Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kỹ Năng Thuyết Trình
Dù là một nhà hùng biện giàu kinh nghiệm hay một diễn giả mới vào nghề, quyển sách "Kỹ năng thuyết trình" này sẽ là một cẩm nang bổ ích giúp bạn hoàn thiện kỹ năng thuyết trình của bản thân. Trong quyển sách này, bạn sẽ tìm thấy những phương pháp luyện tập hữu ích để thuyết trình thành công, thông qua những hướng dẫn chi tiết trong từng công đoạn, như lập kế hoạch, lựa chọn các hình thức hỗ trợ về hình ảnh - âm thanh, xử lý những câu hỏi từ cử toạ.... Ngoài ra, quyển sách còn đưa ra 101 lời khuyên hữu ích và quan trọng giúp bạn có được sự tự tin cần thiết để xử lý hiệu quả những vấn đề trong công việc hằng ngày. Phần bài tập cuối sách sẽ giúp bạn tự kiểm tra và đánh giá sự tiến bộ của bản thân qua mỗi lần thuyết trình. Quyển sách này sẽ là một cẩm nang hướng dẫn thiết thực cho những ai đang làm công tác quản lý cũng như những ai quan tâm đến việc thuyết trình hiệu quả. Mục lục: Lời giới thiệu Chuẩn bị buổi thuyết trình Xác định mục tiêu Tìm hiểu về cử toạ Xử lý các vấn đề tổ chức Nắm rõ địa điểm Xác định rõ mục tiêu Thu thập tài liệu Sắp xếp các ý chính Soạn thảo bài thuyết trình Sử dụng các phương tiện hỗ trợ nghe-nhìn Thực tập Chuẩn bị về hình thức và tâm lý Tự tin vào bản thân Phân tích dáng vẻ bên ngoài Xây dựng hình ảnh cơ thể tích cực Cải thiện giọng nói Giải toạ trạng thái căng thẳng Trình bày hiệu quả bài thuyết trình Kiểm soát sự căng thẳng của bản thân Thuyết trình một cách tự tin Kết luận đạt hiệu quả cao Kiểm soát cử tọa Xét đoán tâm trạng của cử tọa Xử lý các câu hỏi Ứng phó với sự đối ngịch Đánh giá kỹ năng thuyết trình của bản thân Mời các bạn đón đọc Kỹ Năng Thuyết Trình của tác giả Tim Hindle.
28 Ngày Chuẩn Bị Cho Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn
Cuộc sống của bạn là món quà quý giá nhất mà bạn được sở hữu. Nếu lúc nào bạn cũng bất mãn và cảm thấy thiếu thốn, là bạn đã tự đánh mất món quà tuyệt vời này. Hãy sống vui vẻ và tập trung vào những mục tiêu, những suy nghĩ tích cực cho đến khi chúng trở thành phản ứng tự phát trong bạn. Khi làm được điều này, bạn sẽ tìm thấy sự an bình nội tâm, và niềm vui sẽ là mật ngọt rót đầy cuộc đời bạn. 28 Ngày Chuẩn Bị Cho Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn - một cuốn sách giúp bạn tạo lập sinh lực dồi dào để bắt đầu một cuộc sống mới – nơi không còn những bon chen ích kỷ, sự ghen ghét, đố kỵ mà chỉ có lòng khoan dung và sự thấu hiểu. *** 28, 28, 28…. 28 28 có gì đặc biệt ? Có gì ý nghĩa? Sẽ đặc biệt khi bạn đọc  “ 28 ngày chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp hơn của Sandra Anne Taylor” và trở nên ý nghĩa khi mỗi ngày bạn lên mục tiêu, làm theo cuốn sách hướng dẫn. “Cuộc sống của bạn là một món quà quý nhất mà bạn nhận được. Nếu lúc nào cũng bất mãn và cảm thấy thiếu thốn, bạn sẽ tước đi món quà tuyệt vời khỏi tay mình . Nó giống như bạn đặt một viên kim cương tuyệt đẹp trong ngăn kéo trong khi điên cuồng lao vào tìm kiếm một viên kim cương giả”. Hành văn ngắn gọn, mộc mạc nhưng chân thành, sâu sắc đó là điều đầu tiên mà mình muốn nói khi nhắc đến “28 ngày chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp hơn”. 