Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lịch Sử Hình Thành Trái Đất Theo Lời Giảng Dạy Của Người Pleiadian (Teri Wade)

Trước hết nhân loại cần nhận ra rằng thời gian có thể làm thay đổi và lịch sử có thể được sửa đổi bởi vì chúng không được viết lên đá mà đó là 1 dòng thời gian liên tục của các sự kiện. Nhưng, hãy nhớ rằng mỗi sự kiện thể hiện 1 dòng thời gian khác nhau và chúng ta là con người có thể nhảy các mốc thời gian đó một cách riêng lẻ và tập thể.

Vũ trụ mà chúng ta đang sống bắt đầu khoảng 20 tỷ năm trước.

Khoảng 4,5 tỷ năm trước, Trái đất đã trải qua một quá trình mở rộng khi được hình thành từ cát bụi và khí hydro. Trong suốt quá trình hình thành hóa học - vật lý này, các tia sáng từ Nguồn thánh thần tự tách ra thành các đơn vị có ý thức mà chúng ta gọi là linh hồn.

Người Pleiadian quyết định nhúng một phần năng lượng nhỏ bé của họ vào trái đất đang hình thành để trải nghiệm linh hồn được tốt hơn.

Họ đã tạo ra vô số các kiểu mẫu DNA. Chúng được gọi là các mã ánh sáng với nhiều loại năng lượng khác nhau giảm dần theo mức độ rung động. Các mã DNA này là cấu trúc xây dựng loài người như chúng ta biết. Tìm mua: Lịch Sử Hình Thành Trái Đất Theo Lời Giảng Dạy Của Người Pleiadian TiKi Lazada Shopee

Những người Pleiadian cấp độ 9D này đã hạ rung động xuống mật độ 7D, mật độ thực tế đầu tiên có thể trải nghiệm cuộc sống với tư cách là cư dân đến từ các vì sao trên Trái Đất đang hình thành.

Họ rải hạt giống năng lượng của mình khắp vũ trụ trong các cụm riêng lẻ trên Dải Ngân Hà, họ bắt đầu hóa thân vào một số khu vực khác nhau của thiên hà.

Trong Dải Ngân hà, họ đã gieo năng lượng vào các góc phần tư khác nhau. Góc phần tư đầu tiên được gieo năng lượng là vùng Lyra sử dụng các mã DNA của họ. Phải mất gần 900 triệu năm để người Pleiadian hoàn thành quá trình này và trong vòng 100 triệu năm qua, họ mới có thể tạo ra tất cả các dạng sống mật độ 3D nơi mà loài người hiện nay đang bắt đầu phát triển.

Quá trình giảm dần rung động với hình thức này được gọi là sự phá hủy. Điều này có nghĩa là quá trình giảm mật độ rung động cho đến khi nó đạt đến sự tồn tại đơn giản nhất của nguyên tố thuần túy. Đây là mật độ rung động mà chúng ta gọi là sự tồn tại phi hữu cơ của mật độ 1D. Đó là hình thức tồn tại đơn giản nhất của nguyên tử hydro. Một khi hydro được truyền cho ý thức, quá trình tiến hóa bắt đầu.

Hình dạng con người mà chúng ta biết rất rõ có tay, chân, thân, đầu, v.v. là kết quả của thí nghiệm & nghiên cứu di truyền trong khoảng 900 triệu năm. Hầu hết các sinh vật sống ở dạng động vật trên Trái Đất là tác dụng phụ của nghiên cứu này.

Có các dạng sống tồn tại dưới nhiều hình thức mà chúng ta không thể nhận ra. Có các dạng sống dựa trên carbon, dạng sống dựa trên silicone và thậm chí cả các dạng sống dựa trên lithium. Tất cả sự sống bắt đầu từ trạng thái đơn giản nhất. Nghe có vẻ điên rồ nhưng ngay cả hydro cũng có một mức độ ý thức.

Người Pleiadian nhận ra rằng họ có thể cảm nhận ý thức của nguyên tử hydro hoặc một nguyên tố kim loại nặng và làm biến đổi cấu trúc nguyên tử để tạo ra các dạng sống khác nhau.

Tất cả các dạng sống có xu hướng trở nên có tổ chức và phát triển cao cấp hơn trong ý thức theo thời gian.

Các nhà khoa học của Người Pleiadian không có ý tưởng tạo ra các loại đột biến gen hay lai ghép giữa các sinh vật sống.

