Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Máu Hiếm - Phan Hồn Nhiên

Truyện Máu hiếm của nhà văn Phan Hồn Nhiên được ra mắt độc giả hè 2012 dưới dạng ấn phẩm in kèm của một tờ báo của tuổi học trò. Đến nay, cuốn truyện khoa học viễn tưởng vẫn tiếp tục chứng tỏ sức hút với bạn đọc. Vì thế, Nhà xuất bản Kim Đồng quyết định in truyện thành sách thực thụ, dành cho đối tượng bạn đọc mở rộng chứ không chỉ tập trung cho teen như trước đây. "Phan Hồn Nhiên là nhà văn có lượng độc giả hâm mộ. Các tác phẩm của cô thường được chọn in lại liên tục", một biên tập viên của nhà xuất bản cho biết. Trong khi thể loại sci-fi còn khá mới mẻ và lạ lẫm với độc giả, khán giả trong nước, Phan Hồn Nhiên đã chuẩn bị nguồn tư liệu và vốn kiến thức phong phú để chinh phục thể loại này. Chị mất một năm để hoàn thành truyện dài Máu hiếm. "Tôi vừa viết, vừa chiêm nghiệm vừa sửa tới sửa lui từng ý một", nữ tác giả cho biết. Cuốn sách kể về hành trình phiêu lưu của Vinh - một chàng trai trẻ phải dấn thân khám phá những bí mật khiến cho bố mẹ anh mất tích đột ngột. Bố Vinh là thành viên của một hội kín được lập nên từ ba nhà khoa học vốn là bạn bè từ thời sinh viên. Họ đang cùng tiến hành một công trình nghiên cứu với mong muốn có thể thay đổi căn bản phương pháp điều trị một số bệnh hiểm nghèo. Tuy vậy, trong nhóm lại nảy sinh những mâu thuẫn. Có thành viên mong những phát kiến khoa học được đem ra giúp ích cho xã hội. Nhưng cũng có người muốn thành tựu khoa học này phục vụ cho mục đích làm giàu của bản thân. Vinh vượt qua nỗi khiếp sợ, sự cô độc và những tấn công vô hình từ nhiều phía để khám phá các âm mưu đằng sau câu chuyện khoa học. Để dẫn dắt độc giả, Phan Hồn Nhiên dùng lối viết miêu tả kết hợp với tiết tấu nhanh. Từ trang viết, tác giả đặt ra các vấn đề: Ý nghĩa sự tồn tại của con người nằm ở đâu? Đâu là mục tiêu mà khoa học và nghệ thuật hướng đến? Trong cuộc giằng co giữa giá trị tình cảm và danh vọng, của sức mạnh của tình yêu thương, bên nào sẽ chiến thắng? Phan Hồn Nhiên cho biết, chị vẫn còn tiếp tục sáng tác với sci-fi chứ không chỉ dừng lại ở một cuốn. 9h30 sáng 5/7, nữ tác giả và cây bút Phạm Bá Diệp cũng có buổi giao lưu văn học với độc giả về chủ đề "Fantasy trong văn chương Việt". *** Quãng đường quay trở về đột nhiên bị thu ngắn. Họ duy trì nhịp bước đều đặn, xuyên qua cánh rừng, xuyên qua khu mê cung. Họ bước song song. Nhưng cô gái vẫn giữ vai trò người dẫn đường. Đỉnh tòa nhà lớn lờ mờ hiện ra giữa các khối mây nặng trĩu hơi ẩm. Mặt trăng biến mất. Bóng tối đã biến thành đôi cánh khổng lồ sải rộng, bay đến từ đằng sau. Lúc này, Vinh nhận ra họ không hẳn quay về theo lối đi cũ. Ở đoạn cuối, thay vì men theo vệt đường mòn lác đác bụi cây của khu vườn, họ lọt vào một khu dân cư vắng lặng. Các ngôi nhà như những chiếc hộp nhiều kích cỡ xếp san sát, chồng khít lên nhau, tạo thành từng khối lập thể thẳng hàng. Đường phố không quá chật hẹp, nhưng bề mặt phẳng mịn của những bức tường cao vút tạo cảm giác mọi thứ bên trong chúng đều bị thu nhỏ, có thể bị nghiền nát bất kỳ lúc nào. Thảng hoặc, như một ống dẫn hun hút, lối đi giữa các khối nhà hình học đột ngột mở ra. Những đợt gió nhuộm đẫm mùi chlorine thốc tới theo các đường ống dẫn, khiến hai cái bóng đang bước lầm lũi đổ gập về phía trước. Mở căng mắt, chàng trai trẻ thử tìm một cánh cửa nào