Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện

Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. ------------- Lisa Wingate là một cựu nhà báo, diễn giả truyền cảm hứng và là tác giả của hơn 30 tác phẩm bán chạy nhất của New York Times. Các tác phẩm của cô đã giành được nhiều đề cử cho các giải thưởng danh giá như Pat Conroy Southern Book Prize, Oklahoma Book Award, Carol Award và Christy Award. Bí ẩn trong Cô nhi viện là tác phẩm thành công nhất của Lisa Wingate với hơn 1,5 triệu bản in được bán và là tác phẩm nằm trong danh sách sách bán chạy nhất của New York Times suốt hơn một thời gian dài. Tác phẩm đã được xuất bản tại hơn 35 quốc gia trên toàn thế giới. *** Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là truyện hư cấu liên quan đến đường dây buôn bán trẻ và nhân vật tai tiếng là Georgia Tann, tuy nhiên, ban đầu mình cảm tưởng sẽ có kịch tính và phơi bày mặt tối của cô nhi viện Tennessee hay ít nhất là đời sống bí mật của Georgia Tann theo góc nhìn của Rill, nhưng thay vào đó chỉ là hình ảnh hồi tưởng nỗi buồn da diết về Arcadia, đảo bùn, Camellia, và phân chương chẵn là của bà May và lẻ là của Avery. Ở góc độ nào đó Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của Lisa Wingate nhẹ nhàng, giảm tải góc tối của cô nhi viện Tennessee, đơn giản mọi thứ tình tiết – thẳng chừng mà nói tình tiết có phần nhanh – việc tàn bạo và đối xử tệ bạc là điều luôn hiện thực không thể phủ nhận được, nhưng trong Rill và đàn em bị bắt cóc là một tấn bi kịch xảy ra rồi. Nó là nỗi ám ảnh kinh hoàng, và là nỗi đau da diết khi rời xa gia đình trong thời thơ ấu, rồi chứng kiến mọi thứ diễn ra trong cô nhi viện có thể gây ra điều gì đó tệ hơn bao giờ hết.Bi kịch xảy ra Hình ảnh Rill cuối cùng trước khi rời nhà thuyền Arcadia là ông bố dẫn mẹ Queener rời đi cùng với Zede già, Rill và đàn nhóc ở lại cùng với Silas, ở một đêm tối nhà thuyền là đêm cuối cùng trước khi bị dời đi đến cô nhi viện là hình ảnh hoài niệm của Rill sau này, hình như đó cũng là dòng tâm tư của tác giả muốn độc giả nhớ lại trước khi bỏ sách xuống.Đó chỉ là giai đoạn khởi đầu của tâm bi kịch xảy ra, dù cho Rill và Fern đã quay trở lại nhà sàn Arcadia thì cũng không thể khiến cho Briny quay trở lại nhịp điệu trước đây nữa, mà khiến cho Rill càng quyết tâm rũ bỏ mọi thứ mà trở lại với cuộc sống làm con nuôi khác, thế nhưng Rill đã không còn hạnh phúc trong cuộc sống sau này bởi bà đã rũ bỏ Silas thì còn hạnh phúc gì đủ để bà hạnh phúc hơn khi ở bên mối tình đầu nhỏ nhoi ấy?Tuy nhiên Rill – thực ra mình thích tên Rill này hơn tên May, chỉ là bà đã quyết định bỏ lại tất cả mọi thứ có liên quan đến vương quốc Arcadia mà lấy tên May, đại diện cho bà hướng về tương lai, nhưng đến cuối đời bà lại hướng ngược lại dòng quá khứ, tức là bà không thể nào quên được vương quốc Arcadia có mặt đầy đủ mọi người ở đó  là Queenie, Briny, Camellia, Lark, Fern, Gabion, Silas và Zede già cùng phiêu lưu trên con sông – đã cưới ba đời chồng, thì cả ba người làm nghề khác nhau, một người làm giáo viên tượng trung cho suy nghĩ, một người làm nhà truyền giáo tượng trưng cho hiểu biết và người cuối cùng là dạy cho bà về tưởng tượng. Nhưng không một ai bằng Silas, một kiểu mối tình sâu đậm và có thể hạnh phúc trên dòng sông mãi mãi, nhưng bà lại không muốn vì sợ rằng sẽ lập lại như Briny, điên dại khi mất vợ, mất con, sống trong cái cảnh nghèo khó ấy luôn là tương lai tối mù. Giả sử bà vẫn chọn cách ở với Silas thì sao? Mọi tối tăm cùng quá khứ sẽ diễn ra, và bà mãi mãi không thể tìm được các em, mà thậm chí sống trong quá khứ mãi mãi.Tấm bi kịch xảy ra trong gia đình Rill là như vậy, có lẽ, tội nghiệp nhất là đứa bé Camellia, bướng bỉnh, ngoan cố y như ông bố Briny, và đứa em không thể tìm lại là Gabion, cùng với việc rời xa Silas, mà sau này chẳng thể nghe được tin tức gì về anh ta nữa, thật tình mà nói mình thấy xót thương cho Silas nhất, tính ra anh ta không có tương lai, lang bạc để kiếm sống và đối mặt với đám cớm. Thành thử, sau này Rill kể đã không biết tin tức gì về Silas càng làm lòng người ta vừa tò mò, vừa cảm thấy xót thương nhiều hơn.Văn phong trong truyện Văn phong Lisa Wingate mượn (nếu như mình đoán không nhầm vì đôi khi dịch giả chuyển ngữ đã mất đi phần văn phong của tác giả) theo kiểu nhẹ nhàng tối đa, và giảm tải bạo lực, mặt tối của cô nhi việc Tennessee không gây ấn tượng, ở phần nào đó chỉ nâng cao trải nghiệm cuộc sống của chị em Rill rồi được nhận nuôi cho đến khi nhận ra vương quốc Arcadia đã không còn nữa mà thôi. Do đó mình chỉ ấn tượng đến thế, về mặt nào đó ở góc tối, Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện