập mạp nhưng tốt bụng, hiền lành, là con của một ông chủ tiệm cá và luôn mong muốn lớn lên như cha mình - trở thành một người chủ tiệm cá, dù mẹ cậu chẳng mấy ủng hộ. Nhân vật tôi, Kiyama, lại sống trong một gia đình khá phức tạp, bố cậu cứ mãi đi làm và mẹ cậu bé thì suốt ngày chìm ngập trong thuốc lá, rượu chè nhằm trốn tránh thực tại. Và một ông cụ không tên, gầy đét, đầu hói, thường mặc áo sơ mi màu nâu, đeo thắt lưng to để có thể mặc được cái quần rộng lùng thùng màu xám tro, đi giày thể thao giống học sinh tiểu học. Cụ sống tách biệt với mọi người, chẳng nói chuyện với ai và dường như cũng chẳng ai buồn nói chuyện với cụ. Câu chuyện được kể một cách rõ ràng, yên tĩnh. Từ trò chơi thám tử, bọn nhóc vô tình bước vào cuộc sống của ông cụ lúc nào không hay. Và ông cụ cũng chính là người giúp bọn trẻ hiểu được những thắc mắc của mình. Các cậu bé giúp ông cụ đổ rác, sửa nhà, trồng hoa, giặt và phơi quần áo… Bù lại chúng được ông cụ dạy gọt lê, viết chữ Hán, và trên hết chúng hiểu được rằng việc già đi, lưng còng xuống, mặt nhiều nếp nhăn cũng mang nhiều ý nghĩa. Bọn nhóc đã trưởng thành từng ngày. Kiyama, từ một đứa lúc nào cũng nghĩ mình hơi yếu thật nay đã dám đương đầu đánh nhau với một đứa trẻ khác để bảo vệ bạn mình, ngăn cản mẹ không uống rượu và tự tay gọt những trái lê ngọt ngào nhất cho mẹ. Yamashita đã không còn cảm thấy mặc cảm về thân hình quá khổ của mình, không còn cảm thấy tự ti về ước mơ trở thành ông chủ cửa hàng bán cá nữa. Wakabe đã có thể nói thật với mọi người về cha mình, không phải là một người lính cứu hỏa hay một thám tử như cậu hay kể… mà là ông ấy đã có một gia đình và những đứa con khác. Mỗi cậu bé có một tính cách, hoàn cảnh khác nhau nhưng qua mùa hè ấy, bọn nhóc đã thay đổi và có những bài học cho bản thân mình. Đó có thể là việc chấp nhận một người khác, một sở thích trái ý mình, đó có thể là sự dũng cảm vùng dậy hay định đoạt một ước mơ, hay chí ít là cũng có thể là đi tiểu một mình trong đêm. Ông cụ cũng đã thay đổi. Từ chỗ chỉ ngồi nhà xem tivi, ăn những thức ăn nhanh, ông đã cùng bọn trẻ dọn dẹp nhà cửa, vườn tược, đi chợ mua thực phẩm tươi bổ sung. Thời gian ông cụ, nhân vật đi suốt chiều dài câu chuyện không hề được nêu tên ấy, thực - sự - sống cũng chỉ ngắn ngủi như thời khắc bông pháo hoa bung xòe trên bầu trời mùa hạ, nhưng nó đủ sức làm bừng sáng cả câu chuyện. Ông cụ giống như những bông cúc cánh bướm nở trái mùa, dù thân cây có ngắn hơn, mảnh dẻ hơn nhưng vẫn vượt qua gió bão để trổ cành đâm lá. Kết thúc câu chuyện, khi mùa hạ đi qua nhường chỗ cho mùa thu, khi khu vườn ngập tràn những  cánh hoa, ông cụ đi xa mãi mãi thì bọn trẻ cũng không gặp nhau nữa. Nhưng cả bốn đều không tiếc nuối, vì ai cũng tìm thấy một nơi để neo đậu trong cuộc đời mình. Bọn trẻ đã hiểu thế nào là cái chết, điều mà chúng đã cố tìm hiểu trước đây, đồng thời lần đầu tiên cả đám thấm thía nỗi buồn khi mất đi người thân. Bọn trẻ đã không còn thấy sợ hãi về thế giới bên kia nữa