Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sách Sự Thật - The Book Of Truth - Phần 2 (Maria Divine Mercy)

LỜI NÓI ĐẦU

Trang web sachsuthat.com (Tiếng Việt) đã được lập ra để công bố một loạt các Thông Điệp của Thiên Chúa mà một phụ nữ Công Giáo đã lập gia đình, một gia đình trẻ sống ở châu Âu, cho biết rằng cô đã nhận được từ Thiên Chúa Ba Ngôi cũng như từ Đức Trinh Nữ Maria, Đấng muốn được mọi người biết đến bằng một tước hiệu mới "Mẹ của Ơn Cứu Rỗi".

Người phụ nữ này muốn được biết đến với tên gọi là Maria Tông Đồ Lòng Thương Xót và cô nói rằng đó là mong muốn của Chúa Giêsu, rằng cô vẫn phải ẩn danh để bảo vệ gia đình và tránh bất kỳ sự xao lãng nào đối với các Thông Điệp. Tên gọi Tông Đồ Lòng Thương Xót được dùng làm tên gọi của cô vì Cuộc Cảnh Báo, một biến cố siêu nhiên, một Hành Động Can Thiệp của Thiên Chúa để cứu thế giới, là biểu hiện của Lòng Thương Xót.

Cô đã nhận được các Thông Điệp kể từ tháng 11 năm 2010. Cô đã nhận được 1.331 Thông Điệp cùng với 170 Chiến Dịch Cầu Nguyện. Theo các nhà thần học độc lập, các Thông Điệp củng cố các giáo huấn Công Giáo về mặt đức tin và luân lý. Maria đã nhận được sự hỗ trợ của các tín hữu bao gồm hàng trăm linh mục và các Kitô hữu tình nguyện từ khắp nơi trên thế giới, để các Thông Điệp được tiết lộ một cách nhanh chóng ra thế giới. Cô nói Thông Điệp được tiết lộ cho thế giới vì những điều tốt đẹp của chính Thông Điệp và vì điều thiện hảo cho mọi người.

Tính đến tháng 1 năm 2015, các Thông Điệp đã được dịch sang 45 ngôn ngữ. Tìm mua: Sách Sự Thật - The Book Of Truth - Phần 2 TiKi Lazada Shopee

Cho dù được Giáo Hội chính thức chấp thuận hay không, nhưng qua giá trị của lòng sùng kính, cá nhân những người Công Giáo về mặt luân lý không bị bắt buộc phải tuân theo những thông điệp xuất phát từ bất kỳ nguồn mặc khải tư nào (ví dụ như những cuộc hiện ra, xuất thần nội tâm). Không giống với mặc khải công như là Kinh Thánh, bản thân Giáo Hội không bảo vệ thiên ý trong lĩnh vực mặc khải cá nhân.

Maria nhìn nhận rằng trong trường hợp những người tuyên bố là nhận những Thông Điệp có tính chất thánh thiêng thì những Thông Điệp ấy cần phải được xem xét vô cùng cẩn thận. Tương tự như vậy thì cô đã trình bày những Thông Điệp này cho Giáo Hội Công Giáo để có thể được xem xét một cách toàn diện và cô đã thực hiện điều ấy ngay từ khi bắt đầu Sứ Vụ này.

Tính cấp thiết của Thông Điệp

Các Thông Điệp được tiết lộ ra thế giới một cách nhanh chóng bởi vì cô nói rằng "chúng ta không có nhiều thời gian trước khi những biến cố này xảy ra trên thế giới và mọi người có quyền được biết sự thật để để xem xét lại cuộc sống của họ với hy vọng rằng linh hồn của họ được cứu rỗi."

Maria nói rằng Chúa Giêsu sẽ ban cho thế giới bằng chứng mà họ cần để nhận biết rằng Thiên Chúa hiện hữu thông qua một biến cố mà Người gọi là Cuộc Cảnh báo. Người nói rằng đó là một Hành động Can Thiệp Thánh Thiêng để khôi phục lại đức tin của các tín hữu và hoán cải những người không tin.

Chẳng bao lâu nữa biến cố này sẽ xảy ra trên thế giới và sẽ được tất cả mọi người có đủ trí khôn chứng kiến. Biến cố dường như sẽ kéo dài khoảng 15 phút và sẽ gây ra một cảm giác như nỗi đau bị thiêu đốt của Luyện Ngục dành cho tất cả mọi người tùy theo trạng thái linh hồn của họ.

Chúa Giêsu muốn cứu tất cả mọi người bao gồm cả những tội nhân cứng lòng nhất. Tất cả những ai ăn năn sẽ được cứu. Những ai không ăn năn sẽ được ban cho thời gian để ăn năn. Chúa Giêsu kêu gọi tất cả những những ai yêu mến Người cầu nguyện cho những linh hồn này bởi vì họ vẫn còn có thể được cứu nhờ những lời cầu nguyện và hy sinh.

Cuộc Cảnh báo sẽ xảy ra vì Thiên Chúa hằng thương xót và Người muốn ban cho nhân loại một cơ hội ăn năn hối cải để họ có thể vui hưởng Địa Đàng, sau khi Con của Người, Chúa Giêsu Kitô, trở lại để phán xét trong Cuộc Quang Lâm.

Maria nói rằng các Thông Điệp cũng đang được ban ra để giúp chuẩn bị thế giới cho Cuộc Quang Lâm của Chúa Kitô, vốn sẽ diễn ra sau Cuộc Cảnh Báo. Cô không biết khi nào vì Chúa Giêsu đã nói với cô chính Người cũng không biết, chỉ có Chúa Cha mới biết. Trước đó sẽ là một giai đoạn được gọi là Cơn Đại Nạn (khoảng thời gian ba năm rưỡi - chúng ta đang đi qua phần đầu của ba năm rưỡi đó).

Cô nói rằng cô đã được Chúa Giêsu Kitô truyền là không được phân tích các Thông Điệp hoặc thêm bất kỳ lời giải thích hoặc quan điểm cá nhân nào. Chúa Giêsu nói với cô rằng Người là tác giả và cô chỉ là người viết và rằng các Thông Điệp phải được công bố chính xác như khi cô nhận được - không được phép thay đổi bất cứ điều gì về nội dung.

Cô nhìn nhận rằng mặc khải của Thiên Chúa là không cần thiết đối với đức tin của một con người tin vào Thiên Chúa. Theo Maria, các Thông Điệp đang được ban ra để giúp củng cố niềm tin của con người và giúp họ chuẩn bị cho các biến cố trên thế giới, mà theo cô là có liên quan đến khoảng thời gian trước Cuộc Quang Lâm của Chúa Kitô.

Thông Điệp mà Maria nhận được củng cố các giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo liên quan đến đức tin và luân lý và đã được Chúa Giêsu Kitô trao cho nhân loại để giúp tái Phúc Âm hóa thế giới để các linh hồn có thể được cứu trước Cuộc Quang Lâm - Cuộc Phán Xét cuối cùng.

Các Thông Điệp được cô đón nhận trong sự xuất thần nội tâm, nhưng hàng ngày cô cũng nhìn thấy Chúa Giêsu theo cách siêu nhiên sau khi cầu nguyện. Trong trường hợp những Thông Điệp mà cô nhận được từ Đức Trinh Nữ Maria, thì những Thông Điệp được ban cho cô theo sau sự hiện ra cách riêng tư của Đức Trinh Nữ Maria trong nhà cô. Khi Thiên Chúa Cha ban cho cô Thông Điệp thì trước tiên cô nhìn thấy Chúa Giêsu theo cách siêu nhiên và sau đó cô được tỏ cho thấy Chúa Cha, theo cách siêu nhiên trong thời gian ngắn. Người trông khác với Chúa Giêsu, chỉ là hơi lớn tuổi hơn một chút và nét mặt của Người cũng khác.

Cầu nguyện sẽ giúp ngăn chặn thảm họa toàn cầu, nhưng rủi thay, theo Maria thì không có đủ lời cầu nguyện trên thế giới vì vậy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống thế giới với hậu quả tức thì. Động đất, sóng thần, lũ lụt, sóng nhiệt và phun trào núi lửa giờ đây sẽ bùng phát và gia tăng.