chưa thật đủ gây ra ấn tượng nhiều hơn, chỉ ở khúc nào đó bị giam nhốt trong hầm tối là cùng lắm, hay việc Camellia biến mất chưa thật sự sáng tỏ và gây ra sự buồn bã nào đó với cái chết.Mình chỉ đánh giá cao về cuộc sống từ gia đình cho tới bị tách ra rồi đưa vào cô nhi viện, sau đó nhận nuôi, trốn thoát quay trở lại dòng sông để rồi phải quay trở về nhà ông bà nhận nuôi. Trong giai đoạn này hầu hết là giai đoạn tâm tư, nhớ nhung và thương xót, không gây ra kịch tính nào, hoặc chỉ đơn giản là phơi bày mặt tối thì không đạt, thậm chí tác giả Lisa Wingate chỉ ậm ừ viết cho nhanh cho qua giai đoạn mặt tối, nhất là giai đoạn về Rill khi trở về dòng sông, biết được Briny trở nên điên loạn vì mất Queenie, để rồi khi trời mưa, Briny cắt dây cho con thuyền đến giữa sống mặc kệ cho trời mưa xối xả dẫn đến có thể giết chết Rill và Fern. Mình thấy việc tác giả Lisa Wingate không miêu tả giỏi nội tâm nhân vật là Rill, từ đầu cho tới cuối, các bạn cũng sẽ đọc tới giai đoạn Rill nhớ nhung về bố mẹ ra sao, đau khổ khi thấy Briny ra sao, nhưng lại không hề sâu sắc và diễn tả buồn vui thế nào, Camellia đã mất, nhưng tác giả không hề nhắc tới, chỉ nhắc một lần duy nhất là Camellia thiệt mạng, về sau, không một từ ngữ tiếc thương nào về người em gái như thể nó đáng chết, và phải chết. Điều này mình cảm thấy nó có chút không được tự nhiên và tác giả miêu tả quá sơ sài – dĩ nhiên mình không chê văn phong của tác giả và trình độ, cái đáng tiếc là tác giả đã mong muốn kết thúc, càng về sau tác giả càng hụt hơi và nhanh chóng kết thúc truyện nhiều hơn là giải bày bí ẩn – hẳn nhiên sẽ có người cho rằng việc kết thúc nhanh chóng như vậy chỉ vì vương quốc Arcadia của Rill đã mất, sự thật đã phơi bày rằng Rill và Fern có quay trở lại thì không thể cứu vãn gia đình vốn dĩ đã sụp đổ trước khi cả năm đứa trẻ bị bắt cóc. Nhưng đối với mình thì việc phơi bày sự thật trần truồng như vậy còn nhẹ nhõng mà không hề gây ám ảnh sau này cho Rill về khoảnh khắc ông bố đứng trên mái nhà và chửi rủa, còn bình tĩnh như thể chuyện đó là hẳn nhiên, là cần thiết xảy ra không nên đau buồn. Đó là nỗi ám ảnh của đám trẻ bị tan vỡ gia đình cơ mà? Dù cho không bị ám ảnh thì đau buồn nó vẫn hiện diện như chuyện này đã xảy ngày hôm qua nhưng mình không hề thấy Lisa Wingate có miêu tả một sự đau đớn nào cho từng nhân vật mà chỉ đơn giản là khoảnh khắc hiện diện trước mặt là chuyện buồn rồi sẽ nhanh chóng qua trên khuôn mặt của May.Tuy nhiên mình không chê truyện Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là dở, cái dở ở trong  truyện chỉ vài điều và nó không nói lên rằng truyện không hay, có những khoảnh khắc mà Rill cùng Fern trốn khỏi gia đình nhận nuôi trở về Arcadia là khoảnh khắc chúng ta nhận ra rằng vương quốc Arcadia ấy đã không còn, đã biến mất hoàn toàn kể từ khi các chị em bị bắt đi và mẹ Queenie mất đi là lúc tâm trí của bố Briny đã biến mất, chẳng thiết tha sự sống của mình và của hai đứa con.Tóm lạiBí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là câu chuyện trong thời kỳ nạn buôn bán trẻ em, tuy nhiên chưa thật sự lột tả được sự tối tăm của con người Georgia Tann và cô nhi viện của bà ta như thế nào, chủ yếu tác giả tập trung vào Avery con của chính trị gia, khám phá ra lịch sử của gia đình mình để rồi biết được lịch sử bà nội mình, đằng sau câu chuyện nhận nuôi. Nhưng không thể lột tả trần trụi sự thật tối tăm vốn dĩ bản chất của việc này chẳng mấy sáng sủa hay ho gì, tuy nhiên, mình cảm thấy Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là chưa đủ nói lên sự bí ẩn lớn lao nào như tựa đề mang lại nên chưa thật sự hài lòng về việc tác giả đã đặt tên như vậy.Tuy nhiên, ngoài các chi tiết ấy thì mọi thứ điều ổn thỏa, nhẹ nhàng và đem lại ấn tượng về một gia đình tan nát, Rill bị bắt cóc cho đến quay trở về vương quốc Arcadia thì nhận ra sự thật rằng gia đình của Rill đã mất hoàn toàn, và rồi phải tự quyết định rũ bỏ vương quốc; nơi mà mình đã từng là công chúa, ra đi cùng với gia đình mới. Một ý nghĩa truyền tải đơn giản là gia đình của Arney, nếu như một đứa trẻ sống trong một gia đình đối xử bạo hành, có nghĩa bạn nên rời khỏi nơi đó, hoặc cứ như Rill đón nhận gia đình nuôi sau khi gia đình cũ bị tan nát, chấp nhận sự thật này rồi tương lai sẽ đón nhận điều mới của chúng ta. *** Dành tặng hàng trăm người đã biến mất và hàng ngàn người vẫn còn tồn tại. Cầu mong câu chuyện của các bạn sẽ không bao giờ bị lãng quên. Đồng thời dành tặng cho những ai từng giúp đỡ trẻ mồ côi ngày nay tìm được mái ấm vĩnh viễn. Chúc các bạn luôn hiểu rõ giá trị công việc và tình yêu của mình. "Bạn có biết