vì trong thế giới đó có người quen của bọn trẻ ở đó, và điều đó chẳng phải là động viên tụi nó hay sao? Cuộc sống này còn nhiều niềm vui đang chờ đón ta từng ngày, đơn giản chỉ như việc chờ đợi một bông hoa nở, xem pháo hoa nở giữa bầu trời mùa hạ, kể hàng tá câu chuyện không đầu không đuôi với một người sẵn lòng lắng nghe mình. Cuộc sống dù ngắn ngủi nhưng nếu ta biết tận dụng nó thì nhất định ta sẽ hạnh phúc Cuốn sách có vẻ như là dành cho con nít khi viết về những cậu học sinh, thế nhưng cuốn sách cũng có những suy nghĩ rất người lớn. Đây không phải là cuốn sách dành cho trẻ con, cũng không phải là dành cho người lớn, mà nó là cuốn sách dành cho mùa hè. Truyện không ủy mị, gai góc, nội dung đơn giản những lại không hề dễ đọc, có lẽ là do cách diễn đạt của người Nhật. Những trang viết luôn bừng lên những cảm xúc đẹp đẽ, lạ lẫm của từng nhân vật, có những lập dị nhưng đáng yêu vô cùng, có những ngẫm nghĩ trẻ thơ nhưng chẳng hề ngây ngô. Những tưởng mùa hè năm lớp Sáu sẽ trôi đi trong êm ả, Kiyama, Yamashita và Wakabe đều không ngờ chúng đang đứng trước ngưỡng của cuộc đời. Cuộc gặp gỡ với "ông cụ", người suốt câu chuyện không hề được nêu tên, đã đem đến cho ba đứa trẻ một tình bạn kỳ lạ. Có lẽ, đó là lần đầu tiên chúng kết bạn với người lớn, và đó là một mối quan hệ bình đẳng theo đúng nghĩa. Ba đứa giúp ông sửa nhà, chăm sóc vườn hoa, giặt và phơi quần áo... bù lại chúng được ông dạy gọt lê, dạy học chữ Hán, và trên hết, chúng học được rằng việc già đi, lưng còng xuống, mặt nhiều nếp nhăn cũng mang ý nghĩa. Ba đứa trẻ dần phải tự đối mặt với những thắc mắc của chính bản thân chúng về cuộc sống, những điều mà, có khi sống gần trọn cuộc đời người ta vẫn chưa hiểu nổi.   Tác giả Kazumi Yumoto   Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Mời các bạn đón đọc Khu vườn mùa hạ của tác giả Kazumi Yumoto.
Thanh Gươm Huyền Bí
Thanh Gươm Huyền Bí (Con Dao Kì Ảo) - The Subtle Knife là phần 3 trong 6 phần của bộ His dark materials, được xuất bản tại Việt Nam dưới tên gọi Chiếc la bàn vàng, là bộ truyện của tác giả người Anh Philip Pullman, viết về chuyến phiêu lưu của hai đứa trẻ mới lớn Lyra Belacqua và Will Parry xuyên qua một chuỗi các thế giới song song đan xen nhau dựa trên nền của những sự kiện huyền thoại. Câu chuyện được thêm thắt bởi những yếu tố tưởng tượng như phù thủy hoặc gấu bắc cực mang giáp, bên cạnh một lượng kiến thức rộng lớn từ nhiều lĩnh vực khác nhau như vật lý, triết học, thần học và tâm linh học. Nếu bạn từng đọc qua và yêu thích những tác phẩm mang màu sắc kỳ bí, huyễn hoặc, những cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm, thì bộ truyện này quả thật không nên bỏ qua. Câu chuyện trong Thanh Gươm Huyền Bí - The Subtle Knife quay sang nhân vật chính thứ 2 của chúng ta, cậu bé Will. Lớn lên trong hoàn cảnh cha mất tích, mẹ thần trí không bình thường, bản thân cậu phải trở thành 1 đứa trẻ già dặn trước tuổi. Cuộc sống cứ trôi lặng lẽ cho đến 1 hôm nọ, nhà cậu bỗng xuất hiện những kẻ đột nhập lạ mặt. Trong lúc xô xát cậu đã không may làm chết 1 trong số kẻ đó. Tình cờ khi bỏ trốn cậu lại phát hiện 1 ô cửa sổ nhỏ lơ lửng giữa không khí, chính là cánh cửa dẫn sang 1 thế giới khác, nơi những điều kỳ lạ cùng 1 người mà chúng ta đã rất quen thuộc ở phần trước đang chờ đón cậu. 1 cuộc phiêu lưu mới lại mở ra trước mắt. