Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Luận Về Biếu Tặng (Marcel Mauss)

Luận về biếu tặng (1925) là tác phẩm thuộc hàng kinh điển của Marcel Mauss. Trong cuốn sách nhỏ này, ông đã lập luận rằng những món quà không bao giờ “miễn phí”. Lịch sử của con người là lịch sử của những lần trao đổi quà tặng qua lại, và điều này vượt qua mọi ranh giới giữa vật chất và tinh thần. Món quà, ngoài giá trị của chính nó, còn bao hàm nhiều giá trị khác như về danh dự, địa vị, thậm chí còn giống như một sự thách thức đối với người nhận quà. Chính mối quan hệ giữa món quà và người tặng đã tạo ra nghĩa vụ “đáp trả” của người nhận.***

Marcel Mauss (1872-1950) là nhà xã hội học người Pháp, người học trò, người cháu của Émile Durkheim. Ông thường được coi là “cha đẻ của ngành nhân học Pháp” với bài viết nổi tiếng đăng trên Année sociologique (Năm xã hội học): Luận về biếu tặng. Lĩnh vực hoạt động và nghiên cứu của ông đi giữa ranh giới của xã hội học và nhân học. Những phân tích của Marcel Mauss về ma thuật, sự hi sinh và biếu tặng có nhiều ảnh hưởng đối với nhiều nhà xã hội học, nhà nhân học sau này, đặc biệt là Claude Lévi-Strauss.

***

Marcel Mauss là nhà nhân học lớn của Pháp. Và Essai sur le don [Luận về biếu tặng - LVBT]* thường được nhiều người xem là kiệt tác của ông. Theo Claude Lévi-Strauss*, nhà nhân học lừng danh thế giới, ảnh hưởng của Mauss không phải chỉ giới hạn nơi hầu hết các nhà dân tộc chí, mà còn tác động đến các nhà ngữ học, tâm lý học, sử học về tôn giáo và các nhà Đông phương học của Pháp. Lévi-Strauss cũng nhận ra vài âm vang như thế nơi nhiều nhà nhân học Anh-Mỹ lớn như Radcliffe-Brown, Malinowski, Evans-Pritchard, Firth, Herkovits, Lloyd Warner, Redfield, Kluckhohn, Elkin, Held... Tại Pháp, một số nhà nhân học, xã hội học và kinh tế học (thuộc “cánh tả mới” ở Pháp) ngưỡng mộ Marcel Mauss đến mức, vào đầu những năm 1980, đã thành lập một tổ chức lấy tên là “Mouvement anti-utilitariste dans les sciences sociales” (Phong trào chống thuyết vị lợi trong các khoa học xã hội), viết tắt thành MAUSS (trùng với tên của Marcel Mauss) và xuất bản một tạp chí cùng tên (La Revue du MAUSS).

LVBT (1925) có lẽ là công trình nổi tiếng và khó hiểu vào bậc nhất của ngành nhân học xã hội. Nó hấp dẫn độc giả đến mức ngay cả Lévi-Strauss cũng đã phải thú nhận: “Ít người có thể đọc LVBT mà không cảm thấy cả một loạt các cảm xúc mà Malebranche đã miêu tả khi nhắc đến lần đầu tiên ông đọc Descartes: Tim đập mạnh, đầu nóng lên, và tinh thần bị xâm chiếm bởi một xác tín còn chưa rõ lắm, nhưng mãnh liệt, là mình đang chứng kiến một sự cố quyết định của tiến triển khoa học.” Tìm mua: Luận Về Biếu Tặng TiKi Lazada Shopee

Trong cuốn sách này, ngoài LVBT, còn có ở phần phụ lục bản dịch hai bài rất dài của Claude Lévi- Strauss (1950) và của Florence Weber (2007).

“Dẫn vào sự nghiệp nghiên cứu của Marcel Mauss” là một bài rất quan trọng và rất nổi tiếng: Không những nó giới thiệu được các cống hiến lý thuyết quyết định của Mauss đối với nhân học mà còn là một tuyên ngôn của chủ nghĩa cấu trúc mà Cl. Lévi-Strauss đang xây dựng vào thời đó. Phải nói là khi đọc hay nghe Lévi- Strauss, một người “thường thường bậc trung” như tôi cũng cảm thấy mình thông minh hẳn ra!

