Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả

Tác phẩm - Năm 1989, Những cậu bé kẽm lần đầu được xuất bản - Tháng 7 năm 1992, những đơn kiện Những cậu bé kẽm và S. Alexievich đầu tiên được gửi đi - Ngày 20 tháng 1 năm 1993, phiên xử đầu tiên diễn ra - Ngày 10 tháng 8 năm 2015, giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử gọi tên Svetlana Alexievich, dư luận một lần nữa lại dậy sóng… Vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Những cậu bé kẽm là thiên thứ ba trong loạt năm quyển của bộ Những giọng nói không tưởng gồm: Những nhân chứng cuối cùng, Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu Chernobyl và Thời second hand. Những cậu bé kẽm, một nhan đề khốc liệt – những xác người trong quan tài kẽm – những cái xác vừa mới mười tám đôi mươi – những cậu bé đẹp đẽ rạng ngời, vừa rời vòng tay cha mẹ, người thương để rồi trở về trong những cỗ quan tài kín bưng – “hàng vận chuyển 200”. Được viết bằng thể loại văn xuôi tư liệu cùng với tâm thế của một con người vị nhân phản chiến, cuốn sách đã khuấy lên một giai đoạn lịch sử đầy những tổn thương đau đớn, đã phác họa một bối cảnh, đã soi chiếu bằng một góc nhìn trước nay chưa từng được công bố. Những cậu bé kẽm là lời bộc bạch của những người sống sót trở về từ chiến tranh Afghanistan và của thân nhân những người đã mất. Đó là những dòng hồi ức khốc liệt, đẫm máu, thống khổ và vĩnh viễn làm thương tổn không chỉ thân thể mà còn tinh thần con người. Nó phơi bày cái phi nghĩa, vô nhân của một cuộc chiến tranh vô vọng. Những “Afghan” – những người Nga tham gia chiến tranh ở Afghanistan 1979 – 1989, những người ra đi trên danh nghĩa làm “nghĩa vụ quốc tế” rồi rút về trong thất bại, không bao giờ được biết niềm tự hào của thế hệ cha ông trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Người “may mắn” nằm lại trong những chiếc quan tài kẽm, số khác thân xác lang bạt nơi chiến trận. Kẻ sống sót trở về cũng không bao giờ có thể quay lại cuộc sống của một người bình thường bởi những sang chấn khủng khiếp mang tên hội chứng Afghanistan. Người ngoài cuộc nhìn nhận họ như những kẻ sát nhân, kẻ bại trận, còn chính họ cũng quên mất phải sống bình thường là thế nào! Hơn năm trăm cuộc phỏng vấn đã được Svetlana Alexievich thực hiện để tạo nên bức tranh toàn cảnh về những góc khuất của chiến tranh. Cũng chính những trang tư liệu về nỗi đau của những nỗi đau này, ngày 20 tháng 1 năm 1993, cuốn sách của Svetlana Alexievich bị đưa ra tòa xét xử bởi những người cung cấp tư liệu đâm đơn kiện với lý do phỉ báng danh dự và ngụy tạo lời kể. Phiên tòa kéo theo sự chú ý của chính quyền và công chúng tạo thành làn sóng dư luận ở cả hai phía, ủng hộ và chống đối Svetlana Alexievich. Ở những lần tái xuất bản sau, Svetlana Alexievich đã đồng ý thêm vào toàn bộ biên bản vụ kiện cùng những sự kiện có liên quan. Vậy, vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Có lẽ câu trả lời sẽ nằm trong suy nghĩ mỗi người khi bước vào thế giới của Những cậu bé kẽm. “Tôi tự hỏi Svetlana Alexievich có cần phải viết một cuốn sách về những điều kinh khủng của chiến tranh không? Có! Những bà mẹ có cần phải bảo vệ con trai mình không? Có! Và những “người Afghan” có cần phải bảo vệ đồng đội mình không? Lại một lần nữa - có! …Các đạo diễn và nhạc trưởng, các chính khách và nguyên soái, những kẻ tổ chức cuộc chiến tranh này, không có mặt trong phòng xử án. Ở đây chỉ toàn những phía bị hại: là tình yêu, không chấp nhận sự thật cay đắng về chiến tranh; là sự thật, cần phải được nói ra mặc cho tình yêu thế nào chăng nữa; là danh dự, không thể chấp nhận tình yêu lẫn sự thật...” Pavel Shetko Một “cựu Afghan” Tác giả Nhà văn Svetlana Alexievich tại Ukraine trong một gia đình công chức. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học. Theo Viện Hàn lâm Thụy Điển, giải thưởng này được trao cho bà để “tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta.” Sau khi tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, bà làm việc cho tờ Báo nông nghiệp và tạp chí Neman ở Minsk. Trong suốt vài thập niên bà đã viết biên niên tư liệu – nghệ thuật Những giọng không tưởng – gồm năm quyển sách (Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ - 1983, Những nhân chứng cuối cùng - 1985, Những cậu bé kẽm - 1989, Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997, Thời second-hand - 2013) và để những “con người nhỏ bé” đích thân kể về số phận của mình. Thực chất, đây là một thể loại đặc biệt, một loại tiểu thuyết chính trị đa giọng, trong đó những câu chuyện nhỏ bé hợp thành một lịch sử lớn. Các tác phẩm của Svetlana Alevievich đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng, là nền tảng cho hằng trăm bộ phim điện ảnh, kịch sân khấu và truyền thanh trên khắp thế giới, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. *** LỜI GIỚI THIỆU “Văn chương đang ngạt thở trong những biên giới của mình”. Với tâm tình đó, nữ nhà văn Svetlana Alexievich đã quyết định chọn hình thức “truyện vừa tư liệu” cho cuốn sách Những cậu bé kẽm, được in lần đầu tiên năm 1989. Hai mươi sáu năm sau, cuốn sách đã góp phần đưa bà đến giải Nobel văn học năm 2015, cùng với bốn quyển sách khác trong loạt sách Những giọng nói không tưởng: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983), Những nhân chứng cuối cùng (1985), Lời nguyện cầu từ Chernobyl (1997) và Thời second hand (2013). Nhưng cũng chính thể loại truyện vừa tư liệu của Những cậu bé kẽm đã khiến bà phải ra tòa (phần cuối quyển sách đã giới thiệu tiến trình tố tụng này). Phiên tòa mà, từ một phía bà bị cáo buộc là “xúc phạm danh dự và phẩm giá” của những người lính đã chết trong cuộc chiến tranh Afghanistan, của những người mẹ vẫn còn đang ngồi bên mộ chí con mình. Còn từ phía những người ủng hộ nữ nhà văn, đó là phiên tòa “xử án văn chương”, “xử án một quyển sách”, “xử án sự thật”. Cuộc tranh cãi đó, cuối cùng được cố gắng ngã ngũ ở việc thế nào là thể loại truyện vừa tư liệu; vẫn chưa giải đáp được câu hỏi “sự thật là sự thật nào”, khi chính nữ nhà văn cũng hoài nghi