28 ngày tương ứng với 28 chủ đề, 28 bài học, 28 câu hỏi. Chủ đề cuộc sống, bài học hành động, câu hỏi  suy nghĩ. Cứ đọc và cứ học, đọc bạn sẽ thấy đặc biệt, học bạn sẽ cảm thấy ý nghĩa. Cuốn sách không chỉ nhắc nhở những điều cơ bản về cách làm người mà còn giúp chúng ta biết vui vẻ ra sao trước những bộn bề, lo toan của cuộc sống, hạnh phúc thế nào trong cảnh bom chen, lòng đố kỵ. 28 ngày chuẩn bị cho cuộc sống cho cuộc sống tốt đẹp hơn, tốt đẹp ngay thôi nào: Ngày thứ nhất: Ý thức hơn Ngày thứ 2: Từ bỏ tiêu cực Ngày thứ 3: Nâng cao khả năng âm thanh Ngày thứ 4: Năng lực cá nhân Ngày thứ 5: Sự vận động Ngày thứ 6: Xác định mục tiêu cảm xúc của bạn Ngày thứ 7: Xác định cuộc đời của bạn Ngày thứ 8: Hành động Ngày thứ 9: Tinh thần lạc quan Ngày thứ 10: Yêu chuộng bản thân Ngày thứ 11: Chấp nhận chính mình Ngày thứ 12: Bỏ qua khuyết thiếu Ngày thứ 13: Bình thản thư giản Ngày thứ 14: Sức mạnh của tình yêu Ngày thứ 15: Vui sống Ngày thứ 16: Con đường đáng tôn vinh Ngày thứ 17: Mục đích cá nhân Ngày thứ 18: Lựa chọn và kết quả Ngày thứ 19: Nghệ thuật từ bỏ Ngày thứ 20: Sống trong “thần khí” Ngày thứ 21: Nhận thức sâu sắc Ngày thứ 22: Sức mạnh niềm tin Ngày thứ 23: Gía trị đích thực Ngày thứ 24: Sống trong hiện tại Ngày thứ 25: Sự mong đợi và kỳ vọng Ngày thứ 26: Nhanh chóng thay đổi nhận thức Ngày thứ 27: Lòng sùng kính trái tim Ngày thứ 28: Tinh thần phục vụ Mỗi ngày cuốn sách đều nêu rõ “mục tiêu” sau đó lắng đọng trong những phút giây “suy ngẫm” để rồi hành động qua “các bài tập củng cố”. Chỉ cần bạn kiên trì, lặp đi lặp lại hàng ngày, hết 28 ngày, bạn lại quay lại những chủ đề, những bài học, những suy nghĩ đó, nhất định bạn sẽ thành công, cuộc sống  tốt đẹp luôn chờ đợi bạn. *** Điều đầu tiên rất có thể bạn cảm thấy khi đọc tựa cuốn sách 28 ngày chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp hơn (tác giả Sandra Anne Taylor) có lẽ là chút hoài nghi rằng liệu ngần ấy thời gian có đủ để tự thực hiện một phần việc không hề đơn giản vậy? Nhưng có lẽ cũng chính thắc mắc ấy sẽ thôi thúc mở trang sách và thậm chí thực hành những nội dung trong đó. Sách gồm 28 chủ đề tương ứng 28 nội dung để bạn hành động từng ngày. Bạn sẽ bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu trong cuộc sống, suy ngẫm cách ứng xử, các hoạt động củng cố và khẳng định lại những điều đã học trong ngày. Bạn không nhất thiết phải tuần tự theo từng ngày, người đọc có thể tự chọn cho mình một chủ để quan tâm nhất và thực hiện theo hướng dẫn. “Tôi chịu trách nhiệm với chính cuộc đời mình. Tôi hành động mỗi ngày. Dù mất gì tôi sẽ vẫn kiên gan, bền chí” - Sandra Anne Taylor. Trong chủ đề Ngày thứ 8 hành động, phần Suy ngẫm khẳng định: “Hành động là chất xúc tác sẽ đốt cháy các khát vọng của bạn. Nếu mục tiêu kia là quan trọng đối với mình, bạn phải tiến thẳng đến nó, đặt lên ưu tiên hàng