Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Gác Đêm Tập 3

Tóm tắt phần trước Một vụ án vượt ngục ly kỳ, 22 đào phạm trốn thoát ra ngoài trở thành cơn ác mộng cho người dân thành phố Nam An. Dưới vô vàn áp lực nặng nề, tổ chức thần bí Người gác đêm đã bị lãng quên bao lâu được khởi động lại. Một Tiêu Lãng nhanh nhạy bướng bỉnh, một Lăng Mạc lạnh lùng ít nói, cùng với các đồng đội khác trở thành lực lượng chủ lực trẻ trung của Người gác đêm thế hệ mới. Đằng sau vụ án vượt ngục, họ phát hiện ra một gã trẻ tuổi chuyên truy sát các đào phạm - “Kị sĩ u linh” . Hắn không chỉ có khả năng chính là người lập kế hoạch của vụ vượt ngục, còn có khả năng nắm được những thông tin cơ mật của nội bộ Người gác đêm, từ đó mới có thể luôn ra tay trước một bước mỗi lần Người gác đêm hành động. Sau nhiều khó khăn, Tiêu Lãng và Lăng Mạc cuối cùng đã hợp sức cùng bắt sống được tên “Kị sĩ u linh” xuất quỷ nhập thần, nhưng rồi ngay trong bệnh viện được canh phòng nghiêm ngặt, “Kị sĩ u linh” đã bị ám sát, chỉ lưu lại một mảnh giấy thần bí in mấy chữ “Người gác đêm”. Ai là hung thủ sát hại “Kị sĩ u linh” ? Ai là “nội gián” tiết lộ thông tin của nội bộ Người gác đêm? Trong quá trình truy bắt hung thủ, tổ chức Người gác đêm lần lượt phải đối mặt với những thách thức bởi từng vụ án đột ngột xảy ra: Đoạn đường cao tốc vào một đêm mưa bão, trước cửa kính ô tô đột nhiên xuất hiện một bóng ma trắng toát; ở một thị trấn nhỏ yên bình, mấy bé gái sơ sinh còn đang quấn tã bị đâm vào người những cây kim bạc một cách tàn nhẫn; Trong một nhà nghỉ nhỏ nằm cạnh bệnh viện, chỉ trong một đêm xuất hiện năm “con nhộng” đẫm máu đáng sợ… Các vụ án ly kỳ xảy ra ở những nơi khác nhau, song đều có liên quan đến một thế lực đen tối tiềm tàng nào đó. Mỗi hung thủ đều có một mặt sở trường “thiên phú khác người”, trong quá trình trưởng thành, bọn chúng đều phải chịu sự tác động của một nhân tố nào đó, kích thích gây ra biến đổi năng lực. Những năng lực này khiến cho đám người biến đổi này luôn gây án một cách thành thạo lão luyện, khó mà bắt giữ được. Nhưng thế hệ trẻ tuổi của Người gác đêm bất luận bằng mọi giá, từ trong những manh mối bất thường, tìm được cách phá án đối phó với những kẻ biến đổi, bọn họ còn lần theo vụ án “Kị sĩ u linh” bị giết hại, kết nối với một loạt nghi án trẻ sơ sinh mất tích, vén lên một góc tảng băng bí mật về một tổ chức to lớn đằng sau “Kị sĩ u linh” . Thì ra, trong đám người biến đổi có rất nhiều người đều là những đứa trẻ sơ sinh bị mất tích năm nào, còn đối tượng ra tay của đám người này là những người có mối liên quan mật thiết đến một vụ án cũ từ nhiều năm trước. Năm đó, thành viên của tổ chức Người gác đêm là Đổng Liên Hoa phụ trách điều tra phá án một vụ án mạng giết chồng, hai mẹ con nhiều năm phải sống trong bóng đêm u ám của bạo lực gia đình đã bỏ trốn ngay trong đêm, nhưng cuối cùng vẫn bị Lão Đổng tìm ra. Người mẹ bị xét xử tử hình, chỉ còn lại một mình người con trai Đỗ Xá. Lão Đổng thương cho cảnh ngộ của Đỗ Xá, sau khi đưa đứa trẻ vào viện phúc lợi còn thường xuyên đến thăm hỏi, song không ngờ rằng, Đỗ Xá lại này sinh âm mưu giết hại Lão Đổng. Cho đến tận khi vớt được phần thi thể rời rạc của Lão Đổng trên sông, tội ác của Đỗ Xá mới bị phát hiện. Nhưng Đỗ Xá đã thoát khỏi án tử nhờ một tờ giấy chứng minh mắc bệnh tâm thần, cho đến giờ vẫn đang bị giam giữ trong nhà tù Kim Ninh. Nạn nhân bị những kẻ biến đổi giết chết, đều là những người năm đó từng giúp đỡ Đỗ Xá. Đổng Lạc con trai Lão Đổng cũng đã chết rồi, vậy thì, những kẻ biến đối này rốt cuộc có mối liên hệ gì với Lão Đổng? Sau những tranh đấu gian khổ, cuối cùng bọn họ đã bắt được Sơn Tiêu - hung thủ của vụ án “Kị sĩ u linh” , những tưởng rằng mọi nghi vấn sẽ theo đó mà được lý giải, không ngờ, vào đúng đêm hôm thầy giáo hướng dẫn Đường Tuấn của tổ chức Người gác đêm thẩm vấn xong Sơn Tiêu, ông đã chôn thân bên dưới chiếc máy xúc ở khu công trường hoang vắng trống trải… Cái chết của Đường Tuấn có vẻ như là một sự cố ngoài ý muốn. Nhưng không một ai biết được, tại sao ông lại xuất hiện ở đó vào giữa đêm. Duy nhất có chiếc vòng đeo tay trên cổ tay Đường Tuấn là tiết lộ ra một thông tin vi diệu: Số bước đi thể hiện trên vòng đeo tay và số bước đi được ghi lại trong điện thoại của Đường Tuấn có sự cách biệt vô cùng lớn… *** Lời tựa Chống lại bóng tối, bảo vệ ánh sáng. Cuốn thứ ba “Người gác đêm 3” trong series Người gác đêm đã xong rồi. Điều đáng mừng là, “Người gác đêm 2” vừa ra mắt, lập tức vươn lên dẫn đầu trên bảng tiêu thụ, điều đó khiến tôi vô cùng cảm động. Chính là vô vàn độc giả, đã cổ vũ tôi, thúc giục tôi, kịp thời chỉ ra những thiếu sót của tôi, đưa ra những ý kiến góp ý và kiến nghị, mới khiến cho tôi tiếp tục đi được đến ngày hôm nay. Không chỉ vậy, tôi còn tự nhận thấy rằng mình đang tiến bộ lên từng ngày. Còn nhớ khi đó vào lúc xuất bản tập đầu “Người gác đêm 1“, không ít bạn bè cũ của tôi vẫn còn chưa thích nghi được. Là do sự thay đổi trong kết cấu của toàn bộ câu truyện cũng như trong phong cách sáng tác, khiến cho bộ truyện Người gác đêm và bộ truyện Pháp y Tần Minh có phong cách khác biệt hẳn với nhau. Bởi vậy, tôi đã nhận được rất nhiều phê bình và kiến nghị. Quả thực, bản thân tôi cũng ý thức được rằng, nhược điểm trong viết lách của mình đã hiển hiện ra đó. Nói thật lòng, vào lúc đó tôi đã tính chuyện rút lui. Nhưng tôi biết rằng, nếu như thực sự không lấp đầy hố trống nữa, vậy thì đây mới là một biểu hiện không có trách nhiệm, vậy thì không phải là Lão Tần nữa rồi. Để series Người gác đêm ngày càng hay hơn, cùng lúc với quá trình sáng tác tập 1 “Kẻ trời phạt” trong series Pháp y Tần Minh thứ hai, tôi cũng đã bắt đầu tiến hành chỉnh sửa toàn bộ thế giới quan cũng như hệ thống câu chuyện của “Người gác đêm 3”. Một điều vô cùng vinh hạnh nữa là, luôn có một đội ngũ ưu tú ủng hộ giúp đỡ tôi. Đó chính là đội ngũ lập kế hoạch của nhà xuất bản Nguyên Khí, còn cả các bạn học sinh của đội ngũ biên tập trang wechat Pháp y Tần Minh. Họ đã cung cấp cho tôi rất nhiều hướng tư duy hợp lý, đồng thời phát huy vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa tuyến truyện chính cho các tác phẩm sau này của series Người gác đêm. Trong vòng nửa năm, đã sửa chữa tất cả 13 lần bản thảo, tuyến truyện chính của “Người gác đêm 2” mới được định hình xong. Trong khoảng thời gian này, đau khổ có, tiều tụy có, bàng hoàng có, nhưng rồi bản thân tôi đều kiên trì vượt qua, cuối cùng thực sự đã thu được thành quả to lớn. Sau khi “Người gác đêm 2”xuất bản, được sự ủng hộ của bạn bè, lượng tiêu thụ tăng lên một cách ổn định. Điều quan trọng hơn cả là, đánh giá của bạn đọc cũng tăng lên một cách rõ rệt. Đây là niềm an ủi lớn nhất đối với tôi. Cho nên, tôi đã cầm bút viết ra phần lời dẫn này với tâm trạng vô cùng hứng khởi. Đương nhiên, trước đó, tôi vẫn dành thời gian mấy tháng liền để nghiền ngẫm cốt truyện chính của “Người gác đêm 3”. Sửa bản thảo rất nhiều lần, hao tổn rất nhiều trí lực. Tôi tin tưởng rằng, bản thảo đã thành hình lần này của “Người gác đêm 3“, có thể khiến cho các bạn được đọc những câu chuyện càng thú vị hơn. Ngoài việc chuẩn bị trước một cách đầy đủ, còn có một việc khiến cho tôi tràn đầy niềm tin và mong đợi rằng sẽ viết tốt cuốn truyện này. Có một hôm, vào lúc tôi và bố tôi cùng uống rượu trò chuyện với nhau, vô tình nhắc đến trạng thái cảnh sát và ý thức pháp trị thời bố tôi còn trẻ, đã gợi mở cho tôi rất nhiều. Bố tôi kiên nhẫn giải thích cho tôi tiến trình phát triển từ “quy kết có tội” cho đến “suy đoán vô tội”, thậm chí còn đưa ra vài vụ án ví dụ sinh động. Sau đó ông có đưa ra một quan điểm: Chúng ta bây giờ đều biết rằng “suy đoán vô tội” là chân lý, nhưng mà, trong lòng mọi người, có đều thực sự đồng tình với “suy đoán vô tội” hay không? Cho dù “suy đoán vô tội” thật sự đi vào lòng người như vậy, vậy thì, yếu tố “đoán tội” nói đến ở đây, nên được định nghĩa