như Pilatus đặt câu hỏi về sự thật trong phiên tòa xử Chúa. Phiên tòa đã khép lại đầu những năm 1990. Nhưng cuộc tranh cãi về sự nghiệp của nữ nhà văn Belarus viết bằng tiếng Nga một lần nữa được nhắc lại nhân Nobel 2015. Nếu bà được ngợi khen trên báo chí phương Tây như một “bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật tư liệu”(Frankfurter Allgemeine), thì nhà phê bình Nga Olga Tukhanitsa, lại nhận xét vào tháng 12-2015: “Một mặt, Alexievich khăng khăng biện hộ mình không phải là nhà văn nhưng lại chứng minh những gì bà đang làm trong thế giới hiện đại là văn học chân chính; mặt khác, bà - như một nữ sinh, đoàn viên Komsomol, cố nhồi vào thông điệp của mình tất cả những khuôn mẫu định kiến về nước Nga…” Dẫu sao, chúng ta sẽ không thể tranh luận với cả hai ý kiến trên nếu chưa đọc hết Những cậu bé kẽm. Bản dịch tiếng Việt dựa trên nguyên bản tiếng Nga đã được tác giả hiệu đính và NXB Vremya (Moskva) phát hành năm 2017. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả, và thành thật cảm ơn bà Marina Vladimirovna Sharoiko (Giảng viên Bộ môn Lý luận Văn học Nga, Đại học Tổng hợp Kuban) và bà Irina Letiagina (cựu biên tập viên NXB Cầu vồng, và NXB Tiến bộ - Liên Xô cũ) đã giúp chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan 10-2017 *** LỜI MỞ ĐẦU Tôi đi một mình. Giờ đây tôi sẽ phải đi một mình. Nó giết người. Con trai tôi. Bằng cái rìu nhà bếp tôi dùng xẻ thịt. Nó quay về từ trận chiến và giờ thì giết người. Buổi sáng nó mang cái rìu đặt về chỗ cũ, trong tủ bếp, nơi tôi cất chén dĩa. Hình như ngày hôm đó tôi còn làm cho nó món sườn hầm. Một lúc sau ti vi và báo buổi chiều đưa tin các ngư dân vớt được một thi thể từ dưới hồ. Từng mảnh. Bạn tôi gọi điện: - Chị đọc báo chưa? Một vụ giết người chuyên nghiệp. Kiểu Afghanistan. Con trai tôi đang ở nhà, nằm đọc sách trên xô pha. Tôi không biết và cũng chẳng đoán ra gì, nhưng chẳng hiểu sao sau những lời ấy tôi lại nhìn nó. Trái tim người mẹ. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Không à? Còn tôi thì nghe đấy, vừa bắt đầu kể chuyện này là tôi đã nghe tiếng chó sủa. Lũ chó đang chạy. Ở đó, nơi con trai tôi đang ngồi tù có những con bẹc giê lớn. Và mọi người mặc toàn đen, rặt một màu đen. Tôi trở về Minsk, đi ngang qua cửa hàng bánh mì, qua vườn trẻ, tay cầm ổ bánh mì với sữa và nghe thấy tiếng sủa. Tiếng sủa chói tai. Nó làm tôi như đui mù. Có lần tôi suýt lọt vào gầm xe. Tôi sẵn sàng ở rịt bên mộ con mình, sẵn sàng nằm cạnh nó. Nhưng tôi không biết… không biết sẽ sống thế nào với chuyện này. Đôi khi tôi sợ xuống bếp, sợ nhìn thấy cái tủ bếp đó, nơi cất cái rìu. Cô không nghe thấy gì hết à? Không à? Giờ đây tôi không biết nó sẽ ra sao, con trai tôi. Tôi sẽ đón nó về thế nào sau mười lăm năm nữa. Nó bị tuyên mười lăm năm khổ sai. Tôi đã nuôi dạy nó thế nào? Nó mê khiêu vũ. Tôi và nó đã đến bảo tàng Hermitage ở Leningrad. Chúng tôi đã đọc sách cùng nhau. (Khóc.) Chính Afghanistan đã cướp mất con trai tôi. …Tôi nhận được điện tín từ Tashkent: “Hãy đón chuyến bay số…” Tôi lao ra ban công, gào to hết sức: - Còn sống! Con tôi còn sống! Cuộc chiến khủng khiếp này kết thúc với tôi rồi. Rồi tôi ngất đi. Dĩ nhiên chúng tôi đã ra sân bay trễ, chuyến bay đã hạ cánh từ lâu, tôi tìm thấy con trai mình trong vườn hoa. Nó nằm trên đất và níu lấy cọng cỏ, ngạc nhiên sao cỏ xanh đến thế. Nó không tin mình có thể trở về. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi tối những người láng giềng kéo sang nhà chúng tôi, họ có một cô con gái nhỏ, bé thắt một cái nơ xanh trên tóc. Nó đặt con bé ngồi lên gối, ôm vào lòng và khóc, nước mắt cứ thế lã chã tuôn rơi. Bởi ở đó chúng đã giết người, cả nó. Mãi sau này tôi mới hiểu ra. Ở biên giới, hải quan đã “tỉa” quần lót của nó. Hàng Mỹ. Không được phép. Vì thế nó về nhà mà không có đồ lót. Nó mang về cho tôi cái áo choàng, cái áo cũng bị tịch thu. Nó mang cho bà ngoại cái khăn trùm đầu, họ cũng lấy mất. Nó đành về với những bông hoa lay ơn. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi sáng thức dậy nó còn bình thường: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”. Đến chiều mặt nó tối dần, khóe mắt nặng trĩu. Tôi không thể tả nổi điều đó. Lúc đầu nó chẳng uống giọt nào. Nó ngồi quay vào tường rồi bật dậy khỏi xô pha, với lấy cái áo khoác. Tôi đứng ngay cửa: - Con đi đâu, Valyushka? Nó nhìn tôi như nhìn vào thinh không. Rồi bỏ đi. Tối muộn tôi đi làm về, nhà máy ở xa, lại làm ca hai, tôi gọi cửa nhưng nó không mở. Nó không nhận ra giọng tôi. Chuyện đó thật kỳ quặc, ừ thì giọng bạn bè có thể không nhận ra, nhưng đây là giọng mẹ nó! Hơn nữa, lại là “Valyushka” - chỉ có tôi mới gọi nó như thế. Dường như lúc nào nó cũng đang đợi ai đó, sợ sệt. Tôi mua cho nó cái sơ mi mới, ướm thử và thấy trên tay nó có những vết cắt. - Cái gì đây? - Chuyện nhỏ mà mẹ. Sau đó tôi mới biết. Sau phiên tòa. Trong thời gian huấn luyện nó đã cắt cổ tay. Trong một giờ diễn tập, nó là nhân viên điện đài, nhưng không kịp ném điện đài xách tay lên cây đúng lúc, không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định nên thượng sĩ phạt nó múc 50 thùng chất thải từ nhà vệ sinh diễu qua đội hình. Nó đã xách và ngất xỉu. Bệnh viện chẩn đoán: chấn động tâm thần nhẹ. Đêm đó nó đã cắt ven tay. Lần thứ hai là ở Afghanistan. Trước cuộc bố ráp, họ kiểm tra và điện đài không hoạt động. Thiếu một số phụ kiện khan hiếm khi đó. “Kẻ nào đã lấy trộm chúng. Ai?” Chỉ huy cáo buộc nó hèn nhát giấu các chi tiết đó đi để không phải hành quân cùng mọi người. Mà ở đó trộm cắp như rươi, thậm chí các bộ phận ô tô cũng bị tháo rời đem bán cho các dukan*. Để mua ma túy, thuốc lá, thức ăn. Họ lúc nào cũng đói. Trên truyền hình đang có chương trình về Edith Piaf*, chúng tôi luôn xem cùng nhau. - Mẹ, - nó hỏi, - mẹ có biết ma túy là gì không? - Không. - Tôi nói dối, còn chính mình bắt đầu dõi theo nó: nhỡ nó hút thì sao? Tôi không phát hiện ra dấu vết nào. Nhưng ở đó họ sử dụng ma túy - tôi biết điều này. - Ở Afghanistan thế nào hở con? - Có lần tôi hỏi. - Thôi mà mẹ! Khi nó đi khỏi