đầu mỗi ngày”. Các hoạt động củng cố đưa ra phương pháp: “Xây dựng các mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Hãy làm với sự kỳ vọng vui sướng". Chuỗi hành trình trong cuốn sách là chuyến đi tìm câu trả lời của mỗi người qua những việc làm, suy nghĩ hằng ngày. Nó nhắc lại những điểu cơ bản về cách làm người, cách sống mà chúng ta đã quên lãng sau bao xáo trộn, lo toan thường ngày. 28 ngày chuẩn bị là 28 ngày bạn vừa đấu tranh với những thói quen cố hữu không tốt của bản thân, vừa cố gắng thực hiện những thói quen tốt vừa hình thành. Đó là quá trình từ suy nghĩ đến hành động mà mỗi người phải vượt qua bằng lòng tự trọng và niềm tin. Không cần phải chú ý nhiều đến câu chữ vì mỗi ý trong cuốn sách giống như lời khuyên của tác giả với bạn đọc. Nó khơi gợi lại niềm tin đã bị hao hụt bấy lâu, chứng minh thật rõ ràng, mạch lạc những suy nghĩ hoài nghi về bản thân mỗi người. Cách hành văn gãy gọn, đôi khi hối thúc và kiên quyết của tác giả khiến khi nghiền ngẫm bạn sẽ cảm nhận như đang gặp phải người hướng dẫn đầy nghiêm khắc nhưng cũng thật tận tâm. Tuy không có những mẩu chuyện minh họa, những lời kể sâu lắng nhưng cuốn sách đã đến với bạn đọc bằng những gì mộc mạc, cô đọng nhất.   Mời các bạn đón đọc 28 Ngày Chuẩn Bị Cho Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn của tác giả Sandra Anne Taylor.
Trò Đùa Của Sự Ngẫu Nhiên - Giải Mã Bí Ẩn Quanh Những Điều Tình Cờ
Trò đùa của sự ngẫu nhiên là cuốn sách viết về những lối tư duy sai sót trong nhận thức của con người. Đây là cuốn sách đầu tiên trong series “Incerto” (Tính bất định) của Nassim Nicholas Taleb. Trong cuốn sách này, Taleb nêu ra các thiên kiến sai lầm của con người về sự ngẫu nhiên. Theo đó, con người thường: 1. Đánh giá quá cao quan hệ nhân – quả. Ví dụ, người thành công do họ từng thành công trong quá khứ và thường vô thức bắt chước theo một số đặc điểm mà họ ngộ nhận rằng điều này mang đến thành công. 2. Lý giải thế giới theo cách dễ hiểu hơn thực tế. Luôn cố gắng giải thích những điều ngẫu nhiên không phải là ngẫu nhiên. Hai thiên kiến trên được lồng ghép, chia tách một cách tinh tế thông qua ba phần: 1. Lời cảnh báo của Solon: Lịch sử và thuộc tích khó nắm bắt của các sự kiện hiếm gặp (thiên nga đen). Đồng thời phân tích những tác động nặng nề của các sự kiện hiếm gặp trong cuộc sống và trên thị trường 2. Những con khỉ và chiếc máy đánh chữ: Trình bày những thiên kiến xác suất mà tác giả ghi nhận được trong sự nghiệp, bao gồm, thiên kiến kẻ sống sót, thiên kiến méo mó về xác suất và sự ngẫu nhiên. 3. Sáp trong tai: Quá trình đương đầu với sự bất định của con người và một vài mánh khóe để vượt qua. *** [REVIEW SÁCH - TRÒ ĐÙA CỦA SỰ NGẪU NHIÊN] Bóc mẽ những góc khuất mù quáng ăn sâu trong lối tư duy luẩn quẩn của con người ngày nay Trò đùa của sự ngẫu nhiên là cuốn sách viết về những lối tư duy sai sót về sự ngẫu nhiên trong nhận thức của con người. Đây là cuốn sách đầu tiên trong series “Incerto” (Tính bất định) của Nassim Nicholas Taleb - bộ sách đã