Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hạn Chót Lúc Bình Minh
Nàng - một cô gái với giấc mơ tan vỡ. Chàng - một người với bản án tù đang treo lơ lửng trên đầu. Hai con người nhỏ bé, bị mắc kẹt nơi thành phố hoa lệ này. Số phận đưa đẩy họ gặp nhau. Cả hai cùng hẹn ước sẽ rời khỏi chốn đau khổ này trên chiếc xe buýt khởi hành vào lúc bình minh. Nhưng khoảng cách ngăn giữa họ và điểm hẹn đó là một vụ án mạng bí ẩn, buộc họ phải tìm ra kẻ sát nhân trước 6 giờ sáng, trước khi hạn chót điểm. Trích dẫn hay: “Nó giống như một xoáy nước. Nếu anh ở yên trong tâm của nó, không tìm cách thoát ra, anh sẽ không cảm thấy gì hết. Nhưng khi anh tới quá gần rìa ngoài, cố gắng tìm một lối ra, chính lúc đó nó sẽ cuốn anh vào trong trở lại.” “Ước thì có ích gì chứ? Bạn sẽ chẳng được gì. À, vậy thì có hại gì chứ? Bạn cũng sẽ chẳng mất gì.” “Cuộc đời thật giống một cái bập bênh. Mỗi khi một người lên cao, một người khác ở đầu kia sẽ phải xuống thấp.” “Mấy cái kim đồng hồ này sẽ tiếp tục chạy nhưng không phải là vì chúng ta. Chúng ta cần phải rời khỏi đây khi trời sáng.” *** Reviewer: Điền Yên - vuonbachhop.wordpress.com Woolrich chưa bao giờ khiến tôi thất vọng. Mỗi lần đọc truyện của ông, tôi luôn tự hỏi tại sao trinh thám lại có thể trữ tình đến thế. Mà thậm chí còn không phải loại trinh thám kiểu yêu đương như ngôn tình trinh thám, mà là trinh thám đen – màu sắc của tác phẩm luôn u ám với bi kịch của nhân vật. Nhân vật chính của Hạn chót lúc bình minh là hai con người cô đơn nơi phồn hoa đô hội. Cô gái – Bricky – hàng đêm lên gót về căn phòng trọ tồi tàn, mệt mỏi rã rời với mảnh vụn của giấc mơ tan vỡ. Cô vốn muốn trở thành diễn viên Broadway nhưng cuối cùng chỉ có thể bán những vũ điệu của mình giá 5 cent một bản, trong vũ trường hằng đêm. Cô vẫn gửi thư về nhà báo với mẹ rằng con ổn, công việc rất tốt, cùng vài tờ đô la “đẫm máu”. Bricky gặp Quinn khi anh ngơ ngác và lạc lối. Họ tình cờ phát hiện cả hai sống cùng một khu phố – nơi họ đã từ bỏ sau lưng. Tôi vô cùng thích trường đoạn này, khi Woolrich viết về cuộc sống tỉnh lẻ một cách đơn giản, đẹp đẽ mà đầy nuối tiếc. Họ đã lay lắt ở thành phố quá lâu, không đủ can đảm rời bỏ nó một mình; mãi cho đến khi gặp nhau, nhưng dường như đã trễ. Quinn và Bricky vô tình bị cuốn vào một vụ án mạng. Nếu họ không kịp tìm ra thủ phạm thực sự thì sẽ không kịp chuyến xe buýt về quê – chuyến xe mà họ chờ đợi đã lâu, chuyến xe họ phải dùng hết dũng khí mới dám bước lên. Tác phẩm này cho thấy ai cũng có thể trở thành thám tử thần sầu khi họ bị dồn vào đường cùng. Một cô gái nhảy, một anh thợ sửa ống nước (thực ra anh sửa mọi thứ) phát huy khả năng quan sát, suy luận, giao tiếp đến mức lô hỏa thuần thanh. Những chi tiết cực kỳ nhỏ mà chắc chỉ có chuyên viên khám nghiệm hiện trường mới không bỏ sót cũng được họ khai thác triệt để. Hai người lần theo dấu vết, khi tưởng như tóm được thủ phạm đến nơi thì tác giả lại twist cho một nhát quay về điểm xuất phát. Tình tiết dồn dập khi truy bắt thủ phạm lại chùng xuống như gánh nặng ngày càng đè lên vai hai nhân vật chính khiến tôi vừa thở hắt ra như thể mới đọc xong một câu chính tả dài không dấu chấm phẩy, vừa nín hơi chuẩn bị tinh thần bước vào một trường đoạn hồi hộp khác. Đầu mỗi chương đều được minh họa bằng một cái đồng hồ, kim phút dịch chuyển ngày càng sát 6h. Cuộc chạy đua với thời gian của Quinn và Bricky có kịp cán đích đúng giờ hay không? Với trinh thám đen thì chẳng thể đoán được. Tác giả có thể cho họ HE, cũng có thể thẳng tay dồn họ vào ngõ cụt. Kết quả thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ ????)) *** “Tôi không biết nữa, có lẽ bản chất của con người chỉ có thể hoặc thành thật hoặc lươn lẹo, và người ta không thể đột ngột thay đổi từ thế này sang thế kia mà không phải trải qua đau đớn chất chồng” – Thể loại: Trinh thám đen, trinh thám cổ điển – Chấm điểm: 8.5/10 Hóa ra không phải cứ trinh thám cổ điển là khó đọc, và không phải cứ trinh thám đen thì không phải là một truyện trinh thám đầy logic. Mình chưa bao giờ thấy thất vọng về Cornell Woolrich. Và dù lâu không đọc nhiều trinh thám nữa, nhưng Hạn chót lúc bình minh đạt độ hay cả về tình tiết, cách giải quyết, tình cảm tính logic của trinh thám, ngay cả câu từ không thể hay hơn. Với nội dung xoay quanh Bricky và Quinn, 2 thanh niên lạc lõng giữa thành phố NewYork, không thể tình cờ hơn, lại là đồng hương, “anh chàng nhà hàng xóm” của Bricky. Họ từ bỏ quê nhà, mang theo ước mơ tìm đến cái xa hoa, những tưởng NewYork sẽ chắp cánh cho những ước mơ của họ. Nhưng “thành phố làm người ta già đi”, họ…thất bại ở NewYork, rồi họ bỗng sợ cái nhìn lạnh lẽo của thành phố này. Nửa đêm ngày hôm đó, họ gặp nhau ở vũ trường, nơi Bricky mang những bước nhảy của một giấc mơ tan vỡ tại thành phố, và Quinn – đang lo lắng với một hành động nông nổi khiến anh rơi tõm xuống vực sâu tuyệt vọng cũng do những thất bại, những ước mơ không thành ở NewYork này. Sự đồng cảm, lòng dũng cảm khi nghĩ về “quê nhà, người ta sẽ trẻ lại khi ở quê nhà” giúp họ đặt ra một lời hẹn với thời gian, lời hẹn trước lúc bình minh, để có thể làm lại tất cả ở nơi họ đã ra đi. Thế nhưng, một Bricky đã tan vỡ, đầy cảnh giác, mang nỗi sợ hãi tột cùng với thành phố này; và một Quinn với bản án lửng lơ trên đầu, một kẻ thù không rõ thông tin, những rắc rối bủa vây, những dữ kiện liều lĩnh tự quyết, liệu họ có kịp với “Hạn chót lúc bình minh” không? Xét về tính trinh thám, Hạn chót lúc bình minh là cuốn truyện được viết với đầy đủ những yếu tố mà 1 tác phẩm trinh thám muốn thu hút đều cần. Cốt chuyện trọn vẹn từ mở đầu đến kết thúc, tình tiết đưa ra được giải quyết không xót phần nào. Dù không xây dựng nên những cảnh sát hay thần thám, Woolrich vẫn có thể đặt những con người – đã phải chịu những hoàn cảnh không bình thường, vào tình huống tột cùng bắt họ phải lựa chọn giữa sống – chết, phải vận dụng 300% năng lực, khả năng quan sát, suy luận để thoát khỏi tình huống họ đang ngày càng lún sâu vào. Những chi tiết rùng rợn khi nhân vật phải đối diện với nguy hiểm, cách xử lý từng vướng mắc, sai lầm của từng nhân vật, cách suy luận để vượt qua tình huống cũng không phải không thể – nếu 1 ngày bạn gặp phải tình huống đó. Người đọc sẽ được trải qua cảm giác hồi hộp, cảm giác như đi bên cạnh mỗi ánh nhìn, từng bước chân của nhân vật chính. Về câu văn, không thể phủ nhận từng câu văn của Woolrich vẫn đầy hình ảnh, đầy tình như Cô dâu đen hay Ám ảnh đen, mà có khi còn