Viết sau bài trên đến gần 60 năm, bài “Hướng đến một dân tộc chí về các cung ứng không thông qua thị trường”* của Florence Weber, trái lại, tập trung vào việc giới thiệu LVBT (đặc biệt bà bác bỏ nhận định nổi tiếng của Lévi-Strauss cho rằng Mauss đã sai lầm khi dùng khái niệm hau - tức là “sức mạnh” của đồ vật theo người Maori - để lý giải sự bắt buộc phải đáp tặng). Bà cũng giới thiệu ảnh hưởng của LVBT trên các nghiên cứu dân tộc chí về biếu tặng, trao đổi, chuyển giao và giao dịch từ hơn nửa thế kỷ nay.

Chính vì đã có hai bài rất dài của Lévi-Strauss và Weber, tôi sẽ chỉ giới thiệu sơ qua tiểu sử của Marcel Mauss và trình bày các khó khăn mà tôi đã gặp trong khi dịch LVBT.

Tiểu sử Marcel Mauss

Sinh năm 1872 ở Épinal trong một gia đình giáo trưởng đạo Do Thái, Marcel Mauss học triết học ở Đại học Bordeaux dưới sự theo dõi của cậu ruột là Emile Durkheim (1858-1917) - được bổ làm Giáo sư khoa sư phạm và khoa học xã hội ở trường đại học này từ năm 1887 - nên ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhà xã hội học danh tiếng này. Marcel Mauss từng thú nhận: “Tôi đã sống cả phần đầu của đời tôi bên cạnh ba vĩ nhân [...]: Durkheim, Jaurès* và Sylvain Lévi.*”*

Đậu thạc sĩ* triết học năm 1893, ông không nhận dạy ở Bordeaux mà lên Paris tìm hiểu môn nhân học thông qua các tác phẩm của J.G. Frazer (1854-1941)* và E.B. Tylor (1832-1917)*. Dưới sự hướng dẫn chủ yếu của Sylvain Lévi, ông học tiếng Phạn, ngữ học so sánh các ngôn ngữ Ấn-Âu và lịch sử tôn giáo nhằm thực hiện luận án tiến sĩ về cầu nguyện mà ông sẽ không bao giờ hoàn thành. Năm 1901, ông được bổ nhiệm làm giáo sư về lịch sử tôn giáo của các dân tộc “không văn minh” ở Trường Cao học Thực hành (École Pratique des Hautes Études, Paris): Trong bài giảng đầu tiên ông đã bác bỏ cụm từ “không văn minh” này.

Nhờ biết nhiều ngoại ngữ (và cổ ngữ), Mauss đã giới thiệu, trong các bài giảng cũng như những bài điểm sách của ông đăng trong L’Année sociologique [Năm Xã hội học] do Durkheim sáng lập năm 1898, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, đặc biệt ở Anh và Mỹ, và nhờ thế đã góp phần không nhỏ vào việc xác định vị trí của trường phái nhân học Pháp trong bối cảnh quốc tế.

Sau khi Durkheim qua đời năm 1917, ông nỗ lực làm sống lại tạp chí L’Année socioiogique, với sự giúp đỡ của C.Bouglé, G. Davy, P. Fauconnet và M. Halbwachs.

Năm 1931, ông được bầu làm giáo sư xã hội học ở Collège de France (Học viện Pháp), trường đại học có uy tín và độc đáo nhất của Pháp*.

Song song với việc nghiên cứu và giảng dạy, Mauss còn là một nhà hoạt động chính trị rất tích cực. Gia nhập (năm 1905) Đảng Xã hội Pháp SFIO mà ông không bao giờ rời bỏ, ông đã đấu tranh trong nhóm sinh viên ủng hộ Dreyfus*, giao du với J. Jaurès, tham gia thành lập báo L’Humanité [Nhân Đạo] và đảm nhận chức thư ký ban biên tập. Sau hội nghị ở Tours năm 1920*, ông tiếp tục tham gia Đảng Xã hội SFIO; ông viết nhiều bài về thời sự chính trị trong báo Le Populaire [Bình Dân] của đảng SFIO. Về hưu năm 1940, ông đã chịu nhiều thử thách trong Thế chiến II. Ông qua đời năm 1950.