khơi mào cho cuộc chiến bất tận giữa sự thật trần trụi “99.9% thành tích đạt được là nhờ vào tình cờ và may mắn” thay vì những tổng thống tai to mặt lớn hay các vị CEO, chuyên gia cao cấp có sức mạnh khuynh đảo thị trường trên phố Wall - những người giàu có nhờ vào tài trí thiên bẩm, bộ não sắc sảo hay sự nỗ lực chăm chỉ. Bộ series sách này với những đại diện xuất sắc như Trò đùa của sự ngẫu nhiên (Fooled by Randomness) – một trong 75 cuốn sách thay đổi tư duy ấn tượng nhất mọi thời đại (Fortune) hay Thiên nga đen (The Black Swan) – Top 12 cuốn sách có ảnh hưởng nhất kể từ Thế chiến 2 do The Sunday Times bình chọn, đã giúp tên tuổi Nassim Nicholas Taleb không còn xa lạ với hàng triệu triệu độc giả trên thế giới. Người mà chuyên bóc mẽ những góc khuất mù quáng vốn ăn sâu bén rễ trong tư duy con người ngày nay.   Cuốn sách này không phải một luận thuyết, và càng không phải công trình khoa học. Ông muốn cuốn sách của mình gần gũi hơn với người đọc, nhưng dưới áp lực của bạn bè và độc giả, qua các lần tái bản, ông đã phải bổ sung thêm phần tài liệu tham khảo và công trình có liên quan. Phương châm của ông là muốn trêu chọc những người đề cao quá mức bản thân và lượng kiến thức của mình. Bằng ví dụ đầu tiên là trong thế giới kinh doanh, khi mà công chúng thường xuýt xoa với khối tài sản hàng trăm tỷ đô – la của những người thành công đỉnh cao. Nhưng nếu xét ở khía cạnh xác suất để có được thành công như vậy, thật không khó để tìm thấy một vài người đạt thành tích xuất sắc nhờ khả năng kinh doanh may mắn (yếu tố thiên thời địa lợi). Tương tự, giả sử có một tỷ con khỉ cùng tập đánh máy, sẽ có khả năng tìm thấy một con khỉ hoàn thành xuất sắc phiên bản sử thi Odyssey. Điều này không đồng nghĩa với việc con khỉ đó có năng lực sáng tác ra một tuyệt phẩm tương tự Odyssey. Do đó, nếu chỉ nhìn thấy vài cá thể thành công mà quy chụp cho tất cả, bỏ qua yếu tố tỷ lệ trên quy mô thì chúng ta đang bị xác suất che mắt. Trò đùa của sự ngẫu nhiên đã đưa ra vô vàn những ví dụ cho thấy con người dễ bị sự ngẫu nhiên giăng bẫy như thế nào, cái bẫy đến từ chính sự tự tin đến mức ngạo mạn về kiến thức cá nhân của bản thân họ. Sự am hiểu không đến nơi đến chốn về xác suất, tính bất định và mức độ rủi ro đã đẩy chúng ta rơi vào vòng luẩn quẩn trong nhận thức. Sự thành công lâu dài của một nhà giao dịch “bảo thủ”, chấp nhận khoản lỗ nhỏ để duy trì phần thắng chung cuộc to hơn, đối lập với tình trạng sớm nở tối tàn của các nhà đầu tư háo thắng, chuyên thực hiện những giao dịch lãi to đi kèm với rủi ro lớn (một số nhà đầu tư bị bật bãi còn không tin mình mắc sai lầm). Hay giữa một nha sĩ “cực kỳ giàu có” tại thị trấn nhỏ so với tình trạng bấp bênh của những ngôi sao nhạc Rock xa hoa, các doanh nhân sưu tập máy bay tại các thành phố lớn. Một nhà giao dịch mới nổi, ngông cuồng có thể được xem là nhân tài đầu tư khi kiếm được 80 triệu đô la cho ngân hàng nhưng lại có thể sa tay làm thiệt hại 300 triệu đô la chỉ trong một mùa hè. Sự đối nghịch này đến từ một nguyên nhân