còn hé mở, một ngọn đèn còn chưa tắt trong một ô kính, hoặc một tiếng người khẽ vang lên từ một căn phòng… Nhưng không gì cả. Một sự im lìm trống rỗng, chỉ có thể tìm thấy ở quãng nghỉ giữa hai chương nhạc, nhưng trong quãng nghỉ ấy, theo một sắp đặt bí hiểm, các nhạc công cũng đã biến mất. Bất động tuyệt đối. Lạnh. Thứ hơi lạnh không phải của thời tiết, mà tỏa ra từ các mặt tiền nhà câm lặng. Loãng hơn bình thường, không khí vào phổi mang theo mùi thuốc tẩy trùng. Có gì đó ở nơi đây còn đáng sợ hơn cái mê cung bằng cây lá họ đã đi qua hay ngọn đồi hoang nơi họ tìm thấy cái hòm chôn vùi. Ngay cả khi mọi chi tiết kiến trúc được duy trì ở tình trạng ngăn nắp chỉnh chu, không gian sạch tinh không chút rác rưởi, thì khung cảnh và bầu không khí vẫn hệt như trong một bệnh viện hoang phế, hay trong một thành phố chết. Chỉ khi đế giày Vinh lướt trên tấm lưới sắt đặt cách quãng đều nhau trên mặt vỉa hè, đôi chân bất ngờ cảm nhận một luồng hơi nóng mỏng nhẹ phả lên từ các miệng hố sâu hút, bằng chứng không thể phủ nhận của hoạt động máy móc đang hiện diện đâu đây, cậu mới tạm tin rằng nơi này vẫn có dấu vết con người và hoạt động của sự sống. Đã hơn bốn giờ. Vệt sáng mỏng đầu tiên của ngày hửng lên từ phía Đông đường chân trời. Đường viền của các khối nhà cũng như chất liệu của chúng đã nhìn thấy rõ hơn. Một số bức tường được xây từ thứ gạch nén sâu đậm, để trần không trát vữa, để lộ vết tích thời gian khi bị các đợt gió nhuốm mùi hóa chất và thứ hơi ẩm khắc nghiệt bào mòn. Nhưng đáng chú ý hơn, phần lớn các bức tường đều phủ kim loại. Những tấm kim loại khổng lồ liền lạc, không đường nối, bọc lấy các ngôi nhà hình hộp. Một số tấm còn mới tinh, phản chiếu các khối kiến trúc đối diện. Có một lúc, rẽ ngoặt theo người dẫn đường, Vinh ngỡ nhìn thấy ai đó đang bước về phía mình. Tuy nhiên, chỉ là hình bóng bị khúc xạ của chính cậu và cô gái mặc bộ váy dạ hội lem luốc in trên tấm gương théo sáng loáng mà thôi. Nếu người nhạc công trẻ chưa thoát khỏi trạng thái bối rối lo sợ thì ngược lại, Lữ Hòa tỏ ra hết sức quen thuộc với dãy phố lẫn lối đi tắt. Cô ta vượt lên trước Vinh vài bước chân. Làn hơi nước trắng đục phả về sau, tỏa ra từ hơi thở gấp gáp của cô. Đôi chân rã rời cùng sức lực gần như bị vắt kiệt sau một ngày xảy ra dồn dập quá nhiều sự kiện, Vinh gằn bước lên, đuổi kịp cô gái: - Chúng ta đang đi đâu vậy? Người đồng hành không trả lời. Cô ta vẫn sải bước, tốc độ gần như chạy. Giờ thì không ngại ngần nữa, Vinh vươn tay, tóm lấy khuỷu tay khô khốc của cô ta, giật nhẹ: - Ban nãy, khi thỏa thuận đi cùng nhau, cô không nói chúng ta sẽ tới đây! Vì vậy, nếu cô không cho biết nơi đây là đâu, chúng ta tới đây nhằm mục đích gì, thì tôi sẽ không đi theo cô nữa! - Nhìn kìa! – Không trả lời vào các câu hỏi, cô gái đột ngột hất cằm. Hướng nhìn của Vinh chuyển theo chỉ dẫn của người đồng hành. Vượt lên trên các khối hộp bê tông chồng chất, có một chiếc cần cẩu cao lênh khênh. In lên nền trời tím tái, khối kim loại han gỉ phả vào không gian chung quanh hơi thở lạnh lẽo của sự lãng quên. Vài gióng xương bằng sắt của cái cần cẩu tuột ốc, rôi xuống lỏng lẻo hoặc chĩa ra ngoài, đâm vào khoảng không. Thấp hơn một chút, sà xuống, gần như chạm vào mái nhà bên dưới, là hai sợi thừng lớn. Giữa hai sợi dây ấy, một túm vải rách bươm, bay phần phật cuồng loạn. Đột ngột, như cảm