hơn nhiều. Có lẽ một phần nhờ dịch giả dịch rất mượt. Có những đoạn văn thực sự chỉ cần đọc cũng đủ khiến mình hình dung cả khung cảnh lúc đó. Giả như “có những lúc cô quá mệt mỏi và kiệt quệ, thậm chí là để nói dối”, hoặc như “Lối vào căn phòng chết chóc hiện lên đen ngòm và trống rỗng phía trước trong đốm sáng run rẩy của que diêm trên tay gã đàn ông”. Mình nghĩ với những câu từ như này, quả thực nếu ai mạnh dạn chuyển thể thành phim tác phẩm này sẽ gặp cực nhiều khó khăn cả khâu lựa chọn diễn viên lẫn tạo khung cảnh, để có thể truyền tải trọn vẹn cảm giác hoang mang, bất lực từ thành phố, từ hoàn cảnh tác động đến từng milimet trên người mỗi nhân vật. Dĩ nhiên, vì là trinh thám đen và thời gian viết cũng không phải khi đã có quá nhiều công nghệ phân tích, nên cũng có vài tình tiết các nhân vật hơi sơ hở, cũng như suy luận thiếu chính xác (nhưng nên nhớ tuyến nhân vật của Woolrich không phải thám tử hay cảnh sát, và họ gặp sai lầm là chuyện đương nhiên). Thêm vào đó, yếu tố thời gian và lời hẹn trước lúc bình minh nên cảm giác 2 nhân vật có những đoạn xử lý lại thông minh quá. Cái kết và việc tìm ra hung thủ cũng mang lại chút cảm giác như tác giả do chạy đua với thời gian và muốn một kết cục HE nên khá vội vàng (cái vội vàng cho đến tận lúc tiếng còi hụ đầu tiên của giới chức trách vang lên, cho đến tận lúc Quinn và Bricky chạy đua để hoàn thành mong ước cuối cùng, mục tiêu quyết tâm giải quyết vụ án của họ). Còn lại thì mình hài lòng từ phông chữ trên bìa và trong truyện, hình ảnh chiếc đồng hồ ở mỗi chương, giấy in, nội dung, kết cục. Điều không thích nhất chắc là cái bìa truyện. Sao cứ phải vẽ hình ảnh nhân vật minh họa mang không có cảm giác của Mỹ gì cả! Nhìn cái bìa làm mình lần lữa mãi không đọc quyển này (hơi phí), đúng như trong truyện Woolrich viết: “Và nói cho cùng, hình ảnh của mọi người trong mắt bạn đều phải đi qua bộ lọc cá nhân, chứ không phải bản chất thực tế của họ” Ảnh mượn từ page Phúc Minh Twine Aquarius *** Đây là quyển tươi sáng và cái kết có hậu nhất trong mấy quyển của Woolrich mà Boog đọc. Ai cũng có thể trở thành thám tử? Không tin ư? Nếu thế hãy đọc Hạn chót lúc bình minh để trải nghiệm điều đó. Khi rơi vào hoàn cảnh bắt buộc phải tự cứu lấy mình, não bạn sẽ bắt buộc phải hoạt động, bạn sẽ trở nên thông minh và trở thành một thám tử bất đắc dĩ để tự cứu lấy mình. Nước Mỹ trong Hạn chót lúc bình minh hiện lên một cách rất khác, một góc nhìn khác. Chốn phồn hoa đô hội ấy không phải là miền đất hứa, là nơi chốn cho những người từ quê lên tìm kiếm cơ hội như Quinn hay Bricky. Với ước mơ được đứng trên sân khấu Broadway nhưng cô lại phải kiếm sống tại vũ trường. Cũng giống như cô, Quinn cũng tới thành phố để tìm cơ hội nhưng lại mắc kẹt giữa thành phố New York hoa lệ. Hai con người bất hạnh tình cờ gặp nhau, tìm thấy sự đồng cảm và hẹn ước sẽ cùng rời bỏ New York trên chuyến xe bus lúc bình minh. Nhưng họ phải chạy đua với thời gian để thoát khỏi rắc rối mà Quinn đang vướng vào. Liệu họ có thoát khỏi rắc rối trước lúc bình minh để kịp bắt chuyến xe bus lúc 6h. Vẫn lối viết hoa mỹ, lãng mạn mượt mà cùng cảm giác hồi hộp, bạn sẽ bị các nhân vật lôi cuốn tới tận giây phút cuối cùng. Mặc dù trở thành thám tử bất đắc dĩ nhưng Bricky khiến bạn đọc rất ấn tượng bởi sự thông minh, dũng cảm, kiên cường, là động lực giúp Quinn thoát khỏi rắc rối. Cũng bởi là thám tử bất đắc dĩ không phải thám tử chuyên nghiệp nên cũng có lúc họ sơ hở, rơi vào nguy hiểm. Cũng may là bóng tối của thành phố vẫn còn ủng hộ họ. Woolrich vẫn luôn đem đến cho bạn đọc một sự hấp dẫn không thể chối từ. Binh Boog   *** Cornell Woolrich (1903-1968) - cha đẻ của tiểu thuyết trinh thám đen, bậc thầy của sự hồi hộp. Với cách kể và dẫn dắt đầy lôi cuốn, mỗi tác phẩm của ông không hẳn là cuộc kiếm tìm chân dung kẻ sát nhân mà còn đưa lên sân khấu những nghịch lý về sự thật bị che giấu và những bất ngờ không đoán trước. Cornell Woolrich được coi là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn, đưa thể loại truyện noir fiction (tiểu thuyết đen) đến đỉnh cao của sự thành công. Ông cũng là tác giả trinh thám có số lượng truyện chuyển thể thành phim nhiều nhất thế giới, trên trang IMDB có tới 103 bộ phim được ghi tên ông. Những bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Woolrich thường trở thành đề tài nghiên cứu sáng giá liên quan đến “kỷ nguyên của thể loại phim noir”. Tấn công, hoang tưởng, mối đe dọa, cái chết, là những chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của Woolrich. Ngoài ra, khi nói đến tiểu thuyết của tác giả này, hình tượng người phụ nữ với “tính nữ” cũng là một nét tiêu biểu. Trong truyện của ông có những nỗi sợ hãi chẳng rõ ràng, cảm giác luôn bị đe dọa. Các nhân vật thì luôn trong một cuộc chạy đua với thời gian. Theo đó là những nỗi tuyệt vọng ngày càng lấp đầy. Điều đặc biệt trong truyện của Woolrich chính là những “anh hùng” thường là nạn nhân, bị buộc tội về tội ác mà họ không thực hiện, hoặc phạm tội vì những đau buồn, tuyệt vọng và bất công trong cuộc sống. Thế giới Woolrich tạo ra giống như một mê cung, đánh lạc hướng suy luận của người đọc. Tác giả đặt ra những “cái bẫy” cho các nhân vật chính không may mắn của mình và sau đó chờ đợi nhân vật chính sa vào bẫy và độc giả bị đánh lừa. Đầu tiên là tính bất khả thi. Tính “không thể” được sử dụng Woolrich làm cho tình huống trở nên khó hiểu hơn, che giấu sự thật đằng sau. Dường như, trong các tác phẩm của Woolrich các nhân vật ban đầu bao giờ cũng khởi điểm từ tình yêu, sự chung thủy, từ những điều tốt đẹp nhưng sau đó, bởi vì sự "tham lam" mà dần dần đánh mất đi bản ngã của chính bản thân mình. Kết hợp với đó, yếu tố bạo lực cũng được áp dụng triệt để để mang đến cảm xúc mãnh liệt cho người đọc. Với sự khai phá mới cho tiểu thuyết trinh thám, Cornell Woolrich đã cung cấp những ẩn dụ về sinh mệnh con người thật rẻ mạt, cái thứ đạo đức trắng đen lẫn lộn. Bằng lối kể hấp dẫn, luôn giấu kín sự thật, mỗi tác phẩm của ông luôn làm người xem phải tò mò. Ở Việt Nam, nhiều truyện ngắn của Cornell Woolrich đã được dịch và đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay vào cuối thập niên 1990, Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản năm 2018. Tác phẩm: Cô Dâu Đen Người Đàn Bà Trong Đêm Hạn Chót Lúc Bình Minh Điểm Hẹn Đen Đêm Ngàn Mắt Kết Hôn Với Người Chết Theo Em Vào Bóng Đêm Ám Ảnh Đen ... Mời các bạn đón đọc Hạn Chót Lúc Bình Minh của tác giả Cornell Woolrich.