như thế nào? Chứng cứ như thế nào được coi là “suy đoán”, chứng cứ như thế nào được coi là “xác thực”? Có ranh giới rõ rệt để phân định hay không? Một vấn đề nghe có vẻ rất đơn giản, mà nói ra như vậy, có phải là đáng để xem xét hay không? Tôi tin rằng, vào lúc tôi bắt đầu cầm bút viết ra cuốn sách, cũng đồng thời luôn suy nghĩ về vấn đề này, đem những câu hỏi thấm nhuần vào trong từng câu chữ. Nếu như cuốn sách này có thể khiến cho độc giả đi tìm hiểu về những vấn đề này, vậy thì mục đích của tôi coi như là đạt được rồi. Đương nhiên, nếu như mọi người có thể thông qua việc đọc cuốn sách này mà thấy được những vinh quang và trách nhiệm của những người cảnh sát nhân dân “gánh vác trọng trách đi về phía trước” kia nữa, thì tôi lại càng thêm hài lòng hơn. Đồng thời, tôi cũng chuẩn bị được nhiều những tình tiết câu chuyện phá án “có vẻ huyền ảo, thực ra chân thực” đan xen chặt chẽ trong tuyến truyện chính, tin rằng những bạn độc giả yêu thích việc suy luận phá án nhất định có thể thông qua việc đọc truyện mà thỏa mãn cơn nghiện của mình. Cuối cùng, có một tin không biết là tin tốt hay tin xấu để báo với mọi người. Vào lúc sáng tác đề cương “Người gác đêm 3”, tôi phát hiện ra những điều tôi muốn biểu đạt càng ngày càng nhiều, vốn dự định cuốn “đại kết cục” này đến giờ về cơ bản là không thể dung nạp được nhiều câu chuyện và tư tưởng như vậy, cho nên, tôi chỉ còn cách là hoạch định bộ truyện Người gác đêmtừ 3 cuốn thành 4 cuốn. Cũng có nghĩa là, xem xong cuốn sách này, câu chuyện vẫn chưa đi đến hồi kết. Các bạn sẽ thấy không thoải mái, hay là mong đợi đây? Bất luận thế nào, tôi đã không thể đừng được nỗi khát khao cầm bút bắt đầu viết ra câu truyện rồi, lời dẫn dài dòng văn tự đến đây là hết. Cảm ơn các bạn vẫn luôn ủng hộ tôi như ngày nào, cảm ơn các bạn đã luôn động viên cổ vũ cho những người cảnh sát nhân dân “chống lại bóng tối, bảo vệ ánh sáng” của chúng ta! Câu chuyện, xin được bắt đầu! Tần Minh Ngày 4 tháng 8 năm 2018 *** Con người có ba thứ không nên nhớ đến, Kiếp nạn, cái chết và tình yêu; Anh muốn nhớ đến thì anh sẽ khổ đau tận cùng. Vladimir Nabokov 1 Mưa to như trút. Cô gái trẻ không che ô. Toàn thân đã ướt sũng, cô tựa người vào bức tường gạch màu xanh xám, không còn cảm nhận được sự ấm áp của bức tường. Bức tường gạch màu xanh xám còn rất mới, dấu vết các đường gân dọc do máy móc ép xuống hằn in bên trên còn chưa bị bào mòn đi theo năm tháng, nhưng rồi, vào thời điểm đúng dịp mùa mưa trời âm u suốt như thế này, rêu xanh cũng đã mọc đầy ở khe hở giữa những viên gạch. Cô gái không biết đang nghĩ ngợi điều gì, cả phần lưng phía sau dựa sát vào bức tường gạch, đầu ngẩng lên, để mặc những hạt mưa to như hạt đậu tùy ý rơi trên khuôn mặt non nớt mà thanh tú của cô. Trong làn mưa mịt mù, dường như cô có thể nhìn thấy phía trên cùng của bức tường cao, chỗ cách phía trên đỉnh đầu cô hơn 3 mét, là tấm lưới bằng dây thép gai đang nhe nanh múa vuốt. Đôi tay cô bám chặt vào bức tường, mười ngón tay đang cào vào các khe tường, cứ ra sức cào, tựa như muốn cào bằng hết bức tường gạch màu xanh vô cùng kiên cố này. Đám rêu xanh bị móng tay tác động vào, dồn hết sang một bên, còn thừa cơ ra sức dính chặt vào trong các kẽ móng tay cô gái. “Này, làm gì đó? Hãy tránh xa nơi này!” Một giọng thanh niên trẻ trung vang lên cắt đứt tiếng mưa rơi đều đều, vọng đến tai cô gái trẻ, toàn thân cô run lên nhè nhẹ. “Làm gì đó? Tránh xa nơi này!” Giọng người thanh niên lặp lại một lần nữa, nhưng lần này khẩu khí thêm nặng hơn. Cô gái theo hướng giọng nói nghiêng mặt nhìn sang phía trên bên phải của mình, trong làn mưa mịt mù, dường như cô nhìn thấy trên đỉnh bức tường có một căn chòi gác, bên trong chòi gác có một bóng người mơ hồ đang mặc áo mưa, tay ôm súng trường. “Nghe thấy không? Tránh xa nơi này!” Âm thanh một lần nữa to hơn, khẩu súng trong tay của bóng người đó cũng giơ lên cao. Hai bên nhìn nhau chăm chú hồi lâu, rồi cô gái quay đầu bỏ chạy. Bóng người bên trong chòi gác một lần nữa lại đứng thẳng người lên, đeo súng vòng ra sau lưng, cầm chiếc máy bộ đàm đặt trên bàn lên. “Bảo vệ cổng chính chú ý, một người phụ nữ không rõ danh tính đang di chuyển về phía các anh.” Mặt trước của khối kiến trúc là một quảng trường rộng lớn, ngay đến một cái cây cũng không có, đất cát trên mặt đất bị nước mưa rơi xuống bắn ra tung tóe. Cô gái đứng giữa quảng trường, hai bàn tay nắm chặt, nhìn thẳng vào khối kiến trúc to lớn trước mặt. Cô đứng im bất động, mặc cho những giọt nước mưa giá lạnh xuôi theo đuôi tóc xuống cổ rồi chảy vào phía bên trong người, toàn thân cô đã bị ướt hết. Cô nhìn trân trân vào bốn chữ màu đen lớn phía trên đỉnh tòa kiến trúc, ánh mắt đầy vẻ giận dữ, cũng có thể là bi thương nữa. Cô đã hòa lẫn vào trong làn nước mưa ngập trời, nếu như không phải là đôi mắt đang đỏ hoe, cơ bản là không phát hiện ra cô đang khóc mãi không thôi. Rầm. Sau khi một tiếng động lớn vang lên từ chiếc cổng sắt, hai cánh cổng sắt lớn trước mắt từ từ di chuyển chậm chạp, cho đến khi xuất hiện một lối đi hẹp đủ cho hai người có thể đi qua. Từ trong lối đi đó, hai chiếc ô lớn màu đen xuất hiện, bên dưới chiếc ô đen là hai người mặc trang phục cảnh sát màu xanh lá. Hai người bước ra khỏi chiếc cổng sắt, chiếc cổng sắt sau lưng ngay lập tức đóng chặt lại. Hai người tiến đến chỗ cô gái đang đứng trên quảng trường, mưa lớn dội vào bên trên chiếc ô, phát ra tiếng “rào rào rào” ầm ĩ. Cô gái không hề di chuyển, vẫn cứ chăm chú nhìn không chớp mắt vào bốn chữ đen lớn phía xa. Lúc tiến đến chỉ còn cách cô gái khoảng 2 mét, người cảnh sát lớn tuổi dừng lại, đồng thời đưa tay ra ngăn người cảnh sát trẻ tuổi vẫn đang định tiến về phía trước lại. Người cảnh sát trẻ hiếu kỳ nhìn sang người cảnh sát lớn tuổi. “Đảm bảo cự ly an toàn.” Người cảnh sát lớn tuổi nói nhỏ nhưng bị tiếng mưa át đi nên nghe không rõ ràng. Yết hầu của người cảnh sát trẻ tuổi chạy lên chạy xuống mấy cái, muốn nói gì đó, lại không nói ra lời. Cậu giơ chiếc ô đen cầm trong tay ra, dường như muốn che chắn cho cô gái khỏi cơn mưa to như trút nước, song do khoảng cách quá xa, không thể nào vươn tới được. “Cô gái, mưa lớn như thế này, bị ướt là sinh bệnh đó.” Người cảnh sát lớn tuổi nói bằng giọng thăm dò. Cô gái trẻ dường như không nhìn thấy gì, cũng không nghe thấy gì hết, vẫn cứ đứng trong làn mưa lớn chăm chú nhìn về phía xa. “Cô gái? Cô gái?” Người cảnh sát lớn tuổi làm điệu bộ giơ tay trước mắt cô gái, dường như muốn thu hút sự chú ý của cô, “Cô đến đây làm gì thế? Có phải là đi lạc đường không? Chỗ này ngoài nhà tù ra, không có cơ quan đơn vị nào cả. Đi tiếp về phía sau là nông thôn rồi.” Cô gái vẫn cứ chẳng nói chẳng rằng. Người cảnh sát trẻ tuổi thực sự không đành lòng đứng nhìn tiếp, cậu tiến lên phía trước mấy bước, giương chiếc ô che lên trên đầu cô gái, còn bản thân mình thì ngay lập tức bị mưa lớn làm ướt hết. Có thể do cơn mưa lớn trên đỉnh đầu đột nhiên ngừng hẳn, khiến cô gái có vẻ đã định thần trở lại. Cô chậm rãi nhìn thẳng vào người cảnh sát trẻ tuổi chỉ đứng cách mình một bước chân, dường như cậu ta trạc tầm tuổi với mình, 17, 18 tuổi, chiếc cầu vai* học viên một sao gắn trên vai áo. So với người cha ruột của mình, trên cầu vai của cậu ta còn ít hơn bốn vạch. Chàng trai mặt mũi khôi ngô tuấn tú, sáng sủa sạch sẽ, trong ánh mắt lúc này không giấu được vẻ hiếu kỳ và đồng cảm. “Có gì cần chúng tôi giúp đỡ không? Tôi họ Tần.” Chàng trai nói. Cô gái nhìn chăm chú vào đôi mắt chàng trai, không nói gì cả. Mặc dù mưa lớn đã bị chiếc ô che mưa chặn lại, song từ khóe mắt cô gái những giọt nước vẫn không ngừng rơi xuống. Cho dù bị ngăn cách bởi làn nước mưa chảy xuống từ trên vành mũ của mình, chàng trai cũng vẫn nhìn thấy rõ ràng. “Trong kia chúng tôi có điện thoại, có thể giúp cô liên hệ với người nhà của mình.” Chàng trai nói thêm. Cô gái vẫn nhìn chàng trai không chớp mắt, khiến cậu có chút lúng túng không biết