cơ bản: rủi ro lớn xuất hiện bất chợt có thể quét sạch nỗ lực tích cóp từ nhiều năm trước. Là một cây bút lạnh lùng và có phần chua ngoa, Taleb chỉ mặt đặt tên những “tri thức vô học” viết ra những cuốn sách theo kiểu “Tư duy triệu phú” hoặc kiểu Những công thức thành công vốn được quảng bá nhan nhản trên thị trường. Những tri thức giả hiệu này đang nhận thức sai về bản chất của vấn đề làm giàu, cái mà thậm chí tác giả của một quyển sách đã phải nghiên cứu 1,000 triệu phú để đưa ra được nhận định rằng: các đúc kết theo kiểu chăm chỉ và kiên trì là tố chất cần có của những triệu phú. Nhưng thực tế là gì? Đó là hàng triệu triệu ông chủ rất chăm chỉ, kiên trì và kết quả là lụi bại trắng tay. Hoặc nếu như mạo hiểm là tiền đề của thành công thì cũng có một con số không đếm xuể những doanh nghiệp phá sản vì lý do yêu mạo hiểm. Trong lĩnh vực y khoa, tình trạng ngộ nhận giữa ý nghĩa các con số thống kê cũng có thể dẫn đến những hậu quả tai hại. Một bệnh nhân ung thư ác tính sẽ bớt tuyệt vọng khi phát hiện ra sự khác nhau giữa trung vị thời gian sống thêm 8 tháng so với thời gian sống trung bình dài hơn. Theo Taleb, khái niệm trung vị được sử dụng trong y học không mô tả được phân phối xác suất. Cuốn sách này hàm chứa những suy nghĩ mộc mạc gan góc của tác giả, nó loại bỏ tất cả những thứ tri thức đi vay mượn, để tạo nên sự riêng biệt. Nhấn mạnh trong nó là thuật toán của sự ngẫu nhiên, được thì được tất hoặc không có gì cả. Trò đùa của sự ngẫu nhiên về uy tín không thể so với Thiên nga đen (cùng tác giả) nhưng cũng dọn đường để Thiên nga đen ra đời. Chỉ vì không thể tìm thấy cá thể thiên nga đen trong hàng vạn thiên nga trắng, chúng ta cũng không thể đoan chắc rằng thế giới không tồn tại thiên nga đen. Sự kiện hiếm gặp này có giá trị phủ định toàn bộ kết luận như đinh đóng cột trong cách thức con người nhìn nhận thế giới.   Mời các bạn đón đọc Trò Đùa Của Sự Ngẫu Nhiên - Giải Mã Bí Ẩn Quanh Những Điều Tình Cờ của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Một Cách Để Của Cho Con
MỘT CÁCH ĐỂ CỦA CHO CON Muốn cho con cái sau có quyền cao chức trọng, nhà ngói cây mít, ao cả ruộng liền là lẽ thường tình của mọi người. Vị lòng ước ao ấy mà lắm người chắt bóp từng đồng, dè sẻn từng li, ăn nhịn để dành, mong gây dựng cho con cái mai sau. Tuy phải khó nhọc, hoặc dầm nắng dãi mưa, hoặc chân bùn tay lấm, hoặc chèo non vượt biển, mà miễn kiếm được dư dật ít nhiều dành dịn nay tí mai tí, lâu dần thành tiền đống để lại cho con làm vốn liếng là cũng không há răng hở môi phàn nàn chi cả. Có khi thương con quá, đến nỗi không nỡ trái ý, muốn sao cho vậy, không dám bắt học hành, sợ con phải nhọc mà thường nghĩ thầm rằng : ngày nay là buổi kim tiền thiết huyết, nay ta dành dịn có tiền thì nhờ oai đồng bạc dẫu đổi trắng thay đen còn được, huống chưng là lo danh phận cho con, tưởng dễ như dở bàn tay có khó gì. Vả chăng đến khi con ta nhớn khôn lên, sẵn đã có vốn liếng nó làm ruộng đi buôn, làm gì chả đủ được sung-sướng, tội gì bắt nó vùi đầu vào quyển