nhận được ai đó đang nhìn mình, các dải vải tả tơi bỗng im thõng. Rồi không hề có dấu hiệu báo trước, chúng lại tiếp tục đu đưa phất phơ. Trong khung cảnh chỉ có vài khối nhà, không hề hiện diện bóng cây và mọi thứ đều bất động, sự chuyển động lẫn dừng khựng kỳ dị ấy gây nên một ấn tượng ma quái. Không chỉ thân thể Vinh đông cứng, mà các ý nghĩ trong đầu cậu cũng tê dại, mất sạch mọi phán đoán. Phải khá lâu, câu hỏi đơn giản mới có thể thốt ra: - Cái gì vậy? - Phần còn lại của một người nào đó! – Lữ Hòa nhún vai. Cô ngoảnh hẳn về người nhạc công, nói thản nhiên, như thể cô quá quen thuộc với các giải thích kiểu này – Bất kỳ một kẻ lạ nào đến đây mà không được cho phép, đều có kết cục như thế. - Tại sao? – Vinh choáng váng. - Anh không đoán ra ư? Đây là khu vực cấm. Anh thấy rồi đấy, không một sinh vật nào, dù là côn trùng, có thể tồn tại trong bầu không khí này. - Cô thì sao? - Tôi đến bất cứ nơi nào tôi muốn, dù được phép hay không. - Còn tôi bị bắt, bị trừng phạt tàn khốc, vì nơi đây, tôi không được phép có mặt? - Phải. - Cô được quyền đi lại trong khu vực này dễ dàng, thế nên cô đặt tôi vào tình thế của một kẻ lệ thuộc. Và nếu không muốn chết, nhất cử nhất động của tôi sẽ phải tuân theo điều khiển của cô, như một tên ngốc! – Vinh cao giọng, với cơn giận chực bùng nổ. - Nhầm rồi, Vinh! – Lữ Hòa thì thầm, đôi lông mày sắc nét cau lại. Bằng cách ấy, cô ta ngầm nhắc nhở người đối thoại rằng, gây ồn ào lúc này là điều vô cùng ngu xuẩn. Rồi vẫn giữ cung giọng rất thấp, cô ta chậm rãi nhấn mạnh từng từ - Cũng như anh, tôi sẽ nhận trừng phạt hệt những kẻ tọc mạch khác, bị treo lên kia cho đến chết, bị bỏ mặc mục ruỗng, nếu tôi bị bắt gặp trong khu vực cấm này. Người nhạc công trẻ chết lặng. Ánh nhìn của cô gái đối diện đặt vào một điểm nào đó phía sau lưng cậu. Đôi mắt thẫm lại của cô ta chất chứa nỗi giận dữ, giễu cợt, nhưng hơn hết, là sự đau đớn không thể che giấu. Một số niềm tin vốn tạo nên thành trì của lòng can đảm bắt đầu rạn vỡ trong Vinh. Những kinh nghiệm từ tuổi nhỏ cô độc luôn buộc cậu xác định vị thế bất kỳ người nào mà mình tiếp xúc: Là một ai đó không cần để tâm. Là một ai đó buộc phải duy trì mối liên hệ cần thiết. Hoặc kẻ thù. Chỉ có ba lựa chọn. Xúc cảm yếu mềm là món xa xỉ, có thể dành cho bất cứ ai, trừ cậu. Nhưng, ở đây - một nơi không ngờ đến, lúc này – thời khắc không ngờ đến, cô gái ở bên cạnh đột nhiên đưa cậu đến một phát hiện kỳ lạ về chính mình. Cô ta vừa là tất cả, nhưng cũng không là ai trong ba mẩu hình có sẵn. Vinh đã nhận ra, bằng sức mạnh thản nhiên phơi bày, bằng sự yếu ớt cố gắng che đậy, thật tự nhiên, cô ta buộc cậu phải dành cho mình một vị trí khác, một xúc cảm chưa từng biết đến trước kia. Đó là thứ rung động xa lạ, làm khối cơ trong lồng ngực cậu thắt lại, vừa hãi sợ muốn lãng tránh, vừa muốn tiến đến thật gần, giữ lấy cô ta, che chắn cho cô ta khỏi những nguy hiểm vô hình đang lảng vảng đâu đây. Lữ Hòa tiếp tục bước đi. Tay cô khoanh lại trước ngực, chống cự khí lạnh càng lúc càng tê buốt. Đôi vai mảnh khảnh luôn vươn thẳng kiêu hãnh hơi rủ xuống, tựa một lời thừa nhận câm nín về sự cảnh giác mệt mỏi và bất an đeo bám. Vinh lẳng lặng đi theo cái bóng co ro phía trước. Cả hai không trao đổi. Trong lặng thinh, họ bỗng thấy rõ rật tình trạng yếu ớt, cô độc và quá khó khăn để chia sẻ của mình. Vinh nghĩ cậu có thể bước nhanh hơn, chạm nhẹ vào người đồng hành, nói gì đấy với cô. Điều gì cũng được, chẳng hạn xin lỗi về sự ngờ vực thô bạo ban nãy buông ra. Nhưng, lời nói cứ bám lại trong cổ họng, như những chiếc lá khô mục, rời rạc, cho đến một lúc thì hoàn toàn chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cái cần cẩu lùi dần về sau. Vinh không dám ngoảnh nhìn nó thêm. Dù chẳng hề là người yếu bóng vía, cậu vẫn không khỏi sởn gai ốc với ý nghĩ, rằng sau lưng cậu, bị treo lơ lửng trên cao, là một ai đó đã từng hít thở, đi đứng nói cười, yêu thương và giận dữ, liều lĩnh và can trường. Một ai đó đi ra từ một ngôi nhà nào đó, nơi anh ta hay cô ta đã từng gắn bó, có một chỗ quan trọng trong lòng người thân bạn bè. Nhưng giờ đây, những điều ấy chỉ còn là chút âm vọng đang tắt lịm. Tất cả đều tan biến, ngoại trừ chút tàn tích sót lại đung đưa trong làn gió lúc hừng đông. Ở lối rẽ hẹp, Lữ Hòa bỗng dừng lại trước ngôi nhà giống như một khối rubic, được bọc bởi từng mảng lớn những ô gạch nhiều màu. Một vài chỗ bong tróc, để lộ bên trong cũng là thứ gạch cùng loại, sẫm màu hơn vì lâu năm hơn. Thật kỳ quặc khi người ta không dùng vữa hay bột trát chuyên dụng, mà bảo trì ngôi nhà bằng cách phủ thêm các lớp gạch khác. Có lẽ đó là lý do khiến các khối nhà nơi đây khá nặng nề, còn các ô kính cũ thì như những con mắt lõm sâu, được bảo vệ bởi các tấm lưới sắt. Loay hoay một lúc với cánh cửa đóng chặt, như một tay trộm, bằng đầu mũi nhọn của chiếc mỏ neo mắc trên sợi dây kim loại mảnh thắt ngang eo chiếc váy dạ hội, Lữ Hòa đã mở được ổ khóa bấm. Trước khi lỉnh hẳn vào bên trong tối om, cô dặn khẽ: “Chờ tôi nơi đây, khoảng 10 phút. Đừng đi đâu hết nếu không muốn gây nguy hiểm. Tôi sẽ quay ra ngay khi lấy được thứ cần thiết!”. Vinh gật, chấp nhận dễ dàng. Đuôi váy lấp lánh ánh bạc lấm bụi đất của cô ta vừa bị bóng tối bên trong nuốt gọn, cánh cửa tức khắc khép lại, với tiếng “tách” nhẹ của ổ khóa đã được bấm chốt. Trong ánh sáng hửng lên, khung cảnh xung quanh hiện ra càng rõ nét hơn. Vỉa hè khá hẹp, lót gạch sỏi, cao hơn hẳn so với mặt đường trải nhựa. Khu vực này không quá lớn như lúc đầu Vinh tưởng. Có lẽ chỉ chừng hơn chục con đường. Nhưng các con đường ấy cắt nhau như một bàn cờ. Để xóa nhòa khả năng định hướng, Lữ Hòa đã cố ý đưa cậu đi ngoằn ngoèo qua tất cả các đường cắt trên bàn cờ ấy. Đầu gối Vinh thoáng run lập cập. Không hẳn vì lạnh. Cậu nhận ra mình đang rất đói. Suốt từ chín giờ tối hôm qua, lúc dạ tiệc khai màn, cậu đã không ăn thêm chút gì. Giá có mẩu bánh mì hay cốc sữa thì thật tốt lúc này. Không hy vọng tìm thấy thức ăn quanh đây, ngoại trừ liều mạng đột nhập vào bên trong một ngôi nhà bất kỳ. Như một cái bóng, Vinh lặng lẽ men theo bức tường gạch, rẽ trái. Ở một ô cửa sổ, lớp lưới bảo vệ đã bị bung ra khỏi bản lề. Bên trong, lớp kính ố nâu từng đốm loang lổ. Vinh nghiêng người về phía trước, chống cả hai khuỷu tay lên bệ cửa để giữ thăng bằng và đu hẳn người lên khỏi vỉa hè. Mũi giày cậu gá vào một viên gạch vỡ. Với tất cả sức lực còn lại, cậu kéo mạnh tấm lưới, giằng hẳn ra khỏi khung cửa. Một tiếng xoảng nhẹ khi tấm lưới mục rơi xuống vỉa hè. Vinh gồng người, căng thẳng chờ đợi phản ứng đáp trả. Nhưng không gì cả. Cậu rướn lên cao hơn. Hơi thở mạnh làm mờ lớp kính trước khi phả ngược trở lại vào mặt cậu. Khi đưa tay chùi lớp kính ẩm