rằng, ở tại vùng đất của sự tự do và ngôi nhà của lòng quả cảm này, có một thị trường buôn bán trẻ em cực lớn? Và cổ phần sang tay... không chỉ đơn thuần là những tờ giấy hứa hẹn số cổ tức tài chính nào đó, mà là những đứa bé bằng xương bằng thịt vẫn đang quẫy đạp đầy sinh khí." Trích bài Thị trường buôn trẻ em Thời báo Tối Thứ Bảy, số ngày 1 tháng 2 năm 1930 "Georgia Tann nhiều lần nói rằng trẻ em như tấm bảng trắng. Chúng được sinh ra không chút tì vết, và nếu bạn nhận nuôi chúng từ lúc nhỏ, cho chúng tiếp cận điều hay và nền giáo dục tốt, chúng sẽ trở thành con người như bạn mong muốn." Barbara Bisanta Raymond Tên trộm trẻ thơ *** Baltimore, Maryland Ngày 3 tháng 8 năm 1939 Câu chuyện của tôi bắt đầu vào một đêm tháng Tám oi ả, tại nơi tôi sẽ chẳng đời nào để mắt tới. Căn phòng tước đoạt sinh mạng ấy chỉ nằm trong trí tưởng tượng của tôi. Mất nhiều ngày tôi mới gợi nhớ được hình ảnh về nó. Bốn bức tường trắng tinh sạch sẽ, tấm vải lanh trải giường cứng đờ như chiếc lá rơi xuống vệ đường. Dãy phòng riêng được trang bị mọi thứ tốt nhất. Bên ngoài, làn gió thổi nhẹ uể oải và ve sầu kêu rộn rã trên cây cao, nơi ẩn nấp xanh tươi của chúng nằm ngay dưới khung cửa sổ. Chiếc quạt trần kêu lạch cạch trên đỉnh đầu thổi tấm màn lưới tạt vào trong, lôi kéo luồng không khí ẩm ướt chẳng buồn cựa quậy. Mùi gỗ thông thoảng nhẹ vào phòng, và tiếng gào thét thật to của một người phụ nữ vang lên khi y tá giữ chặt cô ta trên giường. Mồ hôi đầm đìa, tuôn xối xả xuống mặt và tay chân cô ta. Nếu tỉnh giấc trong tình cảnh này, cô ta sẽ sợ chết khiếp cho xem. Cô ta rất xinh. Một linh hồn dịu dàng mỏng manh. Không phải kiểu người sẽ cố tình gây ra tình huống thảm khốc này. Trong cuộc sống ngần ấy năm muôn màu muôn vẻ, tôi đã nhận ra rằng hầu hết mọi người đều cố hết sức để tự mình xoay xở. Họ không hề có ý định tổn hại bất cứ ai. Chẳng qua đó chỉ là hậu quả phụ khủng khiếp của nỗ lực để tồn tại mà thôi. Đó không phải là lỗi của cô ta, tất cả chỉ là một giọt nước tràn ly, một cú đẩy cuối cùng tàn nhẫn, không chút thương xót. Cô ta tạo ra điều cuối cùng mà bản thân mong muốn. Một sinh linh thinh lặng chào đời - bé gái nhỏ xíu có mái tóc vàng nhạt, đẹp như búp bê, nhưng lại xanh xao và im lìm. Người phụ nữ ấy sẽ không thể nào biết được số phận của con mình, hoặc giả nếu như cô ta có biết thì thuốc men cũng sẽ làm cho ký ức ấy nhạt nhòa cho tới hôm sau. Cô ta ngừng quẫy đập và đầu hàng tình trạng nửa tình nửa mê, được ru ngủ nhờ những liều moócphin và thuốc gây mê giúp cô ta đánh bại cơn đau. Cũng như giải thoát cô ta khỏi mọi thứ. Một cuộc trò chuyện đầy cảm thông diễn ra trong lúc các bác sĩ khâu vết thương và y tá dọn dẹp những thứ còn sót lại. "Thật đáng buồn khi chuyện lại xảy ra như thế. Một mạng sống thậm chí còn chưa được một lần hít thở trên cõi đời này." "Đôi khi chúng ta phải tự hỏi... tại sao... khi người ta khao khát một đứa trẻ thì..." Tấm khăn liệm được hạ xuống, che đi đôi mắt nhỏ xíu. Đôi mắt ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy gì. Người phụ nữ kia vẫn nghe được nhưng chẳng thể nắm bắt ý. Mọi âm thanh cứ lọt vào tầm nghe rồi tan biến. Như thể cô ta đang cố bắt lấy đợt thủy triều, nhưng nước lại chảy hết qua kẽ bàn tay nắm chặt, và cuối cùng cô ta đành thả mình trôi theo dòng nước. Một người đàn ông đang đợi gần đó, có lẽ là ở trong hành lang ngay bên ngoài cửa. Trông ông ta oai vệ, cao quý và không quen rơi vào tình huống bất lực như thế. Đáng lý hôm nay sẽ là ngày ông ta trở thành ông ngoại. Cảm giác mong chờ tuyệt diệu đã tiêu tan thành nỗi đau quặn thắt ruột gan. "Thưa ngài, tôi thực sự xin lỗi." Bác sĩ nói ngay khi vừa rời khỏi phòng. "Chúng tôi cam đoan rằng chúng tôi đã cố gắng hết sức làm dịu cơn đau lâm bồn của con gái ngài và cứu lấy đứa trẻ. Tôi hiểu chuyện này rất khó khăn. Xin gửi lời chia buồn sâu sắc đến cha đứa trẻ khi nào ngài liên lạc được với anh ấy ở nước ngoài. Sau khi chịu nhiều nỗi thất vọng, gia đình ngài chắc đã nuôi niềm hy vọng lớn lao như vậy." "Con bé còn khả năng sinh nở nữa chứ?" "Đó là điều không nên đâu." "Đây sẽ là dấu chấm hết cho con bé. Và cả mẹ nó nữa, một khi bà ấy biết được việc này. Ông biết đấy, Christine là đứa con duy nhất của chúng tôi. Một đứa trẻ sắp sửa chào đời... sự khởi đầu của một thế hệ mới..." "Tôi hiểu, thưa ngài." "Con bé sẽ gặp rủi ro gì nếu như..." "Mạo hiểm tới mạng sống. Và rất khó có khả năng là con gái ngài sẽ mang thai lần nữa. Nếu cô ấy cố thử thêm, kết quả có thể..." "Tôi hiểu rồi." Vị bác sĩ đưa một tay lên an ủi người đàn ông đang đau khổ ấy, hay có lẽ điều đó chỉ xảy ra trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi. Và mắt họ cứ thế giao nhau. Rồi vị bác sĩ ngoái ra sau để đảm bảo là các y tá không thể nghe thấy. "Thưa ngài, tôi có thể đề nghị một chuyện này được chứ?" Ông ta khẽ nói với vẻ nghiêm trang. "Tôi biết một người phụ nữ sống ở Memphis..." Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của tác giả Lisa Wingate & Mokona (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Thù Bí Mật - Agatha Christie
Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Đấy là một lời chúc tụng rất hay, Jane, Julius Hersheimmer nói khi anh ta đưa cô em họ về Ritz trong chiếc Rolls - Royce. - Lời chúc tụng các nhà phiêu lưu trẻ à? - Không, lời chúc tụng em ấy chứ. Không một cô gái nào khác trên đời này có thể làm được những gì em đã làm. Em thật là tuyệt vời. - Em không cảm thấy tuyệt gì cả. Trong thâm tâm, em cảm thấy chán nản và cô đơn, và em nhớ tổ quốc. - Anh cũng đang định nói với em về điều đó. Anh đã nghe thấy ngài đại sứ chuyển tới em lời mời của vợ ông ta mời em đến chỗ họ. Đây không phải là một ý tồi, nhưng anh có một dự định khác. Jane, anh muốn em hãy trở thành vợ anh. Đừng nói "không" ngay và đừng lo sợ. Anh biết rằng em chưa thể yêu anh được. Nhưng anh, anh đã yêu em ngay từ khi anh nhìn thấy tấm ảnh của em. Và bây giờ khi đã biết em, đơn giản là anh phát điên lên vì em. Nếu em bằng lòng làm vợ anh, anh sẽ không làm cho em buồn. Anh sẽ để cho em thời gian cần thiết. Cũng có thể em sẽ chẳng bao giờ yêu anh. Nếu thế, anh sẽ trả lại tự do cho em. Nhưng anh muốn có quyền được bảo vệ và chăm sóc em. - Nhưng đấy lại chính là điều mà em mong ước - Cô gái trả lời buồn bã - Em muốn có ai đó bên cạnh em. Anh không thể tưởng tượng được em cảm thấy cô đơn đến thế nào đâu! - Ồ, có chứ! Vậy thì mọi chuyện đã xong. Và ngay ngày mai, anh sẽ đến gặp ngài Tổng giám mục để ông ấy cho chúng ta một ngoại lệ. - Ôi, Julius. - Anh không muốn thúc bách em, Jane. Nhưng hoãn đám cưới của chúng ta thì thật là vô nghĩa. Đừng lo. Anh không dám mong em yêu anh ngay tức khắc. Đúng lúc đó một bàn tay nhỏ luồn vào tay cậu: - Julius, em đã yêu anh rồi. Em đã yêu anh ngay tức khắc, trong xe ô tô, khi viên đạn bay sượt qua má anh. Vài phút sau cô gái trẻ thì thầm: - Em không biết Londres lắm, Julius, nhưng đường từ Savoy đến Ritz thật sự dài đến thế à? - Còn phụ thuộc vào đường đi mà người ta chọn. - Julius trả lời không chút bối rối - Chúng ta đã đi vòng qua công viên Regent’s Park. - Ôi, Julius, anh tài xế sẽ nghĩ gì? - Vì số tiền lương mà anh trả cho anh ta, anh ta thấy tốt nhất là không nghĩ gì cả! Em biết không Jane, anh đãi tiệc ở Sovoy chỉ có một mục đích là được đưa em về khách sạn. Anh không biết làm cách nào gặp riêng em để nói chuyện. Tuppence và em bám riết lấy nhau như hai con sam. Thêm một ngày nữa là Beresford và anh, bọn anh sẽ phát rồ mất! - Ồ, bởi vì anh ấy... - Phải rồi, như một thằng điên! - Em nghi ngờ điều đó, Jane nói thêm vẻ ưu tư. - Tại sao? - Bởi vì Tuppence không nói với em! - Thế thì em thắng anh rồi. - Julius kết luận. Jane chỉ cười. Trong khi đó, những nhà phiêu lưu trẻ, cứng nhắc như công lý, trịnh trọng quá đáng và rất không thoải mái đi về khách sạn Ritz trong một chiếc taxi, không hiểu tại sao cũng đi vòng qua công viên Regent’s Park. Một nụ cười ngượng ngùng khủng khiếp làm họ co người lại. Không nhận thấy điều gì đã xảy ra, tất cả có vẻ đã thay đổi. Họ câm lặng tê liệt. Tình bạn lâu năm dường như đã bay đi đâu mất. Tuppence mất công vô ích tìm điều gì để nói. Và Tommy cũng vậy. Căng thẳng và rụt rè, họ thậm chí tránh nhìn nhau. Cuối cùng, Tuppence cố gắng một cách tuyệt vọng. - Câu chuyện cũng khá hay phải không? - Cũng khá! Lại im lặng. - Tôi rất thích Julius. - Tuppence vô tình nói. Câu đó đã kích động Tommy: - Đừng có cưới cậu ta, cô nghe chưa? Tôi cấm cô đấy. - Ôi! - Tôi cấm tuyệt đối, rõ chưa? - Anh ấy có định cưới tôi đâu. Anh ấy chỉ đề nghị tôi vì lòng tốt thôi mà. - Tôi không dám chắc thế! - Tuy vậy, đấy là sự thật. Anh ấy phát điên lên vì Jane. Tôi chắc rằng vào lúc này, anh ấy cũng đang cầu hôn đấy. - Cô ấy rất hợp với cậu ta. - Tommy đáp lại giọng thấp xuống. - Cậu không thấy là cô ấy đẹp nhất trong số các cô gái ở Londres à? - Rõ ràng rồi. - Nhưng không gì có giá bằng tiền phải không, Tommy? - Tuppence nói vờ ngây thơ. - Ôi, Tuppence, thôi đi, cậu muốn... - Tôi rất thích ông bác cậu, Tommy ạ. Cô gái trẻ nói thêm để đánh lạc hướng. À này, cậu làm gì? Cậu chấp nhận lời mời của Carter làm công chức hay cậu chọn đề nghị của Julius, chỗ làm béo bở trong một trang trại ở Mỹ? - Lời đề nghị của Hersheimmer rất có lợi cho tớ. Thế nhưng tớ sẽ ở lại đất nước thân