Truy Tìm Tội Phạm
Nhân vật chính của truyện - Loroimer Everett Weldon - vốn là một chàng trai gan góc, anh hùng, xuất thân từ giới giang hồ. Sau vụ gây rối ở sòng bạc Miquel Cabrero, Weldon nhận lời làm người bảo vệ cho Helen O’Mallock - cô con gái duy nhất của tướng O’Mallock đang bệnh rất nặng và có nguy cơ bị những kẻ lạ mặt ám sát sau cái chết của cha. Vốn quả cảm và kiên cường, Weldon quyết tâm bảo vệ tính mạng cho Helen và tìm ra sự thật của những bí mật bao quanh ngôi nhà trên ngọn đồi. Song sự thật ngày càng thêm rối rắm khi anh phát hiện chúng có liên quan đến người con gái mà mình vẫn hằng yêu - Francesca Laguarda... "...Jorram giới thiệu Weldon với cả phòng lần lượt những cái bắt tay gật đầu chào, ánh mắt nồng nàn đến với anh ta. Tâm hồn Weldon trở nên nhẹ nhõm hơn. Từ chiều đến giờ, anh ta cứ trĩu nặng ưu tư với việc bỏ mặc Hellen trong căn nhà trên ngọn đồi cao. Anh ta cứ sợ Francesca dụ anh ta đi vắng nhằm mục đích hãm hại cô gái tật nguyền. Thế nhưng bây giờ anh ta đã quyên hết băn khoăn và sợ hãi. Với những con người như thế này, lòng anh ta thanh thản lạ thường. Đã lâu rồi, anh ta phải vắt óc ra mà làm việc, suy tính, không có những giây phút thảnh thơi. Giờ cũng là cái dịp, anh ta nghĩ vậy. Francesca tiến đến không hề có nụ cười thỏa mãn thích thú, chỉ nắm lấy tay Weldon rồi nhìn thật lâu vào mắt anh chàng..." Trích Bài ca của mỹ nhân ngư trong Truy tìm tội phạm. *** Hai tay sải dài trên nệm, nằm ráng thêm một lát theo thói quen lười biếng, Weldon mở mắt nhìn khoảng trần nhà thụng xuống ngay trên đầu, hít một hơi làn không khí yên lặng, ấm cúng của buổi chiều lúc 5 giờ 30. Dòng suy nghĩ mông lung khiến anh như bất động. Anh chẳng thể nhớ đến nước Mỹ, quê cha đất tổ hay cái tỉnh lẻ anh ta đang hiện hữu đây ‐ cho đến khi anh ta ngước mặt lên nhìn qua cửa sổ, bỗng trông thấy phần mặt trước xù xì, nham nhở của ngọn núi Bull. Thở phào nhẹ nhõm, Weldon hạ đầu xuống chiếc gối mềm mại. Anh đang ở San Trinidad, và với chút băn khoăn, anh cần lưu ý đến vùng đất này. Đã có quá nhiều nơi trong khoảng thời gian gần đây lướt nhanh qua mắt tựa những lá bài chuyển động dưới ngón tay anh. Nhắm mắt lại lần nữa, anh để mặc cho tên tuổi và những gương mặt hiện ra trong ký ức như dòng nước chảy qua khe suối. Bất giác anh mỉm cười. Giờ thì anh thích nằm yên với đầu óc trống rỗng, suy tư thụ động để mà hồi tưởng. Cuộc sống đối với Weldon, không mục đích, không cần đạo đức hóa và tất cả khía cạnh đầy hương hoa mật ngọt của nó. Chuyện ăn uống, anh có thể so tài với một con dê, thần kinh có thể sánh với con bò mộng, chúa tể trầm tĩnh của vùng đồng cỏ. Lúc ăn, khi ngủ, cả chuyện hít thở, Weldon đều thích thú hưởng thụ. Thế thì chả vội gì ngồi dậy lúc này. Từ phần còn lại của căn phòng nhỏ quét vôi trắng, trời nóng ngột ngạt như bếp lò. Nhưng chính trong sức nóng mãnh liệt ấy, Weldon say sưa chìm đắm trong cảm giác từng sợi dây thần kinh và cơ bắp đang được thư giãn. Cuối cùng, khi cơn đói bắt đầu trỗi dậy, anh vói tay mở cửa. ‐ Thức ăn. ‐ Weldon gọi, âm thanh vang vọng dọc theo hành lang. Nhắm mắt lại lần nữa, anh chờ đợi. Sau cùng, anh nghe tiếng sột soạt của chiếc váy dài. Cô hầu phòng người Mexico gõ cửa bước vào. Thông thường, những cô hầu phòng không rụt rè, e thẹn. Thế nhưng anh cảm giác được vẻ do dự của cô ta qua những bước chân ngập ngừng khi cô ấy bước vào. ‐ Thưa ngài. ‐ Không nói tiếng Anh được à? ‐ Weldon ướm lời. ‐ Không, thưa ngài. Một chút ít thôi. ‐ Hãy báo cho bố cô biết đi. ‐ Bằng giọng Tây Ban Nha rất chuẩn, Weldon nói tiếp. Rồi anh mở to đôi mắt ngước nhìn cô nàng xinh xắn, một nét xinh xắn không chối cãi được. Ý tưởng về thức ăn bỗng hiện ra trong đầu Weldon. ‐ Chẳng biết quý ngài dùng gì? ‐ Giờ nào thức đó. ‐ Weldon đáp và tiếp tục quan sát cô nàng. Không hề có một yêu cầu thô bạo mà hầu như anh đang chiêm ngưỡng bức tranh đẹp. Và rồi, anh khẽ hát, nhẹ nhàng như hơi thở: “Ánh mắt như chiều hôm, miệng như mặt trời hồng”. Cô ả đỏ mặt, còn Weldon mỉm cười thân thiện. ‐ Quý ngài đây có đói bụng không? ‐ Hẳn rồi. ‐ Ông muốn dùng gì? ‐ Bất cứ thứ gì trong ngôi nhà này đều OK. Dĩ nhiên là món bánh frijoles, lại nữa, món bánh xèo bằng bột bắp tortillas. Chẳng nơi nào trên đất Mexico có món bánh frijoles tuyệt hơn thứ bánh quế trắng, mỏng do chính bàn tay má cô ta làm ra. Còn món thịt dê tơ tươi rói luôn sẵn sàng để nấu: những miếng thịt thái mỏng, ghim vào cây xiên, nướng lên thơm phức có thể vừa thổi vừa ăn. Chuyện tắm rửa đã có hai cậu bé mozos khỏe mạnh mang những xô nước đến làm đầy cái bồn thiếc ở căn phòng sát vách. Anh hoàn toàn có thể bơi lội trong đó. Cô ta rời phòng. Giọng hát Weldon mượt mà theo sau: “Ánh mắt như chiều hôm, miệng như mặt trời hồng”. Anh nghe thấy tiếng chân cô nàng ngập ngừng nơi hành lang rồi cất bước chầm chậm. Anh chàng ngồi dậy với nụ cười thầm. ‐ San Trinidad, ‐ Giọng anh chàng thì thầm ‐ ta yêu mày lắm! Rồi Weldon đứng lên, bước vào bồn thiếc trong căn phòng kế cận. Hai cậu bé mozos vừa thán phục, vừa tỏ vẻ kinh sợ xối từng xô nước lạnh này sang xô khác lên bờ vai to lớn, trắng trẻo, lên những bắp cơ run run vì lạnh của anh. Lau khô mình mẩy và mặc quần áo xong xuôi, anh bước xuống sân trong của khách sạn. Những chiếc đinh giày lẻng kẻng theo từng bước chân của anh. Những chiếc đinh vàng với vẻ lấp lánh, ngời sáng mới