Từ năm 1925, trong khuôn khổ của Viện Dân tộc học thuộc Đại học Paris mà ông đã cùng L. Lévy-Bruhl và P. Rivet thành lập và tổ chức, Mauss đã góp phần quan trọng trong việc biến nhân học thành một môn độc lập. Từ 1926 đến 1940, ông đã đào tạo ở đây thế hệ đầu tiên các nhà dân tộc học Pháp nghiên cứu trên thực địa: Georges Devereux, Germaine Dieterlen, Marcel Griaule, André-Georges Haudricourt, Michel Leiris, Alfred Métraux, Denise Paulme, André Schaffner, Jacques Soustelle,...

Đóng góp khoa học quan trọng của Mauss là đã làm nhẹ bớt tinh thần hệ thống, quan điểm phát sinh, khuynh hướng thần bí của Durkheim và một số môn đệ của ông. Khác với Durkheim, ông không xem cái “phức hợp” (le complexe) như là phái sinh từ cái đơn giản (le simple) được coi như là “nguồn gốc” theo quan điểm tiến hóa luận. Trái lại, ông xét các sự kiện trong mối quan hệ của chúng với toàn bộ tổ chức xã hội mà chúng thuộc vào. Theo ông, các hiện tượng xã hội cũng là các hiện tượng tinh thần. Lối tiếp cận mới này đã cho phép ông tạo ra được khái niệm “sự kiện xã hội toàn bộ” (fait social total) mà ông đã chủ yếu trình bày trong LVBT: Không tập trung vào các định chế (như luật pháp, nghi lễ, hôn nhân, huyền thoại...), thực ra chỉ là kết quả của sự chia cắt thực tại xã hội, mà trái lại tập trung vào tổng thể cụ thể (totalité concrète) mà chúng là thành phần; chính trong sự tương quan với tổng thể cụ thể đó mà chúng có ý nghĩa nhờ tạo nên hệ thống. Nhà dân tộc học có nhiệm vụ tái lập tổng thể xã hội và tìm ra các thời điểm thuận lợi nhất - như potlatch của người Mỹ-Ấn ở vùng duyên hải Tây-Bắc châu Mỹ mà F. Boas nghiên cứu hay kula ở Melanesia mà B.K Malinowski phân tích - trong đó một xã hội hiện ra rõ nhất nhờ sự hoạt động của toàn bộ các định chế và các biểu trưng của nó.

Theo cách nhìn của Mauss, các xã hội “nguyên thủy” không phải là “đơn giản” như Durkheim quan niệm, mà có sự “phức tạp” khác với sự phức tạp của xã hội phương Tây đương đại. Chính vì quan niệm như thế, nên Mauss chống lại việc L. Lévy-Bruhl đối lập triệt để “trí trạng nguyên thủy” (mentalité primitive) với trí trạng hiện đại. Cũng do quan niệm đó, nên Mauss đã luôn đặc biệt quan tâm đến các phạm trù miêu tả - đặc biệt trong cuốn Manuel d‘ethnographie [Giáo trình dân tộc chí] - và cho rằng chuyên khảo (monographie) là hình thức trình bày và phân tích thích hợp nhất cho việc giới thiệu các thực tại xã hội phức tạp.

Các công trình nghiên cứu của Mauss đã có ảnh hưởng không những đối với các nhà nghiên cứu trong các ngành khoa học xã hội mà cả đối với nhà văn và các nhà triết học (như Roger Caillois, Georges Bataille, Raymond Queneau...).

Trong tất cả các tác phẩm của ông, LVBT là công trình được trích dẫn nhiều nhất, cả ở ngoài Pháp, đặc biệt ở Anh và ở Mỹ. Tiểu luận này cũng đã để lại dấu ấn sâu sắc nơi nhiều nhà nhân học lớn như A.C. Radcliffe-Brown, B.K Malinowski, E.E. Evans- Pritchard, R. Firth, M.J. Herkovits, R. Redheld... Nói chung, ảnh hưởng của ông rất rõ nét trong các công trình nghiên cứu ở Đại học Oxford dưới sự hướng dẫn của Evans-Pritchard và R. Needham.