lạnh, Vinh thoáng giật thót. Nhưng chỉ là phản chiếu gương mặt của chính cậu, với đôi mắt to tướng, với hốc má tối thẫm, với vệt lông mày dày rậm nổi rõ trên vầng tráng cao trắng bệch. “Bình tĩnh và tập trung nào!” – cậu lẩm bẩm tự nhủ. Ánh sáng mờ nhạt đầu ngày chỉ cho phép nhìn thấy một phần không gian bên trong. Các căn phòng liên thông với nhau bởi những ô cửa không cánh. Ở phòng này, kê dọc theo tường là vài chiếc gương đơn bằng sắt sơn trắng, loại giường có thể điều chỉnh lên xuống bằng tay xoay cổ điển đã có mặt cách đây vài chục năm. Chắc chắn đã lâu không ai sử dụng mấy cái giường này bới chúng không có nệm, chỉ có những lò xo kim loại chăng ngang dọc. Phòng kế bên, góc nhìn khuất hơn chỉ cho thấy một dãy bàn làm việc, cũng sơn trắng xếp cạnh nhau. Phía trên, những kệ đựng hồ sơ được khóa chặt. Đột nhiên, Vinh nghĩ, trí tưởng tượng của mình đã không đi quá xa khi so sánh khu vực này với một bệnh viện bị bỏ hoang. Căn phòng mà cậu đang nhìn trộm vào chỉ có thể là nơi làm việc của bác sĩ, y tá và bệnh nhân, không thể khác được. Lần tay theo kẽ hở giữa khung kính và gờ tường, Vinh tìm cách đẩy cánh cửa này lên. Tuy nhiên, khung gỗ bao quanh tấm kính được gắn rất chặt vào tường gạch. Cách duy nhất để lọt vào bên trong là đập vỡ lớp kính. Đúng lúc người nhạc công trẻ xoay khuỷu tay trong chiếc jacket, chuẩn bị thúc mạnh, ở mặt sàn thông giữa hai gian phòng, thình lình trườn đến một bóng đen bé nhỏ. Giữ cánh tay đưa lên trong tư thế kỳ quặc, dán mặt vào vuông kính ố màu, Vinh mở căng mắt. Bóng người đang duy chuyển trên sàn đá cẩm thạch lam ngắt khựng lại, ngước lên, nhìn thẳng vào mắt kẻ bám vào ô kính ... Mời các bạn đón đọc Máu Hiếm của tác giả Phan Hồn Nhiên

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson
Cuộc phiêu lưu ly kỳ, tiểu sử lôi cuốn và nghiên cứu đáng ngạc nhiên về nhân vật xứ Scotland, Kidnapped (Bắt cóc) của Robert Louis Stevenson năm 1886 chưa bao giờ mất đi vị thế của nó.  Kidnapped là “tiểu thuyết cho các chàng trai” và được xuất bản lần đầu tiên dưới dạng từng kỳ trên tạp chí Young Folks từ tháng Năm tới tháng Bảy 1886. Cuốn tiểu thuyết được in thành sách lần đầu tiên bởi Cassel and Company tháng Bảy 1886. Trong Tuyển tập Stevenson, tác phẩm sở hữu cái tên dài nhất và công phu nhất trong lịch sử văn học Anh: “Hồi ký về hành trình của David Balfour năm 1751; Anh đã bị lạc như thế nào; Sống sót trên đảo hoang; Chuyến đi đến Highlands hoang dã; Làm quen với Alan Breck Stewart và những chàng Jacobite khét tiếng xứ Highlands; Mọi thứ khổ ải dưới bàn tay người chú, Ebenezer Balfour của rừng sâu giả dối. Do chính anh viết và được Robert Louis Stevenson thuật lại với lời dẫn bởi bà Stevenson”. Kidnapped được đón nhận khi xuất bản và đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà văn từ Henry James, người đã khen ngợi sức mạnh kể chuyện của tác phẩm, Jorge Luis Borges và Seamus Heaney, cùng nhiều người khác. Phần sau không tốt bằng, Catriona, được xuất bản năm 1893. Kidnapped là kiệt tác của ông, một tiểu thuyết hành động không thể nào quên đã truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn từ Joseph Conrad, John Buchan, Graham Greene đến Muriel Spark. Đây cũng là một sự trù tính hoàn hảo cho sự phức tạp của nhân vật người Scotland, nửa Celt, nửa Saxon. Giống như