tuyệt vời làm sao khi chàng vượt qua khoảng trống đầy ánh mặt trời. Sức nóng chói chang chết tiệt ấy làm màu đỏ của ngói mang màu lửa, bức tường trắng trở thành bức màn lửa. Nhưng Weldon chẳng cần tránh né. Đứng ngay giữa sân, hạ chiếc nón rộng vành xuống, anh để vầng sáng chói lòa phủ quanh người với tất cả sức nóng của nó. Một người đàn ông thấp bé, gương mặt nhỏ, rám nâu, từ bóng râm của một góc sân phủ dây leo, nói tiếng Anh với giọng cau có: ‐ Này, cậu bé, cẩn thận đấy. Coi chừng phỏng nắng! ‐ Cám ơn. ‐ Anh đáp lại ‐ Nhưng tôi cần tắm nắng. Băng ngang qua cái bàn nhỏ giữa những hàng cột, chàng nằm ườn trên một chiếc ghế, làm nó kêu kẽo kẹt như chẳng thể chịu nổi sức nặng của anh ta. ‐ Nắng giết vi khuẩn! ‐ Anh giải thích. Vẫn luôn là cách nói như vậy: hoàn tất một câu với những phần rời rạc. Weldon ngước nhìn người đàn ông nhỏ bé với nụ cười vui vẻ, ánh mắt long lanh, một chút ngây ngô như thầm bảo mọi thứ trong cuộc đời đối với anh đều tốt đẹp cả. Những chiếc bánh frijoles hấp chín cuốn trong những chiếc bánh quế mỏng xám được mang đến. Anh bắt đầu ăn mạnh, nhưng không vội vã. Đằng sau điếu xì gà Mexico, người đàn ông thấp bé, gương mặt nâu nhỏ cau mày nhìn mớ thức ăn dần dần biến mất. Nhích chiếc ghế một chút, ông ta lắc đôi vai đột ngột để ngồi sát Weldon hơn. Những chiếc bánh frijoles và cả món bánh xèo bằng bột bắp tortillas đã mất dạng. Thêm những chiếc tortillas được mang ra với một dĩa lớn thịt dê tơ chặt thành từng khúc vuông vức, vàng rộm. Thêm một dĩa nước sốt đỏ, Weldon nhúng từng miếng thịt vào dĩa sốt, không vội vã nhưng thức ăn bắt đầu biến đi rất nhanh. Không bao giờ anh ngốn cho đầy họng. Chẳng qua là khả năng ẩm thực quá tốt cho bất kỳ khoảng thức ăn nào được mang ra. Người đàn ông thấp bé chỉ ngồi yên lặng mà đưa mắt nhìn, dù ông ta không hề muốn nhìn người khác ăn với kiểu cách như vậy. Lắc lư cái đầu và hướng đôi mắt về phía trước như thể đang đuổi ruồi, giờ thì ông ta nhìn ra xa, tay nhịp nhịp nhanh những ngón nhỏ xíu lên bàn. Tuy nhiên, thỉnh thoảng đôi mắt ông ta vẫn quan sát dĩa thức ăn và Weldon đang dùng. Weldon giơ cao một cục thịt đặc biệt ghim vào phần cuối của con dao trên tay: nó cháy khét ở phần ngoài rìa, phần còn lại to dày màu vàng sậm dính đầy nước sốt. ‐ Dùng một ít đi. ‐ Weldon thử mời ông ta. Người đàn ông nhúc nhích xung quanh cái ghế. ‐ Anh bạn trẻ à, ‐ Ông ta lên tiếng ‐ có phải tôi đã đủ già để khuyên anh bạn điều gì chăng? ‐ Lời khuyên ư? ‐ Weldon thì thầm ‐ Chẳng ai cho không một lời khuyên. Hẳn phải trả giá cao để đáp lại chúng đúng không? ‐ Này ‐ Người đàn ông bắt đầu. ‐ Lời khuyên hả? ‐ Weldon nhắc lại ‐ Lời khuyên là kinh nghiệm, có thể tóm tắt như vậy. ‐ Nó là... ‐ Người đàn ông tiếp lời ‐ và vì thế... Hạ thấp giọng, Weldon thì thầm. ‐ Một lời khuyên hẳn tốt hơn ánh mắt soi mói. ‐ Dĩ nhiên rồi anh bạn. Tôi muốn kể cho anh bạn nghe một chuyện. ‐ Ai mà không nghe theo lời khuyên. ‐ Weldon tiếp tục với giọng nhỏ nhẹ ‐ Chẳng làm nên tích sự gì cả. ‐ Tiếp tục. Tiếp tục đi! ‐ Người đàn ông cau có ‐ Nói cho biết những điều bạn muốn về vấn đề ấy đi. Tôi có thể chờ. Tôi đang đợi đây này. ‐ Tôi sẽ nhận lời mách bảo từ bất kỳ ai như thể là bố tôi. ‐ Anh tiếp tục. ‐ Bảo ban vẫn tốt hơn là roi vọt. Ấy, người ta thường nói những người tệ hại nhất vẫn có thể khuyên những lời tốt nhất. ‐ Weldon mỉm cười thân thiện. ‐ Ông có thể dùng một chút thịt nướng không? Khẽ nhịp những ngón tay, người đàn ông hầu như giận dữ. ‐ Không. ‐ Ông ta kêu lên ‐ Tôi không dùng những thứ đó. Và những thứ kia nữa, loại nước sốt ấy. Anh có biết nó là gì không? Weldon ngập ngừng một chút. Nhưng với bản tính không nề nao núng anh nói tiếp: ‐ Khẩu vị đối nghịch nhau như nước với lửa. Ông nghĩ sao về điều này? Người đàn ông mở to mắt nhìn. Chòm râu cằm mỏng, nhọn, để theo mốt xưa tạo cho vẻ mặt ông ta có nét hiểm độc. Nó run run khi ông ta gằn từng tiếng một: ‐ Nhìn anh bạn ăn tôi muốn lợm giọng. Nó làm gan ruột tôi muốn nôn ra từng khúc. ‐ Giọng ông ta quả quyết. Anh chàng Weldon đặt mẩu thịt đang được làm đề tài vào miệng, vẫn nói tiếp không một chút phiền lòng về những điều vừa nghe. ‐ Nó à? ‐ Anh đáp lại ‐ Ngay bây giờ, ông biết tôi có cảm giác gì không? Mọi thứ đều rất OK nếu ông dùng nó đúng cách, còn nếu không thì... ‐ Thế sao? ‐ Ông ta mỉa mai ‐ Thần học à? ‐ Tại sao không? ‐ Weldon hỏi lại ‐ Nếu ông muốn dạy một người làm bếp thì phải thực hiện ngay trong nhà bếp chứ không phải trên bàn ăn. Thường tôi vẫn dùng những gì tôi có. Ông ta rùng mình. Đưa hai tay đỡ lấy đầu, môi ông ta run run quanh điếu xì gà. Những ngụm khói lan nhanh trước mặt ông ta và xuyên qua làn khói ấy, đôi mắt lim dim hướng về phía Weldon. ‐ Tôi nghĩ ra điều gì trong bụng dạ anh bạn rồi. ‐ Ông ta thở dài. ‐ Tôi chưa từng biết đau bụng là gì. ‐ Weldon đáp lại. Và anh kết thúc miếng thịt cuối cùng với phần nước sốt còn lại. Vét hết chỗ nước sốt bằng miếng thịt dê, nước sốt bám vào miếng thịt nhiều đến nỗi chàng phải dùng môi hứng. Người đàn ông chẳng dám nhìn cái hỗn hợp đó được nuốt như thế nào. Đưa hai tay che mắt, ông ta vẫn để tay thấp vừa tầm kịp quan sát cái màn ăn uống ghê rợn đó. Vừa nấc một cái, vừa rời khỏi ghế, ông ta rảo vài bước tới lui rồi ngồi xuống với một cốc bia, bắt đầu ngắm nghía Weldon. Mời các bạn đón đọc Truy Tìm Tội Phạm của tác giả Max Brand.