nhà, tôi đọc lại hết những bức thư từ Afghanistan của nó, tôi muốn đào xới, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Tôi không tìm thấy gì đặc biệt, nó viết buồn nhớ cỏ xanh, bảo bà ngoại chụp hình trên nền tuyết rồi gởi cho nó. Nhưng tôi đã nhận ra, cảm thấy đã có gì đó xảy ra với nó. Họ đã trả về cho tôi một con người khác. Đó không phải là con tôi. Mà chính tôi đã đưa con vào quân ngũ, nó vốn được hoãn nghĩa vụ. Tôi muốn nó thành người dũng cảm. Tôi thuyết phục con và chính mình rằng quân đội sẽ trui rèn nó tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tôi tiễn nó đi Afghanistan với tiếng ghi-ta cùng một bữa tiệc ngọt chia tay. Nó mời bạn bè và các cô gái… Tôi nhớ đã mua tới mười cái bánh kem. Chỉ có một lần nó nói về Afghanistan. Vào một buổi tối. Nó ghé vào bếp, lúc tôi đang làm thịt thỏ. Cái bát đầy máu. Nó nhúng các ngón tay vào máu rồi nhìn cái bát. Nhìn chằm chằm. Rồi nói với chính mình: - Họ chở cậu ấy về với cái bụng bị thủng. Cậu ấy đề nghị mình bắn. Và mình đã bắn. Những ngón tay đầy máu thỏ. Với những ngón tay dính máu đó nó vớ lấy điếu thuốc rồi bỏ ra ban công. Tối hôm đó nó không nói thêm với tôi một lời nào. Tôi tìm tới các bác sĩ. “Hãy trả lại con trai cho tôi! Xin cứu giúp!” Tôi kể lại tất cả… Họ kiểm tra nó, thăm khám, nhưng ngoài chứng đau thần kinh tọa, họ chẳng phát hiện gì. Một lần nọ về nhà, tôi thấy bốn cậu trai lạ ngồi sau bàn. - Mẹ, họ từ Afghanistan về. Con gặp họ ở nhà ga. Họ chẳng có chỗ nào để qua đêm cả. - Tôi sẽ nướng một cái bánh ngọt cho các cậu. Nhanh lắm. - Chẳng hiểu sao tôi lại mừng rỡ. Chúng sống ở nhà tôi một tuần lễ. Tôi không đếm, nhưng tôi nghĩ chúng uống cỡ bốn thùng vodka. Mỗi tối tôi lại gặp ở nhà năm người lạ, người thứ năm là con tôi. Tôi không muốn nghe những câu chuyện của chúng, tôi sợ lắm. Nhưng vì ở chung một nhà nên tôi tình cờ nghe thấy. Chúng kể suốt hai tuần mai phục, chúng được phát thuốc kích thích để bạo gan hơn. Nhưng tất cả những chuyện đó được giữ kín. Vũ khí nào giết người hiệu quả hơn. Từ khoảng cách nào… Sau này tôi mới nhớ lại những câu chuyện đó, khi sự việc đã xảy ra. Chỉ sau đó tôi mới nghĩ ra, hoảng hốt nhớ lại. Còn trước đó chỉ có nỗi sợ: “Ôi,” tôi nói thầm, “chúng điên làm sao. Tất cả đều dở người”. Ban đêm. Trước cái ngày nó giết người. Tôi nằm mơ thấy mình đang đợi con nhưng mãi vẫn không thấy nó. Thế rồi người ta đưa nó về. Bốn “người Afghan” đó đưa về. Và họ ném nó xuống sàn xi măng dơ dáy. Cô hiểu không, sàn xi măng trong gian bếp chúng tôi ấy…* Cái sàn như sàn nhà tù. Lúc đó nó đã vào học khoa dự bị trường Đại học Kỹ thuật Phát thanh. Nó viết tốt bài luận. Nó hạnh phúc và mọi việc đều ổn. Tôi đã nghĩ nó đang nguôi ngoai. Sẽ đi học. Rồi cưới vợ. Nhưng cứ tối đến, tôi sợ những buổi tối, nó ngồi và nhìn chằm chằm vào vách rồi thiếp ngủ trên ghế bành. Tôi muốn nhào tới, lấy thân mình che chở và không thả cho nó đi đâu nữa hết. Bây giờ tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ và đòi ăn. Lúc nào nó cũng đói. Nó chìa hai tay. Trong mơ lúc nào tôi cũng thấy nó nhỏ bé và bị hạ nhục. Còn trong đời thật? Mỗi tháng hai cuộc gặp. Bốn tiếng chuyện trò qua lớp kính. Mỗi năm hai lần thăm nuôi, đó là khi tôi được mang gì đó cho nó ăn. Và tiếng chó sủa. Tôi nằm mơ thấy tiếng chó sủa. Chúng đuổi theo tôi khắp chốn. Có một người đàn ông tán tỉnh tôi. Tặng cả hoa. Khi ông ta mang hoa tới, “Ông tránh xa khỏi tôi,” tôi bắt đầu hét, “tôi là mẹ của tên giết người”. Thời gian đầu tôi sợ gặp những người quen, tôi trốn trong nhà tắm và chờ những bức tường đổ sập xuống người. Tôi ngỡ như người ngoài đường đều nhận ra tôi, chỉ trỏ nhau xem rồi xầm xì: “Nhớ vụ ghê rợn đó không? Chính con trai bà ta giết người đấy. Chặt làm tư. Kiểu Afghanistan”. Tôi chỉ ra đường vào buổi tối, tìm hiểu hết những loài chim đêm. Tôi nhận biết chúng qua tiếng hót. Vụ án được điều tra. Vài tháng trôi qua. Nó im lặng. Tôi đến quân y viện Burdenko ở Moskva. Ở đó tôi tìm được vài cậu trai từng phục vụ trong đội đặc nhiệm như nó. Tôi bộc bạch cùng họ. - Các cháu này, vì cái gì mà con trai bác giết người? - Hẳn là có chuyện gì đó. Tôi phải thuyết phục mình rằng con tôi có thể đã làm điều đó. Giết người. Tôi gặng hỏi họ rất lâu để hiểu ra rằng: nó có thể! Tôi hỏi họ về cái chết. Không, không phải về cái chết, mà về việc giết chóc. Nhưng cuộc trò chuyện đó không gợi được ở họ những cảm xúc đặc biệt nào, những cảm xúc mà bất kỳ việc giết chóc nào cũng đều có thể gợi lên ở một con người bình thường chưa từng thấy máu. Họ nói về chiến tranh như nói về một công việc, một công việc cần phải giết người. Sau đó tôi đến gặp những cậu trai cũng từng ở Afghanistan, và khi Armenia động đất họ đã tới đó cùng những đội cứu hộ. Tôi muốn biết, tôi bị ám ảnh vì chuyện đó: họ có sợ không? Họ cảm giác thế nào khi chứng kiến cái chết? Không, họ chẳng thấy sợ gì cả, thậm chí lòng thương hại ở họ cũng đã cùn mằn. Những hộp sọ vỡ tung, bẹp dí, những khúc xương người… Nhiều trường học bị vùi trong lòng đất. Những lớp học. Bọn trẻ ngồi học và cứ thế mà đi vào lòng đất. Còn họ thì nhớ và kể lại những chuyện khác, nào là họ đã đào được những kho rượu vang béo bở ra sao, họ đã uống những loại vang nào, loại cô nhắc nào. Họ đùa cợt: phải chi có thêm động đất ở đâu đó. Nhưng phải ở chỗ nào ấm áp cơ, nơi nho có thể mọc và làm được vang ngon. Họ sao thế? Tâm lý họ có bình thường không vậy? “Con căm thù cái đứa bị giết đó.” Nó viết cho tôi như thế cách đây không lâu. Sau năm năm. Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Nó câm nín. Tôi chỉ biết, cậu trai đó tên Yura, khoác lác rằng đã kiếm chác được nhiều chi phiếu ở Afghanistan. Nhưng sau đó hóa ra cậu ta phục vụ ở Ethiopia, là chuẩn úy. Cậu ta đã nói dối về Afghanistan. Tại phiên tòa, chỉ một mình luật sư biện hộ nói rằng chúng ta đang xử án một người bệnh. Trên ghế bị can không phải là tội nhân, mà là bệnh nhân. Anh ta cần được điều trị. Nhưng đó là bảy năm về trước, khi sự thật về Afghanistan chưa được hé lộ. Và chúng ta đã gọi tất cả là anh hùng. Những chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế. Còn con trai tôi là kẻ giết người. Bởi nó làm cái việc mà họ từng làm ở đó. Vì việc đó mà họ được trao mề đay và huân chương. Nhưng tại sao họ lại buộc tội mình con tôi? Tại sao không buộc tội những kẻ đẩy nó vào nơi đó? Dạy nó giết người! Tôi đâu có dạy con mình việc đó. (Bùng nổ và gào thét.) Nó giết người bằng cái rìu bếp của tôi. Rồi buổi sáng nó mang đặt cái rìu lại vào tủ bếp. Như một cái muỗng hay một cái nĩa bình thường. Tôi ganh tị với những bà mẹ có con trở về cụt cả hai chân. Cứ để nó căm thù mẹ mình sau khi đã nốc say. Căm thù cả thế giới. Cứ để nó lao vào bà ta, như lao tới kẻ thù. Bà ta sẽ trả tiền cho gái mại dâm, để nó không phát rồ. Bản thân bà ta từng một lần trở thành tình nhân cho nó, bởi nó đã trườn ra ban công và muốn lao xuống từ tầng mười. Tôi chấp nhận tất cả. Tôi ganh tị với tất cả những bà mẹ, kể cả những ai có con đã nằm trong huyệt mộ. Tôi sẽ ngồi bên mộ chí của con và hạnh phúc. Tôi sẽ mang hoa tới. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Nó đuổi theo tôi. Tôi nghe thấy chúng. Một bà mẹ Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả của tác giả  Svetlana Alexievich & Phan Xuân Loan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Anh Chồng Stockholm, Người Tình Paris và Cậu Bạn Thân Bangkok - Travelling Kat
Nhiều khả năng ngay khi bạn lật giở những trang đầu tiên của Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, bạn sẽ có cảm giác rằng bạn đang gặp môt cô gái, một người mà bạn đã quen từ lâu, vẫn hay nhỏ to và đi cà phê với bạn, khoác tay bạn tung tăng đi khắp nơi và ngồi cạnh cho bạn tựa vào những khi ánh mặt trời trong bạn chợt tắt, cô gái với nước da rám nắng, đôi mắt nâu thẳm long lanh, cái miệng luôn cười và đôi chân thì nhẹ nhàng như gió. Bạn cũng sẽ mỉm cười, lắc lư bờ vai và chớp nhẹ đôi mắt, như thể nhìn thấy chính bản thân mình trong cuốn sách, ở thì quá khứ, hiện tại, hoặc tương lai. Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok là một hành trình đi qua rất nhiều thành phố và rất nhiều cung bậc của cảm xúc. Theo những trang viết, bạn sẽ đến thăm một khu rừng kì lạ nằm giữa con phố trung tâm của Bali, những sân ga - minh chứng lịch sử ở Berlin, những kiến trúc xinh xắn uốn lượn theo những con đường trên bề mặt gập ghềnh của Oslo, những xưởng thủy tinh, thêu ren tinh xảo ít người biết tới ở Venice, khu phố đèn đỏ ở Amsterdam, những con phố ở Bangkok hồ hởi trong sự đan xen giữa những khu nhà sang trọng, những đền chùa cổ kính và những xe hàng dạo…; bạn sẽ gặp gỡ những con người Thụy Điển vẻ ngoài xa cách nhưng kì thực lại mang một trái tim ấm áp vô cùng, những cô gái Marimekko rực rỡ và quyến rũ, những “nàng Juliet” của Câu lạc bộ Juliet ở Verona.. Bạn cũng sẽ gặp ở đó những chàng trai, những khoảnh khắc lãng mạn, những rung động chớm nở và cả nỗi nhớ nhung day dứt, tình yêu thương và mối gắn kết gia đình, những niềm thân thương hướng về quê hương…  Trong cuốn sách còn có những phần ghi chú nhỏ rất dễ thương được tác giả góp nhặt từ cuốn sổ tay trong mỗi chuyến hành trình, đó có thể là một vài đều thú vị mà người viết vừa đọc được trong một cuốn sách nào đó, công thức nấu một món ăn, công thức đắp mặt nạ dưỡng da hoặc những bí kíp và chú ý khi đi du lịch . Giống như cái tên Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, mỗi địa danh mà người viết đi qua không chỉ đơn thuần là Paris, Venice, Bangkok, Praha, Amsterdam, Prague…, mà tác giả đặt cho nó những cá tính - như những gì cô cảm nhận về nó, đó là Venice đỏng đảnh, Amsterdam bỡn cợt, Nora nhỏ xinh, Milan đỏm dáng, Helsinki rạng rỡ, Oslo kiêu hãnh, Prague mong manh… Tất cả, đều giống như những cô gái, hoặc, những phần tính cách trong một cô gái “Đây là một cuốn sách tình yêu hơn là một cuốn sách du lịch.” Tác giả đã tự nhận xét như vậy. Và có lẽ vì thế, không giống như những cuốn sách hành trình khác, trong Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, bạn sẽ không có những bức ảnh chụp về những địa danh mà tác giả nhắc tới trong cuốn sách, mà thay vào đó, bạn sẽ có những bức tranh. Bởi cảm xúc chẳng bao giờ rõ ràng được như những ô màu pixel,  mà đó là những gì chúng ta vẽ lại trong trái tim và ký ức của mình. Travelling Kat trẻ, và đầy nữ tính. Cái nữ tính nguyên thủy, chứ không phải thứ nữ tính bó buộc trong khuôn phép của truyền thống, trong lề thói và trong khối óc của xã hội. Cái nữ tính ấy len lỏi trong từng dòng chữ của cuốn sách, làm nên một hương vị rất khác, một màu sắc rất khác của Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok. Bạn có thể chọn giữa việc đọc hoặc không đọc cuốn sách này. Nhưng nếu phần nữ tính trong bạn thôi thúc bạn hãy giữ cho mình một cuốn, thì hãy đọc cuốn sách vào những lúc bạn hoàn toàn thư thả, có thể là dịp cuối tuần hoặc những buổi sáng sớm, bên chiếc bàn và khung cửa sổ của bạn. Không cần, và đừng đọc hết một lèo, hãy nhâm nhi từng chút một, đọc nó xen kẽ với những cuốn sách khác, như thể thỉnh thoảng lại hẹn hò với cô bạn thân của mình vậy. *** Tôi thường bỏ qua trang “Lời nói đầu” khi đọc sách. Tôi thích đọc một cuốn sách trần trụi như cách nó được viết ra chứ không cần lời giải thích của tác giả. Sau khi đọc hết cuốn sách, tôi mới trở lại phần “Lời nói đầu” để đọc xem mình có cảm giống tác giả không. Tôi sẽ hoặc là gật gù đồng ý với tác giả, hoặc bĩu môi bất bình. Tôi nghĩ chắc không ít bạn đọc cũng có thói quen tương tự. Thế nên, tôi sẽ viết lời nói đầu này để trình bày “ý đồ” của mình trong cuốn sách; nhưng tôi không lấy làm phiền lòng nếu bạn đọc nó cuối cùng. Câu hỏi đầu tiên: Cuốn sách của tôi dành cho ai? Tôi không dùng những tham số thường gặp như độ tuổi, nghề nghiệp, môi trường để xác định đối tượng độc giả của mì nh bởi lẽ nhìn qua thống kê Insight của trang Facebook, tôi nhận ra tôi có bạn đọc từ 13 đến trên 65 tuổi, còn nghề nghiệp, nơi sống thì đủ cả. Trò chuyện với một vài người trong số họ và theo dõi phản hồi, tôi nhận ra, họ lãng mạn, nữ tính, có máu phiêu lưu (có thể không quá nhiều hoặc rất nhiều). Họ có khi cũng