Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ai Làm Được

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ai Làm Được của tác giả Hồ Biểu Chánh. Nguyễn Thanh Liêm   Văn học chữ Quốc Ngữ đã được thành hình ở Miền Nam ngay từ hạ bán thế kỷ XIX với Petrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của. Nhờ công của hai ông, chữ Quốc Ngữ bành trướng nhanh chóng trong dân gian. Với sự bành trướng của chữ Quốc Ngữ và phương tiện in ấn mới, phong trào đọc tiểu thuyết càng ngày càng lan rộng. Tiểu thuyết trở thành món tiêu khiển rất ăn khách ở Miền Nam vào đầu thế kỷ XX. Các báo chí, các nhà in, và nhà xuất bản đều đói tác phẩm tiểu thuyết. Khởi đầu là những tiểu thuyết dịch, phần lớn là truyện Tàu, rồi đến những sáng tác của người Việt. Một trong những tiểu thuyết gia nổi tiếng trong thời kỳ mở đầu này là Hồ Biểu Chánh. So với các tiểu thuyết khác cùng thời thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có tính cách mới mẻ hơn và hấp dẫn hơn.  Với tác phẩm đầu tiên, „U Tình Lục“, thành hình năm 1909 và xuất bản năm 1913, Hồ Biểu Chánh còn chịu ảnh hưởng truyện Nôm trong cách dùng thể văn lục bát trường thiên như Ðoạn Trường Tân Thanh hay Lục Vân Tiên. Tuy vậy mầm mới mẻ của tiểu thuyết của ông cũng đã khởi sắc qua bối cảnh (câu chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhất là ở quê hương Gò Công của ông ở Miền Nam), qua cách dàn dựng cốt truyện (plot) cũng như qua văn tự (dùng chữ Quốc Ngữ). U Tình Lục chỉ củ ở thể văn (thể lục bát trường thiên) và ở một số các từ ngữ và lối diễn tả trong một số câu thơ mà nghe qua ta thấy tương tự như truyện Kiều, như trong hai câu sau đây:                         „Cúc-Hương trở gót trướng hoa,                         Ruột gò chín khúc, lụy sa đôi hàng.“       Nhưng đến tác phẩm „Ai Làm Ðược“, ra đời liền sau U Tình Lục, thì Hồ Biểu Chánh đã là một tiểu thuyết gia loại mới hẳn.  Ai Làm Ðược  là quyển tiểu thuyết đầu tiên viết theo thể văn xuôi bằng chữ Quốc Ngữ. Bản thảo đã thành hình hồi năm 1912 lúc Hồ Biểu Chánh còn làm ký lục ở Cà Mau, nhưng phải đến năm 1922 tác phẩm tiểu thuyết đầu tay này mới chính thức ra đời sau khi đã được ông nhuận sắc. Ai Làm Ðược là tiểu thuyết viết theo kỷ thuật mới, nghĩa là viết theo cách viết tiểu thuyết của Pháp, chớ không viết theo kiểu truyện Tàu (chương hồi tiểu thuyết), hay kiểu truyện Nôm của các nhà nho Việt Nam xưa (viết theo thể lục bát trường thiên) như Nguyễn Du hay Nguyễn Ðình Chiểu. Hồ Biểu Chánh thành công ngay với tác phẩm đầu tiên theo loại mới này. Liền sau Ai Làm Ðược là một loạt 15 quyển tiểu thuyết khác của ông được xuất bản trong những năm kế tiếp trong thập niên1922-29. Ðiều này cho thấy độc giả rất ưa thích loại tiểu thuyết mới này của ông. So với truyện Tàu còn rất ăn khách trong thời gian này thì Ai Làm Ðược tỏ ra mới lạ và hấp dẫn hơn nhiều. Trước hết là mới trong bối cảnh của câu chuyện. Ðây là câu chuyện xảy ra ở Miền Nam Việt Nam, ở ngay tại Cà Mau, chớ không phải ở một nơi xa xôi nào bên Trung Quốc. Và chuyện xảy ra ngay trong thời gian gần đây chớ không phải chuyện xảy ra hồi xửa hồi xưa nào, với những nhân vật là người Việt Nam, và những sinh hoạt quen thuộc trong xã hội Miền Nam (Nam Kỳ Lục Tỉnh) vào khoảng thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX. So với truyện Tàu dịch ra tiếng Việt, và với các truyện Nôm xưa, bối cảnh của Ai Làm Ðược hoàn toàn mới mẻ với tính cách phong tục (hay môi trường văn hóa/xã hội) của nó. Và đó là điểm hấp dẫn đầu tiên của quyển tiểu thuyết mới này.  Kế đó và quan trọng hơn nữa là cách dàn dựng cốt chuyện của Hồ Biểu Chánh. Phần đông truyện Tàu đều theo mẫu dựng mấu chốt chung của câu chuyện tựa trên những thử thách (challenges) bên ngoài để cho người anh hùng (nhân vật chánh) phải đương đầu và vượt qua những thử thách đó. Thử thách càng nhiều, càng lớn thì sự chiến thắng của người hùng càng vẻ vang và câu chuyện càng lôi cuốn hấp dẫn. Kết thúc câu chuyện là sự chiến thắng của người anh hùng, của người quân tử, của lẽ phải và luân lý đạo đức, với sự thỏa mãn của đọc giả. Loại chuyện tạo xúc động tựa trên những thử thách bên ngoài đó (loại melodrama) có cái hay của nó nhưng chưa nói hết được tấn kịch sâu sắc của con người trong loại drama. Ở đây không những có thử thách bên ngoài mà còn có xung đột giữa những tính tình khác nhau của các nhân vật và những mâu thuẫn bên trong tâm lý của các nhân vật chính. Từ những xung đột, những mâu thuẫn đó câu chuyện thường ẩn chứa nhiều ngang trái, éo le, gây nhiều xúc động trong lòng độc giả. Cũng từ những xung đột, mâu thuẫn ngang trái, éo le đó mà câu chuyện xảy ra, và diễn tiến một cách hợp tình, hợp lý, đưa dần đến đỉnh cao nhất (climax) của câu chuyện để kết thúc. Mấu chốt của câu chuyện trong Ai Làm Ðược là những xung đột, mâu thuẫn đó, những xung đột, mâu thuẫn dẫn đến những éo le ngang trái trong đời. Xung đột giữa mẹ ghẻ độc ác và con chồng cương quyết trả thù cho mẹ ruột. Mâu thuẫn trong bổn phận làm con đối với cha và bổn phận trả thù cho mẹ. Xung đột giữa luân lý về danh dự, tiết hạnh và về chữ hiếu, v.v. . . Qua những mâu thuẫn, xung đột trong tâm lý nhân vật, Hồ Biểu Chánh đã khéo léo kích thích và gây nhiều cảm xúc mạnh trong lòng người đọc khiến họ bị lôi cuốn vào câu chuyện từ đầu đến cuối. Câu chuyện diễn tiến như sau: Có một phú ông tên Bạch Khiếu Nhàn, nhà ở gần chợ Cà Mau, góa vợ, sống một mình trong ngôi nhà to lớn với mấy người gia nhân. Ông có một người con gái độc nhất đã gả cho ông Tri Phủ Lê Xuân Thới ở tại đó. Nhưng con gái ông không may đã lìa đời sau khi sinh được một cô con gái đặt tên là Bạch Tuyết. Ông Tri Phủ thì đã có thêm một người vợ lẽ là bà Nguyễn Thị Phường con của ông hương thân ở Ðầm Dơi trước khi mẹ Bạch Tuyết chết. Bạch Tuyết sống với cha là ông Tri Phủ và bà mẹ ghẻ bây giờ đã chính thức trở thành bà Tri Phủ sau cái chết của mẹ cô. Bà này có nhan sắc, lanh lẹ, ở với ông Tri Phủ có một đứa con trai tên là Lê Xuân Sắc. Bạch Tuyết thường hay qua lại nhà ông Bạch Khiếu Nhàn để thăm viếng ông ngoại.  