Chúa Giêsu đã nói với Maria rằng các Thông Điệp được tiết lộ với cô là Sách Sự Thật - loạt Thông Điệp cuối cùng của Thiên Chúa được truyền đạt cho thế giới trước Cuộc Quang Lâm và đã được báo trước trong Sách Daniel và Sách Khải Huyền. Những Thông Điệp này có nguồn gốc thánh thiêng và được ban ra bởi tình yêu tinh tuyền mà Thiên Chúa dành cho tất cả con cái của Người.

Chúa Giêsu cho Maria biết rằng cô là Sứ giả thứ 7, Vị Thiên Thần thứ 7 được gửi đến để tiết lộ cho thế giới nội dung của các Ấn trong Sách Khải Huyền mà chỉ có Chiên Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô mới có thể mở được. Người sẽ mở các Ấn và tiết lộ trước về các nội dung. Maria phải công bố những nội dung ấy khi mỗi Ấn được mở ra. Người đã nói với cô rằng cô là vị ngôn sứ thời cuối.

Hiện nay Maria đang nhận được sự linh hướng của Giáo Hội Công Giáo.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sách Sự Thật - The Book Of Truth - Phần 2 PDF của tác giả Maria Divine Mercy nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đập vỡ vỏ hồ đào - Thích Nhất Hạnh
Lời tựaĐập vỡ vỏ hồ đào – Thiền sư Nhất Hạnh giảng Trung Quán LuậnNếu trong khoa học có những khối óc như Einstein thì trong Phật học cũng có những trái tim như Long Thọ. Bộ óc là để thấy và để hiểu, trái tim cũng là để thấy và để hiểu. Không phải chỉ có bộ óc mới biết lý luận. Trái tim cũng biết lý luận, và có khi trái tim có thể đi xa hơn bộ óc, bởi vì trong trái tim có nhiều trực giác hơn. Biện chứng pháp của Long Thọ là một loại lý luận siêu tuyệt có công năng phá vỡ mọi phạm trù khái niệm để thực tại có cơ hội hiển bày. Ngôn ngữ của biện chứng pháp có khả năng phá tung được màng lưới khái niệm. Ngôn ngữ của toán học chưa làm được như thế.Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng. Long Thọ thừa hưởng không gian khoáng đạt do các cánh cửa ấy cung cấp và vì vậy đã có khả năng khám phá trong kinh điển Phật giáo những viên bảo châu sáng ngời bị chôn lấp trong nền văn học Nikaya. Long Thọ nắm được cái tinh hoa của phương pháp học Phật giáo: loại bỏ được cái nhìn nhị nguyên để giúp tiếp xúc được với thực tại, một thứ thực tại bất khả đắc đối với những ai còn kẹt vào những phạm trù của khái niệm. Khoa học còn đang vùng vẫy để thoát ra khỏi cái nhìn nhị nguyên ấy: sinh-diệt, có-không, thành-hoại, tới-đi, trong-ngoài, chủ thể và đối tượng. Bụt Thích Ca nói: Có cái không sinh, không diệt, không có, không không, không thành, không hoại để làm chỗ quay về cho tất cả những cái có, không, sinh, diệt, thành, hoại. Mà cái không sinh không diệt ấy, cái không chủ thể không đối tượng ấy, mình chỉ có thể tiếp cận được khi mình vượt thoát màn lưới khái niệm nhị nguyên. Trung Quán là nhìn cho rõ để vượt ra được màn lưới nhị nguyên. Biện chứng pháp Trung Quán, theo Long Thọ, là chìa khóa của phương pháp học Phật giáo. Tác phẩm tiêu biểu nhất của bộ óc và trái tim Phật học này là Trung Quán Luận. Long Thọ không cần sử dụng tới bất cứ một kinh điển Đại thừa nào để thiết lập pháp môn của mình. Ông chỉ sử dụng các kinh điển truyền thống nguyên thỉ. Ông chỉ cần