nghiêm túc và có khi cũng điệu đà. Một số nghiêm túc một cách điệu đà và số khác điệu đà một cách nghiêm túc. Một số trong họ khá mơ mộng; một số lại hơi bi quan và suy nghĩ nhiều. Họ đơn giản là rất phụ nữ hay ít ra là quan tâm nhiều đến cái chất phụ nữ. Tôi yêu thích cái suy nghĩ đó (suy nghĩ thiên về cảm tính hơn là dựa trên những con số – cũng rất phụ nữ). Vì thế, tôi chọn đối tượng bạn đọc của tôi là phụ nữ và những người quan tâm đến cái chất phụ nữ ấy. Tôi đã nghĩ sẽ sắp xếp những bài viết trong cuốn sách này theo thứ tự nào: khu vực địa lý, thời gian đi, hay thời gian viết? Tôi quyết định “tuân” theo thời gian viết bởi cuốn sách này không phải một cuốn sách hướng dẫn du lịch hay nhật ký hành trình. Đây là cuốn sách ghi lại hành trình cảm nhận của tôi: cảm nhận một thành phố, một đất nước, một nền văn hóa lẫn với xúc cảm về những chàng trai và những mối quan hệ. Bạn có thể thấy tôi hờn ghét Venice đỏng đảnh, yêu mù quáng Paris, ngơ ngác trước vẻ bỡn cợt của Amsterdam hay mong manh như Prague... Bạn cũng gặp ở đây anh bạn thân của tôi, người tình tôi yêu đơn phương, những anh chàng tôi cảm nắng, những người đàn ông tôi ngưỡng mộ nhưng không muốn cặp kè, những người đàn ông tôi muốn cặp kè mà không được, người đàn ông tôi sẽ lấy làm chồng và cả những anh chàng, hmm... không ra gì. Họ đến rồi đi. Tôi hờn ghen, yêu thương rồi thay đổi. Với tôi, trình tự cảm nhận như vậy còn quan trọng hơn ngày tôi đến thành phố hay khu vực địa lý đó bởi nếu tôi không ghi lại, sẽ chẳng có một cuốn lịch hay tập bản đồ nào nhớ hộ tôi. Rồi, tôi quyết định chia cuốn sách thành hai phần. Tôi gọi tên nhóm bài viết trong phần 1 là “Anh chàng Stockholm, Người tình Paris và Cậu bạn thân Bangkok”. Với tôi, mỗi thành phố là một thực thể sống. Mà thực thể ấy nhất định phải có cảm xúc. Yêu ghét thôi chưa đủ, có khi còn bay bổng, hờn giận, phụ bạc, lạnh lùng, cuồng nhiệt, chán nản hay ủy mị. Những tính cách ấy được tạo dựng nên bằng thời tiết, kiến trúc, món ăn, con người... Mà có khi được “đơm đặt” bởi chính tôi với đám cảm xúc tôi đeo vào người trước và trong suốt chuyến đi. Thông qua câu chuyện về các chuyến đi, các thành phố, bạn thấy tôi dại khờ, háo hức, sai lầm, can đảm và trưởng thành. Mà tôi là một cô gái Việt điển hình, không hay ho hơn, không cực đoan hơn nên rất có thể bạn sẽ tìm thấy mình trong đó. Phần 2, tôi lấy tên của một bài viết “Trên con đường phiêu lưu, phụ nữ vẫn là phụ nữ.” Chúng ta vi vút trên những nẻo đường, cầm máy ảnh kiên cường giữa sa mạc cát nhưng chúng ta vẫn là phụ nữ. Chúng ta đi du lịch với những nỗi nhớ nhà ngày Tết, với chút ấm áp trong căn bếp mùa Đông của quế, hồi, thảo quả và vẫn có vài lấn cấn nhỏ rất phụ nữ. Sổ tay ghi lại những công thức món ăn nếm thử trên đường, vài công thức làm đẹp của những người bạn đồng hành. Chúng ta – nói thẳng ra – không bao giờ đi du lịch một mình bởi đồng hành cùng chúng ta là cái chất phụ nữ đó. Có lẽ vì thế, cuộc hành trình trở nên mềm mại như trái tim chúng ta. Tôi mong bạn thích cuốn sách này. Tham lam hơn, tôi mong bạn cất lại nó trên giá sách hay trên bàn cà phê để thi thoảng đọc lại. Chính vì thế, tôi và những người bạn của Travelling Kat đã bỏ công đầu tư những thêm thắt ở phần bìa, bưu ảnh, hay những trang ngắn để khi bạn nhìn thấy là mỉm cười. Tôi nghĩ bạn cũng giống tôi và những người phụ nữ nói chung: hạnh phúc vì những điều nhỏ nhoi nhưng tinh tế. Thân, Travelling Kat Mời các bạn đón đọc Anh Chồng Stockholm, Người Tình Paris và Cậu Bạn Thân Bangkok của tác giả Travelling Kat.
Những Mảnh Đời Đen Trắng - Nguyễn Quang Lập
Những mảnh đời đen trắng là một tác phẩm mạnh và dứt khoát. Là cuộc xung đột giữa hai tầng lớp xã hội, hai quan điểm sống khác nhau. Giữa hai thế hệ già và trẻ, giữa lớp người có quá khứ oai hùng và lớp ngưới không được quyền có quá khứ. Giữa lớp bần cố nông làm chủ tập thể, làm chủ tình thế và lớp trí thức tiểu tư sản “đầu thai nhầm thế kỷ, bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh”. Cả hai giai tầng đều đáng thương mà không đáng trách. Một bên có khả năng nhận thức mà không được sử dụng. Một bên không có khả năng mà phải gánh vác những công việc quá sức mình. “Họa sĩ Tư và Thùy Linh đứng cúi đầu trước nấm mồ trắng lạnh, hương trầm đang nghi ngút. Dưới nấm mồ kia là đại úy Thìn, con người vừa đáng trọng vừa đáng khinh, vừa đáng thương vừa đáng ghét… … Thùy Linh rơm rớm nước mắt. Cô quỳ xuống vái. Nắng chiều đã nhạt, từng đụn cát trắng sẫm màu hoàng hôn. Họ ra về, cả hai cúi đầu bước, thổn thức về một thời họ đã sống với con người ấy dưới nấm mồ kia…” *** Năm truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Quang Lập thì ba truyện (Cây sến lửa, Tiếng lục lạc, và Đò ơi) đều được trao giải thưởng, cho đến nay vẫn thuộc về những truyện ngắn hay trong vài ba năm trở lại đây. Từ đó đến này, Nguyễn Quang Lập đã in hai tập truyện ngắn, viết và phóng tác hai vở kịch, xong bản thảo tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng, tất cả đều nhất quán trong một thế giới hình tượng và tư tưởng, khiến cho Nguyễn Quang Lập nổi lên như một cây bút viết về chiến tranh sâu sắc và mới lạ, được công chúng tìm đọc với lòng yêu mến.   Đọc Nguyễn Quang Lập, thoạt đầu người ta đều tưởng rằng tác giả phải là một người lính già đã từng trải trận mạc, và chất chứa bên trong biết bao nhiêu kỷ niệm đau đớn về chiến tranh thì mới viết như thế. Té ra Nguyễn Quang Lập chỉ mới trên ba mươi tuổi, và chỉ sống những năm nghĩa vụ quân sự trong binh chủng bộ đội tên lửa để trở thành nhà văn. Và chính vì thế, để phát hiện ra những nhân vật của mình, Lập đã không nhìn lên bầu trời, mà cúi xuống lòng mình, đào bới ở đó những điều thấy cần nói với mọi người và quả nhiên, công chúng đều chăm chú nghe Lập nói. Trước đó chưa ai nói về chiến tranh giống như Nguyễn Quang Lập cả.   