Bướm Báo Thù (Điệp Tử)
Thể loại: Giả tưởng, tâm lý, trả thù giết người, có yếu tố tình cảm, HE Số chương: 11 chương full Bướm Tím trở về với dương gian, chỉ vì một mục đích duy nhất: trả thù kẻ đã tàn sát mình và cả gia đình. Bảy con người, bảy câu chuyện, họ không có mối quan hệ với nhau. Cứ tưởng đây là bảy mảnh ghép rời rạc, nhưng khi từng chi tiết hiện rõ, giữa họ lại có một điểm chung, liên quan đến một linh hồn oan khuất. Ai đúng ai sai, ai tốt ai xấu, nhân quả cùng nghiệp chướng đan xen, để rồi nàng gặp được hai người con trai ấy... Điều quan trọng cuối cùng nàng hiểu ra ở dương gian này sẽ là gì? "Con người hay bất kỳ sinh vật nào cũng có lúc rơi vào đau khổ, tuyệt vọng. Khi phải đối diện với bi kịch, có kẻ lựa chọn sự trả thù tàn khốc thế nhưng ngược lại, có những người lại lựa chọn tha thứ để tiếp tục hướng về phía trước đón lấy hi vọng." *** Tất cả bắt đầu tại một khu rừng hoang sơ chưa có dấu chân người. Mọi thứ nơi đây rất tuyệt vời, có thể nói là đẹp như bức tranh, và người vẽ nó không ai khác chính là Thượng Đế. Ngài dồn hết tình cảm vào đó, từ ngọn cỏ đến cành cây, cây cổ thụ ngàn năm tràn ngập lá cùng những cánh bướm rập rờn trong ánh nắng. Mọi vật, mọi cảnh thật tuyệt diệu, giống như thiên đường. Nhưng rồi mọi chuyện thay đổi vào một buổi chiều đầu xuân khi tiếng ồn của động cơ vang lên. Và đột ngột có chiếc thuyền cập bến… Cửa mở, lần lượt một nhóm người đi xuống, đưa mắt nhìn quanh. Quả thật nơi đây quá tuyệt. Cả thảy gồm bảy thành viên, năm người đàn ông và hai phụ nữ. Trẻ, trung niên đều có, dĩ nhiên không có người già. Sau vài giây ngắm cảnh, người đàn ông có bộ râu xồm xoàm nhất bảo: - Một nơi đẹp thế này tại sao không có ai đặt chân lên đây? Người phụ nữ đeo cặp kính cận dày cộm, quay qua: - Tại ông không biết đấy thôi, hòn đảo này cũng rất kỳ quái. Người ta đồn rằng ở đây các con vật, côn trùng, thậm chí cả cỏ cây đều khác lạ. Chúng có khẩu phần ăn không bình thường. Tiếng điếu thuốc phì phò, ông là người có mái tóc trắng và đen phân rõ nhìn như đường ranh giới, lý giải: - Giả sử, tôi ví dụ về loài bướm. Khi là sâu thì chúng ăn lá, lúc thành bướm thì chúng không ăn gì cả, chỉ việc đi tìm bạn đời, giao phối rồi chết. Nhưng nơi này thì khác, lũ bướm trưởng thành sẽ ăn hoa, các côn trùng nhỏ thậm chí là… đồng loại để duy trì sự sống, giúp kéo dài tuổi thọ. Thêm một người đàn ông mặc áo khoác dày, gương mặt khó chịu, vỗ tay: - Thôi, đừng nói nhiều nữa, chúng ta đến đây để xem xét tình hình khu rừng rồi thông báo cho đám thợ đến san bằng nơi này cho ngài giám đốc xây khu giải trí làm quà sinh nhật tặng con trai, chứ không phải để huyên thuyên đâu! - Ông quay ra sau gọi lớn - Anh kia! Nhanh tay lên một chút! Trên thuyền, vừa nghe quát, anh thanh niên vụng về đem nhanh mấy chiếc túi da to đến chỗ những người nọ, đặt xuống đất. Chẳng bao lâu, họ bắt đầu vào việc… Mọi vật trong khu rừng đều không hề hay biết sẽ có điều khủng khiếp sắp xảy ra, chẳng hạn như cô nàng Bướm Tím này. Nàng mới lớn, tràn trề sức sống với đôi cánh to màu tím biếc rực rỡ. Nàng đang đi kiếm mồi. Và kia, một bông hoa màu xanh ngắt mới nở, bữa ăn chiều tuyệt vời. Khi nàng vừa đáp lên, hoa khẽ rung rinh cùng lúc một giọng nói cất vang: - Ai đang đậu thế? - Ta, nàng Bướm Tím xinh đẹp! - Xin chào, tôi là chú bé hoa. Tôi mới nở, mà bạn cần gì? - Ta hả, dĩ nhiên ta muốn ăn ngươi. Bụng ta réo ầm ĩ rồi. - Đừng, xin đừng ăn tôi! Khó khăn lắm tôi mới nở ra được thế này. Bướm Tím khoanh tay, vẻ như chẳng mấy động lòng: - Mới nở hả? Vậy thì được rồi. Ngươi đã nở ra, đã hấp thụ ánh nắng mặt trời, ngửi hương gió rồi nghe những giọt sương thì thầm bên tai, như vậy là quá đủ cho kiếp hoa vô vị. Đừng nói nhiều, hãy yên đó để ta ăn! - Làm ơn đừng ăn tôi, tôi còn muốn mình sống lâu hơn nữa… Mặc cho cậu bé hoa nức nở van xin, nàng Bướm Tím vẫn tàn nhẫn nuốt trọn bông hoa mới nở ấy vào bụng. Khi đã khi đã đánh chén no nê, nàng quyết định bay về nhà. Về đến nơi, nàng thật sự kinh hoàng khi trông những con bướm tím trong gia đình đều bị giết hết. Chẳng kịp hiểu chuyện gì thì thình lình có tấm lưới tóm gọn lấy nàng. Bất ngờ, gương mặt một người phụ nữ có làn da mật, nhìn bướm với vẻ thích thú: - Xem này vẫn còn con bướm, làm gì với nó đây? Thì ra đây là con người! Nàng Bướm Tím nghĩ vậy. Bây giờ nàng thấy sợ hãi, phải tìm cách thoát khỏi đây. Loay hoay trong tấm lưới mấy phút, nàng vô cùng sửng sốt bởi hình ảnh những con bướm được ép khô, đặt trong lồng kính, đập vào mắt…. Có tiếng xì xầm ở gần, nàng Bướm Tím xoay qua, thấy một người đàn ông nói gì đấy với người phụ nữ đeo cặp kính dày bên cạnh. Bà ta lấy từ túi áo khoác, thứ hộp hình vuông, chậc lưỡi: - Không có quẹt ga thì dùng quẹt diêm! Xoẹt! Lửa xuất hiện trên thanh que nhỏ. Bà ta buông tay, thanh que nhanh chóng rớt xuống đống rơm được xếp gọn bên dưới và bốc cháy. Nàng Bướm Tím hét lên: - Đừng! Làm ơn…! Đừng đốt gia đình tôi! Nhưng con người làm sao nghe được lời bướm chứ? Ngọn lửa bốc cao, cháy phừng phực, chỉ vài giây sau đã lan nhanh thiêu trụi hốc cây, nơi tổ ấm của nàng. Không dừng ở đó, lửa điên cuồng tiếp tục tàn phá mọi thứ xung quanh. Bướm Tím kinh hãi quá, nàng khóc. Bỗng, có bàn tay thò vào túm lấy bướm. Nàng vùng vẫy, kêu la: - Bỏ tôi ra! Đừng mà! Người đàn ông có bộ râu xồm xoàm khi nãy, nhìn chăm chú: - Đôi cánh đẹp quá, nhưng không thấy rõ các đường nét trên đó. Chàng thanh niên có chiếc cằm lởm chởm râu, mới cười nhạt: - Có gì là khó, đưa đây, tôi có cách để các vị nhìn rõ hơn. Dứt lời, anh ta vớ lấy chiếc búa cùng bốn cây đinh sắt rỉ. Bướm Tím không biết đấy là gì. Anh ta chụp lấy nàng từ tay người phụ nữ đeo kính, vứt bỏ điếu thuốc trên miệng, rồi dùng tay ép nàng lên thân cây. Xong anh ta xoay sang bên cạnh, ra dấu cho chàng thanh niên vụng về khi nãy: - Mày giữ cố định giúp tao con bướm. Nhanh lên! Lề mề quá! Chàng trai tội nghiệp nhanh chóng đến gần, đưa tay giữ lấy bướm. Còn anh chàng nọ, lấy đinh ghim lên đôi cánh rực rỡ, tiếp dùng búa đóng mạnh. - Đau quá! Tôi đau quá…! Nàng bướm la hét dữ dội, máu rỉ ra, từng dòng chảy dài thấm vào thân cây xù xì. Bốn cây đinh đã giữ cố định nàng. Mười mấy con mắt mở to trừng trừng, quan sát sự tuyệt diệu của đôi cánh rộng. Nếu hình ảnh ấy được phóng to lên sẽ không còn đẹp nữa mà trở thành khung cảnh ghê rợn, trông như cảnh Chúa bị đóng đinh trên cây thập giá, bởi máu