yêu, cổ kính của chúng ta. Vả lại, cậu sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi ở Londres. - Tớ chả biết tớ sẽ làm gì ở đó. - Tớ thì biết đấy. - Có cả tiền nữa đấy. - Tuppence nhận xét giọng ưu tư và liếc nhìn chàng trai. - Tiền nào? - Carter nói rằng mỗi đứa chúng ta sẽ được nhận một tấm séc. - Cậu đã hỏi ông ấy trị giá bao nhiêu chưa? - Tommy kêu lên. - Rồi. Nhưng tớ không nói cho cậu đâu. - Tuppence, cậu thật quá đáng! - Chuyện vừa rồi thật là vui, phải không? - Tớ hy vọng rằng chúng ta sẽ còn nhiều cuộc phiêu lưu, mạo hiểm nữa... - Tuppence, cậu thật tham lam. Lúc này, tớ thấy chán rồi. - Việc mua sắm cũng khá thú vị đây - Tuppence tư lự nói - Xem nào, mua đồ gỗ cổ này, những tấm thảm phương Đông này, màn cửa băng lụa, một cái bàn đánh véc-ni cho phòng ăn và một cái đi-văng với hàng đống gối dựa! - Khoan đã, một phút thôi! Để làm gì cơ chứ? - Để dùng cho một ngôi nhà... nhưng tớ thiên về một căn hộ hơn. - Căn hộ nào? - Cậu tưởng rằng tớ ngại không dám nói ra à? Không, điều đó không làm tớ thấy xấu hố chút nào. Cho căn hộ của chúng ta. - Ôi, em yêu quý! - Tommy thốt lên và ôm cô vào lòng - Anh đã quyết định bắt chính em phải nói ra điều đó! Anh thấy cần phải trả đũa cái cách mà em đã mắng anh mỗi lần anh muốn tỏ ra tình cảm một chút! Tuppence quay mặt về phía anh: - Tommy, anh vẫn chưa thật sự hỏi em. Cái mà bà nội của chúng ta gọi là "lời cầu hôn ấy mà". Nhưng sau khi nghe chàng ngốc Julius nói điều đó, em thấy nên miễn cho anh thì hơn. - Đằng nào thì em cũng chẳng có thể làm gì khác ngoài lấy anh, vậy thì cần gì nào? - Sẽ rất tuyệt! - Tuppence đáp lời - Hôn nhân được coi là một nơi trú ẩn, lánh thân, đỉnh cao của hạnh phúc hoặc của sự gò bó và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng em, em biết rằng nó là... - Là gì? - Một cuộc phiêu lưu, mạo hiểm. - Và thậm chí là một cuộc phiêu lưu thiêng liêng! - Tommy kết luận. Mời các bạn đón đọc Kẻ Thù Bí Mật của tác giả Agatha Christie.
Giết Người Trong Mộng - Agatha Christie
Giết Người Trong Mộng là tác phẩm về nhân vật Miss Marple hay nhất của Agatha Christie. Một câu chuyện lấy quá khứ làm điểm rơi trong tương lai ám ảnh nhân vật chính một cách kỳ lạ. Bắt đầu từ đấy, những dấu ấn chập chờn vén từng chút bức màn bí mật ẩn sâu nhằm đưa những uẩn khuất phơi mình trước sự thật. Một thiên tiểu thuyết gây kinh ngạc khi đã đi sâu vào lòng quá khứ bằng sự khắc khoải của logic.  Xứng đáng để người yêu truyện trinh thám cất công giấu nó vào mộng. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** “Nhưng nghĩ lại, Gwenda, tôi không thể bỏ đi để cô em ở lại đây một mình”. Marple vừa nói. “Tôi biết còn một tên đáng sợ nữa, dù đang ở sau vườn, tôi vẫn để mắt theo dõi”. “Vậy cô đã nhận dạng đích thị là hắn ngay từ lúc đầu? Gwenda hỏi. Cả ba người, Marple, Gwenda với Giles đang ở trên sân thượng khách sạn Imperial ở vùng Torquay. “Ta dời qua điểm mới nhé’’, Marple vừa nói. Nghe xong Giles gật đầu, Gwenda thấy thích thú. Ngài thanh tra Primer nghe chịu liền, mọi người lên xe đi về Torquay. Tới đây nàng Marple mới trả lời câu hỏi của Gwenda. ‘‘Ôi, có thể nói ta sắp nhận dạng ra hắn. Khổ cái ở chỗ ta chưa có đủ bằng chứng. Mới phát hiện có dấu hiệu cho biết’’. Chưa hiểu ra sao Giles nói: "Tôi thì chưa nhìn ra được một chút nào hết". "Ô, kìa Giles, nhớ lại thử coi. Mới đầu hắn có mặt tại hiện trường". "Đó là điều chắc chắn. Lúc Kelvin Halliday tới tìm hắn ngay trong đêm đó cũng vừa lúc hắn rời khỏi bệnh viện. Thời đó nghe dân địa phương kể lại địa điểm bệnh viện nằm sát bên ngôi nhà Hillside hay còn gọi là Sainte Catherine. Vậy là ông nhận ra chưa, ta đã xác định rõ đúng người đúng chỗ. Và hơn nữa ta còn nêu ra được một ngàn lẻ một hành vi lẻ tẻ. Đã có lần Helen Kennedy kể cho Richard Erskine nghe nàng phải bỏ đi xa để lấy anh chàng Walter Fane bởi nàng ở lại nhà không được bình yên. Không bình yên, tức là phải sống chung với người anh. Bởi anh nàng lo lắng cho nàng hết mình. Vậy nói sao nàng không được bình yên? Ông còn nhớ Afflick kể lại "ông thấy thương hại cho nàng". Tôi cho là ông nói thật. Ông thấy nàng tội nghiệp. Vì sao nàng phải lén lút gặp anh chàng Afflick? Rõ ràng nàng không yêu thuơng gì anh chàng. Hay bởi vì nàng không được hẹn hò yêu đương như bao cô nàng cùng trang lứa? Người anh nàng "nghiêm khắc" và "cổ hủ". Nghe sao mà mang máng chuyện tình của ngài Barrett ở phố Wimpole". Gwenda rùng mình. "Ông ta bị ma ám", nàng nói, "bị ma ám". "Đúng thế", Marple nói. "Không được bình thường. Ông ta say mê người em gái cùng cha khác mẹ. Một thứ tình yêu bệnh hoạn, tội lỗi. Cô em chưa biết đâu, ông ta cấm không cho con