Chính cái tuổi cầm bút mới mẻ này của Nguyễn Quang Lập đã mang dấu ấn riêng cho cả một thế hệ nhà văn trẻ lớn lên sau chiến tranh: họ bắt đầu cầm bút ở thời điểm bản lề của lịch sử đất nước vừa chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, và trên tất cả những gì đổ nát mà cuộc chiến còn để lại, họ tìm cách kiểm nhận lại quá khứ, không phải dưới con mắt của người lính đánh giặc, mà bằng cái nhìn thao thức của những người trẻ khao khát hòa bình, nhân phẩm và hạnh phúc chân thật.   Nguyễn Quang Lập viết về chiến tranh, nhưng không để ca ngợi chiến công, mà để bày tỏ nỗi lo lắng về vết thương. Dưới con mắt của nhà văn trẻ này, mỗi nhân vật đều mang theo trong bản thân nỗi bất hạnh mà chiến tranh để lại cho con người: sự mất mát về hạnh phúc, nỗi cô đơn khi trở lại cuộc sống bằng hào quang của lửa bom, và nhiều trạng thái méo mó về nhân cách, bằng cái nhìn phân tích khá sắc bén và mang giọng hài hước dân giã để chế ngự bớt nỗi đau đớn, tác giả đã soi mói tận gan của từng nhân vật của mình để chỉ ra những thương tật chiến tranh để lại trong tâm hồn, những thương tật mà dù trong truyện hoặc ngoài đời người ta vẫn muốn giấu kín.   Có thể nhìn thấy cách đặt vấn đề như vậy trong từng truyện ngắn Nguyễn Quang Lập, và ngay trong một vở kịch đang gây xúc động cũng của Lập: vở “Mùa hạ cay đắng”, trong đó một Chủ tịch thị trấn đào nhiệm, một người lính đào ngũ, một cô gái bội tình và một gã cán bộ Đoàn dùng mọi thủ đoạn gian trá để ngoi lên địa vị, tất cả bốn con người đó đã gặp nhau trong một túp lều nhỏ trong khói lửa, qua đó, tác giả lần lượt lột trần bộ mặt thật của họ một cách không thương xót.   Có điều quan trọng là Nguyễn Quang Lập đã không dừng lại trong thái độ của một người tố cáo chiến tranh, qua cách giải bảy của một người muốn nhìn thẳng sự thật, người ta vẫn cảm nhận được cái tâm của tác giả: đó là nỗi căm ghét cái ác, sự đòi hỏi về nhân phẩm và lòng khát khao hòa bình và hạnh phúc cuộc sống. Cách viết của Nguyễn Quang Lập là như vậy, là làm thương tổn lương tâm trong ý đồ làm cho lương tâm trở nên hoàn thiện hơn.   Quê hương của Lập là một mảnh đất đã phải gánh chịu quá nặng cuộc chiến tranh, và có nhiều thương binh trở về sau chiến tranh. Có lẽ vì thế mảnh đất đau đớn này đã sinh ra một cây bút đau đáu về vết thương chiến tranh, bằng cách nêu lên những đạo lý mà con người phải nhận ra và sống theo, để xứng đáng với sự hy sinh của nhân dân, xứng đáng với những thương tích có thật của những người đã chiến đấu cho Tổ quốc.   Luôn luôn là thế, người đọc cám ơn nhà văn và nhà văn cám ơn quê hương của mình.   Huế, 1988   HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi   Câu trả lời thật không dễ dàng chi!   NGUYỄN TRỌNG TẠO   Mời các bạn đón đọc Những Mảnh Đời Đen Trắng của tác giả Nguyễn Quang Lập.
Thiên Đường Có Thể Đợi - Cally Taylor
Cally Taylor đang sống tại Brighton. Cô bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2005. Chỉ trong năm 2006, cô đã đoạt được nhiều giải thưởng như: giải nhì trong cuộc thi viết truyện ngắn của báo Woman’s own, giải thưởng Helen Mullin và cây bút Bank Street trong cuộc thi viết truyện ngắn. Các tác phẩm của cô được đăng tải trên tạp chí Take a Break’s Fiction Feast và My Weekly. Heaven là tiểu thuyết đầu tay của Cally Taylor. Bạn sẽ làm gì nếu bạn nghĩ mình sắp chết? - Lập tức la lên và báo cho mọi người xung quanh? - Chẳng nói với ai và tự suy diễn? - Vờ như việc đó sẽ chẳng xảy ra? Còn tôi, thì giật quần chẽn ra và khóc òa lên. *** Bạn sẽ làm gì nếu bạn nghĩ mình sắp chết? a/ Lập tức la lên và báo cho mọi người xung quanh? b/ Chẳng nói với ai và tự suy diễn? c/ Vờ như việc đó sẽ chẳng xảy ra? Còn tôi, thì giật quần chẽn ra và khóc òa lên. Cả tuần qua, tôi lo cho sức khỏe của mình. Tôi mệt mỏi, mắt cá chân bị phù, nước tiểu thì sủi bọt như cà phê cappuccino[1]. Theo thông tin trên mạng mà tôi in ra và đang cầm trên tay thì như thế chỉ có một cách lý giải duy nhất: tôi mắc bệnh nan y, có thể không chữa được. Lễ cưới của tôi sẽ cử hành trong vòng bốn mươi tám tiếng nữa và báo hủy với chồng chưa cưới là điều duy nhất không nằm trong danh sách ‘việc cần làm’ dài dằng dặc của tôi. Nhưng tôi phải nói với Dan. Theo như thông tin trên mạng thì trong vòng hai tuần tôi sẽ phải nhập viện, chạy thận, thậm chí có khi phải cấy ghép. Dù là ai mắc bệnh đi chăng nữa, thì cũng có rất nhiều thứ phải làm. Mạnh mẽ lên nào Lucy, tôi tự khích lệ mình lúc mở cửa phòng khách. Mày có thể làm được điều này. Chỉ cần mạnh mẽ lên. Dan đang nằm dài trên xô-pha xem phim tài liệu nói về thói quen kết bạn tình của loài nhện vàng. Hai tay anh kê dưới đầu, mái tóc đen rối bù, quai hàm lởm chởm râu. Anh đang mặc quần jean cạp trễ và áo T-shirt Jimi Hendrix màu đen cũ mèm ưa thích khoe bờ vai rộng và cánh tay khỏe khoắn. Dan lúc nào cũng thế, anh có thể khoác bất cứ món đồ cũ kỹ nào lên người mà vẫn trông hết sức bảnh bao. Chẳng hề để tâm đến điều đó, anh là một trong những người ít tự phụ nhất mà tôi từng gặp - điểm khiến tôi yêu anh nhiều hơn. Anh đổi chân để có thêm chỗ trống trên xô-pha khi thấy tôi bước vào phòng, nhưng tôi chỉ ngồi trên tay ghế. Khi con nhện cái cắn đầu con nhện đực và ăn nó, Dan cười toe toét với tôi, sự thích thú nhảy múa trong đôi mắt nâu. “Nếu phải lựa chọn giữa việc đó và ba tiếng liền chuyện trò sau khi quan hệ, dứt khoát là anh chọn chết vì đầu bị nhai rào rạo.” Dan có vẻ ngơ ngác khi tôi không cười trước câu pha trò của anh, mà lại nhìn xuống đôi tay và xoay tròn chiếc nhẫn đính hôn. Ôi, Chúa ơi, anh sẽ phản ứng như thế nào trước điều tôi sắp nói? Anh sẽ khóc? Hay kêu gào? Hay ngất? Hay còn tệ hơn thế? “Dan, em có chuyện rất quan trọng muốn nói với anh.” “Chuyện gì thế?” Anh đáp mà mắt vẫn không rời màn hình ti vi. “Đó là một tin xấu.” “Có phải về lễ cưới không?” Anh tắt ti vi, xoay qua một bên, và nhìn thẳng vào tôi. “Giờ thì có chuyện gì xảy ra? Thợ làm bánh kem đặt hoa ly trên mặt bánh thay vì hoa hồng à?” Tôi hít một hơi thật sâu. “Em nghĩ em bị suy thận giai đoạn cuối [2].” Điều khiên ti vi rớt xuống sàn nhà khi Dan đứng bật dậy, vồ lấy tay tôi, vò nhàu tờ giấy in tôi đang cầm. “Em nói cái gì?” Anh hỏi lại, mắt rà khắp mặt tôi. “Em chẳng hề nói với anh em đã đi khám bác sĩ.” “Em chưa đi.” “Vậy thì làm sao mà em biết là em bị