đang chảy loang ra. Nàng Bướm Tím đáng thương kiệt sức do cơn đau khủng khiếp nhưng vẫn đưa mắt nhìn những con người kia với đôi mắt yếu ớt. Bảy tên quái vật…! Người đàn ông mặc áo khoác dày bỗng dưng la lối: - Coi chán rồi đốt quách đi! Chúng ta cần đi xem khu rừng này trước khi trời tối! Họ tản dần ra, chẳng còn ai nữa. Nàng Bướm Tím đưa mắt về phía xa, khung cảnh nhòe đi, mờ dần. Mặt trời đã xuống núi, màu cam vàng của buổi hoàng hôn sáng rực là hình ảnh cuối cùng đọng lại trong cái nhìn của Bướm Tím trước khi ngọn lửa kịp thiêu cháy nàng thành tro. Nhưng lòng nàng, dâng lên một điều gì đó rất ghê gớm lẫn mãnh liệt! *** Bướm Tím nghe văng vẳng bên tai tiếng chim hót. Nàng mở mắt, chậm rãi ngồi dậy, trước mặt là căn phòng gỗ nhỏ, xung quanh ngập tràn ánh sáng mờ nhạt như nắng chiều sắp tàn. Giọng nói của người phụ nữ vang lên, rất nhỏ, như đang thì thầm: - Tỉnh rồi sao? - Bà là ai và tôi đang ở đâu? - Bướm Tím hỏi. - Đây là một nơi hoàn toàn tách biệt, cô đã chết, có biết không? Nàng bướm liền nhớ lại khung cảnh buổi hoàng hôn cuối cùng của ba năm trước… Rất lâu nhưng rõ như in, thậm chí, lúc này nàng vẫn còn thấy sợ. - Ta chỉ là bà lão bình thường chẳng có gì đáng bận tâm, cứ gọi ta là Bà Bà. Ta vốn thích cỏ cây, côn trùng. Người đời chẳng biết được, chúng cũng có linh hồn, và nếu làm việc tốt chúng vẫn có thể luân hồi chuyển kiếp. Nàng Bướm Tím đảo mắt nhìn một lượt cốt để tìm người đang trò chuyện với mình. Ngay bên trái nàng, là cánh cửa giấy có khung bằng tre, bóng ai bên kia vách in lên trông liêu xiêu… Nàng lại Bà Bà cất tiếng: - Đáng thương cho Bướm Tím, chết trong đau đớn tận cùng. Ta đưa hồn cô về đây để giúp cô thực hiện mong ước của bản thân. Hãy bước ra ngoài rồi cô sẽ thấy… Bướm Tím nghe theo lời, đứng lên, bước nhẹ nhàng đến cửa. Bên ngoài có dãy hành lang gỗ để ngồi ngắm nhìn khung cảnh xung quanh. Nơi đây thật đẹp, một vườn hoa với đủ loại đang khoe sắc, những cánh bướm rập rờn hoặc con ốc sên bò chậm chạp. Hòa vào không gian tĩnh lặng, là tiếng róc rách của dòng suối tươi mát trải mình thật thong thả. Nổi bật nhất là cây cổ thụ to soi bóng dưới làn nước xanh. Cảnh vật đều được phủ lên màu ráng chiều của hoàng hôn. Tiếng Bà Bà lại cất lên, thật rõ: - Những thứ cô thấy chỉ là linh hồn. Ta hồi sinh, làm chúng sống lại lần nữa đồng thời cho chúng sự lựa chọn để quyết định cuộc đời mình. - Nghĩa là bây giờ tôi có thể làm điều gì tôi muốn? - Mắt Bướm Tím thẫn thờ. - Đúng, và ta sẽ không can thiệp vì đó là chọn lựa của cô! - Vậy thì… trả thù! Đó là điều tôi muốn! - Bướm Tím dõng dạc. - Tùy cô. Ta không khuyên nhủ cũng không cổ vũ. Vì đơn giản, mọi việc làm trên thế gian đều có nhân quả báo ứng. Điều duy nhất ta có thể làm là khi nào cô đơn, cần người tâm sự, cô cứ về đây tìm ta. - Nhưng giờ đây tôi chỉ là linh hồn, tôi cần có hình dạng riêng của mình. Đúng, trong hình hài con người! - Nàng nghĩ ngợi. - Vậy chỉ còn cách, cô hãy tìm xác ai đó, nhập vào họ, nếu cần thiết, nên thay đổi gương mặt để đỡ rắc rối. - Bà Bà ra ý kiến - Cô có thấy cánh cửa gỗ bên cạnh giường tre không? Chỉ cần mở ra và bước qua, cô sẽ đến thế giới của loài người! Đi đi! Bướm Tím đến gần cánh cửa, tay đẩy nhẹ. Thật bất ngờ, phía bên kia vách gỗ là con đường nhỏ, vắng người, đầy bóng tối. Nhích từng bước, nàng đi hết con đường. Bên ngoài, ánh sáng chói gắt, cảnh người qua lại nhộn nhịp không ngớt. Họ cười nói rôm rả. Những tòa nhà cao tầng vuông vức như chiếc hộp chật chội khiến nàng bướm muốn ngợp thở. Đứng lặng chốc lát, Bướm Tím lại bước đi. Dù người người tất tả ngược xuôi nhưng chẳng ai nhìn thấy nàng. Được một đoạn, Bướm Tím dừng lại, khẽ nhìn qua phía bên kia đường. Hình ảnh cô gái xinh đẹp trong bộ váy hồng đang giận dỗi ai đấy qua điện thoại. Cô cúp máy, khóc rồi chạy băng qua đường. Trong khoảnh khắc ngủi, sự sống và cái chết cách nhau vài giây. Rầm! Chiếc taxi vô tình hoặc cố ý đã đụng trúng cô gái ấy. Máu phun trào, nhuộm đỏ. Sự việc diễn ra quá nhanh chóng, ai cũng đứng ngớ mặt, còn thủ phạm thì lập tức phóng xe bỏ chạy. Những người đi đường tụ tập lại, không biết để cứu người xấu số hay vì tò mò về sự việc lạ diễn ra trên đường phố? Vài giây sau cảnh sát ập đến, mọi thứ xung quanh vẫn nhốn nháo. Tiếng còi hú vang, cùng lúc chiếc xe cứu thương chạy đến, cô gái được đưa lên. Dưới đất có vũng máu to tướng nhưng rồi cũng sẽ biến mất, chỉ để lại vết chàm. Trong xe cứu thương, các nhân viên y tế đang lo lắng cho tính mạng nạn nhân. Nàng Bướm Tím đứng nhìn cô gái trong cơn nguy kịch bằng ánh mắt vô hồn, chẳng chút thương xót. Chỉ đang chờ đợi… Cánh tay mất hết sức lực rớt xuống, cô gái đã không qua khỏi. Liệu cô có thấy mình ra đi quá sớm? Biết đâu, cô đang vui mừng vì thoát khỏi kiếp người đầy khổ đau! Như chỉ chờ có thế, Bướm Tím liền nhập hồn vào cơ thể còn ấm ấy. Người nhân viên y tế ngỡ ngàng bởi cái mở mắt đột ngột của người chết. Không chỉ mình anh, những người trên xe cũng vô cùng bàng hoàng. Người tài xế như quẫn trí, lạc tay lái, khiến xe đâm sầm vào cái cây ven đường. Một tiếng nổ lớn vang lên. Những người đi đường giật mình quay lại, ngọn lửa lớn bốc cháy thiêu trụi chiếc xe. Và rồi từ bóng lửa điên cuồng, tất cả bỗng thấy bóng dáng cô gái trong bộ váy hồng, trên trán vài dòng máu vẫn còn chảy, bước ra. Ánh mắt vô hồn, cô cứ đi, mặc kệ tiếng la hét xung quanh… Tại ngôi nhà gỗ của Bà Bà, Bướm Tím đang soi mình trong gương. Làn da mịn màng như đứa trẻ, gương mặt trẻ đẹp thanh thoát. Đúng là một thể xác tuyệt hảo! Tự dưng, nàng khẽ cất giọng: “Cần thay đổi một chút…”. Nàng bướm đưa tay lên che đôi mắt đen tròn lấp lánh của cô gái. Vài giây sau bàn tay hạ xuống, phản chiếu trong tấm gương là một đôi mắt màu cam vàng, màu của buổi hoàng hôn đẫm máu. Bướm Tím đứng dậy ra bờ suối, tắm. Rồi bộ áo váy màu tím với những đường trang trí hình cánh bướm, dài qua đầu gối, khoác lên người nàng. Mái tóc đen được hất tung ra phía sau trải dài. Nàng nghe Bà Bà hỏi, cô chuẩn bị xong rồi ư, liền chậm rãi đáp: - Phải, từ nay bà hãy gọi tôi là Điệp Tử! Tôi sẽ trở về dương trần để đòi lại món nợ mà loài người gây ra với tôi! Dứt lời, Điệp Tử quay gót. Từ đó, cuộc báo thù của Điệp Tử bắt đầu. Nó trở thành cơn ác mộng chẳng ai mong muốn. Liệu cuối cùng mọi thứ sẽ ra sao? Ba năm sau, tất cả được tái hiện… Mời các bạn đón đọc Bướm Báo Thù (Điệp Tử) của tác giả Võ Anh Thơ.