phải làm sao. “Cô gái, chắc cô chưa đến 18 tuổi nhỉ? Nếu cô vẫn cứ không nói gì, tôi phải thông báo cho công an đấy.” Người cảnh sát lớn tuổi cũng tiến lại gần rồi nói. “Các người, các người không phải là công an ư?” Giọng nói của cô gái rất nhỏ, trong tiếng mưa lớn hầu như không nghe rõ được. “Tôi là cảnh sát tư pháp, cậu ấy là học viên của Học viện Công an.” Người cảnh sát lớn tuổi nói, “Cô đến chỗ này làm gì?” “Tôi, tôi, tôi đến tìm người.” Cô gái cúi thấp đầu xuống, bất giác chạm tay mình vào bên eo. “Tìm người ư? Vậy sao cô không nói sớm, để bị mưa làm ướt vậy làm gì chứ.” Người cảnh sát trẻ tuổi đưa chiếc ô đen trong tay về phía tay cô gái. Cô gái không nhận, cậu dứt khoát ấn chiếc ô vào tay cô, rồi sau đó nhanh chóng đứng nép vào bên dưới chiếc ô của người cảnh sát lớn tuổi. “Cô tìm ai vậy?” Giọng điệu cảnh giác của người cảnh sát lớn tuổi đã giảm bớt phần nào. “Đỗ Xá.” Cô gái trả lời vẫn với giọng nói nhỏ nhẹ như tiếng của một con muỗi. “Đỗ Xá? Chỗ chúng tôi không có người này đâu.” Người cảnh sát trẻ tuổi nói. Người cảnh sát lớn tuổi xua xua tay, nói: “Cô có giấy tờ không? Thăm phạm nhân cần phải có giấy tờ.” “Ồ, Đỗ Xá là phạm nhân ư.” Người cảnh sát trẻ tuổi bất chợt hiểu ra. “Tôi là người nhà anh ta, tôi chỉ muốn gặp anh ta chút thôi, nói một câu rồi đi.” Cô gái lại chạm tay vào bên eo mình một cách vô thức. “Người nhà? Tôi lại nghe nói anh ta không có ai thân thích cả.” Anh mắt người cảnh sát lớn tuổi một lần nữa ánh lên vẻ cảnh giác, “Hơn nữa, cho dù có phải là người nhà hay không, đều phải tiến hành theo trình tự là có giấy tờ.” “Nhưng mà, tôi chỉ muốn nhìn anh ta một cái, nhìn một cái thôi cũng không thể được sao?” Giọng cô gái đã trở nên to hơn, trong giọng nói đầy vẻ cầu khẩn. “Đây là trình tự pháp luật, chứ không phải trò chơi trẻ con.” Người cảnh sát lớn tuổi nói. “Thật đấy, tôi chỉ muốn nhìn anh ta thôi, không nói gì cả, nhìn một cái xong tôi sẽ đi!” Cô gái không đừng được gào lên. “Cô gái, thật sự là không thể.” Người cảnh sát lớn tuổi đưa chiếc ô cho người cảnh sát trẻ tuổi, giơ cổ tay lên nhìn đồng hồ đeo tay, nói: “Cô đứng ở đây lâu như vậy rồi, cần phải rời khỏi đây thôi.” “Không! Tôi không đi! Ông không cho tôi gặp anh ta, tôi sẽ không đi!” Cô gái vung tay một cái vứt chiếc ô che mưa trong tay xuống đất. “Chúng tôi là muốn tốt cho cô thôi, cô không đi cũng không gặp được đâu.” Người cảnh sát trẻ tuổi nhặt chiếc ô lên, đưa lại cho cô gái, nhưng cô gái không cầm. Thế nên cậu đành phải cùng với cô gái đứng dưới một chiếc ô. Mời các bạn mượn đọc sách Người Gác Đêm Tập 3 của tác giả Tần Minh & Nguyễn Quỳnh Trang (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tấn Bi Kịch Y - Ellery Queen
Thám tử nghiệp dư Drury Lane - người nghệ sĩ già đã nghỉ hưu lại được mời tham dự vào một vụ án liên quan đến nhà Hatter Điên Loạn. Đầu tiên, thi thể của người chồng York Hatter được tìm thấy khi đang bị trôi dạt trên đại dương mênh mông. Nhưng ông ta không bị chết do đuối nước mà do trúng độc. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich của thành phố New York. Vụ hạ độc gần nhất có một nhân chứng, nhưng đó lại là một cô gái mù-câm-điếc, cái duy nhất cô có là cảm giác khi chạm tay vào mặt của hung thủ. Nhờ tài suy luận logic và là bậc thầy của ngụy trang, Drury Lane đã biết được hung thủ là ai, nhưng lần này ông lại không vạch trần hung thủ ngay trước mặt mọi người mà chỉ kể lại như một lời tâm sự với Công tố viên Bruno và Thanh tra Thumm. Có điều gì khiến Drury Lane phải làm điều đó? Ẩn số = Y!! Thi thể trôi dạt trên đại dương mênh mông nhưng không phải do đuối nước mà do bị đầu độc! Nhà hóa học York Hatter đã chết một cách bí ẩn. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich, thành phố New York. Một vụ hạ độc bất thành hay chỉ là mồi nhử cho vụ án cướp đi sinh mạng của bà Emily Hatter sau đó? Câu chuyện dường như đi vào bế tắc khi nhân chứng duy nhất của vụ án mạng lại là một cô gái mù - câm - điếc, khả năng duy nhất còn sót lại của cô là xúc giác. Nhưng đối với Drury Lane, manh mối duy nhất từ việc chạm vào khuôn mặt của hung thủ lại giúp ông tìm ra câu trả lời chính xác. Câu trả lời sẽ được tìm ra như thế nào trước ẩn số mang tên Y?   *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vào một buổi chiều tháng Hai đáng nhớ, chiếc Lavinia D, một con tàu đánh cá xa bờ ương ngạnh xấu xí, đang cưỡi những con sóng Đại Tây Dương trở về đất liền. Nó đã đi qua Sandy Hook, hiện ở gần cảng Hancock, và đang hướng về vịnh Lower. Những bọt sóng bao quanh mũi tàu và tạo thành một vệt dài phía đằng đuôi. Một tấm lưới cũ mèm giăng trên thành tàu, boong tàu thì như một lò mổ hổ lốn bẩn thỉu, những ngọn gió rét buốt Đại Tây Dương khiến thân tàu rúng động, và thủy thủ đoàn đang thầm nguyền rủa tay thuyền trưởng, biển cả, lũ cá, bầu trời xám xịt, và cả bờ biển cằn cỗi đảo Staten bên mạn trái tàu. Một chai rượu được truyền từ tay người này sang người khác. Đám thủy thủ đang run lên dưới những tấm áo mưa màu vàng bay phần phật. Vẻ chán chường, một thủy thủ tựa người trên thanh vịn ngắm những con sóng cồn vẩn màu xanh lục, rồi anh chợt sững người lại, cặp mắt như lồi hẳn ra khỏi khuôn mặt đỏ gay, sau đó là một tiếng thét vang trời. Thủy thủ đoàn liền nhìn theo hướng chỉ tay của anh ta. Cách họ khoảng trăm mét là thứ gì đó nho nhỏ màu đen, một thứ không thể nhầm lẫn đi đâu được, chính là một xác người chết trôi trên vịnh. Cả toán thủy thủ nhảy dựng lên. “Rẽ trái!” người đang giữ bánh lái nghiêng người và chửi thề. Chiếc Lavinia D bắt đầu lượn thành một vòng cung nguệch ngoạc về bên trái, khiến cả đám mối ghép vang lên tiếng kẽo kẹt. Nó vòng quanh cái thứ chết trôi kia như một con vật đầy cảnh giác, từ từ vòng lại gần trong dáng vẻ của một kẻ săn mồi. Với vẻ hào hứng và khấp khởi, thủy thủ đoàn vung vẩy những cái móc sắt trong không trung mặn mòi, sẵn sàng để tóm lấy con cá lạ lùng nhất trong mẻ đánh bắt hôm nay. Chỉ mười lăm phút sau, yên vị trong vũng nước tanh ngòm trên phần boong tàu ướt nhoẹt là một thứ mềm oặt, tả tơi chẳng ra hình thù gì, nhưng vẫn đủ thấy đó là một con người. Từ hiện trạng đã bị phân hủy của cái xác, thì người này hẳn đã bị ngâm trong nước biển suốt nhiều tuần rồi. Thủy thủ đoàn chỉ còn biết đứng ngây ra đó trong lặng im. Tay chống hông, chân giạng ra, chẳng ai dám chạm vào cái xác cả. Thế rồi, với mùi cá tanh và gió mặn trong hai lỗ mũi, cái xác mang tên York Hatter bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng của mình. Quan tài của ông ta chính là con tàu bẩn thỉu này, người đưa tiễn là một đám thủy thủ bặm trợn thô lỗ, quần áo thì bám đầy vảy cá, còn kinh cầu siêu là những tiếng nguyền rủa của thủy thủ và tiếng gió rít qua eo biển. Cái mũi ướt nhoẹt của con tàu lướt qua làn bọt trắng và neo lại tại một bến tàu gần Battery. Tàu cập bến với một kiện hàng chẳng báo trước từ biển cả. Mọi người nhảy vội xuống tàu, thuyền trưởng la hét đến lạc cả giọng, đám nhân viên bến tàu thì gật gù và ngó qua cái sàn trơn trượt, điện thoại reo lên trong những cơ quan hữu trách nho nhỏ khu Battery. Và York Hatter thì nằm lặng yên dưới một tấm bạt. Cũng chẳng lâu lắm. Một chiếc xe cứu thương lao vội tới. Nhân viên y tế đưa cái xác sũng nước đi. Buổi tang lễ giã từ biển cả, và khúc truy điệu là những tiếng còi tàu rền vang. York Hatter được đưa từ mạn dưới Broadway về nhà xác. Số kiếp của ông ta khá kỳ lạ, và đến giờ vẫn còn là bí ẩn. Vào ngày 21 tháng Mười hai, bốn ngày trước lễ Giáng sinh năm ngoái, người vợ già Emily Hatter đã báo rằng chồng bà ta vừa biến mất khỏi căn nhà riêng tọa lạc trên đường Washington Square North của thành phố New York. Ông ta chỉ đơn thuần là bước ra khỏi cái tòa gạch đỏ nằm trong khối tài sản kếch sù của nhà Hatter mà chẳng có ai đi kèm, cũng chẳng để lại lời nào với ai, rồi cứ thế lặn mất tăm. ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Y của tác giả Ellery Queen.