suy thận?” Tôi siết tay anh, dùng ngón tay cái cạ lên những ngón tay anh. Rõ ràng là anh không tin. Thông tin trên mạng đã cảnh báo trước với tôi là có thể anh sẽ phản ứng như thế. “Vì em đã thấy các triệu chứng của mình trên mạng.” Anh cau mày, một tay chà xát quai hàm. “Những triệu chứng gì?” Tôi nhìn chằm chằm vào ti vi. Đi thảo luận chuyện tiểu tiện của mình với bạn trai thật chẳng bình thường chút nào. Đó là điều bạn sẽ chẳng bao giờ thật sự cởi mở, cho dù hai người đã yêu nhau bảy năm đi nữa. “Nước tiêu của em có bọt. Chúng nổi bọt và trên mạng nói nước tiểu có bọt là một triệu chứng của suy thận.” Dan cười rũ rượi đến nỗi rớt từ xô-pha xuống sàn nhà. Tôi há hốc miệng nhìn anh, rồi cúi người tới trước, thụi vào cánh tay cứng như thép của anh. “Sao anh cười hả Dan? Ngừng ngay, anh làm em trông giống một con ngốc tự suy diễn.” Anh chống người trên khuỷu tay và với nắm tay tôi. “Anh xin lỗi, Lucy. Anh không nên cười, không nên làm thế khi em đang đứng ở cửa tử. Em đã bị những thứ có-thể- xem-là-triệu-chứng này bao lâu rồi?” Tôi nhẩm đếm trong đầu. “Khoảng một tuần. Không, đúng một tuần. Tính từ thứ Sáu tuần trước.” “Thế thứ Sáu tuần trước chúng ta đã mua cái gì, thứ mà em bảo là rất cần đấy?” Tôi vặn vẹo rút tay ra và trừng mắt nhìn Dan. Tôi chứ không phải ai khác, đang bộc bạch cõi lòng, vậy mà anh lại đang nói với tôi về chuyện mua sắm. Dan bị sao thế? “Em không nhớ, Dan. Chúng ta đã mua cái gì?” “Một chất làm sạch toa lét mới có thể khử trùng trong giây lát.” “Thì sao?” Anh nhướng chân mày. “Em không phải là người duy nhất thấy nước tiêu sủi bọt suốt tuần qua.” “Cái gì cơ?” “Lucy, em đúng là chậm tiêu.” Dan vừa nói vừa hích vào hông tôi. “Em đang tiểu vào chất làm sạch toa lét. Đó là lý do mà nước tiểu của em sủi bọt.” Tôi ngạc nhiên, nhìn anh không chớp mắt. “Vậy là em không bị suy thận à?” “Không, Lucy.” Dan đảo tròn mắt. “Em không bị suy thận.” ... Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Có Thể Đợi của tác giả Cally Taylor.
Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle - Jules Verne
Câu chuyện được khởi đầu từ hai bức thư có nội dung mâu thuẫn nhau mà kỹ sư James Starr nhận được trong cùng một ngày. Một là của người thợ mỏ già Simon Ford kêu gọi ông tới ngay mỏ than Aberfoyle nơi ông đã từng làm việc mấy chục năm về trước để chứng kiến những điều kỳ diệu đang xảy ra, hai là một bức thư nặc danh không người gửi với nội dung đe dọa và ngăn cản việc kỹ sư tới đó. Từ hai bức thư đó đã thôi thúc trí tò mò của ông và ông đã quyết định tới mỏ than theo lời mời gọi của người bạn già. Điều gì sẽ xảy ra... Với một quyết tâm sắt đá, kỹ sư James Starr cùng gia đình nhà Simon Ford lao vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, cuộc phiêu lưu mà họ có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình, để khám phá ra những điều bí ẩn nói trên. Liệu họ có đạt tới mục đích cao cả sau cùng? Với văn tài riêng biệt của ông về thể loại tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, viễn tưởng, Jules Verne lại một lần nữa dẫn dắt chúng ta vào thế giới kỳ vĩ ẩn sâu trong lòng đất của vùng than Aberfoyle, một vùng mỏ giàu có của xứ Scotland thuộc vương quốc Anh. *** Kính gửi kỹ sư J. R. Starr K Số 30 Canortgate - Edimbourg Nếu ngày mai, ông kỹ sư James Starr trở về khu mỏ Aberfoyle, hố Dochart, giếng Yarow, ông sẽ được biết một tin quan trọng. Ông kỹ sư sẽ được đón tại nhà ga Callander, trong suốt cả ngày. Người ra đón ngài là anh Harry Ford, con trai của người cựu đốc công Simon Ford. Chúng tôi kính mong ngài giữ kín lời mời này đứng để người khác biết. Trên đây là nội dung bức thư thứ nhất mà kỹ sư James Starr, nhận được ngày mùng 3 tháng Chạp năm 18... Ngoài bì thư có đóng dấu bưu cục Aberfoyle, quận Stirling, xứ Scotland. Trí tò mò của ông kỹ sư được kích thích cao độ. Ông không hề nghĩ là lá thư này chứa đựng một chuyện lừa phỉnh. Đã nhiều năm nay, ông quen biết Simon Ford, một trong những cựu đốc công của vùng mỏ Aberfoyle, nơi mà trong hai chục năm, ông từng làm giám đốc, hay còn gọi là quản đốc, theo cách gọi ở các mỏ than Anh quốc. James Starr là một con người có thể tạng vững chắc, vì vậy, mặc dù đã năm mươi nhăm tuổi mà trông ông cứ như đang tuổi bốn mươi. Ông thuộc một dòng họ cổ xưa vùng Edimbourg, lại là lớp người ưu tú của dòng họ. Công việc của ông đã làm vẻ vang cho toàn thể các kỹ sư khai thác mỏ than ở Vương quốc Anh, cũng như ở Cardiff, từ New Castle cho đến các quận vùng Hạ Scotland. Tuy nhiên, chính ở trong lòng các mỏ than bí ẩn vùng Aberfoyle, tiếp giáp với vùng mỏ Alloa và chiếm gần hết diện tích quận Stirling, tên tuổi của kỹ sư James Starr mới được nhiều người nhắc đến. Chính tại vùng này, ông đã sống gần hết cuộc đời mình. Người Anh đã gọi toàn thể các mỏ than rộng lớn của họ bằng một cái tên rất có ý nghĩa: “Các xứ Ấn Độ đen” ; và các xứ Ấn Độ này có thể đã đem lại cho Vương quốc Anh sự giàu có khủng khiếp còn hơn sự đóng góp của nước Ấn Độ phương Đông. Tuy nhiên sự tiêu thụ năng lượng đã gia tăng một cách đáng kể trong những năm cuối của thế kỷ. Điều này dẫn tới sự khai thác đến mức kiệt quệ của vỉa than. Giờ đây các mỏ than gần như bị bỏ trống, trơ ra những lỗ giếng toang hoác và những đường hầm vắng lặng. Đó chính là tình trạng của khu mỏ than Aberfoyle. Mười năm về trước, chiếc xe ben cuối cùng đã bóc đi tấn than cuối của mỏ. Tất cả các công cụ dùng trong việc khai thác đã được kéo lên khỏi các giếng và được vứt chỏng trơ trên mặt đất. Mỏ than cạn kiệt nom giống như những bộ xương khủng long hóa thạch. Trong số những dụng cụ đó, nay chỉ còn sót lại những chiếc thang bằng gỗ, dùng để đi xuống những hầm than sâu qua lối giếng Yarow - đó là lối duy nhất có thể dẫn vào những ngách hầm phía trong của hố Dochart, kể từ sau khi công việc khai thác mỏ đã ngưng nghỉ. Phía bên ngoài mỏ, người ta còn thấy sót lại những ngôi nhà xưởng, nơi đặt những máy khoan, những cái giếng, miệng hố dẫn vào trong hầm. Những chỗ đó nay cũng bị bỏ hoang phế như toàn bộ khu mỏ Aberfoyle vậy. Năm ấy, vào một ngày buồn, những