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... --- “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian --- Tác giả PHILIP PULLMAN Sinh ra tại Norwich vào năm 1946, Philip Pullman là một nhà văn nổi danh thế giới. Các tiểu thuyết của ông đã giành được mọi giải thưởng lớn dành cho truyện thiếu nhi cũng như cho thanh thiếu niên, và hiện cũng nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất dành cho người lớn. Bộ ba VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI đã đứng thứ ba trong cuộc thi “Big Read” của đài BBC năm 2003 để tìm ra cuốn sách được yêu thích nhất trên toàn Anh Quốc. Vào năm 2005, ông được trao tặng Giải Tưởng niệm Astrid Lindgren – giải thưởng lớn nhất thế giới cho văn học thiếu nhi. Philip đã kết hôn, có hai con đã trưởng thành, ông hiện sống ở Oxford. --- Giải thưởng đã được trao tặng cho bộ sách: Huân chương Carnegie (1995) Guardian Children’s Fiction Prize (1996) ALA Best Books for Young Adults (1997) ALA Notable Books for Children (1997) Đề cử Lincoln Award (2005) Carnegie of Carnegies (2007) ALA Best Books for Young Adults Publishers Weekly Best Book of the Year Parents’ Choice Gold Book Award Book Links Best Book of the Year Horn Book Fanfare Honor Book Blue Ribbon Book British Book Awards Whitbread Book of the Year ALA Best Book for Young Adults Chung khảo Man Booker Prize --------- VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI đã có tập 1 được chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 2007 với tên gọi LA BÀN VÀNG, toàn bộ series sách sẽ trở lại màn ảnh nhỏ vào cuối năm 2019, trong series phim truyền hình do HBO và BBC sản xuất. Mời các bạn đón đọc Thanh Gươm Huyền Bí (Con Dao Kì Ảo) - The Subtle Knife của tác giả Philip Pullman!
Lời Chúc Phúc của Odin tập 3
Tên eBook: Nỗi nhung nhớ của Odin (full prc, pdf, epub)   Tác giả: Thiên Lại Chỉ Diên Thể loại: Kỳ ảo, Huyền huyễn, Tiểu thuyết, Văn học phương Đông Bộ sách: Lời chúc phúc của Odin (Tập 3)   Người dịch: Nhạn   Kích thước: 14.5 x 20.5 cm   Số trang: 552   Ngày xuất bản: 25/10/2014   Giá bìa: 115.000 ₫   Công ty phát hành: Bách Việt   Nhà xuất bản: NXB Văn Học   Tạo prc: Bacha   Nguồn: EbookFun&Free -  fb.com/groups/eb.fun.free   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu:  Dù giữa hai chúng ta vĩnh viễn bị ngăn cách bởi một dòng sông lịch sử, bỏ lỡ nhau rồi thì có làm sao. Nếu như có thể cảm nhận được sự tồn tại của đối phương, gửi gắm nỗi nhớ nhung đơn sơ bình dị nhất, thì sẽ hệt như chưa từng có cuộc chia ly.   Tuy không có cách nào để chạm vào chàng, để nhìn thấy chàng, nhưng cuối cùng, sự nối liền về linh hồn khiến ta không còn gì tiếc nuối.   