Câu chuyện bắt đầu vào một buổi chiều năm 1894 khi ông Nhàn vào quán cơm chú Lỳ ở chợ Cà Mau. Ở đây ông có dịp gặp một thanh niên, người ở Vĩnh Long, mồ côi cha mẹ, tên Phan Chí Ðại, người thông minh, có chút học vấn, nhưng nghèo khổ đang muốn tìm việc làm ở Cà Mau. Mến tài Chí Ðại và cũng thương cho tình cảnh của người thanh niên này, ông Nhàn đem Chí Ðại về ở nhà mình và xin cho Chí Ðại một chân thơ ký trong văn phòng ông con rể là quan Tri Phủ. Chí Ðại rất có tư cách, làm việc mẩn cán, được mọi người thương mến, kính nể. Ban ngày Chí Ðại đi làm bên phủ, buổi tối thì về ở nhà Bạch Khiếu Nhàn. Chí Ðại xem ông Nhàn như sư phụ của mình, còn ông Nhàn thì thương mến Chí Ðại như cháu ruột của ông. Bạch Khiếu Nhàn là người gốc ở Thừa Thiên. Từ ngày con gái chết ông buồn rầu không đi về Trung thăm mồ mả ông bà. Bây giờ có Chí Ðại ông muốn nhờ Chí Ðại trông coi nhà cửa để ông đi về nguyên quán chơi chừng vài tháng. Nhưng ông Tri Phủ Lê Xuân Thới thì đề nghị nên để Chí Ðại qua ở bên phủ trong thời gian ông Nhàn đi chơi, để tiện dạy thêm cho con trai ông chớ để Chí Ðại ở một mình bên đó thì buồn chết chịu gì nổi. Ông Nhàn chìu ý ông Tri Phủ và từ đó Chí Ðại sang ở luôn bên phủ. Chí Ðại thường thấy Bạch Tuyết nhưng không hề dám nhìn hay đến gần nói chuyện.  Bà Phủ là người tham lam, độc ác nhưng bề ngoài rất khôn khéo với chồng và con ghẻ. Bà luôn khéo léo chìu chuộng, phục vụ cho ông chồng ghiền thuốc phiện, và lúc nào cũng tỏ vẻ thương yêu lo lắng cho cô con gái con riêng của chồng. Bà thấy ngày nào ông Nhàn, ông ngoại Bạch Tuyết, chết đi thì gia tài đồ sộ của ông sẽ thuộc về Bạch Tuyết. Bà thèm muốn gia tài đồ sộ đó nên muốn xui chồng gả Bạch Tuyết cho cháu ruột của bà. Bà nhỏ nhẹ, thiệt hơn với chồng, khuyên chồng sớm làm theo ý muốn đó của bà. Bà muốn đặt ông Nhàn trước một sự đã rồi để khi trở về dù ông Nhàn có không bằng lòng đi nữa thì cũng không còn làm gì được. Ông Phủ nghe lời vợ, cho Bạch Tuyết biết là ông đã quyết định gả Bạch Tuyết cho anh Ðồ, cháu ruột của bà Phủ. (Câu chuyện trở nên gay cấn bắt đầu từ đây).  Bạch Tuyết mạnh dạn phản đối quyết định của cha, không chịu về làm vợ anh Ðồ, cô cũng nói rõ là cô chê chỗ đó. Thật ra thì Bạch Tuyết từ chối vì một lý do quan trọng hơn là chê chỗ đó nhưng mà cô không thể nói ra lý do đó được. Cô thầm biết âm mưu sang đoạt gia tài của người kế mẫu. Cô cũng biết là trước đây mẹ cô chết không phải vì bệnh mà là vì bị bà kế mẫu tráo thuốc độc giết chết. Việc ác độc này cha cô không hề hay biết gì cả. Cha cô lại rất thương yêu, rất nghe lời bà kế mẫu độc ác này. Cô ôm mối hận thù trong thâm tâm và quyết chí chờ cơ hội trả thù cho mẹ ruột. Ðó là lý do thầm kín quan trọng khiến cô cương quyết từ chối cuộc hôn nhân. Thấy việc ép gả Bạch Tuyết chưa có kết quả tốt, bà phủ xoay qua cách khác. Bà nói với chồng là vì Bạch Tuyết đã có tư tình với người nào rồi nên mới từ chối cuộc hôn nhân do cha định đoạt. Bà tạo cơ hội để cho Bạch Tuyết phải có dịp đem thuốc cho Chí Ðại uống, và nói chuyện với Chí Ðại trước mắt đám gia nhân. Từ đó có tiếng xì xầm về việc Bạch Tuyết lo thuốc men cho Chí Ðại và hai người trò chuyện riêng với nhau. Chắc là họ có tư tình gì với nhau rồi. Từ tin đồn đó bà xui chồng đuổi Chí Ðại đi. Ông phủ lúc nào cũng thấy bà có lý, luôn nghe lời bà. Chí Ðại bị đuổi không một lời giải thích. Bị đuổi vô cớ, Chí Ðại sợ ở lại Cà Mau sẽ còn nhiều chuyện không hay nên biên thơ cám ơn Bạch Khiếu Nhàn và đi về Sài Gòn tìm việc làm. Chí Ðại đi là bà Phủ đã thành công một bước trong mưu tính của bà. Bà phải làm sao cho ông Phủ thấy là con gái mình đã bị hư và muốn che dấu sự hư hỏng đó để người ngoài đừng biết thì chỉ có cách là phải gả nó cho cháu bà càng sớm càng tốt. Chí Ðại đi rồi thì việc cho rằng Bạch Tuyết đã hư hỏng với anh chàng này càng được dễ dàng dựng nên. Ông Phủ liền nghe theo bà Phủ, chỉ thị thuộc hạ gắp rút chuẩn bị làm đám cưới cho Bạch Tuyết.  Bạch Tuyết cương quyết từ chối thì bị ông Phủ đánh cho một trận đòn đích đáng về tội hư hỏng. Bạch Tuyết không cách gì minh oan dược. Nhờ bà mẹ ghẻ can thiệp, xin cho cô, ông Phủ mới không đánh nữa. Bạch Tuyết chẳng những không mang ơn bà mẹ ghẻ mà còn căm hận nhiều hơn. Bạch Tuyết khổ sở quá mà không biết làm sao, không còn biết cầu cứu với ai được. Cô định tự tử, nhưng nghĩ lại nếu chết rồi thì còn ai để lo trả thù cho mẹ. Cô nghĩ đến việc thà trốn đi theo trai, thà mang tiếng xấu mà còn có thể trả thù được chớ ở lại đây thì chắc sẽ chết vào tay bà mẹ ghẻ mà thù nhà không trả được. Nhân một hôm ông bà Phủ đi xa, cô lén trốn nhà ra đi. Trước khi đi cô có qua nhà ông ngoại định viết thơ để lại nhưng chỉ mới viết có mấy chữ ông ngoại rồi bỏ dở. Nhưng cô đã có cơ hội đọc thơ Chí Ðại để lại cho Bạch Khiếu Nhàn. Qua thơ này cô biết Chí Ðại đi về đâu, và do đó cô quyết lòng đi theo Chí Ðại. Bạch Tuyết tìm gặp được Chí Ðại ở Sài Gòn. Cô kể rõ tình cảnh đớn đau, nguy hiểm, cô đơn, bơ vơ của cô cho Chí Ðại nghe, cô nói cho Chí Ðại biết tâm sự thầm kín của cô trong vấn đề trả thù cho mẹ, cô mong ước được sự giúp đỡ của Chí Ðại. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo này cô chỉ còn biết trông cậy vào Chí Ðại mà thôi, và cô mong được sống chung với Chí Ðại. Thương cho thân phận của Bạch Tuyết lại đã từng mang ơn Bạch Khiếu Nhàn, tất nhiên Chí Ðại phải hết lòng lo cho Bạch Tuyết nhưng để cho Bạch Tuyết đi theo ở chung với mình thì thật là khó coi nếu không nói là tội lỗi. Chí Ðại phân tích lợi hại, tốt xấu cho Bạch Tuyết nghe và khuyên nàng nên trở về Cà Mau để bảo toàn danh tiết. Nhưng Bạch Tuyết quả quyết thà tự tử chết chớ không thể về Cà Mau được. Cuối cùng Chí Ðại đành phải để Bạch Tuyết theo, sống chung với mình. Hai người sống với nhau và trở thành vợ chồng dù không chánh thức cưới hỏi. Nhưng cuộc sống của hai người vô cùng khổ cực. Chí Ðại không tìm được việc làm vững chắc, vợ chồng thiếu trước hụt sau, nợ nần không trả nổi. Bạch Tuyết có thai, sinh con, nhưng con đau và chết đi vì không tiền thuốc thang chạy chửa. Hoàn cảnh của họ thật vô cùng bi đát. Sau gần bốn tháng đi chơi ở Huế, Bạch Khiếu Nhàn trở về Cà Mau mới hay việc Chí Ðại bị đuổi và Bạch Tuyết đã trốn đi rồi. Ông đọc thơ Chí Ðại và Bạch Tuyết và nghĩ có thể Bạch Tuyết đã theo Chí Ðại lên Sài Gòn thành ra ông vội vã đi ngay lên Sài Gòn tìm cháu. Sau một thời gian khó nhọc tìm kiếm ông đã đến được chỗ ở đậu tồi tàn của hai người. Ông cho tiền trả nợ, mua sắm áo quần, giúp hai người làm hôn thú, rồi đưa hai người về Cà Mau. Ông hùn vốn với một người khách trú mua tàu lớn sang Ấn Ðộ Dương vớt ngọc điệp đem về bán ở bên Trung Quốc. Ông cho Chí Ðại theo tàu điều hành công việc để Chí Ðại có cơ hội gầy dựng sự nghiệp. Còn Bạch Tuyết thì ở nhà với ông. Nhưng bà Phủ đâu có để yên, bà lại xúi ông Phủ sang xin cho Bạch Tuyết về ở với ông bà. Trước lời cầu xin tuy hợp tình hợp lý của ông Phủ, ông Nhàn vẫn chưa chấp thuận. Nhưng Bạch Tuyết lại sợ rồi đây thế nào bà kế mẫu độc ác kia cũng tìm mọi cách ám hại nàng cho nên nàng phải một lần nữa trốn lên Sài Gòn để xa lánh bà mẹ ghẻ độc ác này.  Lần này thì Bạch Tuyết phải sống một mình ở Sài Gòn, nhưng cũng may là cô có mang theo được chút ít tiền và cô đã biết rành cuộc sống ở đây. Lần này cô cũng có cơ hội quen biết và giúp đỡ cho hai người bạn mà sau này họ sẽ trở thành đôi vợ chồng. Họ là những người bạn rất thân của cô, hết lòng giúp đỡ cô trong cơn hoạn nạn về sau. Một người là Băng Tâm, một cô gái quê ở Vĩnh Long, nghèo khổ, bơ vơ lần đầu đến Sài Gòn, và một người là Lý Trường Khanh, nhà giàu có, và là chỗ quen biết với chồng cô từ trước. Cuộc sống của Bạch Tuyết ở Sài Gòn lần này tuy có đỡ hơn lần trước nhưng cũng vẫn rất khổ cực. Cô lại bị đau yếu phải nhờ đến sự chăm sóc tận tụy của Băng Tâm và Trường Khanh. Bà Phủ thì không bao giờ chịu để cho Bạch Tuyết yên thân. Cái gia tài đồ sộ của ông Nhàn lúc nào cũng ám ảnh bà. Không cưới được Bạch Tuyết cho cháu bà thì phải làm sao giết được Bạch Tuyết để may ra ông Phủ và con trai bà còn được hưởng phần nào cái gia tài đồ sộ đó. Bà đích thân lên Sài Gòn tìm gặp Bạch Tuyết, dùng lời ngon ngọt dụ Bạch Tuyết về Cà Mau sống với ông bà. Bạch Tuyết nhất định không chịu. Bà Phủ lật đật về Cà Mau xúi ông Phủ lên Sài Gòn bắt Bạch Tuyết về. Biết thế nguy, Bạch Tuyết nhờ Trường Khanh tìm chỗ ở khác để trốn lánh. Nhưng Trường Khanh chưa tìm được chỗ thì ông Phủ đã lên tới. Lúc này Bạch Tuyết đau nhiều. Ông Phủ thuê ghe đưa Bạch Tuyết về Cà Mau với ông. Bạch Tuyết không trốn tránh nữa được, đành phải để cho ông Phủ bắt về thôi. Sợ Bạch Tuyết bị hại nên Băng Tâm nài nỉ xin được theo bên cạnh để săn sóc cho Bạch Tuyết. Bà Phủ không thích nhưng cũng không làm sao ngăn cản được. Khi Bạch Tuyết và Băng Tâm theo ông bà Phủ đi rồi thì Trường Khanh cũng hối hả xuống Cà Mau tìm gặp ông Nhàn để thông báo mọi việc. Ông Nhàn và Trường Khanh hết sức lo lắng cho số phận của Bạch Tuyết. Trường Khanh nghĩ kế đem Bạch Tuyết ra khỏi nhà ông bà Phủ, nhưng mưu kế bị bại lộ. Bà Phủ biết được bèn tương kế tựu kế cho gia nhân bao vây bắt Trường Khanh và Băng Tâm, vu cáo cho hai người thông đồng ăn trộm đồ nhà bà, kêu ông Phủ phải làm tờ trình gắp rút giải họ lên tòa để Bạch Khiếu Nhàn không kịp can thiệp, giúp đỡ. Giải quyết được Băng Tâm và Trường Khanh, bà Phủ bây giờ đã có đủ điều kiện và cơ hội để giết Bạch Tuyết. Bà tráo thuốc độc cho Bạch Tuyết uống cũng như bà đã làm trước đây cho mẹ ruột Bạch Tuyết. Biết thuốc của bà Phủ bưng vào là thuốc độc nên Bạch Tuyết không chịu uống. Bà Phủ bèn đóng chặt cửa phòng, đè Bạch Tuyết xuống, định đổ thuốc vào miệng. Bạch Tuyết chống cự mãnh liệt nhưng vì đau yếu lâu ngày thành ra không chống nổi sức mạnh của bà Phủ. Nhưng vừa lúc bà Phủ đè được Bạch Tuyết để sắp sửa đổ thuốc vào thì có người tông mạnh cửa phòng, nhào tới kéo bà Phủ ra, giải thoát cho Bạch Tuyết. Người đó là Chí Ðại, vừa về kịp đúng lúc để cứu Bạch Tuyết. Chí Ðại không quên giữ kỷ chén thuốc độc để làm tang chứng tố cáo bà Phủ.  Chí Ðại lên tòa giải oan cho Trường Khanh và Băng Tâm, và nhờ trạng sư đầu đơn tố cáo bà Phủ. Bà Phủ bị tòa tuyên án 8 năm cấm cố về tội giết người. Tri Phủ Trần Xuân Thới thì bị bắt phải về hưu sớm. Ông hết sức ăn năn. Chí Ðại đã thành công lớn lao trong chuyến đi vớt ngọc điệp ở Ấn Ðộ dương. Bạch Khiếu Nhàn vô cùng mừng rỡ. Trường Khanh và Băng Tâm làm lễ thành hôn ở đây với sự giúp đỡ của ông Nhàn. Chí Ðại và Bạch Tuyết vui mừng sum họp, nhưng niềm vui chưa trọn thì Chí Ðại bỗng thấy bức thơ tuyệt mạng của vợ viết cho mình mà chưa ký tên. Ðọc thơ xong Chí Ðại sợ quá nhưng may mà Bạch Tuyết chưa kịp tự tử. Chí Ðại phải hết lời khuyên giải, cắt nghĩa thiệt hơn, Bạch Tuyết mới bỏ ý định đó. Câu chuyện kết thúc ở đây với cảnh mọi người vui vẻ sống hạnh phúc bên nhau.    