Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Học Đoán Mệnh - Quyển 2 (Trúc Lâm Tử)

Từ xưa y học và dịch học đã thông thương với nhau. “Nội kinh” cuả trung y và “Chu dịch” đều cho rằng: Vũ trụ vạn vật là do vận động mà sinh ra. Vận động là vĩnh hằng. Vận động sản sinh ra sinh mệnh. Vận động ngừng thì sinh mệnh cũng kết thúc. Đó là ý nghĩa quan trọng của của thế giới quan vật là một chỉnh thể cân bằng trong vận động. Nó có ý nghĩa là bên trong và bên ngoài cơ thể có liên quan với nhau, thống nhất với nhau.

Khí âm dương, ngũ hành mà giờ sinh đắc thụ được chính là mức độ phân lượng và tính chất: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ được biểu thị bằng các can chi. Can chi của năm, tháng, ngày, giờ sinh đại biểu cho âm dương, ngũ hành để tượng trưng mô hình và phản ánh kết cấu nội bộ trong cơ thể. Cơ thể có cân bằng được với môi trường xung quanh hay ko sẽ là căn cứ để giải thích vì sao các tạng phủ trong một người ra đời cùng một lúc, nhưng có cái bị bệnh, còn những cái khác lại ko, đồng thời cũng cắt nghĩa được nguyên nhân vì sao mọi người sống trên trái đất, nhưng người này giàu sang, người kia lại nghèo hèn. Duy trì sự cân bằng của âm dương, ngũ hành là khâu quan trọng của chức năng sinh mệnh. Âm dương bình ổn, gắn bó thì tinh thần còn, âm dương tách rời nhau thì tinh thần hết …

“Tử Bình dự đoán học” chính là một môn tuyệt học trong lĩnh vực Dịch học, không những có thể tính toán được chính xác về trạng thái tốt xấu trong vận mệnh của một con người mà còn có thể tính ra cát hung trong đại vận lưu niên, thậm chí là các thông tin về cha mẹ, anh em, con cái.

“Tử Bình dự đoán học” từng bước dẫn bạn khám phá thế giới Bát tự đầy bí mật, đồng thời giúp bạn hiểu được sâu sắc và triệt để hơn về hệ thống Bát tự cổ xưa, huyền bí. Bạn không những có thể dễ dàng giải mật mã sinh mệnh của mình mà còn giúp bạn bè giải mật mã sinh mệnh của họ. Ngoài ra bạn có thể căn cứ vào đó tìm kiếm cho mình người bạn phù hợp nhất, công việc tốt nhất và thời cơ đúng dịp nhất… trong cuộc đời của bạn, từ đó dễ dàng nắm bắt được số mệnh của mình trong tay.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tôi Học Đoán Mệnh - Quyển 2 PDF của tác giả Trúc Lâm Tử nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