Người yêu say đắm trong quá khứ, không khí vây quanh trong hiện tại, trong tương lai, chàng nhất định sẽ làm bạn cùng ta đi hết cuộc đời này.   ...   “Kiếp trước kiếp này - Tình yêu đã là số mệnh  Ba ngàn năm trước. Hỏa thần làm phản thiêu rụi hết những vinh quang của thần giới  Ba ngàn năm sau. Các vị thần hồi sinh; người đời chợt hỏi:  Ngươi là ai? Ai lại là ngươi?  Chuyện ngày xưa cũ, cũng chỉ vì tình yêu mà ra  Gặp Loki, dường như có vận mệnh chỉ đường, dẫn nàng tiến về phía trước  Đêm trước ngày hôn lễ, người con trai trong giấc mộng hiện ra  Ai là thần tình yêu? Odin lại ở đâu? Ký ức ùa về,những  yêu hận, ân oán luân hồi, mang theo “Ragnarok” thổi quét tới  Khi mọi chuyện lộ ra chân tướng  Lưu giữ trí nhớ kiếp trước hay dừng lại với những ấm áp của kiếp này  Cả đời này, đêm đêm cùng nàng gặp nhau trong mộng, tới cùng là Odin, vẫn là hồi ức bất diệt của Người?”  Đột nhiên đến một ngày, xưởng rèn bé xíu của Ena nhận được một mối làm ăn cực lớn: Làm một đôi bao tay trong truyền thuyết cho vị Ma Đạo Sư bậc nhất của dân tộc mình - Lando.Từ đây, cô bị cuốn vào chuyến phiêu lưu đến những vùng đất kì lạ để tìm nguyên liệu làm chiếc bao tay, cũng dần khám phá ra cũng cung bậc cảm xúc mới lạ với người con trai mình vẫn tôn thờ kia. Trải qua nhiều sóng gió, cô và Lando đã thấu hiểu được nhau, và tưởng như một lễ đính hôn sẽ là kết cục hoàn mỹ nhất cho cô thợ rèn nhỏ bé phố Idunn. Nhưng trong đêm trước lễ đính hôn, người đàn ông vẫn ám ảnh cô trong vô số những giấc mơ từ tấm bé đã xuất hiện trong một ngày gió tuyết - đế vương Shujin của tộc Aesir.  Kể từ lúc đó, mối yêu hận kéo dài cả ngàn năm của Ena, Lando và Shujin lại một lần nữa  bắt đầu... Ai cũng không ngờ tới, không lâu sau, cả ba người đều sẽ phải thức tỉnh từ thân phận kiếp này, nối tiếp ân oán trong kiếp trước, mở màn cho cuộc chiến quyết định sinh tử tồn vong cho thế giới này.  Trên nền bối cảnh cuộc chiến bất tận giữa Thần tộc và người Khổng Lồ, xuyên suốt bởi lời chúc phúc kéo dài cả nghìn năm cùng những yêu hận liên miên không dứt... Cuối cùng số phận của những vị thần sẽ kết thúc tại đâu? Tác giả Thiên Lại Chỉ Diên Nổi tiếng với những tiểu thuyết huyền huyễn, có nhiều tác phẩm với những đề tài thần thoại, kỳ ảo, cổ phong được nhiều người yêu thích. Thích viết về những thế giới hoàn toàn mới và hết sức phát huy trí tưởng tượng, về tình yêu vượt qua không gian và thời gian. Từ năm 2005, Thiên Lại Chỉ Diên bắt đầu có những tác phẩm đăng trên mạng văn học Tấn Giang. Tác phẩm được Nanubooks xuất bản: Lời chúc phúc của Odin (3 tập) Tập 1: Hỏa thần sống lại - tải eBook Tập 2: Valhalla - cung điện bị lãng quên - tải eBook Tập 3: Nỗi nhung nhớ của Odin - tải eBook Cuộc sống là như thế, chúng ta thường sẽ vì một mục tiêu mà dốc sức theo đuổi, đuổi theo rất xa, tới khi kiệt sức mới phát hiện thứ đang đợi mình ở đích đến từ lâu đã chẳng phải thứ khi xưa mình muốn nữa. Mời các bạn đón đọc.