Ngoài sự hấp dẫn của câu chuyện, tâm lý các nhân vật cũng được khéo léo xây dựng để góp phần quan trọng vào tính logic của câu chuyện. Bà Phủ đẹp đẽ, lanh lợi, rất khéo léo bên ngoài nhưng bên trong vô cùng thâm độc, lúc nào cũng mưu tính giết người, đoạt của. Bên ngoài bà là người vợ hiền thục, hết sức lo lắng, chìu chồng, là người mẹ ghẻ tốt lúc nào cũng để ý lo lắng cho con riêng của chồng, nhưng bên trong bà là người hết sức tham lam và vô cùng ác độc, có thể mưu tính làm bất cứ cái gì, kể cả giết người, để đoạt lấy sự sản gia tài của người khác. Ông Phủ thì hiền từ nhưng lôi thôi, chỉ biết hưởng thụ (hút thuốc phiện), lúc nào cũng nghe lời bà Phủ, không hề biết những mưu toan và hành động gớm ghê của vợ. Vì chỉ biết nghe theo bà Phủ nên ông không biết được những đớn đau, khổ sở của con gái, ông không thấy và cũng không ngờ được sự nguy hiểm đến tính mệnh của Bạch Tuyết trước mưu toan hiểm độc của bà Phủ. Lại là người có học, biết trọng đạo lý Nho giáo nên ông phải nghe lời vợ mạnh dạn trừng trị đứa con gái bất hiếu, không nghe lời cha dạy lại mang tiếng hư hỏng, tư tình với trai.  Bạch Khiếu Nhàn là người giàu có, rất thương con cháu, nhất là thương Bạch Tuyết và sau này thêm Chí Ðại. Ông cũng biết con gái ông bị bà Phủ thuốc chết nhưng ông không nuôi ý định trả thù mà lại muốn tha thứ hết. Khi Bạch Tuyết bày tỏ với ông ý muốn trả thù cho mẹ ruột của cô thì ông cũng khuyên nên tha thứ chớ không tích cực giúp Bạch Tuyết trong vấn đề này. Ông rất thương yêu cháu ngoại và cũng rất thương Chí Ðại. Thấy Chí Ðại có học, có tài, có đức, nhưng không gặp thời ông đem về ở nhà, giúp Chí Ðại tìm việc, và có ý thầm muốn gả Bạch Tuyết cho Chí Ðại nhưng chưa tiện nói ra. Khi gặp được Chí Ðại và Bạch Tuyết ở Sài Gòn, ông không hề có một lời trách móc hay phê phán gì về hành động của hai người. Ông lại vui vẻ, hết lòng giúp đỡ hai người. Sợ Chí Ðại có mặc cảm nghèo khó trước cô vợ giàu ông tìm cách giúp Chí Ðại lập nên sự nghiệp. Chỉ tiếc là ông quá nhân từ và không có đủ thủ đoạn để giúp cháu ngoại đương đầu với mẹ ghẻ độc ác, tội lỗi. Bạch Tuyết, nhân vật chính của truyện, là một thiếu nữ thông minh, khá trí thức, biết lễ nghi, đạo lý, có ý thức và rất có ý chí. Biết mẹ bị dì ghẻ giết, cô âm thầm mang mối thù trong tâm, quyết chí tìm cơ hội trả thù. Cô không độc ác, không đủ bản lĩnh làm chuyện hung dữ, không dự tính hại bà Phủ bằng những hành vi ám muội. Cô chỉ mong có cơ hội đưa vấn đề ra trước pháp luật để luật pháp trừng trị tội phạm một cách công minh. Nhưng điều kiện sinh sống của cô không cho phép cô làm theo như cô muốn. Ngược lại cô bị đặt trong hoàn cảnh thật éo le ngang trái. Cô bị bắt buộc phải sống dưới bàn tay vô cùng độc ác của bà Phủ. Là người sẽ có gia tài đồ sộ, cô là miếng mồi ngon của bà mẹ ghẻ tham lam. Hằng ngày sống bên cạnh bà Phủ chẳng khác nào sống dưới tay tử thần. Ai có thể bảo vệ được cho cô? Người thứ nhất là ông ngoại cô. Ông rất thương cô nhưng ông không ở cạnh bên, không có quyền gì đối với ông bà Phủ, lại quá nhân từ, không có đủ thủ đoạn để đối phó, đương đầu với một người khôn lanh độc ác như bà Phủ. Người thứ nhì là cha cô. Cha cô chắc cũng thương cô nhưng lại rất nghe lời bà Phủ. Ở gần bên nhưng thật sự rất cách xa. Ông cha này không hề hiểu biết gì về cô thành ra vô tình ông trở thành đồng lõa với bà Phủ trong kế hoạch hãm hại cô. Tệ hơn nữa vì quá nhu nhược trước bà Phủ, ông bị bà biến thành một công cụ trong mọi dự tính thực hiện ý định độc ác của bà. Vô cùng cô đơn trước những hiểm nguy, Bạch Tuyết phải vớ vào cái phao cuối cùng là Chí Ðại. Theo trai là hư hỏng, là mất danh tiết, nhưng đó là con đường sống sót còn lại cho người thiếu nữ này. Theo trai để không chết, để còn có thể có cơ hội trả thù cho mẹ. Nàng là đứa con có hiếu, nhưng không phải vì thế mà dễ dàng để cho cha mẹ sai khiến lẽ nào cũng được. Ðặt trong cảnh ngặt nghèo nàng dám liều. Nàng chống lại quyết định của cha. Nàng quyết định trốn ra khỏi nhà. Nàng liều lĩnh ra đi, phiêu lưu chẳng kể, miễn sao tránh được bàn tay ác độc của bà mẹ ghẻ. Khi gặp Chí Ðại nàng liều lĩnh bày tỏ ý muốn sống với Chí Ðại một cách không mấy ngại ngùng. Thật ra Bạch Tuyết không mù quáng, điên rồ khi quyết định theo sống với Chí Ðại. Nàng cũng không phải chỉ có ý định dùng Chí Ðại như một công cụ hay một phương tiện để trả thù nhà. Trong thâm tâm, Bạch Tuyết rất kính nể mến yêu Chí Ðại. Có thể là cô thầm yêu Chí Ðại.  Khi trở thành vợ Chí Ðại nàng là người hết sức lo lắng thương yêu chồng. Con người liều lĩnh này vẫn trọng danh tiết cho nên mới có cái màn viết thơ tuyệt mạng để lại cho chồng trong phần kết thúc. Cô định tự tử để chứng tỏ rằng cô là người trọng danh dự, muốn bảo toàn danh tiết chớ không phải là người theo trai hư hỏng. Sở dĩ cô phải theo Chí Ðại là vì mối thù phải trả mà thôi. Bây giờ thù đã trả xong cô muốn tự tử chết đi để chứng tỏ lòng trọng danh tiết của cô. Chí Ðại rất xứng đáng là người yêu, là người chồng lý tưởng của Bạch Tuyết. Có học thức, rất đạo đức, có khả năng, làm việc tận tụy, rất trung thành, ngay thẳng, Chí Ðại là một chàng trai lý tưởng trong xã hội bấy giờ. Nghèo nhưng không bao giờ ham muốn nhận tiền của của người khác, dù đó là của vợ hay của bên vợ. Gặp cơn túng thiếu thì làm bất cứ việc gì dù là những nghề tay chân cực khổ bị người ta coi thường hay