trong Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde, ông cũng bị ám ảnh bởi một phần nhân cách của mình, và vào năm bỏ phiếu độc lập, Kidnapped vẫn được xem là tác phẩm thiết yếu cần đọc. Tôi chọn tác phẩm này để thể hiện tính đặc Scotland của Stevenson cũng như tài năng văn chương của ông. Cuốn tiểu thuyết đơn giản đến khó tin. Mặc dù miêu tả câu chuyện của những chàng trai, với nguồn gốc từ sự thật lịch sử, nhưng tác phẩm đồng thời thể hiện nghệ thuật khéo léo của Stevenson. Quả thực Kidnapped đã hoàn thành đồng thời ba sứ mệnh đó. Thứ nhất, đó là chuyến phiêu lưu hành động đáng kinh ngạc, nơi giọng kể của Stevenson, thứ văn xuôi vô cùng súc tích, có sức mạnh mê hoặc lòng người. Ông khiến cho độc giả phải ngạt thở trong phấn khích và ngưỡng mộ. Henry James không ngờ lại là một người hâm mộ cuồng nhiệt của chuỗi chương “The Flight in the Heather” (Cuộc chiến dưới cây thạch nam). Lật đến chương X, “The Siege of the Round House” (Sự vây hãm của ngôi nhà vòng tròn) sẽ tìm thấy văn hứng của tác giả. Thứ nhì, Kidnapped lấy gốc từ một sự thật lịch sử, vụ ám sát ở Appin, Scotland tháng Năm 1752, cái chết của “con cáo đỏ”, biến đổi thành một câu chuyện phổ biến cho phần lớn độc giả lần đầu bắt gặp trên tạp chí Young Folks. Và Stevenson tiếp tục khai thác thể loại ông đang viết. Kidnapped, giống như Đảo giấu vàng, đi kèm với một tấm bản đồ, để thuyết minh rõ hơn cho câu chuyện; tựa đề các chương cũng được thiết kế để nói lên hành trình của ông: “I Run a Great Danger in the House of Shaws” (Tôi gặp nguy ở ngôi nhà trong rừng); “The Man with the Belt of Gold” (Người đàn ông với chiếc thắt lưng bằng vàng); và “The House of Fear” (Ngôi nhà sợ hãi). Cuối cùng, Kidnapped là một nghiên cứu đầy sức thuyết phục và khó quên về hai tính cách của nhân vật người Scotland. David Balfour, thuộc đảng Whig, là một chàng trai xứ Lowland Scotland dòng Presbyterian, bị bắt cóc khi bắt đầu hành trình giành quyền thừa kế từ tay người chú xấu xa Ebenezer. Alan Breck (Stewart), được Balfour mô tả là “một kẻ nổi loạn đáng kết tội, một kẻ đào ngũ, và là tay sai cho vua Pháp”, đại diện cho niềm tự hào của người Highlands sau cuộc nổi loạn Jacobite năm 1745, nóng tính, khinh suất, lãng mạn và bất hạnh, với những khúc thoại đáng nhớ. Cặp nhân vật này cùng hành động, cãi nhau, cùng nổi loạn (với Stevenson) với phong cách rất Scotland. Như bánh trái của một quốc gia giàu có, Kidnapped đơm hoa với vô số phương ngữ, “ain” (một), “bairn” (đứa trẻ), “blae” (ủ rũ), “chield” (gã bạn), “drammach” (bột yến mạch), “fash” (phiền), “muckle” (to lớn), “siller” (tiền), “unco” (vô cùng) , “wheesht!” (suỵt!), và hàng tá nữa. Tiếng vùng Scotland bằng cách nào đó giúp Kidnapped có một sức mạnh không bao giờ mệt mỏi, nhưng bên trong lại ảm đạm. Stevenson, qua giọng Balfour, bày tỏ điều này khi anh thoát khỏi “phần tăm tối nhất của cuộc hành trình… Ransom ở bên dưới, Shaun chết trên sàn nhà, hay Colin Campbell (con cáo đỏ) túm lấy ngực áo khoác của hắn…” Tất nhiên Balfour đã sống sót, nhưng tất cả mọi người khác đều có số phận phải chết. Còn Stevenson đột ngột ra đi bởi một cơn đột quỵ trên biển Samoa ngày 3/12/1894, năm 44 tuổi. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Tác phẩm: Bắt Cóc Mũi Tên Đen Đảo Giấu Vàng Bác sĩ Jekyll và ông Hyde ... *** Mời các bạn đón đọc Bắt Cóc của tác giả Robert Louis Stevenson.