trích dẫn một vài kinh như kinh Kaccāyanagotta Sutta. Ông không cần viện dẫn bất cứ một kinh Đại thừa nào. Nếu Einstein có thuyết Tương Đối Luận thì Long Thọ có Tương Đãi Luận. Tương đãi có khác với tương đối. Trong tuệ giác của đạo Phật, cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái kia không có mặt thì cái này cũng không. Vì ngắn cho nên mới có dài, vì có cho nên mới có không, vì sinh cho nên mới có diệt, vì nhơ cho nên mới có sạch, nhờ sáng cho nên mới có tối. Ta có thể vượt thoát cái thế tương đãi ấy để đi tới cái thấy bất nhị. Biện chứng pháp Trung Quán giúp ta làm việc ấy. Theo tuệ giác Trung Quán, nếu khoa học không đi mau được là vì khoa học gia còn kẹt vào cái thấy nhị nguyên, nhất là về mặt chủ thể và đối tượng, tâm thức và đối tượng tâm thức. Kinh Kaccāyanagotta cho ta biết là người đời phần lớn đang bị kẹt vào hai ý niệm có và không. Kinh Bản Pháp (S.2, 149-150) và kinh tương đương Tạp A Hàm (Tạp 456) cho ta thấy cái sáng có là nhờ cái tối, cái sạch có là nhờ cái nhơ, cái không gian có là vì có cái vật thể, cái không có là nhờ cái có, cái diệt có là vì có cái sinh. Đó là những câu kinh làm nền tảng cho tuệ giác tương đãi. Niết bàn là cái thực tại không sinh, không diệt, không có, không không, không không gian cũng không vật thể… và Niết bàn có thể chứng đắc nhờ cái thấy bất nhị. Ban đầu ta có ý niệm tương duyên (pratītyasamutpāda), rồi ta có các ý niệm tương sinh, tương đãi. Sau đó ta lại có ý niệm tương tức và tương nhập. Tất cả cũng đều có một nội dung như nhau. Những ý niệm không, giả danh và trung đạo cũng đều có ý nghĩa đó.Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn. Những phẩm này đại diện được cho toàn bộ Trung Quán Luận.Thầy Long Thọ sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai trước Thiên chúa giáng sinh(B.C.), trong một gia đình Ấn Độ giáo. Lớn lên thầy đã học Phật và theo Phật giáo. Thầy đã sáng tác bằng tiếng Phạn thuần túy, thay vì bằng tiếng Pali hay bằng tiếng Phạn lai Phật giáo.Tác phẩm Trung Quán Luận của thầy có mục đích xiển dương Đệ Nhất Nghĩa Đế (Paramartha) của đạo Bụt. Đệ nhất nghĩa đế là sự thật tuyệt đối. Ngoài sự thật tuyệt đối còn sự thật tương đối, tức là Thế tục đế (Saṃvrti). Sự thật tương đối tuy không phải là sự thật tuyệt đối nhưng cũng có khả năng chỉ bày, chuyển hóa và trị liệu, do đó không phải là cái gì chống đối lại với sự thật tuyệt đối. Mục đích của Long Thọ, như thế không phải là để bài bác chống đối sự thật tương đối mà chỉ là để diễn bày sự thật tuyệt đối. Nếu không có sự thật tuyệt đối thì thiếu phương tiện hướng dẫn thể nhập thực tại tuyệt đối, tức chân như hay Niết bàn. Vì vậy trong khi đọc Trung Quán Luận, ta thấy có khi như Long Thọ đang phê bình các bộ phái Phật giáo đương thời như Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) hay Độc Tử Bộ (Pudgalavāda) hay Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika). Long Thọ không đứng về phía một bộ phái nào, không bênh vực một bộ phái nào, cũng không chỉ trích bài bác một bộ phái nào. Ông chỉ có ý nguyện trình bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của đạo Bụt, thế thôi.