khinh khi, miễn có chút tiền nuôi vợ con. Chí Ðại rất xứng đáng với tình thương của Bạch Khiếu Nhàn, và càng xứng đáng hơn nữa với tình yêu và sự trao thân gởi phận của Bạch Tuyết. Phần đông người ta đọc tiểu thuyết là để được thích thú với câu chuyện, để quên cuộc sống thực tế mệt nhọc của mình trong phút chốc. Ðọc tiểu thuyết là để tiêu khiển, để „mua vui một vài trống canh“ như một nhà văn xưa đã nói. Thành ra tiểu thuyết phải có câu chuyện, và câu chuyện càng gay cấn, càng có nhiều động tác (actions) thì tiểu thuyết càng hấp dẫn đối với phần đông đọc giả. Câu chuyện phải có phần tưởng tượng ly kỳ nhưng cái ly kỳ tưởng tượng đó đừng quá xa cuộc sống thực tế. Câu chuyện phải có những bất ngờ mà người đọc không quá dễ dàng đoán trước sự việc, nhưng những bất ngờ đó đừng trái ngược tính hợp tình, hợp lý hay logic ở đời. Và câu chuyện phải sít sao với tâm lý các nhân vật, những động tác không trái ngược với tâm lý nhân vật. Phần đông độc giả đều có ý hướng đạo đức, phần đông đều mong đến một kết thúc có hậu, ơn đền oán trả, thiện thắng ác, người ngay/người tốt được thưởng, kẻ ác/kẻ gian phải bị trừng trị. Cái ý hướng luân lý đó thiếu thì đa số đọc giả sẽ rất phiền, sẽ ngại đọc những tác phẩm khác nữa của tác giả, nhưng nếu luân lý đó được đặt lên hàng đầu để buộc câu chuyện phải uốn nắn theo, thì câu chuyện sẽ trở nên nhàm chán, không còn đủ lôi cuốn, hấp dẫn. Câu văn cầu kỳ, khó hiểu cũng không mấy hấp dẫn đối với đa số độc giả, nên giản dị, nên nói cái ngôn ngữ của người đọc để cho họ dễ đọc. Ðó là những điều kiện để tiểu thuyết được nhiều người ưa thích. Ai Làm Ðược và nhiều tiểu thuyết khác của Hồ Biểu Chánh có đủ những điều kiện đó, ông đã đáp ứng đúng nhu cầu đọc tiểu thuyết để tiêu khiển của đa số độc giả Miền Nam trong các thập niên 1920- 1940 của thế kỷ XX.   ***   Tóm tắt Câu chuyện kể về cuộc đời của Bạch Tuyết và Chí Đại, hai nhân vật chính trong tiểu thuyết "Ai Làm Được" của Hồ Biểu Chánh. Bạch Tuyết là con gái của ông Tri Phủ Lê Xuân Thới và bà vợ cả, nhưng sau khi mẹ cô mất, bà Phủ, vợ lẽ, đã giết mẹ cô để chiếm đoạt gia tài. Bạch Tuyết ôm mối hận thù, quyết tâm trả thù cho mẹ. Chí Đại là một thanh niên nghèo, mồ côi cha mẹ, được ông Tri Phủ nhận về làm thơ ký. Chí Đại và Bạch Tuyết gặp nhau và yêu nhau, nhưng bà Phủ tìm cách chia rẽ hai người. Bà vu oan cho Bạch Tuyết hư hỏng và ép ông Tri Phủ đuổi Chí Đại đi. Bạch Tuyết đau khổ, bỏ nhà theo Chí Đại. Hai người sống với nhau ở Sài Gòn, nhưng cuộc sống rất khó khăn. Bà Phủ tiếp tục tìm cách hãm hại Bạch Tuyết. Bà dụ Bạch Tuyết về Cà Mau, rồi cho thuốc độc giết cô. Chí Đại kịp thời ngăn cản, cứu sống Bạch Tuyết. Cuối cùng, bà Phủ bị bắt vì tội giết người. Chí Đại và Bạch Tuyết đoàn tụ, sống hạnh phúc bên nhau. Review Tiểu thuyết "Ai Làm Được" được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ai Làm Được" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ai Làm Được" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bà Phủ là nhân vật phản diện điển hình, với những thủ đoạn độc ác, mưu mô. Ông Tri Phủ là một người hiền lành, nhưng nhu nhược, dễ bị bà Phủ lừa gạt. Bạch Tuyết là một cô gái xinh đẹp, có cá tính mạnh mẽ, quyết tâm trả thù cho mẹ. Chí Đại là một chàng trai hào hoa, phong nhã, có tình yêu thủy chung, son sắt. Tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ai Làm Được" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm lên án những thế lực tàn ác, độc ác, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự kiên cường, ý chí trả thù. Kết luận Tiểu thuyết "Ai Làm Được" là một tác phẩm văn học có giá trị, góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Mời các bạn mượn đọc sách Ai Làm Được của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tê Dại - Xuân Thụ
Một câu chuyện về tuổi trẻ, tình yêu và những khát khao nổi loạn. Vô Xuân Lực là một cô gái trẻ, đầy mộng mơ với những khát khao khám phá về cuộc sống và con người xung quanh. Với cô, thế giới là âm nhạc, là những người bạn và bạn trai, là ca sĩ, là thơ ca, là Internet, là những điên rồ của tuổi trẻ. Câu chuyện của Vô Xuân Lực và những người bạn trẻ đầy điên rồ và bốc đồng của cô sẽ giúp người đọc như quay về một phần nào tuổi xuân tươi trẻ và bốc đồng của chính mình. “Tôi chưa từng nghĩ tới việc kết hôn, tôi chỉ muốn có một chiến hữu. Anh ấy trẻ trung giống như tôi, kiên định giống tôi, đứng bên cạnh tôi, không muốn tôi trưởng thành, ghim cơ thể tôi vào tường thời gian. Tôi muốn nghe anh nói anh yêu em, tôi muốn chúng tôi bị bắn trong chăn hàng trăm phát, chết như vậy mới có ý thơ chứ.” “Tình yêu không đáng một cắc, trừ phi đối phương dùng hành động chứng minh tất cả. Nếu bạn nhận được thông điệp cuối cùng, là một chiêu bài hay một cái hạn để chết, có lẽ bạn cũng nên nằm mơ giống tôi, chờ đợi một người yêu mình vừa có tiền vừa đẹp trai.” – trích tác phẩm. *** Tác giả Xuân Thụ sinh năm 1983, tại Bắc Kinh. Tất cả các phẩm của cô đều rất ăn khách ở Trung Quốc, hầu hết đều miêu tả tình cảm mãnh liệt bộc phát của lứa tuổi thanh thiếu niên. Được giới phê bình đánh giá là nội dung sâu sắc và ngôn từ sống động. Búp bê Bắc Kinh đã được bán bản quyền trên 20 quốc gia và khu vực: Anh, Mỹ, Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia, Phần Lan, Na Uy, Nhật, Việt Nam… *** Mùa hè bắt đầu từ khi quen biết Lý Tiểu Thương. Đó là nơi kết thúc của một buổi diễn. Không, vẫn chưa diễn xong thì tôi đã quen biết anh ấy rồi. Tôi đã quen anh ấy vào mùa hè đó. Ngày hôm đó tôi khát khô cổ, ngồi nôn trên lan can sắt. Thôi