Được xem như là một trong những lý thuyết gia chính của nền nhân học Pháp, Mauss chưa từng viết một cuốn sách nào để trình bày một cách hệ thống những tư tưởng chủ đạo của ông. Và dù được xem là vị giáo sư đã thúc đẩy các môn đệ của mình tiến hành các điều tra điền dã, bản thân Mauss chưa từng nghiên cứu trên thực địa. Rất đa dạng, các bài báo của ông thường có tựa đề bắt đầu bằng các từ khiêm tốn như “sơ thảo” (esquisse), “tiểu luận” (essai), “trích đoạn” (fragment), “dẫn nhập” (introduction)... và thường được viết chung với người khác (như E. Durkheim, P. Fauconnet, H. Beuchat và nhất là H. Hubert). Điều đó không những chứng tỏ ông ý thức sâu sắc tính chất tạm thời và có thể bác bỏ được của các công trình khoa học, mà còn cho thấy ông coi trọng sự hợp tác với bạn đồng sự và lối làm việc tập thể.

Do các phát hiện lý thuyết không được trình bày một cách hệ thống, chúng thường bị giải thích theo nhiều cách mà đôi khi trái ngược nhau: Chẳng hạn đối với Georges Gurvitch, “sự kiện xã hội toàn bộ” bao gồm cả trạng huống (conjoncture) lẫn cấu trúc trong khi Claude Lévi-Strauss lại phát hiện nó trong cấu trúc và trong tính chất tương quan của tư tưởng biểu tượng. Nhiều chủ đề mà ông đề cập - như biếu tặng, ma thuật, kỹ thuật thân xác, hiến sinh, cầu nguyện, v.v. - đã hoặc có thể mở ra những hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Biếu Tặng PDF của tác giả Marcel Mauss nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Những Tư Tưởng Lớn Từ Những Tác Phẩm Vĩ Đại (Phạm Viêm Phương)
Cuốn sách các bạn đang cầm trên tay là một tập hợp những câu hỏi và trả lời. Những câu hỏi này được đặt ra cho tác giả, một chuyên gia về lịch sử tư tưởng phương Tây, từ những độc giả thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội Mỹ muốn tìm hiểu về đủ loại vấn đề. Nhìn chung, đông đảo độc giả đều muốn biết các nhà tư tưởng trong quá khứ suy nghĩ và lý giải thế nào về những vấn đề mà con người hôm nay đang phải đối mặt. Họ không mưu tìm một câu trả lời dứt khoát, một giải pháp rốt ráo, mà thường họ muốn hiểu rõ vấn đề và muốn rút được bài học từ các nhà tư tưởng lớn trong truyền thống triết học phương Tây. Những câu hỏi này được tác giả trả lời trong một chuyên mục của ông, ban đầu chỉ được đăng tải trên tờ Chicago Sun-Times và Chicago Daily News. Trong vòng một năm sau khi ra đời, đã có tới 28 tờ báo mua bản quyền để đăng tải chuyên mục này (trong đó có tờ Kenkyu Sha ở Tokyo). Sự thành công của chuyên mục đã đưa tới việc tập hợp những câu hỏi và trả lời thành một cuốn sách. Đó là hoàn cảnh hình thành tác phẩm này trong lòng xã hội Mỹ. Dĩ nhiên đối với người Việt, văn minh phương Tây nói chung, và triết học của nó nói riêng, không phải là đề tài học tập bắt buộc, và cũng không phải là nguồn cội tư tưởng giúp chúng ta định hướng cuộc sống và giải quyết những vấn đề của mình. Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận sự kiện rằng truyền thống triết học phương Tây đã có ảnh hưởng quyết định đối với nền văn minh phương Tây vốn đã đạt nhiều giá trị mà hiện đã trở thành phổ quát đối với phần còn lại của thế giới, nên triết học phương Tây thực sự xứng đáng được chúng ta quan tâm đúng mức. Như đã nói trên, khi trả lời các câu hỏi, tác giả không đưa ra, hay áp đặt, một câu trả lời dứt khoát hay một giải pháp tối hậu. Ông chỉ trình bày các nhà tư tưởng lớn đã nói gì trong các tác phẩm của họ về các vấn đề được độc giả nêu ra. Các nhà tư tưởng này thường có những ý kiến khác nhau, thậm chí xung khắc nhau, tuy họ đều dựa trên cơ sở lý luận nào đó, và ý kiến của họ luôn là thành quả của nhiều năm tháng suy nghĩ và chiêm nghiệm. Cách trình bày này giúp độc giả có cơ hội nhìn và mổ xẻ vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau, tự rút ra bài học cho mình và đưa ra quyết định cuối cùng. Đây cũng chính là cốt tủy của cái mà tác giả trình bày như một “nền giáo dục khai phóng”, một nền giáo dục - hình thành từ thời cổ đại ở Hy Lạp và La Mã - nhằm vào việc đào tạo những con người tự do, hiểu theo nghĩa là một con người biết tư duy rốt ráo về từng vấn đề, biết tự đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm cho quyết định của mình. Mẫu người tự do này khác hẳn mẫu người nô lệ, chỉ trông cậy vào tư duy và quyết định của người khác, và dĩ nhiên, họ không hề muốn chịu trách nhiệm về những quyết định đó tuy rằng họ đã hành động theo những quyết định đó. Một quan điểm đáng lưu ý nữa của tác giả là ở chỗ ông luôn trích dẫn ý kiến của những tác gia kinh điển của từng lãnh vực, ngay cả khi lý thuyết của những tác gia này đã bị vượt qua, hay thậm chí bị phi bác, bởi những nhà tư tưởng và thành quả khoa học của thời hiện đại. Ông biện minh rằng chúng ta không học tập hay tiếp nhận những tri thức của các nhà tư tưởng đó, vì có thể nó đã bị vượt qua hoặc không còn đúng nữa dưới ánh sáng của khoa học ngày nay, mà chúng ta học tập phương pháp tư duy của họ, hiểu ra con đường và cách đi của họ để tiếp cận với chân lý, tuy họ sống trong những thời kỳ mà khoa học và kinh tế còn phôi thai, chưa phát triển. Đó mới thực sự là điều mà triết học mang lại cho con người và cũng là điều bổ ích của tác phẩm này. Như các bạn sẽ thấy, các câu hỏi trong sách này trải rộng trên nhiều lãnh vực, từ đạo đức, chính trị, xã hội đến kinh tế và nhiều vấn đề thiết thực trong đời sống (như mỹ học, nghệ thuật, giáo dục, quan hệ nhân sinh…). Như thế không có nghĩa rằng các nhà tư tưởng phương Tây chỉ bàn về những chuyện ấy, mà chẳng qua là vì câu hỏi từ các độc giả thường chỉ xoay quanh những vấn đề gần gũi ấy và ít có người quan tâm đến những lý thuyết phức tạp hơn vốn để lý giải bản chất của hữu thể và cấu trúc của thực tại. Chúng tôi muốn nói rõ điều này để các bạn hiểu sách này không bao quát toàn bộ triết học phương Tây, mà chỉ xoay quanh những vấn đề được nhiều con người bình thường quan tâm. Cũng chính vì thế mà chúng tôi tin tác phẩm này bổ ích cho tuyệt đại đa số chúng ta - những người không chuyên nghiên cứu triết học. Điều cuối cùng mà chúng tôi muốn thưa cùng bạn đọc là, do tác phẩm này bao trùm nhiều lãnh vực học thuật khác nhau, đòi hỏi người dịch phải có một kiến thức cơ bản nào đó ở mọi lãnh vực, mà điều đó chúng tôi tự xét là mình chưa đạt được, nên việc dịch và chú giải sách này - tuy chúng tôi đã làm hết sức trong khả năng có hạn của mình - chắc chắn vẫn còn nhiều sai sót. Chúng tôi thực sự rất mong nhận được ý kiến chỉ giáo của bạn đọc.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Những Tư Tưởng Lớn Từ Những Tác Phẩm Vĩ Đại PDF của tác giả Phạm Viêm Phương nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ngẫu Nhiên Và Tất Yếu (Jacques Monod)