người thợ mỏ đã từ giã mỏ than, nơi họ đã sống và làm việc trong nhiều năm tháng. Vài ngàn người thợ mỏ đang tập trung, họ là những người tích cực và quả cảm nhất của khu mỏ. Những con người tốt bụng này, đã từ nhiều năm qua, cha truyền con nối, lao động tại đây, khu mỏ Aberfoyle. Giờ đây họ náu lại để nói lời từ biệt với ông kỹ sư, một lời từ giã không hẹn ngày tái ngộ. Kỹ sư James Starr lúc này đang đứng chờ họ trước cửa những gian nhà xưởng, nơi đã bao nhiêu năm ông điều hành các cỗ máy với áp suất hơi nước cực lớn, dùng cho công việc khai thác. Simon Ford, người đốc công của hố Dochart, năm đó đã năm mươi lăm tuổi, cùng vài người cai thợ đang đứng vây quanh ông kỹ sư. James Starr tiến về phía họ. Đám thợ mỏ, ngả mũ, đứng yên lặng chờ nghe ông nói. Cái cảnh chia tay này mới cảm động và cao cả làm sao. - Thưa toàn thể các bạn, - Ông kỹ sư nói - giờ phút chia tay của chúng ta đã tới. Khu mỏ than Aberfoyle, nơi mà trong nhiều năm qua đã tập họp chúng ta lại vì công việc chung, nay đã cạn kiệt. Chẳng những chúng ta không khám phá ra được một vỉa than mới nào mà lại còn tiếp tục khai thác chỗ than cuối cùng của hố Dochart này! Giờ đây, tất cả đã cạn kiệt! Lời nói cuối cùng mà tôi dành cho các bạn là lời chào từ biệt. Tất cả chúng ta đã từng sống nhờ vào công việc khai thác than, giờ đây than đã hết. Đại gia đình của chúng ta sẽ buộc phải phân tán và trong tương lai cũng khó lòng có cơ may để tập họp lại những đứa con ly tán. Nhưng dù các bạn có đi đến bất cứ nơi nào, chúng tôi vẫn để mắt dõi theo bước đi của các bạn, và những lời dặn dò, tiến cử của chúng tôi vẫn đi theo các bạn. Giờ đây, xin từ biệt các bạn và cầu Chúa luôn ở bên các bạn! Nói xong, mắt đẫm lệ, James Starr giang rộng vòng tay ôm lấy người thợ già nhất mỏ. Kế đó, những người đốc công của các giếng khác nhau, lần lượt đến siết chặt tay ông kỹ sư, trong lúc đám thợ mỏ, giơ cao nón và reo hò: - Từ biệt ông James Starr, người giám đốc và cũng là người bạn của chúng ta! Những lời từ biệt đó, rồi đây sẽ trở thành một kỷ niệm sâu sắc trong những trái tim quả cảm. Và lần lượt kẻ trước người sau, đám thợ rời khỏi mảnh sân rộng đó. Chỉ còn lại duy nhất một người ở lại bên James Starr. Người đó chính là đốc công Simon Ford. Bên cạnh ông già là một thiếu niên, tuổi chừng mười lăm, cậu bé đó chính là Harry, con trai ông, người đã từ vài năm qua, bắt đầu học việc trong mỏ. James Starr và Simon Ford quen biết nhau từ lâu, và càng hiểu nhau, họ càng quý trọng nhau. - Từ biệt nhé, Simon - Ông kỹ sư nói. - Từ biệt ông James, - Viên đốc công đáp lại - nhưng có lẽ ông cho phép tôi nói thêm. Tạm biệt ông! - Đúng vậy, tạm biệt Simon! - James Starr tiếp lời - Chắc ông cũng hiểu là tôi sẽ vui sướng chừng nào khi gặp lại ông để ta cùng trò chuyện về khu mỏ Aberfoyle của chúng ta! - Vâng tôi biết, thưa ông James. - Đừng quên là cánh cửa ngôi nhà tôi ở Edimbourg luôn mở rộng với ông! - Edimbourg quá xa vời! - Viên đốc công lắc đầu nói. - Vâng! Thế ông dự tính sẽ cư trú ở đâu? - Ngay nơi đây, thưa ông James! Chúng tôi sẽ không rời xa khu mỏ, nơi đã nuôi nâng đời tôi, dù cho nguồn sữa mẹ đó có cạn kiệt! Vợ tôi, con trai tôi và tôi, chúng tôi sẽ thu xếp sao cho mình luôn trung thành với khu mỏ này! - Vậy thì vĩnh biệt Simon - Ông kỹ sư nói mà giọng đã nghẹn ngào vì cảm động. - Không, không phải vĩnh biệt mà là tạm biệt, thưa ông! - Viên đốc công trả lời - Ông hãy tin lời Simon Ford này là vùng mỏ Aberfoyle sẽ gặp lại ông! Đây là toàn bộ những gì đã xảy ra mười năm về trước, mặc dù ý muốn của người đốc công là sẽ sớm gặp lại, nhưng kể từ đó James Starr đã không còn nghe nói đến người đốc công này nữa. Và thế là sau mười năm xa cách, lá thư của Simon Ford đã đến tay người kỹ sư, trong thư lại khẩn khoản mời ông tới ngay mỏ than Aberfoyle. Một tin quan trọng! Nhưng tin gì mới được chứ? Hố Dochart, giếng Yarow à? Ôi! biết bao nhiêu kỷ niệm của quá khứ đã ùa về trong tâm trí ông? James Starr đọc đi đọc lại bức thư. Ông tìm cách lật đi, lật lại vấn đề theo mọi chiều hướng có thể được. Tại sao Simon lại không viết rõ thêm một chút. Ông thầm trách Simon Ford quá tiết kiệm lời nói. Rất có thể là viên đốc công này đã khám phá ra một vỉa than mới có thể khai thác? Không! “Không, ông tự nhắc lại lần nữa, không! Làm sao có thể tưởng tượng những gì mà ta đã hoài công tìm kiếm, giờ đây lại được Simon Ford phát hiện? Tuy nhiên, viên đốc công già này thừa biết trên đời này, ta chỉ quan tâm đến có một điều, rồi còn đề nghị ta giữ kín chuyện này nữa chứ...” James Starr cứ loay hoay mãi với những ý nghĩ trên. Mặt khác, người kỹ sư hiểu rất rõ Simon Ford là một người thợ mỏ khéo léo, rất có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông chưa bao giờ gặp lại người đốc công này kể từ khi công việc khai thác ở mỏ Aberfoyle chấm dứt. Ông cũng không rõ viên đốc công già giờ đây ra sao, hiện làm gì, ở đâu cùng với vợ con. Tất cả những gì ông biết bây giờ chỉ là một cuộc hẹn ở giếng Yarow và người con trai của Simon Ford tên là Harry sẽ chờ ông ở nhà ga xe lửa Callander suốt cả ngày mai. Rõ ràng là họ muốn mời ông đến thăm khu hố Dochart. “Ta sẽ đi, nhất định ta sẽ đi!” James Starr lẩm bẩm trong miệng, trong lòng như có lửa đốt khi thấy giờ hẹn càng đến gần. Thế nhưng, một sự cố bất ngờ đã xảy ra. Nó giống như một dòng nước lạnh làm ngưng tụ nhất thời những giọt hơi nước bốc lên trong ấm nước sôi. Thực vậy, vào khoảng sáu giờ chiều, người gia nhân đã mang đến cho ông một lá thư thứ hai. Lá thư này đựng trong một chiếc phong bì xấu xí, nét chữ đề ngoài phong bì được viết bởi một bàn tay ít khi cầm đến bút. James Starr vội xé phong bì ra. Bên trong chỉ một mẩu giấy nhỏ đã bị thời gian làm ố vàng. Hình như nó được xé ra từ một quyển tập cũ. Trên mẩu giấy đó chỉ vẻn vẹn một dòng chữ sau đây: “Kỹ sư James Starr không cần bận tâm đến lá thư của Simon Ford làm gì. Lá thư đó giờ đây không còn nói lên điều gì nữa”. Bức thư không có tên người gửi. ... Mời các bạn đón đọc Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle của tác giả Jules Verne.