Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Đinh Lưu Tú diễn ca (tuồng hát bội)

Ấn phẩm “Đinh Lưu Tú Diễn Ca” do dịch giả Đỗ Nhật Tân phiên âm và chú giải nằm trong Tủ sách Cổ văn của Ủy Ban Dịch Thuật được Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa ấn hành năm 1971. Ấn bản đang được lưu giữ ở Quán sách Mùa Thu có tình trạng rất tốt, bìa gốc, lõi sách rất đẹp. Sách có nguyên văn chữ Hán phía sau phục vụ cho việc nghiên cứu văn bản gốc.Vở tuồng Đinh Lưu Tú này cũng này cũng như bao nhiêu vở tuồng khác, theo điệu hát với những vai trò vua quan, anh hùng, liệt sĩ...Khi diễn ra những vai tuồng ấy, phải có những lời nói oai hùng, lỗi lạc và hoa mỹ, hát lên cho oanh liệt cùng với nhịp âm nhạc, bản văn gồm nửa phần chữ nửa phần nôm giúp cho ý nghĩa được đầy đủ, trong khi ca đi xướng lại chỉ mất câu đơn giản, đã ngụ hết bản ý của một vai trò. Tự trung cũng chỉ nêu gương Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa hầu mong cảm hoá lòng người khi thưởng nhạc mua vui. Đó cũng là một phương tiện truyền giáo, có ảnh hưởng ít nhiều trong đám quần chúng. Vở tuồng Đinh Lưu Tú này, về sự tích với văn chương cũng vào bậc khá hay! Nhưng bản in phần chữ với phần nôm lắm chữ viết ra chỉ đúng với phần âm, không đúng với chữ và nghĩa khiến phiên âm tức là chủ chuyển chữ nôm ra quốc ngữ, chẳng đáng khó khăn mà cũng ấmt những công phu, vì chữ nôm đã không tự điển, lại mỗi người viết theo một ý riêng khi nghĩ tới. Đây là sự bảo tồn văn học của Quốc gia, lưu lại cho biết đời xưa tinh thần dân tộc trong đạo học đến nhường nào, theo câu thầy mạnh nói: “Văn kỳ nhạc tri kỳ đức”....

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Một Truyện Báo Thù Ghê Gớm - Nguyễn Thế Lữ (1929) - NXB Tân Dân PDF
Thế Lữ (10 tháng 6 năm 1907 – 3 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh Nguyễn Đình Lễ (sau đó đổi thành Nguyễn Thứ Lễ) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò là một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói, trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ, hoạt động cho đến sau Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm kịch kháng chiến trong những năm Chiến tranh Đông Dương. Sau Hiệp định Genève, ông tiếp tục hoạt động sân khấu, trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957 – 1977). Ông được coi là một người tiên phong, không chỉ trong phong trào Thơ mới, trong lĩnh vực văn chương trinh thám, kinh dị, đường rừng, mà còn là người có đóng góp rất lớn trong việc chuyên nghiệp hóa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở Việt Nam. Thế Lữ đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1984 và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000.Một Truyện Báo Thù Ghê GớmNXB Tân Dân 1929Nguyễn Thế Lữ40 TrangFile PDF-SCAN
Nã Phá Luân PDF Lê Quốc Hữu thuật
Nã Phá LuânNXB Trịnh Văn BíchLê Quốc Hữu thuật64 TrangFile PDF-SCAN
Mưu Mô Dân Nghiện PDF (NXB Minh Tuân 1951) - Hải Lân
Từ khi có thuốc phiện tới nay và từ khi có sở Thương chinh để bài trừ thuốc phiện lậu, dân làng nghiện và nhân viên nhà đoan đã cùng nhau bao phen chạm trán. Đôi bên đều hằng cùng nhau luôn luôn đấu trí : một bên cố hết sức để khám phá ra thuốc phiện lậu, một bên dùng trăm mưu nghìn ké để ấn dấu thuốc phiện đi. Cuộc đấu trí nhiều khi rất gay go và thành những câu giai thoại người ta thuật cho nhau nghe. Đã có những cuộc nhân viên sở Thương - Chinh -đuổi bắt dân nghiện như đuổi cướp, và đã có những cuộc quan viên làng nghiện đánh lừa nhân viên sở Thương -Chinh một cách rất tài tình.Mưu Mô Dân NghiệnNXB Minh Tuân 1951Hải Lân52 TrangFile PDF-SCAN
Nghị Lực (NXB Hàn Thuyên 1942) - Phạm Ngọc Khuê PDF
Chúng ta thường hay cho là hoàn-cảnh gây nên mọi nỗi đau-khổ. Và luôn luôn, chúng ta lo thu-xếp cho chúng ta một địa-vị thực là thuận-tiện, thực là êm ái, thực là vừa lòng. Chúng ta sợ đói rét, sợ lầm-than, sợ bệnh tật, sợ tang-tóc, sợ thất-bại, sợ cô-độc, sợ những sự thử-thách đột-ngột sảy đến... Cuộc đời chúng ta là một chuỗi ngày chờ đợi, tâm-hồn chúng ta là một bản đờn hãi-hùng loạn nhịp.Nghị LựcNXB Hàn Thuyên 1942Phạm Ngọc Khuê212 TrangFile PDF-SCAN