sách suốt ngày cho mệt thân nó. Mà lại lắm người văn hay chữ tốt nhưng vẫn cũng xác như vờ, sơ như rộng thì tội gì ta bắt con ta mỏi óc nhọc xác làm chi. Ôi ! Thương con đến thế thật không thương phải đường ! Cái lý tưởng để của chìm của nổi cho con còn hơn là cho con ăn học thật là sai lầm lắm lắm. Ta đã thấy bao nhiêu nhà trọc-phú chỉ lắm của nhiều tiền mà óc rỗng tếch, ngu si, dại dột, tròng vào chữ như xem vào tường, hay phải lừa đảo, người bảo phải chả theo, chỉ nghe kẻ nói dối, nên chẳng bao lâu phải mình trần chôn-chã, chơ thân cụ còn hai bàn tay trắng. Đến bấy giờ tiền hết gạo không lấy gì làm cách sinh nhai, tất phải xoay ra cách lường thầy phản bạn, dối-da gian-tham, nhân cách con người sao cho giữ được, còn nói chi đến sự chia bùi sẻ ngọt, báo đáp sinh thành. Nước đã đến chân, nhẩy sao cho kịp, vì cha mẹ lo không phải đường, tính chẳng ra lối mà dí đại họa cho con. Trông người phải ngắm đến ta, ta há chả nên lợi dụng cái nhầm của người mà định liệu cách để của cho con ta sau này thế nào cho phải đường ư. Ta nên nhận biết rằng, thế-kỷ ngày nay là thế-kỷ lý luật, khôn được dại thua, hớ hênh thiệt của, vô ý mất tiền, vì lắm kẻ hiểm thâm vô lại, dùng thiên phương bách kế, phép quỉ chước ma để bóc tước anh khờ, anh dốt, chẳng thương chi người dại, không xót gì kẻ ngu. Ngày xưa, người dốt nát đần độn nhưng chịu cằm cụi chũi đụt làm ăn thì còn giữ được của, nhưng ngày nay người dốt nát, kẻ ngu si khó giữ được của mà ăn ; cho nên ta phải lo trước nghĩ sau thế nào cho con ta sau này có thể cạnh tranh với người đời quỷ quyệt. Đi qua rừng rậm lắm loài ác thú, tất phải có khí giới mấy bảo toàn được tính mệnh ; ở đời quỷ quyệt, tất phải khôn giỏi mới có thể bảo hiểm được thân mình. Đành rằng cái khôn giỏi là những khí giới mạnh để hộ vệ cho người, nhưng tìm đâu thấy, lấy đâu được ? Xin đáp rằng : sự khôn giỏi hay ẩn núp trong những quyển sách tốt. Thực vậy, những sách tốt là những tiếng của bạn hiền khuyên nhủ êm đềm ta làm những điều hay, dạy dỗ ta ngọt ngào những nhẽ phải, miễn là ta biết kiên tâm bền chí mà học tập, vui lòng mà tuân theo là được. Thủa xưa, ông Drouot nhà nghèo cảnh khổ, chỉ nhờ có học mà nên khanh tướng, vẻ vang mày mặt rõ ràng mẹ cha ; bà Mạnh-mẫu, mẹ góa con côi, chỉ biết chăm cho con học hành mà được hiển vinh sung sướng, tiếng thơm để lại nghìn thu. Muôn nghìn người khác nhờ có học mà được vinh thân phì gia kể sao cho hết. Thế mới biết cổ-nhân nói : « Để nghìn vàng cho con không bằng dạy con một quyển sách », thật là có lý lắm. Vậy, bất cứ ta muốn sau này cho con làm nghề gì, trước hết ta nên cho học đến nơi đến chốn đã, mà nếu có thể cho học được thì những cách lối tắt đường ngang mong cho chóng được cái danh giá hão huyền, ta chớ nên dùng đến, vì nghề nào cũng vậy, làm ruộng, đi buôn, làm thợ, nếu có học rộng biết nhiều tất có cơ mở mang to tát được. Xem như những nhà nông công thương các nước văn-minh lập nên nghiệp nhớn, có danh tiếng lừng lẫy hoàn cầu, hầu hết là những tay cự phách trong làng nho, xuất