Thần Thủy chạy tới giúp tôi. Anh mua cho tôi một chai nước khoáng, vừa đưa giấy ăn cho tôi vừa quan tâm hỏi han: “Xuân Vô Lực, em không sao chứ?” “Không sao.” Hầu như bất cứ lúc nào tôi cũng đều nói, “không sao”. Bởi tôi không biết rốt cuộc có việc gì không, không biết có việc gì đương nhiên là không sao. Tôi nôn tới mức không mấy tỉnh táo, chỉ biết Thôi Thần Thủy quan tâm tới mình, lo lắng cho mình. Nhìn đường ray phía trước lan can sắt, nụ cười mơ hồ dần xuất hiện. Đúng lúc đó Lý Tiểu Thương đi về phía tôi. Theo trí nhớ từ lâu đã mơ hồ của tôi, tôi nhớ rằng Lý Tiểu Thương đang cầm một chai bia (ở đây bia được viết đơn độc mà không có ý nghĩa gì). Đầu tiên anh ta cười với Thôi Thần Thủy, sau đó nhìn tôi, nói với Thôi Thần Thủy (mà không phải tôi): “Cô ấy chắc không sao chứ?” Do ánh mắt của anh ấy ẩn hiện vẻ tinh anh và sự soi mói thật sự nên tôi không hề coi hành động và lời nói của anh ấy là sự quan tâm. Mọi thứ tiếp đó giống như một đoạn phim, không những thế lại là thể loại phim câm. Mặc dầu buổi biểu diễn vẫn chưa kết thúc, nhưng đã có một nhóm người hỗn tạp tập hợp bên ngoài quán Bar “Lạc Lạc Lạc”. Tôi bám vào lan can và vai Thôi Thần Thủy đứng dậy, cả người lắc lư. Mới đi tới hòn đá trước cửa quán bar liền ngồi xuống, bên cạnh đều là những người xa lạ. Nếu trước đây gặp phải tình huống tương tự, chắc chắn tôi sẽ ngượng ngập vô cùng nhưng với men rượu cùng sự động viên khuyến khích của nó, tôi đã không còn quá nhiều cảm xúc nữa. Tôi không hề thấy lúng túng khó xử. Tôi còn muốn ăn kem. Được rượu an ủi, tôi trở nên mạnh dạn vô cùng, dám làm một số chuyện mà khi không uống rượu không bao giờ dám làm. Có người đang cầm một que kem đứng dưới cột sắt nói chuyện phiếm. Tôi không nhìn rõ mặt anh ta. Tôi bước tới, cất giọng lè nhè: “Cho tôi ăn một miếng.” Anh ta nhìn tôi một cái rồi đưa cho tôi. Tôi cắn một miếng, vui mừng hớn hở. ... Mời các bạn đón đọc Tê Dại của tác giả Xuân Thụ.
Những Bầy Mèo Vô Sinh - Mạc Can
Một câu chuyện viễn tưởng chỉ nói về chuyện bồ câu và lũ mèo hoang, hình ảnh con người gần như mờ nhạt, nhưng Những Bầy Mèo Vô Sinh lại có thể khiến thế-giới-người phải giật mình. Bởi thoát ra khỏi thế giới bồ câu biết nói tiếng người và những con mèo hoang được nhân bản vô tính biết chụp vi ảnh để tàn sát loài người, thì câu chuyện chính là hai mặt giữa thiện và ác; giữa bình yên vô lo và đầy rẫy những mưu mô toan tính. Đó là hai mặt tồn tại song song, chỉ có trong thế-giới-người. "Những Bầy Mèo Vô Sinh" là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Trẻ Mạc Can. Bằng những chi tiết đắt giá, lồng ghép trong khung cảnh hiện thực huyền ảo, Mạc Can đã dẫn dắt bạn đọc đi từ mối quan hệ gần gũi giữa ông SuDa– người chạy xe ôm và ông Già Ba– nhà văn, nhà nghiên cứu về mèo và những biến động của đời sống thông qua sự xuất hiện của những bầy mèo vô sinh. Ước vọng và nỗi xót đau không phải chỉ của riêng nhân vật trong tiểu thuyết. Người viết gần như đã gửi vào đó những đau đáu trở trăn khi “thời gian không trôi qua như bóng chim mà cuốn tròn trở lại”; những xót xa ngậm ngùi khi không thể phủ nhận rằng “nhà viết tiểu thuyết nào cũng bi quan về mình, nhưng họ lại viết khác. Cuộc đời khác trên trang giấy mới đáng sống”; và những cay đắng bất lực trước những chuyện không thể thay đổi của cuộc đời “Mọi sự qua mau không thể tưởng. Không kịp tiếc nuối”. Chỉ có bầy mèo vô sinh là sống bền bỉ lâu dài... "Ông SuDa nhìn về hướng con sông, tìm xóm cũ. Ngay sáng hôm sau và suốt buổi chiều cho đến tối mịt hôm nay, ông chỉ thấy có lửa. ông quay về nhưng cây cầu đã sập. Con sông đỏ rực ánh lửa. lũ mèo lội qua sông đen ngòm. Một số đông vây quanh xóm Bồ Câu, một số đã vô được bên trong. Chúng đi hai chân, nhiều con chạy xổng lưng, tràn vào nhà ông Kính, ngoạm cổ bầy Bồ Câu con. Con Bồ Câu trống nhà trên ông Hiền Khô chạy quanh. Dựng lông cổ gáy gù gù chống cự quyết liệt với mèo, bảo vệ vợ con." *** Mạc Can tên thật là Lê Trung Can, sinh năm 1945, trong một gia đình nghèo, lại đông anh em. Các anh em ông mỗi người mỗi cảnh, vất vả mưu sinh bằng trăm thứ nghề và người nào cũng nghèo rớt. Ông là một nghệ sỹ, nhà văn Việt Nam. Ông nổi tiếng là một nghệ sỹ đa tài, tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động nghệ thuật như đóng hài, đóng phim, biểu diễn ảo thuật và viết văn. Tháng 3/2011, “nhà văn trẻ” Mạc Can trở về Sài Gòn sau gần 2 năm sống ở Mỹ để lấy cảm hứng viết cuốn sách dạng hồi ký mang tên Nhớ (NXB Trẻ và Tủ sách Tuổi trẻ ấn hành). Có thông tin cho biết, khoảng đầu năm 1980, có một đoàn làm phim của Nhật đến Sài Gòn ghi hình. Mạc Can được mời vào vai người đi chợ để giới thiệu các sản vật Việt Nam. Khởi đầu sự nghiệp viết văn ở tuổi 60 bằng tiểu thuyết “Tấm ván phóng dao”, cứ ngỡ Mạc Can chỉ ghé qua khu vườn văn chương thoáng chốc rồi đi. Thế nhưng 9 năm qua, ông đã lần lượt cho ra đời nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn được bạn đọc yêu thích. Ông được giải của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005, ông cũng được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP.HCM. *** Tác phẩm tiêu biểu: Truyện, tập truyện: Món nợ kịch trường (1999) Tờ 100 đôla âm phủ (2004) Cuộc hành lễ buổi sáng (2005) Người nói tiếng bồ câu (2006) Ba…ngàn lẻ một đêm (2010) Nhớ (2011) Mạc Can – Truyện ngắn chọn lọc (2013) Tiểu thuyết: Tấm ván phóng dao (2004) Phóng viên mồ côi (2007) Những bầy mèo vô sinh (2008) Quỷ với bụt và thần chết (2010 Tạp bút: Tạp bút Mạc Can (2006) Mời các bạn đón đọc Những Bầy Mèo Vô Sinh của tác giả Mạc Can.