Phật Học Ngụ Ngôn Pháp Vị Quyển 1 PDF - Lê Khánh Hòa (NXB Bùi Văn Nhẩn 1930)
Kể lại một số câu chuyện ngụ ngôn về đạo phật, cũng là những lời răn dạy ở đời như: Lão Khờ ăn muối, con yêu bị giết, người tham tưới mía, cởi thuyền vạch sóng, người đói sợ gương.Phật Học Ngụ Ngôn Pháp Vị Quyển 1NXB Bùi Văn Nhẩn 1930Lê Khánh Hòa44 TrangFile PDF-SCAN
Tịnh Độ Huyền Cảnh PDF - Trí Hải (NXB Đức Lưu Phương 1935)
Pháp môn Tịnh độ tuy chư Phật, chư Tổ cùng chung khen ngợi, nhưng bậc sĩ phu đương thời đối với giáo lý cả đời của đức Phật chưa từng để mắt. Nếu chẳng phải trước kia đã có căn lành thì sao lại được nghe rồi tin tưởng sâu sắc! Nay nêu sơ lược một hai bộ kinh lớn và luận quan trọng, để khái quát những kinh luận khác, giúp cho mọi người biết được sự thù thắng của pháp môn này, dễ sinh lòng tin tưởng ưa thích.Tịnh Độ Huyền CảnhNXB Đức Lưu Phương 1935Trí Hải60 TrangFile PDF-SCAN
Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu Hội PDF - Phạm Hữu Đức (NXB Nguyễn Văn Của 1935)
Tổ Huệ Đăng đã lập Hội Thiên Thai Thiền giáo tông (1935), tại chùa Long Hòa, Bà Rịa nhằm đáp ứng tâm tư, tinh thần, mến mộ Phật giáo của các nhân sĩ tri thức yêu nước, Tăng Ni, Phật tử đạo Phật trong phong trào chấn hưng phật giáo tại Nam bộ. Mặt khác, thực dân Pháp đã ký nghị định cho phép các tổ chức Phật giáo được thành lập với mục đích dễ bề cai trị nhân dân, khai thác thuộc địa tại Việt Nam. Tôn chỉ của hội là duy trì và phát triển Phật giáo không chỉ dừng lại ở việc xây chùa, tạo tượng mà phải mở rộng hoằng dương phật pháp, phổ độ chúng sanh, đưa giáo lý Phật giáo vào đời sống nhân dân. Hội đã xuất bản tờ Bát Nhã Âm, quan tâm trước tác và chuyển ngữ nhiều kinh sách bằng chữ Nôm để vận động chấn hưng Phật giáo và hoằng dương chính pháp trong công cuộc chấn hưng Phật giáo.Sự thành lập Thiên Thai Thiền giáo tông nhằm đáp ứng tâm tư, tinh thần mến mộ Phật giáo của các nhân sĩ tri thức yêu nước, Tăng Ni, Phật tử đạo Phật trong phong trào chấn hưng Phật giáo tại Nam bộ. Với mục đích dễ bề cai trị và bình ổn nhân dân, khai thác thuộc địa tại Việt Nam, thực dân Pháp đã ký nghị định cho phép các tổ chức Phật giáo được thành lập. Do đó, Tổ Huệ Đăng đã lập Thiên Thai Thiền giáo tông Liên Hữu hội (1935), tại chùa Long Hòa, Bà Rịa.Tôn chỉ của Hội là duy trì và phát triển Phật giáo không chỉ dừng lại ở việc xây chùa, tạo tượng mà phải mở rộng hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sanh, đưa giáo lý Phật giáo vào đời sống nhân dân. Tổ Huệ Đăng và hội viên Thiên Thai Thiền giáo tông Liên Hữu hội thành lập các cơ sở tôn giáo, lập trường, mở lớp gia giáo và các đạo tràng giảng kinh, thuyết pháp. Đối tượng và tiêu chí của hội giúp các tầng lớp tri thức hiểu và có trí tuệ, dễ dàng học giáo lý, hiểu và tin sâu vào Phật pháp. Nhờ vậy, niềm tin và lý tưởng của mọi người vững chãi, đóng góp và hành động đúng trong công cuộc đổi mới của đất nước và chấn hưng Phật giáo nước nhà.Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu HộiNXB Nguyễn Văn Của 1935Phạm Hữu Đức52 TrangFile PDF-SCAN