Đảo Ngục Môn
Sau chiến tranh, trên chuyến tàu xuất ngũ, một đồng đội của Kindaichi đã chết như cá ươn giữa bầu không khí hầm hập ngột ngạt. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, cậu có trăng trối rằng mình ra đi thế này, mấy cô em ở nhà cũng sẽ bị giết mất. Cậu nhờ Kindaichi đi ngăn chặn thảm họa hộ. Nhận lời bạn, Kindaichi đã tìm đến nơi, mới biết gia đình họ là hậu duệ cướp biển, sinh sống trên một hòn đảo ngoài khơi với cái tên “cửa địa ngục”. Mặc dù đã cảnh giác từ đầu, anh vẫn không ngăn được những cái chết thảm thương, kì quái, nhằm vào những cô gái trẻ đẹp của gia đình bạn. Bị đánh lạc hướng, gián tiếp tác động vào vòng quay của bánh xe định mệnh, sự xuất hiện của Kindaichi không ngờ lại là lời cáo chung cho dòng họ có gia huy đầu quỷ rùng rợn ấy. Đảo Ngục Môn đã có ảnh hưởng rất lớn với nhiều tác giả thế hệ sau, trở thành một kim tự tháp rực rỡ huy hoàng trong dòng văn ly kì trinh thám! *** [Review] Đảo Ngục Môn - Yokomizo Seishi -------------- Vụ án mạng trên đảo địa ngục Đảo Ngục Môn là cuốn sách trinh thám cổ điển thuần suy luận. Giữa một bối cảnh khép kín, 3 án mạng đã xảy ra theo cách rùng rợn nhất, để rồi khi hung thủ lộ diện, tất cả đều phải kinh hãi bởi sự thật ẩn giấu đằng sau Kindaichi là thám tử truyện tranh nổi tiếng đã làm mưa làm gió trên mạng, còn Đảo Ngục Môn lại là câu chuyện kể về một thám tử Kindaichi khác, đúng hơn là ông nội của Kindaichi phiên bản truyện tranh. Bối cảnh xảy ra thảm án trên Đảo Ngục Môn là thời hậu chiến tranh thế giới thứ I, khi Nhật thua trận và trong bối cảnh u uất của những người lính chiến bại trở về, ở quê nhà nơi đón tiếp họ cũng chẳng hề yên bình hơn Nhận được lời ủy thác của một người bạn, cũng đồng thời là người lính, anh chàng Kindaichi đến Đảo Ngục Môn để ngăn chặn một vụ án mạng đang có nguy cơ xảy ra, bởi theo lời trăng trối của anh chàng kia thì 3 cô em gái của anh ta đang bị lưỡi hái tử thần kẹp chặt. Nhưng Kindaichi không biết rằng, chính thời điểm anh mang giấy báo tử của người bạn anh về hòn đảo Địa Ngục ấy, cũng là lúc kích hoạt phương án giết người đã được kẻ thủ ác nung nấu từ rất lâu Một câu chuyện về sự mê tín Tín ngưỡng là một vấn đề nhạy cảm của bất kỳ dân tộc nào. Tuy nhiên cuồng tín lại là một vấn đề khác, nguy hiểm hơn nhiều. Ở một nơi cách ly với thế giới bên ngoài, việc tin tưởng mù quáng sẽ dẫn tới những đại họa không thể tin nổi Như Kindaichi đã phải thốt lên “Dân trên đảo này, họ điên cả rồi!” Việc 3 nạn nhân, kẻ bị treo ngược thi thể lên cây, người bị chôn dưới chiếc chuông chùa, người bị bóp cổ ngay trên nhà cầu nguyện, với những cách thức giết người man rợ theo một phương án không thể tin nổi như vậy, ít người tin rằng đây là hành vi của những kẻ không thuộc một giáo phái nào đó. Đến khi Kindaichi bóc trần sự thật trần trụi, độc giả mới có thể ngỡ ngàng, bởi sợi chỉ đỏ dẫn dắt hành vi tội ác ở đây chính là niềm tin! Có vẻ như là trinh thám cổ điển nên tác giả bỏ qua hết mọi vấn đề về tâm lý tội phạm. Với những dòng máu lạnh xuống tay giết người, lại là sát nhân lần đầu ra tay, không khỏi kinh hãi và bỡ ngỡ. Nhưng tác giả đã miêu tả cứ hệt như những sát thủ chuyên nghiệp! Lạnh lùng và man rợ đến khó tin. Đấy chỉ có một lý do để giải thích: Tín ngưỡng! Một niềm tin mù quáng có thể gây ra hàng loạt hành vi điên rồ chết người! Hậu quả của trọng nam khinh nữ, dân trí thấp & môi trường sống Vấn đề chia sẻ gia tài, tìm người thừa kế của những gia tộc khổng lồ sẽ luôn khiến báo chí tốn nhiều giấy mực trong bất kỳ thời đại nào. Và cũng là cảm hứng bất tận cho những nhà văn. Trong câu chuyện này, người thừa kế gia sản địa vị của ông chủ tàu giàu có nhất Đảo Địa Ngục là nòng cốt để đại họa xảy ra. Nếu như dân trí cao, có lẽ các bậc trưởng giả ngày xưa đã có một cái nhìn vẹn toàn hơn, công bằng hơn cho những thế hệ kế tiếp. Nếu dân trí cao, người dân đã không đặt niềm tin quá nhiều vào tôn giáo, và họ đã có thể cứu mạng được nhiều nạn nhân vô tội Và cuối cùng là môi trường sống. Có lẽ một khu vực khép kín chưa bao giờ là nơi tốt lành cho những tâm hồn tội lỗi, ngay cả đó là Đảo Địa Ngục Một cuốn sách dễ đọc, nhưng không mang nhiều giá trị trinh thám Thuộc danh mục trinh thám cổ điển, tuy nhiên Đảo Ngục Môn không mang nhiều chất trinh thám. Suy luận của Kindaichi mang nhiều sự may mắn. Bắt một tù nhân trong cái nhà giam khổng lồ mà anh ấy vẫn không thể lần ra sớm hơn, một cảm giác yếu đuối và bất lực. Đáng lẽ cuốn sách đã có thể tốt hơn nếu miêu tả cẩn trọng hơn về tâm lý tội phạm. Đáng tiếc điều đó đã không xảy ra. Và bởi vì thế, dù đây là một cuốn sách miêu tả đặc sắc, rùng rợn về những án mạng, nhưng chưa thể trở thành một “món ăn ngon miệng” cho những độc giả yêu truyện trinh thám vốn ngày một khắt khe & khó tính hơn. *** Nhận lời trăng trối của Kito Chima – đồng đội mình, Kindaichi đã tìm đến gia đình của bạn. Khi tìm đến thì Kindaichi mới biết gia đình họ là hậu duệ cướp biển, sinh sống trên một hòn đảo ngoài khơi với cái tên Đảo Ngục môn. Mặc dù đã cảnh giác từ đầu, Kindaichi vẫn không ngăn được những cái chết thảm thương, kì quái nhằm vào những cô gái trẻ đẹp của gia đình bạn… ĐẢO NGỤC MÔN   Cốt truyện khá hấp dẫn. Tuy phần khởi đầu khá chậm, nhưng không hề dài dòng hay rườm rà. Mình cũng khá ấn tượng bởi cách thức giết người của hung thủ, mỗi nạn nhân một kiểu chết khác nhau.   Dàn nhân vật cũng được tác giả xây dựng khá phong phú, mỗi người một vẻ, thậm chí mình còn ấn tượng với Kindaichi. Không chỉ thông minh, xuất sắc trong quá trình phá án, Kindaichi còn thuộc loại nhây khi trêu cảnh sát trên đảo đến mức bị nhốt trong phòng giam cả một đêm, rồi còn khi gặp gái đẹp thì nói lắp liên tục, không chỉ một lần mà nhiều lần.   