Lọ Lem đường phố - Quái Vương
Cô gái Lã Thiên Ân có một thân phận không khác cô bé lọ lem quen thuộc trong truyện cổ tích là mấy. Cũng bố mất, cũng cảnh con chồng dì ghẻ, chị em cùng cha khác mẹ. Nhưng lọ lem của thế kỷ 21 không nhu mỳ, chẳng đảm đang, chưa bao giờ tháo vát. Một lọ lem tin vào những điều kì diệu nhưng không tin vào bà tiên. Ông trời thử thách cô? - Cô sẽ thách thức ngược lại. Làm tổn thương cô? - Cô sẽ đạp bẹp tất cả tổn thương. Một lọ lem không cho phép ai đứng trên đầu mình mà sai bảo. Mẹ kế? Em kế? Muốn hành hạ sao? - Cửa sổ cũng không có. Bước vào Lọ Lem Đường Phố chúng ta sẽ như được bước vào thế giới cổ tích với biết bao điều kỳ diệu xảy ra, đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác nhưng nó không đem lại cho bạn đọc cái cảm giác quen thuộc là thương cảm, và thấy may mắn khi cô bé lọ lem được bà tiên giúp đỡ mà là cảm giác thú vị, nể với những điều kỳ diệu do chính cô bé lọ lem Lã Thiên Ân tạo ra cho mình. Một cô bé tên Lã Thiên Ân thông minh, tài năng, cứng rắn, mạnh mẽ ngay cả trong ngày bố mất cũng không rơi một giọt nước mắt và luôn có cho mình một thế giới riêng. Với những ý nghĩ khác người đổ ảnh thờ của bố mẹ, thay vì hai bức ảnh chân dung trên bàn thờ thì cô thay bằng một bức ảnh cưới có mặt hai người. Bố mất để lại một di chúc giống như trò chơi cuối cùng ông dành cho cô và mẹ con nhà Nguyễn Ánh Mai và Lã Nguyên Đan. Bí mật về tài sản trong di chúc sau ba năm ông mất mới được công bố.    *** Suốt những ngày mùng Thiện đều đến cô nhi viện Mái Ấm và ở đó cho đến tối mặc cho Ân thờ ơ, lạnh nhạt. Cô không nói chuyện với cậu, cậu nói chuyện với bọn trẻ. Cô đuổi cậu, cậu mua chuộc bọn trẻ để năn nỉ cho cậu ở lại. Tóm lại, Thiện đã “không từ thủ đoạn” để được bên cạnh Ân. Hôm mùng sáu, Thiện đến thì đã thấy Hy đang ở trong nhà trò chuyện cùng Ân, Linh và Phụng. Thấy đông vui, Thiện liền đề nghị mọi người đánh bài cát tê. Sở dĩ Thiện rủ chơi cát tê là vì đây là món bài tủ của cậu. Cậu đoán bài khá chuẩn. Trưng hay cúp đều không trùng nước. Cuối cùng khi kết thúc, mọi người ngồi nhẩm lại thì Ân là người ăn nhiều nhất rồi đến Hy, Linh cũng ăn nhưng không nhiều còn Phụng thì huề, chỉ có Thiện là thua lớn. Cậu nghĩ mãi nghĩ thế nào cũng không ra tại sao bình thường bài cậu rất mạnh nhưng hôm nay lại “hai ba bước đều”. Thua không gỡ được lấy một ván. Trong nét mặt ngây ngô của Thiện, Hy phán rằng: “Đỏ tình đen bạc”. Thiện nghiêng đầu ngẫm nghĩ một hồi không lâu liền quay sang Ân phụng phịu: “Tại cậu đấy!” Trong một buổi trưa mùa xuân, Linh, Phụng và Hy được một trận cười lớn. Mời các bạn đón đọc Lọ Lem đường phố của tác giả Quái Vương.