gái lấy chồng, cấm luôn cả chuyện hẹn hò dan díu. Y như chuyện ngài Barrett. Lúc nghe thuật lại câu chuyện chiếc lưới căng trên sân tennis, tôi sực nhớ câu chuyện thuở trước". "Lưới đánh quần vợt? "Đúng thế, nó khiến tôi phải lưu ý. Thử tưởng tượng nàng Helen lúc còn là một cô học sinh, sau buổi học thích được tung tăng bay nhảy như bạn bè, nao nức được hẹn hò bạn trai, để được ve vãn làm dáng ..." "Y như chuyện khát tình" "Không đâu", Marple muốn nói rõ hơn. "Đấy mới là chuyện còn ghê gớm hơn cả vụ hình sự. Bác sĩ Kennedy không giết nàng như thể là hủy diệt một thân xác. Cô em chịu khó nhớ lại, chứng cứ duy nhất có thể thấy được vì sao Helen Kennedy lại có thói mê trai hay ta có thể nói đúng nghĩa của nó là gì cưng nhỉ? À đúng thế thói cuồng dâm, là do bác sĩ Kennedy mà ra. Tôi biết nàng là một cô gái xinh đẹp, và như bao cô gái khác cũng thích đùa cợt trêu ghẹo, nếu gặp phải anh chàng nào hợp nhãn tính chuyện trăm năm luôn, chỉ có thế thôi. Ta thử quay lại từng bước hành vi của người anh nàng. Phải kể ra trước, tính ông ta nghiêm khắc, bảo thủ, ngăn cấm nàng đủ chuyện. Một bữa nọ nàng gặp gỡ bạn bè trên sân tennis, một trò giải trí lành mạnh nghiêm túc, ông ỡm ờ cho người em gái gặp gỡ bạn bè, để rồi một bữa tối ông lẻn vô sân cắt xẻo bộ lưới nát bét, phải gọi đấy là một trò chơi tàn ác y như bọn ác dâm. Mặc dù vẫn nói cô em được tự do đi lại nhảy nhót chơi tennis bình thường. Nhân nàng bị vấp té trầy da, lợi dụng ông ta để cho da làm độc lâu lành. À ra thế, tôi hiểu vì sao ông bày ra cái trò đó ... Thảo nào, tôi biết mà. "Cô em nên nhớ, Helen không hẳn nhận ra mấy chuyện đó đâu. Nàng biết ông anh say mê nàng. Nàng quyết bỏ nhà đi qua bên Ấn Độ lấy anh chàng Fane may ra được thoát ly. Thoát ly khỏi cái gì đây? Nàng chưa hiểu. Tuổi thanh niên còn non dạ. Nàng bỏ ra đi qua Ấn Độ trên chuyến tàu nàng gặp rồi chịu lấy anh chàng Richard Erskine. Và lần này không như một kẻ khát tình, nàng vẫn là một cô gái nề nếp. Nàng không buộc gã phải bỏ vợ. Không, nàng không muốn. Đến khi gặp lại Walter Fane nàng không muốn làm vợ, không còn cách xoay xở ra sao nàng đánh điện cho người anh biết để xin tiền về quê. "Trên chuyến tàu trở về nàng gặp cha cô em đây, lại một lần nữa nàng mong được giải thoát. lần này coi bộ nàng sẽ được nếm mùi hạnh phúc... "Nàng lấy ông không nhằm một ý đồ xấu xa. Bởi ông vừa mới mất vợ, còn nàng hãy còn nhức nhối vì cuộc hôn nhân dang dở. Hai người vừa tìm thấy một nơi nương tựa. Tôi thấy nàng lấy được Kelvin Halliday là tốt số, sau đó giã từ London trở lại Dillmouth rồi. "Kelvin Halliday với Kennedy là chỗ thân thiết với nhau từ trước. Nghe tin Kennedy rất vui mừng. Halliday và Kennedy tìm mua một ngôi nhà khang trang ở luôn tại đó. "Giờ ta mới nói tới điểm then chốt, giả sử Kelvin bị vợ đầu độc. Có thể nêu ra đây hai giả thiết, chỉ có thể nêu tên hai nghi can trong vụ này. Hay biết đâu Helen Kennedy, chính tay nàng đã đầu độc giết chồng, mà sao vậy nhỉ? hay là thuốc độc do bác sĩ Kennedy đưa cho. Bởi Kennedy là bác sĩ riêng của Halliday, mỗi khi có đau ốm phải nhờ đến ông. Như vậy thuốc độc do chính tay bác sĩ đưa ra cho Helen". "Hay biết đâu có món thuốc nào uống vào là tưởng đâu mình đưa tay ra siết cổ vợ?". Giles hỏi lại "Tôi thấy chả có món thuốc nào hết, phải không, món thuốc gây ra một phản ứng kỳ quặc?". "Này, Giles coi chừng không khéo ông lại sa bẫy, nhẹ dạ cả tin những chuyện người ta kể. Chỉ có ông bác sĩ Kennedy mới dám nói là Halliday mắc chứng hoang tưởng thôi. Trong tập nhật ký bỏ lại không thấy ông nói tới. Ông có hoang tưởng nhưng mà không thể xếp vô dạng nào. Tôi biết chính Kennedy đã kể cho ông nghe những ngưòi thắt cổ đều mắc chứng hoang tưởng như Kelvin Halliday". "Bác sĩ Kennedy một tên tội phạm nhan hiểm", Gwenda nói: "Theo tôi", Marple nói. "Lúc đó ông không còn nhận ra mình tỉnh hay điên. Tội nghiệp cho Helen chỉ có nàng biết việc đó. Chính nàng đã thốt ra câu nói ngày hôm đó Lily nghe thấy được. "Lúc nào tôi cũng cảm thấy lo sợ vì ông". Nàng vừa thốt ra câu đó là một manh mối quyết định, nàng muốn rời khỏi Dillmouth. Nàng giục chồng mua một ngôi nhà ở Norfolk, đừng nói cho ai biết. Đấy cô em thấy một dấu hiệu khác thường. Bức màn bí mật đã được vén lên. Phải nói nàng lo sợ người khác biết chuyện, ngẫm lại hoàn toàn không khớp với giả thiết có thể nghi can là Walter Fane hay Jackie Afflick, lại càng không khớp với nghi can Richard Erskine. Không, ta phải đi tìm một nơi gần quanh đâu đây. "Cuối cùng, bị dằn vặt bởi muộn phiền lo âu, Kelvin Halliday bộc bạch với người anh vợ. Mời các bạn đón đọc Giết Người Trong Mộng của tác giả Agatha Christie.