Tất cả những gì hiện hữu trong vũ trụ đều là kết quả của ngẫu nhiên và tất yếu. Démocrite Ở thời điểm tế nhị khi con người quay đầu nhìn lại cuộc đời mình, trở về núi đá cố hữu, Sisyphe ngẫm lại chuỗi hành động tản mát đã trở thành định mệnh của hắn, do chính hắn tạo ra, kết hợp lại trong cảnh tượng của kí ức và không lâu nữa sẽ được cái chết của hắn niêm phong. Như thế đó, tin chắc rằng mọi chuyện của con người đều do con người tạo tác, kẻ mù loà muốn nhìn rõ và vẫn biết rằng đêm dài vô tận, vẫn cứ đi. Hòn đá vẫn lăn. Tôi để Sisyphe đó dưới chân núi đá! Ai rồi cũng sẽ nhận được gánh nặng của mình. Nhưng Sisyphe dạy ta sự trung kiên cao cả đã phủ nhận thần linh và dời được núi. Sisyphe cũng thấy rằng mọi chuyện đều ổn. Cái vũ trụ từ nay không ai ngự trị, hắn không thấy là vô nghĩa hay vớ vẩn. Mỗi một thớ nhỏ của tảng đá này, mỗi mảnh vỡ của hòn núi đầy bóng tối này, chỉ riêng nó đã làm nên một thế giới. Sự cố gắng vất vả để trèo lên đỉnh núi, tự nó đủ để thoả mãn một con người. Phải nghĩ rằng Sisyphe hạnh phúc. Albert Camus, Huyền thoại Sisyphe Tìm mua: Ngẫu Nhiên Và Tất Yếu TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ngẫu Nhiên Và Tất Yếu PDF của tác giả Jacques Monod nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hố Thẳm Của Tư Tưởng (Phạm Công Thiện)
Hố thẳm của tư tưởng Mở đầu Đặt lại căn nguyên tư tưởng hôm nay Chương nhất - Triết và tính Chương hai - Tượng và tính Chương ba - Ái và tính Tìm mua: Hố Thẳm Của Tư Tưởng TiKi Lazada Shopee Chương tư - Thơ và tính Chương năm - Hoạ và tính Kết luận - Mở ra sứ mệnh của hố thẳm Phụ lục Đi vòng quanh Hố thẳm I. Dịch hoá pháp về hố thẳm Trong tư tưởng Trung Quán Luận II. Hố thẳm của ý thức mới III. Biểu tượng về hố thẳm trong tư tưởng Nâgârjuna IV. Bóng tối của hố thẳm V. Hố thẳm của chiến tranh quê hương VI. Hố thẳm của chân lý VII. Henry Miller Hố thẳm siêu hình học Phá hủy tư tưởng Heidegger[2] Phần mở đầu A. Hố thẳm siêu hình học B. Chính nghĩa của sự phá hủy LỜI MỞ ĐẦU VỀ LẦN TÁI BẢN THỨ BA Quyển Hố thẳm của tư tưởng này đã đánh dấu một giai đoạn của người viết, một giai đoạn phủ nhận triệt để. Sau sự phủ nhận triệt để này là Sự im lặng của Hố thẳm. Không thể nào đọc Hố thẳm của tư tưởng mà không đọc Im lặng hố thẳm mà không thấy Hố thẳm của tư tưởng. Lần tái bản thứ ba này, người viết đã tự tiện xoá bỏ bài viết về luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Trung vì bài ấy chỉ có tính cách giai đoạn và nhất là chỉ có tính cách tượng trưng. Sau sự tượng trưng là Thực Tại viết hoa và Thực Tại bắt chéo. Vỗ cánh bay chín từng trời cao ngất. (Hàn Mặc Tử) Tôi mở đầu Hố thẳm của tư tưởng với Hàn Mặc Tử. Đáng lẽ Hàn Mặc Tử viết quyển này, vì Hàn Mặc Tử là người duy nhất đã sống trong Hố thẳm của Tư tưởng bằng chính hơi thở, máu, nước mắt, thân thể và linh hồn. Thơ của Hàn Mặc Tử là Tư tưởng của Hố thẳm; thi ca và tư tưởng đều bắt đầu và chấm dứt nơi Hố thẳm; thi ca bay về Hố thẳm bằng cánh phượng hoàng; Tư tưởng bay về Hố thẳm bằng cánh chim ưng. Chim ưng và chim phượng hoàng bay lượn vòng nhau, giao cấu nhau giữa mống cầu vồng bảy sắc và khai sinh ra một bồ câu màu đen chưa từng xuất hiện trên đời. Phạm Công Thiện Paris, ngày 22/VI/1966Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hố Thẳm Của Tư Tưởng PDF của tác giả Phạm Công Thiện nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Friedrich Nietzsche Và Những Suy Niệm Bên Kia Thiện Ác (Phạm Văn Chung)