Là Điều Anh Muốn - Lynn Kurland
Giống như những nhân vật anh hùng trong tác phẩm của Lynn Kurland, Là điều anh muốn kể câu chuyện về kị sĩ Christopher - một chiến binh được mệnh danh là "con rồng xứ Blackmour”. Trong một cuộc tấn công từ kẻ thù, anh bị mù. Sau khi mất đi ánh sáng, Christopher chẳng quan tâm tới bất cứ điều gì. Anh lảng tránh tất cả mọi người, thu mình trong lâu đài và vẽ lên những câu chuyện ma quái về bản tính lạnh lùng, tàn bạo và khắc nghiệt của mình. Tuy vậy, Christopher vẫn thực hiện lời hứa với William - người bạn thân thiết từng đồng cam cộng khổ - rằng anh sẽ cưới cô em gái đáng thương của bạn. Gillian Warewick - em gái của William - suốt bao năm vẫn ẩn mình sau sự bảo vệ của anh trai. Nhưng William lại ra đi quá sớm, bỏ lại cô một mình với người cha ác độc cùng sự tự ti về vẻ bề ngoài mà theo lời cha cô nói, thì thật xấu xí. Những ngày đầu sống cùng Christopher, Gillian luôn nép mình vào sợ hãi và tìm cách bỏ trốn, bởi những lời đồn đại về bản tính ác quỷ trong con người chồng mình. Sự che giấu vụng về song vẫn chứa đựng quan tâm của Christopher đã khiến Gillian nhận ra rằng, lâu đài và vòng tay của kẻ được coi là "tai họa của nước Anh” kia là chốn an toàn duy nhất cho cô. Cũng chính từ đó, cuộc sống của hai con người mang trong mình những mặc cảm và vết thương khó lành dần có sự thay đổi… Là điều anh muốn kể câu chuyện cảm động giữa hai linh hồn mang nhiều tổn thương. Cả hai tưởng rằng trái tim họ sẽ không bao giờ lành lại, nhưng chính sự sắp đặt của số phận đã mang họ đến bên nhau, nhóm lên ngọn lửa của niềm tin và tình yêu. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện tình lãng mạn, mà ẩn chứa trong những trang viết là một niềm tin về giá trị chân thực của tình yêu, thứ duy nhất có thể chữa lành mọi thương đau và đưa hai linh hồn lạc lối về bên nhau. Là điều anh muốn là một trong 29 cuốn tiểu thuyết của Lynn Kurland. Trong gia tài đó, nhiều tác phẩm của nữ nhà văn nằm trong danh sách bán chạy của New York Times, USA Today, Amazon Top 100... *** Lynn Kurland bắt đầu sự nghiệp văn chương từ khi mới lên năm tại Hawaii với series tiểu thuyết ngắn có nhan đề Clinton’s Troubles, xoay quanh vị anh hùng bất đắc dĩ nhận ra bản thân mình đang vướng vào một đống rắc rối. Sau khi trở về đất liền, bà tạm gác niềm say mê sáng tác sang một bên để tập trung vào âm nhạc cổ điển. Những năm tháng học đại học đã mang đến cho Kurland cơ hội được tiếp cận với những kệ sách chất đầy tiểu thuyết lãng mạn trong thư viện trường, chúng không chỉ khiến bà mê mẩn mà còn tiếp thêm can đảm cho bà để đặt bút viết những trang sách của riêng mình. Năm 1996, bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Stardust of Yesterday, và giành được hai giải RITA cho Tiểu thuyết đầu tay hay nhất và Tiểu thuyết huyền bí hay nhất. Tính đến nay, bà đã xuất bản hai mươi chín cuốn tiểu thuyết dài với lịch trình đều đặn, một tác phẩm giả tưởng Nine Kingdoms vào tháng Giêng và một tác phẩm huyền bí/xuyên không vào tháng Tư. Bà cũng đã xuất bản tám tiểu thuyết ngắn, trong đó To Kiss in the Shadows đã giành giải RITA cho Tiểu thuyết lãng mạn ngắn hay nhất. Nhân vật trong phần lớn các tác phẩm của bà đều xuất thân từ ba dòng họ truyền thống: MacLeod, McKinnon và de Piaget, và thường có mối quan hệ đan kết chặt chẽ với nhau. Tiểu thuyết của Kurland luôn nằm trong danh sách bán chạy nhất của tạp chí New York Times, USA Today, Amazon Top 100, Barnes & Noble, Walden và B. Dalton. Tháng 8 năm 1997, Lynn Kurland xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ tư, Là điều anh muốn (This is All I Ask). Tác phẩm thuộc series De Piaget và được viết theo thể loại lãng mạn lịch sử pha giả tưởng. Cuốn sách đã đoạt giải Care Finalist của Romantic Times Bookstores cho Tiểu thuyết lịch sử hay nhất. Hai tác phẩm khác, The More I See You (series De Piaget) và A Garden in the Rain (series The MacLeods), cũng sẽ được BachvietBooks giới thiệu đến độc giả trong thời gian tới. BachvietBooks *** Những nhánh củi khô nổ lách tách trong lò sưởi, mang theo cụm hoa lửa bùng sáng trên mặt đá lạnh lẽo. Chất lỏng màu nâu sóng sánh bên trong chiếc vạc sôi ùng ục dâng cao đến mép rìa như chực tràn ra ngoài, tựa hồ một người trẻ tuổi đang chằm chằm nhìn vào vực sâu tội lỗi và đùa giỡn với ý nghĩ nảy ra trong đầu. “Magda, để mắt cái vạc đun kìa!” Người phụ nữ già nua nhăn nheo nhảy dựng lên như giẫm phải đinh, hất mái tóc bạc khỏi gương mặt mình bằng bàn tay béo múp rồi thổi bùng ngọn lửa. “Ôi Đức mẹ Mary, ta nghĩ ta lại đun quá lửa rồi!”, Magda thút thít. “Bằng Ngọn lửa Địa ngục à, ta rất ghét khi ngươi cứ gọi những tên Thánh linh thiêng ấy”, người thứ hai lên tiếng, bước tới lấy cái muỗng. Bà ta nếm thử rồi chửi rủa, “Thánh thần thiên địa ơi, mọi thứ cứ luôn phải qua tay ta mới được hay sao?”. “Nemain ơi, chúng ta phải làm sao bây giờ?”, Magda kêu lên, siết chặt đôi tay. “Ta không chịu đựng nổi nếu thấy họ đánh mất cơ hội này khi số phận đến lúc này vẫn an bài thật viên mãn và thuận lợi theo mong muốn của chúng ta!” Nemain càu nhàu khi kéo cái vạc ra khỏi lò. “Berengaria, đến nếm thử mà xem. Ta phải nói rằng đây là thứ tình dược tệ nhất Magda từng phối chế.” Berengaria không trả lời. Bà đang bận nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ, quan sát quá khứ mở lối cho tương lai. Đó là một món quà bà sở hữu: Tiên tri. Bà thích thú khi đắm chìm trong quá khứ để xem tương lai diễn ra thế nào, hiểu được các bậc đế vương vì sao chết và những lãnh địa do đâu mà thất thủ. Khả năng này cũng tỏ ra hữu ích khi cần biết lúc nào lâu đài bà đang sống gần đó sẽ bị bao vây, giúp bà có đủ thời gian gói ghém hành lý và tìm chỗ ở mới trước khi bọn cướp tới. Nhưng nhiệm vụ bày ra trước mắt bà bây giờ mới là điều quan trọng nhất: Mang hai linh hồn bất đắc dĩ, thẳng thắn và hơi quá quắt đến được với nhau. Vâng, điều này quả xứng với sự khéo léo khiêm tốn của bà. Bà nhận thấy Magda kiễng chân, nghe được Nemain cự nự khi bà ta giậm đôi ủng phù thủy mòn cũ xuống sàn, nhưng bà không thèm chú ý đến họ. Thành bại chỉ trong hơi thở. Nếu Lãnh chúa Blackmour không có chút danh dự nào, hắn sẽ bỏ mặc lời thề bảo vệ một người phụ nữ hắn hầu như chẳng quen biết. Có lẽ, cuối cùng thì danh dự cũng không hẳn là một đức tính hoang phí. Berengaria để hiện tại trôi qua tầm mắt, nhìn gã Rồng tăm tối hung bạo xứ Blackmour gửi đi thông điệp của hắn. Bà nghiền ngẫm kỹ lưỡng người chiến binh được trận mạc trui rèn nọ, hài lòng thấy rằng hắn sẽ không chùn bước cho đến khi đạt được mục đích. Hắn không thể, hoặc sẽ mất tất cả. Chẳng còn cơ hội nào khác cho hắn. “Magda, ôi mũi tôi, mùi đó thật khủng khiếp”, Nemain bịt mũi và thụt lùi tuốt về phía bên kia căn lều. “Đổ nó đi, làm lại. Và lần này hãy cẩn thận! Phải mất hàng chục năm mới tìm được xương ngón tay của một pháp sư, ngươi thì đã dùng gần hết rồi. Ta không có ý định mạo hiểm đến Scotland lần nữa để tìm thêm mẩu xương khác đâu!” “Đừng la lối nữa”, Magda khịt mũi. “Ta chỉ ở đây vài năm thôi.” “Ta dám khẳng định ngay cả linh mục hèn mọn nhất cũng có thể nói vậy. Hắn sẽ sớm nghĩ ngươi giống một nữ tu hơn là một phù thủy.” ... Mời các bạn đón đọc Là Điều Anh Muốn của tác giả Lynn Kurland.