Giây Phút Lỡ Lầm - Agatha Christie
Giây Phút Lỡ Lầm là một cuốn tiểu thuyết trinh thám do Agatha Christie viết và xuất bản lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1951, Dodd Mead and Company.  Nó chứa các tác phẩm từ những ngày đầu tiên của sự nghiệp của Christie, tất cả đều viết về viên thanh tra người Bỉ, Hercule Poirot. Tất cả những câu chuyện được xuất bản trong các tạp chí Anh và Mỹ từ năm 1923 đến năm 1926.  *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Sự có mặt thường xuyên của Poirot ở “Bến Nghỉ” có vẻ làm cho nhiều người lo ngại. Victor phản đối với chị dâu : - Tất cả những việc này thật đẹp! Chị không biết loại người như ông ta là thế nào đâu. Ông ta đã tìm thấy ở đây một chỗ ở dễ chịu, và ông ta sẽ vừa nghỉ thoải mái ở đây một tháng, vừa bắt chị phải trả nhiều đồng ghi-nê mỗi ngày. Phu nhân Reuben nhấn mạnh rằng bà đủ sức để tự mình chèo chống công việc. Lily cố gắng che giấu sự lo lắng của mình. Trước đó cô đã tin tưởng Poirot tin ở mình. Bây giờ thì cô không còn chắc chắn nữa. Thái độ của Poirot không thể làm cho mọi người yên tâm được. Năm ngày sau khi đến, ông bước xuống phòng khách để giải trí sau bữa ăn với một cuốn sổ dùng để in dấu tay. Ông ta lấy dấu tay của cả nhà một cách không tế nhị lắm. Không ai có thể từ chối việc in dấu tay của mình lên đó. Khi người đàn ông nhỏ bé ấy đã đi ngủ, Victor nói lên suy nghĩ của mình : - Chị có hiểu ý nghĩa của hành đỘng đó không, chị Reuben? Ông ta nghi ngờ một người trong chúng ta đấy. - Cậu thật ngốc, Victor ạ! - Thế thì ông ta có ý định gì với cuốn sách quỷ quái ấy? Phu nhân Reuben vừa nói vừa ném cho ông Owen một cái nhìn đấy ý nghĩa : - Ông Poirot biết rõ những gì mình làm. Một mặt khác, Poirot bày ra một trò chơi bằng cách lấy dấu giày trên một tờ giấy. Sáng hôm sau, theo như thói quen, ông rón rén bước vào phòng đọc sách làm cho Owen kinh hãi. Owen giật nẩy mình trong chiếc ghế bành cứ như phải lãnh một tràng đạn vào mông ấy. Anh ta nói với vẻ phật ý : - Xin lỗi, ông Poirot ạ, rốt cuộc thì ông sẽ làm cho tất cả chúng tôi bị đau tim mất thôi. - Sao vậy? - Ông ngây thơ hỏi. Viên thư ký nói : - Tôi phải thú nhận rằng tôi cứ ngỡ những chứng cớ buộc tỘi Leverson là rất vững chắc rồi. Nhưng hình như ông không nhất trí với ý kiến đó thì phải. Poirot đang nhìn qua cửa sổ vội quay lại ngay. - Ông Owen ạ, tôi sẽ tiết lộ với ông một điều. - Vâng. Poirot có vẻ như không định nói. Khi ông vừa lên tiếng thì có tiếng cửa ra vào mở rồi đóng mạnh. Ông nói to và rõ, mặc dù là đang tiết lộ bí mật. - Tôi muốn tiết lộ với ông điều này, ông Owen ạ, chúng tôi có một tình tiết mới cho thấy rằng khi Leverson bước vào phòng bên tháp lúc nửa đêm thì ngài Reuben đã chết rồi. Viên thư ký nhìn ông đăm đăm. - Nhưng... sự kiện nào chứ? Sao chúng tôi không được nghe nói đến? - Quý vị sắp được nghe nói đến rồi - Người đàn ông Bỉ bé nhỏ đáp với vẻ bí ẩn - Trong lúc chờ đợi chỉ có tôi và ông biết thôi nhé. Rồi ông vội vã bước ra khỏi phòng đọc sách suýt nữa thì va phải Victor : - Ông vừa về đến sao, ông Victor? - Vâng, thời tiết thật xấu, lạnh và gió nhiều. - Thế thì hôm nay tôi không đi dạo đâu. Tôi giống như một con mèo vậy, thích ngồi gần lò sưởi để sưởi ấm. Buổi tối, Poirot nói với người đầy tớ trung thành : - Mọi việc đều tốt đẹp, George ạ, họ đang ngồi trên than hồng cả đấy. Thật là khổ, anh George tốt bụng ạ, khi phải chờ đợi, nhưng các đó lại cho kết quả tuyệt vời. Ngày mai chúng ta thử nghiệm một lần nữa xem sao. Sáng hôm sau, Owen có việc buộc phải đi London. Anh ta đi cùng chuyến tàu với Victor. Họ vừa rời khỏi nhà là Poirot đã sôi nổi hẳn lên. - George ạ, hãy đến đây. Ta bắt tay vào việc đi. Nếu có cô hầu phòng nào đến gần thì hãy chặn cô ta lại. Hãy tán tỉnh cô ta bằng cách nào đó và thu xếp làm sao để cô ta đứng yên trong hành lang ấy. Thoạt tiên, ông vào phòng viên thư ký lục soát kỹ lương. Mọi ngăn kéo, mọi cái kệ đều không thoát khỏi tay ông. Rồi ông vội vàng sắp đặt mọi thứ lại chỗ cũ và tuyên bó rằng cuộc tìm kiếm của mình đã kết thúc. George, đang đứng ở cửa phòng, kính cẩn đằng hắng : - Xin lỗi, thưa ông. - Gì thế, anh George tốt bụng? - Những đôi giày, thưa ông. Hai đôi màu nâu trên kệ thứ hai còn những