Friedrich Nietzsche là một nhà triết học, nhà văn, nhà tư tưởng hiện đại nổi tiếng của nước Đức. Mặc dù các tác phẩm mà ông để lại không nhiều và không đồ sộ về số lượng và dung lượng như của nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng lớn khác, nhưng cũng đã gây một tiếng vang lớn, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần xã hội hiện đại trước hết là ở châu Âu - phương Tây, kéo dài cho đến hiện thời và có thể sẽ còn tiếp tục. Theo F. Challaye - tác giả của bài “Nietzsche - Cuộc đời và triết lí” thì nhà bình chú hay nhất của Pháp về F. Nietzsche là Charles Andler đã đưa F. Nietzsche lên hàng triết gia nổi tiếng nhất của chúng ta ngày nay khi ông viết: “Nietzsche đã chứng tỏ, cùng với Henn Bergson, một hệ thống triết học có thể có của thời đại chúng ta”. Nhưng theo nhận xét của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (tiếng Việt) thì F. Nietzsche là một trong số các nhà triết học quan trọng mà các tác phẩm của ông có lẽ đã tạo ra ít sự nhất trí nhất giữa những người giải nghĩa, mặc dù các khái niệm quan trọng ở ông được xác định dễ dàng, nhưng người ta đã phải tranh cãi quyết hệt về ý nghĩa của mỗi khái niệm ấy, chưa nói gì đến tầm quan trọng tương đối của chúng”. Có lẽ chính vì những lí do này mà theo Tổng quan Triết lí của Nietzsche trên trang F. Nietzsche của Google, “gần như mỗi tháng đều xuất hiện một hay vài ba sách vở của các học giả về Nietzsche, đặc biệt trong thế giới Anh ngữ. Việc viết sách về Nietzsche đã trở thành một kỹ nghệ thương mại”. Từ những nhận xét trên có thể thấy đề tài về F. Nietzsche không chỉ có sức lôi cuốn mà còn rất khó khăn, không đơn giản, nhất là khi ta muốn đạt đến một hiểu biết mang tính toàn thể về ông. Tuy nhiên, nghiên cứu, nhất là đánh giá F. Nietzsche vẫn là yêu cầu tất nhiên không chỉ của nghiên cứu lịch sử triết học, mà còn vì yêu cầu của nhận thức, tinh thần và cả thực tiễn của mỗi giai đoạn lịch sử. Do đó, theo dòng thời gian ta có thêm hi vọng là sẽ có được những tiếng nói khả dĩ hơn về F. Nietzsche nhằm khắc phục được cái mâu thuẫn “không thể chấp nhận được” vẫn đang tồn tại là thừa nhận ông như một nhà tư tưởng, một triết gia vĩ đại nhưng lại không, lại chưa xác định được chính cái sự thật vĩ đại ấy là gì. Và đối với tác giả của cuốn sách này thì niềm hi vọng nói trên trước hết nằm ở chỗ xây dựng được sự tiếp cận, các phương pháp mới không chỉ trong nghiên cứu F. Nietzsche nói chung mà còn đối với từng tác phẩm của ông nói riêng. Với cách đặt vấn đề như thế tác giả lựa chọn tìm hiểu một tác phẩm được xem là rất tiêu biểu và quan trọng của F. Nietzsche, tác phẩm Bên kia thiện ác. Phải nói rằng việc nghiên cứu F. Nietzsche chỉ trong phạm vi một tác phẩm này thôi, tình hình cũng không hề đơn giản. Sau một thời gian khá lâu, có lẽ đến