Tấn Bi Kịch X - Ellery Queen
Nhà văn Frederic Dannay (1905 - 1982) và nhà văn Manfred Bennington Lee (1905 - 1971) cùng chung bút danh tác giả đã để lại cho người đọc yêu thích thể loại văn chương trinh thám một loạt truyện bốn cuốn đặc sắc. Đây là những tác phẩm trinh thám kinh điển kể về những kỳ công khác thường của ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch đã về hưu. ‘Tấn Bi Kịch X’ là tác phẩm đầu tiên của loạt truyện này. Tại thành phố New York vào đầu thập niên 1930, đã liên tiếp xảy ra ba vụ án mạng có quan hệ với nhau. Ba vụ án mạng này xảy ra ở ba phương tiện giao thông riêng biệt, một trên xe điện, một ở bến phà và một trên tàu lửa. Mặc dù hoàn cảnh xảy ra án mạng không có gì quá đặc biệt khác thường, và những chi tiết liên quan đến diễn biến vụ án cũng khá đầy đủ và sẵn có để phục vụ công việc điều tra, thế nhưng mọi nỗ lực truy tìm thủ phạm của giới hữu trách dường như có cơ phải chịu cảnh hoàn toàn bó tay. Là một tác phẩm trinh thám mang nhiều tình tiết điều tra hấp dẫn, manh mối của mỗi một vụ án đều ẩn hiện đây đó theo sắp xếp mạch lạc của truyện đủ để giúp cho những ai ưa thích thử tài thám tử của mình có thể hào hứng suy ra kẻ thủ ác, dù độc giả hẳn nhiên cũng rất muốn đọc kỹ màn kết của câu chuyện, là phần giải thích cho toàn bộ sự việc. Song hành theo một trong những nhân vật quan trọng của truyện, ngài Drury Lane, câu chuyện cũng mang đến cho độc giả những tình tiết đậm chất kịch với nhiều cung bậc cảm xúc thật khác nhau. Chúc bạn đọc có những giây phút thật vui vẻ và tìm thấy từ tác phẩm này nhiều chi tiết thật thú vị. *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** NHÂN VẬT TRONG CÂU CHUYỆN • NGÀI DRURY LANE - Nghệ sĩ kịch đã giải nghệ vì mắc chứng bệnh điếc, có khả năng quan sát suy đoán tài tình. • CÔNG TỐ VIÊN HẠT WALTER BRUNO - người đồng hành cùng thanh tra Thumm trong việc phá án. • THANH TRA THUMM - chịu trách nhiệm chính điều tra các vụ án, tính khí nóng nảy. • BÁC SĨ SCHILLING - Bác sĩ pháp y rất giỏi trong công việc. • HARLEY LONGSTREET - nhà môi giới chứng khoán, nạn nhân vụ án mạng. • JOHN O. DEWITT - nhà môi giới chứng khoán, bạn hợp doanh của Harley Longstreet, nạn nhân vụ án mạng. • PHU NHÂN FERN DEWITT - vợ của John O. DeWitt, người gốc Tây Ban Nha. • TIỂU THƯ JEANNE DEWITT - con gái của John O. DeWitt. • CHRISTOPHER LORD - hôn phu của Jeanne DeWitt, đồng thời là nhân viên cấp dưới của John O. DeWitt. • FRANKLIN AHEARN - bạn của John O. DeWitt, say mê môn cờ vua và chơi rất giỏi. • CHERRY BROWNE - diễn viên, người tình của Harley Longstreet. • POLLUX - diễn viên, bạn của Cherry Browne. Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch X của tác giả Ellery Queen.
Vũng Lầy - Carter Brown
Carter Brown là bút danh văn học của Alan Geoffrey Yates (1 tháng 8 năm 1923 - 5 tháng 5 năm 1985), một nhà văn người Anh chuyên tiểu thuyết trinh thám. Sinh ra tại Anh, Alan Yates kết hôn và định cư tại Úc vào năm 1948. Anh bắt đầu cuộc sống làm việc của mình như là một kỹ thuật viên điện ảnh, nhân viên bán hàng và trong quan hệ công chúng cho Qantas trước khi viết lên toàn thời gian. Yates nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học. Ông đã viết các phương Tây dưới bút danh Todd Conway, và khoa học viễn tưởng dưới thời Paul Valdez. Ông thậm chí còn tìm được thời gian để viết sách theo các phiên bản khác nhau của tên riêng của mình cũng như các bút danh khác, Dennis Sinclair và Sinclair MacKellar. Nhưng Peter Carter Brown, sau đó là Peter Carter Brown, sau đó là Carter Brown, và trở thành tác giả các tiểu thuyết bán chạy nhất thế giới. Tại Việt Nam, Ông được biết đến với series về Trung úy Wheeler. Một số tác phẩm của Carter Brown đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Xác Chết Vũng Lầy Đắm Đuối *** Trước khi xe cứu thương đến thì trung sĩ James Brown đã có mặt. Cùng với một nhân viên cảnh sát khác đứng canh ngoài cửa. Ngay tức khắc, ông quì xuống xem xét cái xác. Ông bắt mạch, lật mí mắt rồi nhìn tôi và nói: - Người này đã chết, nhưng chỉ mới vài phút đây thôi. Đây là triệu chứng mà tôi đã từng trông thấy. Nguyên nhân gây cái chết là một liều heroin qúa cao, khiến nạn nhân không còn hay biết gì trước khi tắt thở. Tôi nói: - Chàng trai này trông chẳng có vẻ gì là dân chích choác. Chẳng thấy vết thẹo nào trên tay anh ta. - Điều đó chẳng chứng tỏ gì. Có thể đây là