thân ra đường thực-nghiệp, chứ những người vô học thức đương sao nổi những việc nhớn được. Nói tóm lại là hễ cho con học được đến nơi đến chốn, tức là để cho con cái của rất chắc chắn vậy. D.Q.H. *** 1) GƯƠNG-PHONG-TỤC Thiên-hạ mỗi nước có một phong-tục, mà trong nước cũng mỗi nơi có mỗi phong-tục. Những nhời ca-dao này tức là cái tinh thần hồn phách của thói tục trong nước hiện ra. Hễ thói tục hay thời có câu ca-dao hay, thói tục dở thì có câu ca-dao dở. Điều hơn nhẽ thiệt, kẻ dại người khôn, không sự gì là không đủ. Cũng là một cái gương cho người trong nước ta soi chung. Không cứ nhớn nhỏ giai gái, ai cũng nên đem cái gương này mà soi vào mình, điều hay thì nghĩ xem mình có được như thế không, điều dở thì xét xem mình có phải như thế không. Hay khen hèn chê, nào ai có búng miệng thiên-hạ. Tốt phô xấu đậy, chửa dễ mà che mắt thế-gian. Nhời ông bà cổ sơ nói, chẳng điều bỏ đi ; thực là một sự khuyên răn rứt thiết cho người ta, không phải là để nghêu ngao cho đỡ buồn mà thôi. Xưa kia ta chỉ học sách quốc-phong nước Tầu, thì chưa ai chép đến sách này. Từ khi có lối học mới thì ta mới biết cái thói tục của mình là sự cần hơn. Nên cũng đã một vài người có chí, chép nhặt lấy mấy nhời qua ở các miền quê, mà ghi làm quốc-phong của nước mình. Những sách ấy chép có ba lối : một là chép theo lối quốc-phong nước Tầu mà chia ra từng phủ từng huyện ; hai là theo lời ca mà chia loài mục, như là mục cây cỏ, mục núi sông ; ba là dịch nghĩa nhời ca làm câu thơ chữ nho, mỗi câu bốn năm chữ, như lối thơ quốc-phong nước Tầu. Mỗi sách mỗi lối cũng là có một ý kiến cả. Đến như sách này, là góp nhặt mọi nhời ca mà suy xét tình ý, xem câu nào ý gì sẽ lựa theo mà chia mục, cả thảy mười mục là ba mươi tám tiết, trước hết lấy sự luân-lý làm đầu, rồi đến các bực người, các giọng nói, nhân tình thế sự, khí đất tiết giời, gần từ trong nhà, xa đến ngoài nước, loài nào mục ấy, làm cho người xem mở sách thấy nghĩa ngay, còn những nhời chưa rõ là tình ý gì, mà nhời nhẽ hay, thì cũng chép phụ xuống cuối sách, gọi là ghi nhớ lấy nhời cổ tích mà thôi. Sách này là biên chép, không phải là đặt ra, nói hay nói dở là tự nhời người xưa, mà biết dở biết hay, thì ở lòng người xem sách, duy những nhời chua bàn, là người chép sách có phụ thêm ý mình, làm cho rõ nghĩa, song cũng phần nhiều là dẫn nhời phương-ngôn tục-ngữ là điển-tích cho rõ, là nói có sách mách có chứng, không dám tự ý riêng mà nói phải lấy một mình. Song nhời ca-dao trong một nước có nhẽ còn nhiều, sách này tuy rằng góp nhặt đã kỹ, nhưng mà tai mắt một người đã lấy đâu làm đủ được, vả lại các bài ấy phần nhiều là sao ở miệng người, không phải là có bản sẵn, nên dẫu so xét cũng chưa chắc đã khỏi sự sai nhầm, nếu sau này các ông biết rộng, có ý giúp vào, góp gió làm bão, như gấm thêm hoa, cho cái gương soi chung trong nước một ngày một tỏ, mà tai mắt chúng ta càng trông xa nghe rộng mãi ra, ấy là phần trông mong về những người thông thái. ĐOÀN-DUY-BÌNH Mời các bạn đón đọc Một Cách Để Của Cho Con của tác giả D.Q.H.