gần hai năm tác giả mới đạt được kết quả nghiên cứu này, để giờ đây mới có thể nói được một câu tưởng rất dễ dàng rằng thực ra vấn đề là ở chỗ phải thay thế những quan điểm, phương pháp nghiên cứu cũ bằng việc xây dựng những quan điểm, phương pháp, nhất là tiếp cận mới. Có thể nói đối với tác giả, chưa bao giờ vấn đề phương pháp, cụ thể hơn vấn đề tiếp cận hay nói khác đi, vấn đề xác lập một quan điểm, một nguyên tắc có tính chất bao quát, hướng dẫn toàn bộ công việc nghiên cứu lại được đặt ra một cách hết sức rốt ráo như vậy. Và sau nhiều nỗ lực thì gần như là đồng thời mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu, nhất là tiếp cận mới, tiếp cận giả định và chủ đề nghiên cứu “những suy niệm bên kia thiện ác” đã được xác định. Chính từ sự thực hiện yêu cầu trên một ý nghĩa hay bài học rất sâu sắc, quan trọng đã được rút ra cho tác giả là phương pháp, những phương pháp trong đó bao gồm cả quan điểm, nguyên tắc, tiếp cận, không phải là cái có sẵn mà ta có thể lựa chọn, trái lại nó là cái cần phải được sáng tạo ra trong quá trình nghiên cứu, hoạt động nói chung. Trong quá trình nghiên cứu những phương pháp có sẵn, nhất là về lí thuyết, nói chung chỉ được lựa chọn để đối chiếu, thử nghiệm, nhằm xây dựng phương pháp cụ thể, phù hợp và có thể là mới. Cho nên, ý nghĩa của sự sáng tạo trước hết nằm ở sự sáng tạo phương pháp hay nói cách khác, sự sáng tạo về thực chất là sáng tạo phương pháp. Đồng thời, một khía cạnh ý nghĩa, bài học khác cũng rất quan trọng đối với tác giả ở đây là thấy rõ phương pháp là quá trình. Tìm mua: Friedrich Nietzsche Và Những Suy Niệm Bên Kia Thiện Ác TiKi Lazada Shopee Nghĩa là ở đây vấn đề không phải là xây dựng, xác lập xong phương pháp rồi mới thực hiện sự nghiên cứu. Phải nói rằng mặc dù tôi đã “thuộc làu” câu nói nổi tiếng của W.G. Hegel khi còn là sinh viên rằng “phương pháp là ý thức về hình thức của sự tự vận động nội tại của bản thân nội dung”, nhưng cho đến bây giờ cái lí thuyết về phương pháp ấy mới có chỗ đứng thực sự vững chắc trong thực tế nghiên cứu của tôi. Sự thực là trong nghiên cứu tác phẩm Bên kia thiện ác tôi đã không “thủ sẵn” những quan điểm, phương pháp, nhất là tiếp cận giả định như đã được nói đến trong “Phần mở đầu” của sách này, để tiến hành khám phá, mổ xẻ nội dung tác phẩm Bên kia thiện ác, trái lại sự ý thức ra được cái logic của tác phẩm của F. Nietzsche, của những suy niệm bên kia thiện ác (mà W.G. Hegel hiểu là “sự ý thức về hình thức của sự tự vận động nội tại của bản thân nội dung”), chỉ có thể là khi toàn bộ nội dung chuyên khảo Friedrich Nietzsche và những suy niệm bên kia thiện ác đã được viết ra hay ít ra là được phác họa-cấu trúc trên những nét cơ bản. Như thế, với tư cách là sự ý thức về cái logic của tác phẩm Bên kia thiện ác, của những suy niệm bên kia thiện ác, phương pháp là cái nằm trong tiến trình xây dựng nội dung của cuốn sách này, là quá trình vừa hình thành vừa hướng dẫn và không ngừng hòa nhập, hóa thân vào nội dung của cuốn sách khi tạo nên logic của nó.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Friedrich Nietzsche Và Những Suy Niệm Bên Kia Thiện Ác PDF của tác giả Phạm Văn Chung nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.