Người tình Hoa Bắc - Marguerite Duras
7 năm sau thành công với “Người tình”, Marguerite Duras một lần nữa trở lại với câu chuyện tình yêu ám ảnh giữa cô bé người Pháp mới lớn và chàng thanh niên Trung Hoa. Tiểu thuyết “Người tình Hoa Bắc” của bà vừa được xuất bản bằng tiếng Việt. Mở đầu cuốn Người tình Hoa Bắc, Duras viết: “Tôi được biết anh ấy đã qua đời. Đó là vào tháng 5/1990, cách đây một năm. Tôi chưa bao giờ từng nghĩ đến sự ra đi của anh ấy. Người ta còn nói với tôi rằng anh được an táng tại Sa Đéc, rằng ngôi nhà màu xanh vẫn luôn ở chỗ đó, nơi gia đình và con cái anh cư ngụ”. Cuốn sách ra đời năm 1991 - một năm sau khi ông Huỳnh Thủy Lê - nguyên mẫu người tình của nhà văn mất. Cái chết của ông dường như đã làm sống dậy những ký ức đã trôi qua hơn nửa thế kỷ trong tâm hồn cô bé da trắng. Một lần nữa khai thác lại mối tình cũ, nhưng theo dịch giả Lê Hồng Sâm, Người tình Hoa Bắc thể hiện những cảm nhận khác biệt về nhân vật, về lối viết. Theo bà, nhân vật người tình trong cuốn tiểu thuyết thứ hai của Duras “táo bạo hơn, cường tráng hơn, tuấn tú hơn”. Nếu như trong cuốn Người tình, nhà văn trao nhiều quyền chủ động chèo lái chuyện yêu cho cô gái 15 tuổi thì ở tác phẩm mới này, người tình Trung Hoa đã bớt rụt rè, bớt mặc cảm chủng tộc hơn. Bà Lê Hồng Sâm tỏ ra ngạc nhiên khi mà Người tình Hoa Bắc - được viết 60 năm sau khi Duras rời khỏi Việt Nam - vẫn tái hiện được những ký ức đầy sống động về xứ sở Đông Dương trong vẻ đẹp của những đêm mùa khô, của những cơn mưa gió mùa, của mênh mang đồng ruộng, của xóm ghe thuyền, của bầy trẻ đánh xe trâu, của màu chiếc quần lụa đã nhợt nhạt. Người tình Hoa Bắc khác biệt với Người tình còn ở tính chất kép của tác phẩm. Nhà văn xác định: “Đây là một cuốn sách. Đây là một bộ phim”. Chuyên gia văn học Trần Hinh cũng phát hiện ra tính chất lai tạo giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm của Marguerite Duras. Ông cho rằng, Duras phải chăng không hài lòng với các nhà làm phim Người tình chăng nên với Người tình Hoa Bắc, bà muốn tạo nên một cuốn tiểu thuyết có khả năng đọc như một kịch bản phim? ***     Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. BachvietBooks Mời các bạn đón đọc Người tình Hoa Bắc của tác giả Marguerite Duras.
Thời Thơ Ngây - Edith Wharton
Thời thơ ngây (tên gốc là The Age of Innocence) là tiểu thuyết thứ mười hai của bà. Tác phẩm đạt giải Pulitzer năm 1921, giúp Edith Wharton trở thành nhà văn nữ đầu tiên giành giải thưởng này. Cuốn sách kể về câu chuyện của một cặp đôi thuộc tầng lớp thượng lưu xã hội Mỹ đang chuẩn bị kết hôn. Newland Archer, một luật sư hào hoa và là người thừa kế của một trong những gia đình có danh tiếng bậc nhất ở New York lúc bấy giờ, đang háo hức chuẩn bị cho đám cưới mơ ước của mình với tiểu thư May Welland xinh đẹp. Đúng vào thời điểm ấy, nữ Bá tước Ellen Olenska, cô chị họ xinh đẹp của May trở về từ châu Âu sau tin đồn ly hôn với một Bá tước người Ba Lan. Ban đầu, Archer lo lắng vì tai tiếng của cô có thể ảnh hưởng đến May Welland nhưng dần dần anh lại bị Ellen- người coi thường những quy định hà khắc của xã hội New York thu hút. Tình cảm anh dành cho nữ Bá tước ngày càng sâu đậm và điều đó có thể làm hủy hoại đám cưới của anh và May. Điều gì sẽ xảy ra? Liệu Ellen có dành tình cảm cho anh? Đứng giữa cô dâu tương lai và tình yêu định mệnh của cuộc đời, anh sẽ lựa chọn như thế nào? Bằng giọng văn châm biếm và hài hước, Edith Wharton đã tái hiện lại xã hội New York vào những năm 70 của thế kỉ XIX với những lề thói cổ hủ, lạc hậu, cái xã hội khiến con người ta không thể sống thật với bản chất, tình cảm của mình. Đồng thời, người đọc cũng cảm nhận được tài năng của bà qua cách bà miêu tả mối tình lặng lẽ của Ellen và Archer. *** Edith Wharton sinh ngày 24-1-1862 tại số nhà 14, Đường Hai mươi ba Tây, Thành phố New York. Bà là con gái duy nhất trong một gia đình có quá đông con trai thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có, từng được bà miêu tả vào năm 1933 như một “trung tâm quý tộc thu nhỏ… một xã hội mà tất cả những người buôn bán đều bị loại ra như một điều đương nhiên” (Hồi ký, 1.3). Bà là nữ tiểu thuyết gia đầu tiên đạt giải Pulitzer. Ngoài ra, bà cũng viết truyện ngắn và là một nhà thiết kế. Bà từng được đề cử giải Nobel