PDF Âm Phù Kinh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
TựaÂm Phù Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế (2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy.Trình Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255).Chu Hi (Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền Tông (713-755) đã ngụy tạo ra. Chu Hi soạn Âm Phù khảo dị.Thiệu Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc.Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên.Trương Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên.Lại có bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh.- Thạch Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật.- Lý Gia Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch.- Đơn Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm Phù theo Lão.Trịnh Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển.Như vậy mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh.(Xem Vô Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa)Tại sao một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích như vậy?Thưa vì nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.)Trung Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết:«Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi...»«Thánh nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.)Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy.Chúng ta thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến, mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ. Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy.Mỗi chớp mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn.Ngay quẻ Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự.Đại Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強 不 息:Trời cao mạnh mẽ xoay vần,Nên người quân tử quyết tâm tự cường.(Không hề ngưng nghỉ triển dương)Câu thứ 4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay:Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã.(天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道 以 定 人 也.)Thiên Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người (tiến bộ đến đâu.)Đọc Âm Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo.Đạo Con Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi.Gần cuối sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba:Thị cố quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi.(是 故 君 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之.)Cho nên người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà thôi.Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên nhiên. (Going against Nature, conquering Nature).Nhưng cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên Nhiên (Following the way of Nature).Cũng có người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh. (Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên).Biến chế Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541)Tôi tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh.Câu Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên.* Chiều đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch là Thuận của Thánh Tiên.Âm Phù Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.) (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)Âm Phù Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.)Thánh Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh.«Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)Thần Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn, Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là Đắc Đạo.«Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)Âm Phù Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo Trời.«Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 333)Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333)Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333)Âm Phù Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau.Và giải Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333) Âm Phù Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (SĐD, tr. 334)«Vạn vật hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334)Tôi dịch Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân bình giải như thế.Tôi thấy những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97) 
PDF Phong thủy toàn thư - Đổng Dị Lâm
 Trên cơ sở nghiên cứu nhiều sách cổ kinh điển, liên hệ chặt chẽ với khoa học hiện đại và đời sống thực tế, cuốn sách “Phong thủy toàn thư” giới thiệu và phân tích kỹ lưỡng nhiều ý tưởng của các thầy phong thủy nổi tiếng, giải đáp những vấn đề về phong thủy thường gặp trong đời sống hàng ngày, giúp độc giả có cách suy nghĩ khoa học và chính xác, áp dụng hợp lý quan niệm phong thủy trong việc chọn lựa, bố trí nơi ở và văn phòng làm việc để tạo ra môi trường sống, làm việc hợp lý; từ đó có được thiên thời, địa lợi và nhân hòa tốt nhất, có được môi trường nhân sinh hài hòa, giàu có, hạnh phúc và vui vẻ.
PDF Kinh Dịch ứng dụng trong kinh doanh