đôi giày da đen ở kệ dưới. Ông đã lầm, đổi vị trí của chúng khi sắp xếp lại. - Anh thật là tuyệt - Poirot nói - Nhưng đừng lo, điều đó không quan trọng, tôi cam đoan như vậy. Ông Owen sẽ không bao giờ nhận thấy những chi tiết như thế đâu. - Tùy ông, thưa ông. - Anh nhận thấy điều đó là do thói quen nghề nghiệp đấy thôi. Điều này thật đáng khen. Poirot nói với vẻ động viên. Người đầy tớ không trả lời. Vài phút sau, sự kiến đó lại tái diễn trong phòng Victor, George không nói gì nữa. Thế nhưng trong trường hợp thứ hai này, những sự việc xảy ra tiếp theo đã chứng tỏ sự sáng suốt của người đầy tớ. Thật vậy Victor lao vào phòng khách như một cơn lốc, ông ta hét lên : - Này, đồ nỡm! Đồ dân Bỉ dơ bẩn! Ai cho phép ông sục xạo vào đồ đạc của tôi? Thế là nghĩa lý gì chứ Tôi không thích vậy, ông có nghe thấy không? Chuyện xảy ra như thế đấy khi người ta chứa trong nhà mình một thứ gián điệp dơ bẩn cứ vọc mũi vào mọi chỗ! ... Mời các bạn đón đọc Giây Phút Lỡ Lầm của tác giả Agatha Christie.
Chết Trong Đêm Noel - Agatha Christie
Chết trong đêm Noel (tiếng Anh: Hercule Poirot's Christmas, dịch nghĩa: Giáng sinh của Hercule Poirot) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà sách Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh ngày 19 tháng 12 năm 1938 và được đăng ký bản quyền năm 1939. Thuộc dạng vụ án phòng kín, tiểu thuyết nói về vụ giết hại đẫm máu nhà triệu phú Simeon Lee vào đúng đêm Giáng Sinh. Nhân vật chính của tiểu thuyết là thám tử Hercule Poirot. Tiểu thuyết được chia làm 7 phần ứng với 7 ngày cuối năm từ 22 cho tới 28 tháng 12. Simeon Lee là một triệu phú làm giàu nhờ kim cương ở Nam Phi giờ sống tuổi già tàn tật tại dinh thự riêng Gorston Hall ở Longdale, Addlesfield cùng con trai cả Alfred cùng vợ của ông là Lydia. Nhân lễ Giáng Sinh, ông quyết định mời tất cả các con trai của mình cùng gia đình về đoàn tụ tại Gorston Hall. Đó là George Lee, một nghị sĩ keo kiệt sống dựa vào bố có cô vợ Magdalene kém tới 20 tuổi và David Lee, một nghệ sĩ vốn từ mặt ông Simeon đã lâu do thù ghét cách đối xử của bố với mẹ mình, David chỉ quyết định về đoàn tụ ở Gorston Hall sau khi được vợ anh là Hilda thuyết phục. Bữa tiệc Giáng Sinh nhà Lee còn có ba người khách đặc biệt là Pilar Estravados, cô bé có nửa dòng máu Tây Ban Nha, con của Jennifer, con gái duy nhất của ông Simeon, Harry Lee, đứa con hoang đàng của ông Simeon đã bỏ nhà đi từ lâu và Stephen Farr, con người bạn làm ăn của ông Simeon ở Nam Phi là Ebenezer Farr. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Ngày 28 , Tháng Chạp Lydia Lee bảo Pilar: - Cháu có thể ở lại đây cho đến khi chúng ta thu xếp mọi việc cho cháu . Cô gái thân mật trả lời: - Lydia, bác rất đáng mến . Bác đã nhanh chóng tha thứ cho cháu, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếng cả . Lydia cười: - Ta vẫn gọi cháu là Pilar tuy đó không phải là tên thật của cháu . - Thật vậy, cháu là Conchita Lopez . - Cái tên rất đẹp , Conchita . - Bác rất tốt, bác Lydia . Nhưng không nên băn khoăn về cháu . Cháu sẽ lấy anh Stephen và chúng cháu sẽ về Nam Phi . - Ta mừng cho cháu, Conchita . Cháu thu xếp mọi việc rất tốt . Ngập ngừng, cô nói với Lydia: - Vì bác có lòng tốt, bác Lydia . Sau này chúng cháu có tới thăm bác, dự lễ Noel với gia đình được không ? Lúc ấy chúng ta sẽ đốt pháo, có nến sáng và những chú lùn trên bàn ăn! - Chắc chắn là như vậy, cháu và chồng cháu sẽ trở về và chúng ta sẽ có một lễ Noel linh đình . - Thật là tốt, bác Lyida . Lễ Noel năm nay không thành công rồi . - Đối với chúng ta, đây không phải là lễ Noel thực sự - Lydia thở dài . - Tạm biệt anh Alfred - Harry nói - Không nên cho rằng em về chuyến này để quấy phá anh . Em sẽ đi Hawaii . Em vẫn tự nhủ là mình sẽ trở về sống ở đất nước tươi đẹp của chúng ta khi em có ít tiền . - Tạm biệt chú Harry . Anh cầu chúc cho chú sống hạnh phúc ụ Có vẻ khó chịu, Harry lẩm bẩm: - Em lấy làm tiếc nhiều khi em đã làm anh tức giận, anh thân mến . Tinh thần em không vững và thường trêu chọc mọi người . Alfred cố gắng để nói: - Anh cũng cần làm quen với sự bông đùa . Yên tâm, Harry ra đi . - Tạm biệt anh ... hẹn gặp lại! ... Mời các bạn đón Chết Trong Đêm Noel của tác giả Agatha Christie.