Khi sự sống bắt đầu phát triển từ rung động mật độ 1D trở lên, khoáng sản và thực vật phát triển mức độ rung động trở nên tiến hóa hơn, tạo thành động vật... Các linh thú có mật độ rung động cao hơn có thể hóa thân vào các mạch máu và thịt. Do đó, loài người và động vật ăn thịt có ý thức từ động vật trở lên. Nhưng hình thức đỉnh cao của mật độ rung động này là hình dạng con người như chúng ta hiện nay.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lịch Sử Hình Thành Trái Đất Theo Lời Giảng Dạy Của Người Pleiadian PDF của tác giả Teri Wade nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thờ Trời Tu Phật (1929) - Nguyễn Kim Muôn
Vì sao có quyển này ra đời? À! có hỏi vậy mới biết tại sao có quyển này ra đời, vì nó không phải là kinh sách chi, mà cũng không phải rút dịch bởi nơi kinh quyện nào, mà cũng không phải chính mình tôi viết ra nữa. Cúi xin nghe: Thuở nay tôi dư biết có câu chữ nói: Nhơn thân bất độ hà thân độ, thế cho nên từ ngày phát nguyện tu hành thì chỉ trong thanh tịnh mà tu cho mình, chớ kỳ thật là chưa tính là độ ai, hay là dìu dắc ai theo với. Sau khi cái ngày tầm được pháp môn Vô Vi rồi, thì trong trí đã lập nguyện sẵng, tính đoạn trần thế mà xuất gia. Thờ Trời Tu PhậtNXB Xưa Nay 1929Nguyễn Kim Muôn102 TrangFile PDF-SCAN
Bát Quái Đạo số 12 (1938) - Hải Bằng
Bát-Quái-Đạo càng về sau càng ly kỳ, sẽ có nhiều cuộc thử tài của các phái võ, phái Đại Thiếu-Lâm sẽ phái người xuống giúp bạn Nam Thiếu-Lâm để đối trội với nhân vật phái Ngũ – Long bên Tây - Tạng. Nghĩa là trong pho chuyện này có đủ hết mặt các tay anh-hùng về đời nhà Thanh. Tự số 3 trở đi sẽ giảng vũ-thuật, nếu tiện sẽ có những hình vẽ rất rõ ràng, để các bạn dễ hiểu hơn, nhưng công việc ấy rất khó, gia cố hết sức để làm vừa lòng các bạn. Bát Quái Đạo Số 12NXB Đông Quang Văn Đoàn 1938Hải Bằng16 TrangFile PDF-SCAN
Biết Lối Quy Y - Thiều Chửu (NXB Đuốc Tuệ 1940)
Quy, nói đủ là quy-y. Quy-y nghĩa là minh tự biết minh say đắm cảnh đời, làm nhiều tội lỗi, cũng như người con cứng đầu cứng cổ, không ăn lời cha mẹ dạy, bỏ nhà ra đi đua đòi bạn xấu, làm càn làm bậy, đến nỗi tấm thân bơ vơ đất khác, đói khát giãi dầu, cảnh khổ ê trề, bây giờ mới nhớ đến cha mẹ mà quay đầu về ngay, thì lại được yên ổn xung xướng ngay. Lại như người đang bị ngã xuống bể, ngoi ngóp sắp chết, thấy có thuyền đến, liền ngoi lại ngay, khi lên được trên thuyền, thay áo khỏi rét, ăn cơm khỏi đói, hết sự sợ lại khốn khổ, được hưởng cái phúc no ấm xênh sang, thế là quy y. Biết Lối Quy YNXB Đuốc Tuệ 1940Thiều Chửu (Nguyễn Hữu Kha)22 TrangFile PDF-SCAN
Đập vỡ vỏ hồ đào - Thích Nhất Hạnh
Lời tựaĐập vỡ vỏ hồ đào – Thiền sư Nhất Hạnh giảng Trung Quán LuậnNếu trong khoa học có những khối óc như Einstein thì trong Phật học cũng có những trái tim như Long Thọ. Bộ óc là để thấy và để hiểu, trái tim cũng là để thấy và để hiểu. Không phải chỉ có bộ óc mới biết lý luận. Trái tim cũng biết lý luận, và có khi trái tim có thể đi xa hơn bộ óc, bởi vì trong trái tim có nhiều trực giác hơn. Biện chứng pháp của Long Thọ là một loại lý luận siêu tuyệt có công năng phá vỡ mọi phạm trù khái niệm để thực tại có cơ hội hiển bày. Ngôn ngữ của biện chứng pháp có khả năng phá tung được màng lưới khái niệm. Ngôn ngữ của toán học chưa làm được như thế. Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng. Long Thọ thừa hưởng không gian khoáng đạt do các cánh cửa ấy cung cấp và vì vậy đã có khả năng khám phá trong kinh điển Phật giáo những viên bảo châu sáng ngời bị chôn lấp trong nền văn học Nikaya. Long Thọ nắm được cái tinh hoa của phương pháp học Phật giáo: loại bỏ được cái nhìn nhị nguyên để giúp tiếp xúc được với thực tại, một thứ thực tại bất khả đắc đối với những ai còn kẹt vào những phạm trù của khái niệm. Khoa học còn đang vùng vẫy để thoát ra khỏi cái nhìn nhị nguyên ấy: sinh-diệt, có-không, thành-hoại, tới-đi, trong-ngoài, chủ thể và đối tượng. Bụt Thích Ca nói: Có cái không sinh, không diệt, không có, không không, không thành, không hoại để làm chỗ quay về cho tất cả những cái có, không, sinh, diệt, thành, hoại. Mà cái không sinh không diệt ấy, cái không chủ thể không đối tượng ấy, mình chỉ có thể tiếp cận được khi mình vượt thoát màn lưới khái niệm nhị nguyên. Trung Quán là nhìn cho rõ để vượt ra được màn lưới nhị nguyên. Biện chứng pháp Trung Quán, theo Long Thọ, là chìa khóa của phương pháp học Phật giáo. Tác phẩm tiêu biểu nhất của bộ óc và trái tim Phật học này là Trung Quán Luận. Long Thọ không cần sử dụng tới bất cứ một kinh điển Đại thừa nào để thiết lập pháp môn của mình. Ông chỉ sử dụng các kinh điển truyền thống nguyên thỉ. Ông chỉ cần trích dẫn một vài kinh như kinh Kaccāyanagotta Sutta. Ông không cần viện dẫn bất cứ một kinh Đại thừa nào.Nếu Einstein có thuyết Tương Đối Luận thì Long Thọ có Tương Đãi Luận. Tương đãi có khác với tương đối. Trong tuệ giác của đạo Phật, cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái kia không có mặt thì cái này cũng không. Vì ngắn cho nên mới có dài, vì có cho nên mới có không, vì sinh cho nên mới có diệt, vì nhơ cho nên mới có sạch, nhờ sáng cho nên mới có tối. Ta có thể vượt thoát cái thế tương đãi ấy để đi tới cái thấy bất nhị. Biện chứng pháp Trung Quán giúp ta làm việc ấy. Theo tuệ giác Trung Quán, nếu khoa học không đi mau được là vì khoa học gia còn kẹt vào cái thấy nhị nguyên, nhất là về mặt chủ thể và đối tượng, tâm thức và đối tượng tâm thức. Kinh Kaccāyanagotta cho ta biết là người đời phần lớn đang bị kẹt vào hai ý niệm có và không. Kinh Bản Pháp (S.2, 149-150) và kinh tương đương Tạp A Hàm (Tạp 456) cho ta thấy cái sáng có là nhờ cái tối, cái sạch có là nhờ cái nhơ, cái không gian có là vì có cái vật thể, cái không có là nhờ cái có, cái diệt có là vì có cái sinh. Đó là những câu kinh làm nền tảng cho tuệ giác tương đãi. Niết bàn là cái thực tại không sinh, không diệt, không có, không không, không không gian cũng không vật thể… và Niết bàn có thể chứng đắc nhờ cái thấy bất nhị. Ban đầu ta có ý niệm tương duyên (pratītyasamutpāda), rồi ta có các ý niệm tương sinh, tương đãi. Sau đó ta lại có ý niệm tương tức và tương nhập. Tất cả cũng đều có một nội dung như nhau. Những ý niệm không, giả danh và trung đạo cũng đều có ý nghĩa đó.Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn. Những phẩm này đại diện được cho toàn bộ Trung Quán Luận.Thầy Long Thọ sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai trước Thiên chúa giáng sinh(B.C.), trong một gia đình Ấn Độ giáo. Lớn lên thầy đã học Phật và theo Phật giáo. Thầy đã sáng tác bằng tiếng Phạn thuần túy, thay vì bằng tiếng Pali hay bằng tiếng Phạn lai Phật giáo.Tác phẩm Trung Quán Luận của thầy có mục đích xiển dương Đệ Nhất Nghĩa Đế (Paramartha) của đạo Bụt. Đệ nhất nghĩa đế là sự thật tuyệt đối. Ngoài sự thật tuyệt đối còn sự thật tương đối, tức là Thế tục đế (Saṃvrti). Sự thật tương đối tuy không phải là sự thật tuyệt đối nhưng cũng có khả năng chỉ bày, chuyển hóa và trị liệu, do đó không phải là cái gì chống đối lại với sự thật tuyệt đối. Mục đích của Long Thọ, như thế không phải là để bài bác chống đối sự thật tương đối mà chỉ là để diễn bày sự thật tuyệt đối. Nếu không có sự thật tuyệt đối thì thiếu phương tiện hướng dẫn thể nhập thực tại tuyệt đối, tức chân như hay Niết bàn. Vì vậy trong khi đọc Trung Quán Luận, ta thấy có khi như Long Thọ đang phê bình các bộ phái Phật giáo đương thời như Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) hay Độc Tử Bộ (Pudgalavāda) hay Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika). Long Thọ không đứng về phía một bộ phái nào, không bênh vực một bộ phái nào, cũng không chỉ trích bài bác một bộ phái nào. Ông chỉ có ý nguyện trình bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của đạo Bụt, thế thôi.