Nghiên cứu Kinh Dịch nhiều năm, điều làm tôi nhớ nhất không phải là những vấn đề mà mọi người hay đề cập đến như “Tiềm long vật dụng”, “Kháng long hữu hối”, “Tự cường bất tin”, “Hậu đức tải vật”… mà là một câu nói “Tác dịch giả, kỳ hữu ưu hoạn hồ?” (Những người viết ra Kinh Dịch, liệu họ có nhận thức đến ưu phiền, buồn đau không?)Câu hỏi này đã khiến tôi phải suy nghĩ rất lâu: Cuối cùng thì trong Kinh Dịch chứa đựng những nhận thức gì về ưu phiền, buồn đau? Những người viết ra Kinh Dịch hy vọng thông qua tác phẩm này, để nói điều gì với chúng ta?Các câu hỏi này sẽ được làm sáng rõ trong quá trình viết và hoàn thiện các tác phẩm của tôi là Kinh Dịch - Nhật kí của nhà quản lý và Kinh Dịch và quản lý. Trên thực tế, Kinh Dịch là cuốn sách chỉ đạo nhân sinh. Trong quá trình trưởng thành của nhân sinh, ai đọc hiểu được Kinh Dịch thì người đó sẽ tránh được hàng loạt những sai lầm và thuận lợi để bước đi trên con đường của thành công. (adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({} Cũng từ đây tôi hiểu được vì sao Khổng Tử đã phải than rằng: “Gia ngã số niên, ngũ thập dĩ học ‘Dịch’, khả nhĩ vô đại quá nại.” (Nếu cho tôi sống thêm vài năm nữa, thì cho dù 50 tuổi học Kinh Dịch cũng không phải là sai lầm.)Vậy thì, Kinh Dịch làm thế nào để chỉ đạo chúng ta đây? Vấn đề này cần phải được trả lời từ hai phương diện:Thứ nhất, xét về vĩ mô. Kinh Dịch dạy chúng ta ba điều: Một là, bất kỳ ai trên con đường nhân sinh và sự nghiệp đều phải phụ thuộc vào biến hóa của ngoại cảnh, từ đó không ngừng điều chỉnh bản thân. Điều này Kinh Dịch có giải thích đến “biến dịch”, cũng có nghĩa là khi thời điểm thuận lợi, nếu không có bất lợi gì thì mới có thể giữ vững lập trường không đổi. Hai là, trong quá trình trưởng thành và phát triển của nhân sinh và sự nghiệp, chúng ta cũng phải bắt buộc tuân thủ một số nguyên tắc và quan niệm, những nguyên tắc và quan niệm này không thể xem nhẹ mà dễ dàng thay đổi. Điều này Kinh Dịch có đề cập đến là “bất dịch”. Bởi vì, đến khi đánh mất nguyên tắc cơ bản của đạo làm người, có nghĩa là chúng ta đánh mất đi chính mình, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta không thể có được thành công. Ba là, cho dù có phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề phức tạp đi chăng nữa thì chúng ta cũng nên vận dụng những phương pháp nhẹ nhàng, đơn giản để xử lý vấn đề, điều này Kinh Dịch có đề cập đến là “giản dịch”. Giản lược hóa những vấn đề phức tạp là một kiểu trí tuệ, mà Kinh Dịch là một trong số đó.Thứ hai, xét về vi mô. Những nội dung mà Kinh Dịch chỉ đạo chúng ta rất phong phú, từ việc xây dựng cuộc sống đến việc sắp đặt công việc hàng ngày. Như chúng ta đã biết, Kinh Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có sáu hào, tổng cộng có 384 hào. 384 hào này rất quan trọng, bởi chúng giải thích 384 tình thế mà chúng ta dễ dàng bắt gặp trong cuộc sống hàng ngày. Cùng với việc xem xét những tình thế này, Kinh Dịch còn đưa ra những phương án giải quyết bổ ích cho chúng ta. Đương nhiên, ở phần trên tôi đã phân tích, những người viết Kinh Dịch đã có nhận thức về những ưu phiền, lo âu nên trong mỗi hào, họ đều nhắc nhở và cảnh báo chúng ta.Khi tỉ mỉ tìm hiểu từng hào, đó cũng là lúc chúng ta cảm nhận sâu sắc những tâm huyết và vất vả của những người viết Kinh Dịch. Đọc hiểu được Kinh Dịch cũng có nghĩa là chúng ta đã mở được một cánh cửa dẫn tới thành công. Bởi lẽ, Kinh Dịch được xem là bộ từ điển thành công, bạn có thể tìm thấy bất kỳ đáp án nào mà bạn muốn, nhưng để được như vậy, trước tiên bạn phải có thái độ tích cực tìm hiểu những bí ẩn diệu kỳ trong đó.Những lời khuyên hữu ích trong Kinh Dịch rất nhiều, 384 hào có nghĩa là có 384 lời khuyên hữu ích. Từ đó tôi đã chọn ra 38 lời khuyên đặc sắc nhất để viết ra Kinh Dịch ứng dụng trong kinh doanh. Đó là những lời khuyên đặc biệt gần gũi với công việc kinh doanh của bạn, thậm chí có thể nói, nếu bạn áp dụng những lời khuyên này, bạn sẽ đạt được thành công trong kinh doanh.Đến nay, tôi vẫn đang vận dụng những “phép tắc” và tiếp thu những lời khuyên của Kinh Dịch. Đương nhiên tôi càng hy vọng sẽ có thể đồng hành với nhiều người quan tâm tìm hiểu, cùng họ bước trên con đường thành công.Ngày 9/6/2010Thiệu Vũ
PDF Dự báo theo Tử Bình - Trần Khang Ninh
Dự báo theo Tử Bình được tiến hành thông qua luận giải các dữ liệu trong 4 cột thời gian (năm, tháng,ngày, giờ) lịch Can Chi, điều mà nhiều sách gọi là tứ trụ. Trong từng cột thời gian, người ta ghi các dự liệu là các thần trong thập thần, an cát tinh và hung tinh, các mức độ phát vượng hay thịnh suy của vòng trường sình vào các thiên can của năm, tháng, ngày, giờ… Để có một cách nhìn tổng thể vận trình cuộc đời của một người, người ta còn xác định Mệnh cung, cách cục, Đại vận, Tiểu vận, sự hợp xung, hình, hại của các Can Chi có trong dữ liệu thời gian sinh cụ thể của một người và tìm Dụng thần. Như vậy việc lập sơ đồ dự báo qua 4 cột thời gian là điều quan trọng đầu tiên khi dự báo theo Tử Bình.