Văn học năm 1927,1928 và năm 1930. Wharton kết nối quan điểm của bà về các tầng lớp đặc quyền trong xã hội Mỹ với trí thông minh bản năng xuất sắc để tạo nên những tiểu thuyết và truyện ngắn hài hước, sâu cay về vấn đề xã hội và tâm lý. Bà cũng quen biết nhiều cây bút văn chương cũng như những chính trị gia thời đó, trong đó có cả Tổng thống Theodore Roosevelt. Hồi còn nhỏ, bà đã phản đối những chuẩn mực về ăn mặc và lễ nghi dành cho con gái lúc bấy giờ. Bà cho rằng những yêu cầu đó là cứng nhắc và thiển cận. Edith muốn nhận được nhiều hơn từ nền giáo dục, bởi vậy bà đọc sách từ thư viện của bố và những người bạn của ông. Mẹ của bà ngăn cấm bà đọc tiểu thuyết cho đến khi kết hôn và Edith đã tuân theo. Edith bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết từ khi còn nhỏ. Bà thử viết tiểu thuyết từ khi mười một tuổi. Tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà là bản dịch từ một bài thơ bằng tiếng Đức có tên “What the Stones tell” của Heinrich Karl Brugsch và bà kiếm được 50 đô la. Lúc đó, bà mới mười lăm tuổi. Gia đình bà không muốn tên của bà xuất hiện ngoài công chúng bởi vì tên của phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu chỉ xuất hiện trên mặt báo để thông báo về sự ra đời, kết hôn hay từ trần. Do vậy, bài thơ được phát hành dưới tên một người bạn của bố bà, E. A. Washburn. Ông đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực tự học của bà, và ông đã khuyến khích bà theo đuổi nghiệp viết chuyên nghiệp. Ngoài viết tiểu thuyết, Wharton đã sáng tác hơn 85 truyện ngắn. Bà cũng là một nhà thiết kế và bà cũng viết nhiều sách về thiết kế, bao gồm tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà. Bà mất ngày 11-8-1937 sau một cơn đột quỵ tại Pháp.   Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ngây của tác giả Edith Wharton.
Ông Hoàng Xứ Kahel - Tierno Monénembo
“Qua những cuộc phiêu lưu của một nhà tiên phong Pháp, tiểu thuyết gia gốc Guinée đã lần ngược lại những biến cố và đổ nát của vương triều Peul ở Fouta-Djalon. Tác phẩm được viết dưới một tài năng tuyệt vời về viễn tưởng và hư cấu mạch lạc giữa Lịch sử và Danh phận, lịch sử của một Phi châu hiện đại có thể nhìn về quá khứ của mình mà không rơi vào thuyết máy móc phân biệt giữa Da Trắng và Da Đen.  *** Qua những trang hơi khó đọc của phần đầu tác phẩm, thì bạn đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi biên độ trí tưởng tượng sử thi, kết hợp giữa các trò cười của cuộc sống và linh cảm bất thường đáng lo ngại của cuộc chiến tranh giữa các nền văn minh trong chế độ thuộc địa.” • Đài RFI “Với cuốn tiểu thuyết pha trộn giữa cuộc sống và những tìm hiểu sâu rộng về tư liệu, Tierno Monénembo đã miêu tả chặng đường đi tìm và thiết lập vương quốc của một con người kỳ tại, lập dị nhưng rất đáng mến của thế kỷ XIX.” • Tạp chí Văn Học “Một tác phẩm dữ dội đề cập đến thảm cảnh và những thăng trầm của lịch sử châu Phi…” • Tạp chí Nouvel Observateur “Đấng Tối cao đã sinh ra họ màu đen để cho những cú bị đánh không bị nhìn thấy được.” • Olivier De Sanderval *** Tierno Monénembo, tên thật là Thierno Saïdou Diallo, sinh ngày 21-7-1947, ở Porédaka ở Guinée. Ông là một nhà văn thuộc khối Pháp ngữ. Năm 1969 ông đã bỏ trốn khỏi chế độ độc tài Sékou Touré. Ông đã chạy bộ gần 150 kilomet để đến Sénégal. Ông theo học Y khoa tại Dakar, rồi sau đó đến Bờ Biển Ngà (Côte d’Ivoire) và tại đây, ông bắt đầu theo học ngành Sinh Hóa và tiếp tục ngành này tại Pháp vào năm 1973, ông bảo vệ thành công luận án tiến sỹ tại trường đại học Lyon. Ông đến Algérie và Maroc giảng dạy một thời gian. Từ năm 2007, ông là giáo sư danh dự của Middlebury College tại vùng Vermont, Hoa Kỳ. Có thể nói lang thang viễn xứ là trọng tâm cuộc đời và tác phẩm của người con tộc Peul này. Ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên Những chú cóc-trảng bụi năm 1979. Bảy năm sau, ông cho ra đời tác phẩm Những chiếc vẩy tê tê của bầu trời và đoạt giải Grand Prix của châu lục Đen. Năm 1991, cuốn Giấc mơ hữu ích cũng ra đời dưới ngòi bút của ông. Đến nay, ông đã hoàn thành mười cuốn tiểu thuyết. Và cuốn Ông hoàng xứ Kahel đã vinh dự được trao giải Renaudot, một phần thưởng danh giá trong làng văn học Pháp.   Mời các bạn đón đọc Ông Hoàng Xứ Kahel của tác giả Tierno Monénembo.