Câu chuyện cũng phản ánh một thời kỳ xưa mà xã hội Nhật vẫn theo hướng trọng nam, khinh nữ. Người phụ nữ địa vị trong gia tộc bị coi nhẹ tạo nên căn nguyên bi kịch cho vụ án. Điểm: 7,5/10 Đen Đá Không Đường  ĐẢO NGỤC MÔN Mình mua cuốn sách này sau khi biết đến tên tuổi của tác giả Yokomizo Seishi với một tác phẩm khác là “Rìu, Đàn, Cúc”. Mình chưa đọc “Rìu, Đàn, Cúc”, mặc dù đây hình như là tác phẩm được nhiều người nhắc đến nhất của Seishi thì phải, vì mình nghe nói nhân vật thám tử Kindaichi nổi tiếng của ông không có nhiều đất phô diễn tài năng lắm trong cuốn sách đó. Mình chọn “Đảo Ngục Môn” là cuốn sách “mở hàng” của mình khi đến với các tác phẩm của Yokimizo Seishi, vì mình nghe nói cuốn này thể hiện tính suy luận phá án nhiều hơn. Nội dung của “Đảo Ngục Môn” thì chắc cũng không cần tóm tắt hay đề cập nhiều nữa. Cảm giác ban đầu đọc cuốn này của mình, đó chính là tội nghiệp thanh niên Kindaichi, đã bề ngoài lôi thôi lếch thếch, đầu tóc toàn gàu mà cứ thích gãi thì thôi chớ =)))), đến Đảo Ngục Môn làm phước thay mặt người quá cố, cố gắng bảo toàn tính mạng cho 3 cô em gái của người lính Chima đã hy sinh thì thôi chớ, lại còn bị nghi ngờ là quân gian tà, bị một người dân đảo bắt giam =)))) Đã thế thanh niên này còn mắc chứng cà lăm, nói năng lắp bắp mỗi khi bị căng thẳng hay hồi hộp (ơ cái này hình như hơi bị giống mình… Hình như người nào thông minh xuất chúng cũng đều gặp phải một vấn đề gì đó liên quan đến ngôn ngữ thì phải ???? ???? :D). Đối với hầu hết các tiểu thuyết trinh thám mà mình đã đọc trước đó, mình đều thử nghi ngờ, suy đoán xem ai có thể là hung thủ thực sự. Cơ mà đối với cuốn này, thú thật là có muốn nghi ngờ, mình cũng chẳng biết nghi ngờ ai, vì dân đảo đa phần toàn những người kỳ dị. Họ kỳ dị trong cách nói chuyện, cách suy nghĩ, và bao phủ lên các vụ án mạng trong cuốn sách này cũng là một màu sắc liêu trai chí dị (giết người rồi dàn dựng hiện trường xác chết theo những hình ảnh trong thơ haiku), làm thanh niên Kindaichi bao lần nghĩ nhầm và có những điểm mù chưa nhìn ra. Đến lúc thanh niên phá án và vạch trần chân tướng hung thủ thì hỡi ôi, đúng là người đọc đây rớt hàm dập mặt luôn… Không thể ngờ được… Nhưng điều còn khiến mình bất ngờ hơn (hay là uất ức hơn), chính là nguyên do dẫn đến các vụ án mạng này. Với tư cách là một người phụ nữ, khi đọc cuốn sách, mình không thể nào hiểu nổi làm sao kẻ thủ ác có thể có cái suy nghĩ xem mạng sống phụ nữ rẻ mạt đến thế… Và cái sự thật kiểu plot twist “đấm vào mặt” ở khúc cuối đã biến tất cả những giết chóc này trở thành một tấn bi kịch đầy ám ảnh cho gia tộc Kito trên Đảo Ngục Môn. Những gì mình cảm nhận được sau khi đọc đến trang sách cuối cùng, đó chính là sự nặng nề, một sự nặng nề đến khó thở khi chứng kiến tấm mạng u tối bủa vây lấy hòn đảo vốn kỳ dị và đầy rẫy cướp biển này, khi nhận ra biết bao câu niệm Phật “nam mô…” cùng quyết tâm mang lại tương lai tươi sáng cho dòng tộc cũng không thể nào xóa bỏ được những cái chết vì bị giết của những cô gái trẻ vô tội… Nguyễn Việt Ái Nhi “Nhờ anh…đến đảo Ngục Môn…một chuyến…ba đứa em tôi…ôi…em họ tôi…em họ…” Trước khi chết, Chima đã gửi gắm tâm nguyện của mình tới Kindaichi nhằm nhờ anh đến đảo Ngục Môn ngăn chặn những thảm kịch xảy ra với những đứa em của mình. Kindaichi đã tìm đến nơi – hòn đảo với những người là hậu duệ cướp biển để bảo vệ 3 đứa em của Chima. Thế nhưng những bi kịch kinh hoàng cứ liên tiếp xảy đến. Trên đảo, những con người với tư tưởng kì dị hiện ra trước mặt Kindaichi: Sư Ryozen – người có quyền uy nhất đảo. Bác sĩ Murase với hàm râu dê. Ba chị em Tsukiyo kì quặc. Phu nhân Shiho tính cách quái gở. Chàng Ukai đẹp trai chiếm được tình cảm của cánh phụ nữ. Quý cô Sanae mạnh mẽ, can trường. Tuy tính cách họ không giống nhau nhưng họ có chung tư tưởng được kế thừa từ cụ Kaemon đã mất. Những điều bí ẩn từ gia tộc của cụ Kaemon, quan hệ giữa chi thứ và chi chính, quan hệ giữa đời trước và đời sau lẫn cái tư tưởng cổ hủ, cực đoan liệu có liên quan gì đến những cái chết kinh hoàn mà Kindaichi sẽ phải đối mặt? Liệu cách nhìn nhận của những người dân đảo sẽ khiến cho độc giả có suy nghĩ như thế nào về cái thế giới mà Yokomizo-sensei vẽ ra? – Truyên phản ánh những tiêu cực trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ: người phụ nữ không được coi trọng, họ bị xem thường và khinh miệt. Người phụ nữ trong thế giới này không được quyền quản lí, kế thừa của cải, tài sản do cha ông để lại. – Cái tôi của người đàn ông quá lớn, lớn đến nỗi bất chấp máu mủ ruột rà, bất chấp hận thù xưa cũ mà nhân vật Kagemon có thể tàn nhẫn với những đứa con của con trai mình. – Sự cuồng tín đến ghê người. Kẻ ác dùng cả tôn giáo lẫn chuẩn mực đạo đức xã hội để thực hiện điều ác. – Tôn vinh những giá trị đẹp đẽ, kiệt tác văn học mà ở đây là thơ haiku. Chỉ ra vẻ đẹp tìm ẩn trong thơ Basho. – Là kim tự tháp rực rỡ cho những tác phẩm trinh thám sau này. Khi đọc tác phẩm này bạn sẽ thấy nhiều điều bất ngờ vì những cú lừa của tác giả. Tình tiết gay cấn, hồi hợp, lôi cuốn. Nhân vật có chiều sâu, có nét riêng. ———————————————————————- Chấm điểm: 6,5/10. Lý do: – Truyện hay, hấp dẫn làm mình đọc liền một tẹo hết nguyên cuốn. – Bìa đẹp. – Dịch: thiếu gì đó nhưng cũng ok. – Có nhiều giá trị đặc biệt là giá trị hiện thực. Đáng lẽ mình cho 9,5/10 nhưng vì ????: – Chọc giận phụ nữ: tư tưởng trọng nam khinh nữ của cụ Kaemon => trừ 1,5 điểm. – Hung thủ giết mèo để gây án ( xúc phạm quàng thượng, quàng thượng là để yêu thương) => trừ 1 điểm. – Cuối truyện diễn biến nhanh, tác giả viết hơi yếu => trừ 0,5 điểm. Neko Sayuri Mời các bạn đón đọc Đảo Ngục Môn của tác giả Yokomizo Seishi.