lần đầu hắn chích và vì thiếu kinh nghiệm nên đã chích quá liều. Hoặc trước đó hắn không chích mà chỉ hít hoặc có thể hắn là tay sử dụng kim tiêm rất thành thạo. Với ống tiêm tốt và biết thận trọng, người ta có thể không để lại thẹo. - Dẫu sao, tôi nghĩ thế nào chăng nữa thì tôi chẳng quan tâm đến ý kiến của ông. Tôi biết ông là người bao dung đôí với bọn Hippi, nhưng tôi thì không ưa chúng. Với tôi, cái xác này có nghĩa là xã hội lương thiện bớt đi một tay nghiện ngập. Tôi bất bình nói: - Nhưng chỉ đơn giản kết luận như thế thì có hay gì. - Bộ ông muốn nói có ai đó chích cho tay này một mũi heroin? - Đó là chuyện có thể. Viên trung sĩ chậm rãi đứng dậy. - Tôi không bác bỏ quan điểm của ông, nhưng chỉ mong ông thử chứng minh xem. - Thử chứng minh? Vậy mà tôi vẫn tưởng rằng cảnh sát là những người có thể nhìn vấn đề dưới nhiều góc cạnh, trong trường hợp họ thấy những sự việc thiếu ăn khớp với kết luận hiển nhiên. - Ông Robert à, vì ít học nên tôi không giỏi tính toán như ông. Vậy thì ông hãy thay tôi xem xét vấn đề dưới nhiều góc cạnh và tôi sẽ kiểm tra xem có đúng hay không. Hai cảnh sát viên bật cười trước lời giễu cợt đó. Rồi xe cấp cứu đến. Hai gã mặc bờ lu trắng gật đầu chào các nhân viên cảnh sát rồi đặt cái xác lên cáng và vội vã khiêng ra khỏi phòng. Nhìn tôi, trung sĩ James Brown nói: - Giờ thì tôi sở cảnh sát để ký biên bản và sau đó, đi uống vài ly với các đồng nghiệp. Ông mỉm cười và rời phòng. Tôi nhìn theo ông, rồi rót cho mình một ly rượu. Tôi thấy nhức đầu kinh khủng nhưng biết mình con một số việc phải làm: chỉ cho Calvin một số điều nên tránh một khi đã nhận được tiền và báo cho bạn bè của Nai Nhảy Nhót biết rằng hắn đã về thiên đường của Người Da Đỏ. Ngoài ra, tôi có thể xem xét nhiều khía cạnh như viên trung sĩ đã gợi ý. Khi tôi đang vẩn vơ suy nghĩ thì chuông điện thoại reo. Ở đầu dây, một giọng nữ dịu dàng, lo âu: - Alô, có phải ông Radall Roberts? Ronda Holloway đây. Thưa ông, mẹ tôi và Charles đã lời qua tiếng lại và tôi rất e ngại. Tôi thầm nghĩ đó là chuyện nội bộ gia đình và tôi làm sao có thể giải quyết nhưng tôi cũng hiểu rằng giờ đây có lẽ tôi là người đàn ông lịch sự và thân thiết nhất của Ronda. Vì thế, tôi nói: - Charles có về nhà ăn tối? - Không anh không về và mẹ tôi đã lấy xe đi gặp anh ấy ở một nơi nào đó mà bà đã giấu tôi. Khi mẹ tôi vào nhà, tôi thấy bà rất bồn chồn lo lắng. Tuy vậy bà bảo rằng chẳng cho ai biết về những gì Charles đã nói hay đã làm. Qua giọng nói càng lúc càng the thé của Ronda, tôi biết nàng đang trong tâm trạng rất căng thẳng. Tôi khuyên nhủ: - Cô không nên quá lo lắng. Đó là chuyện thường xảy ra giữa các phụ huynh với đứa con bướng bỉnh, ngoan cố. Này Ronda, tối nay tôi sẽ đến gặp bộ lạc, họ tổ chức tiệc tùng và hẳn anh cô sẽ có mặt ở đó. Tôi sẽ cố gắng dàn xếp và sẽ cho cô biết sau. - Ồ! Cám ơn ông Robert. Tôi sẽ không quên ơn ông. Giọng nói của Ronda đột nhiên chỉ còn là tiếng thì thầm thổn thức. Cố giữ trầm tĩnh, tôi nói: - Giờ thì mẹ cô đã đỡ chưa? - Mẹ đã uống aspirin và lên giường nằm. - Được. Vậy thì nhiệm vụ của cô là an ủi mẹ. Phần tôi, tôi sẽ cho thằng anh cô một cú đá vào mông. Ngày mai, tôi sẽ gọi cho cô. - Cám ơn ông. Nhưng nhớ đừng có quá cứng nhắc với ông anh tôi nhé. - Tôi hiểu! Để khuyên nhủ Charles, tôi sẽ là một nhà tâm lý học. Ngày mai nhé. Trên đường đến dự dạ tiệc của bon Hippi, tôi nghĩ ngợi mông lung. Liệu điều gì sẽ chờ mình? Một cuộc vui thâu đêm với gái và rượu ư? Mọi người sẽ khiêu vũ trần truồng? Cảnh tượng hấp dẫn đó lởn vởn trong tâm trí tôi khi tôi rẽ xe vào con đường mòn đầy cỏ dại. Tôi dừng lại trước căn nhà gỗ, cũ kỹ, xiêu vẹo mà theo lẽ đã đổ sụp từ nhiều năm qua. Điều làm tôi ngạc nhiên là căn nhà này chỉ cách trốn đồi truỵ cua Harry Hầu Nhân vài trăm thước. Hẳn đây là những căn nhà mà chủ nhân của chúng chẳng thể cho ai mướn ngoài bọn Hippi. Trước lối vào là một cửa phụ ngoài được treo bằng vài con ốc heon rỉ. Cửa bên trong không đóng. Tôi đi vào, thầm nghĩ liệu mình có thể gặp Calvin mà không để Sauron trông thấy? Đó là một hy vọng khó có thể thành hiện thực. Nhưng tôi gặp may, vì vừa bước vào phòng khách âm u, tôi đã trông thấy Calvin. Nàng đang ngồi trên một ghế bành khá bẩn, nệm bung bông, te tua như bị móng vuốt của loài ác thú xé toạc. Không một bóng đèn, căn phòng chìm trong thứ ánh sáng lờ mờ hắt vào từ những ngọn đèn đường. Tuy vậy, tôi nhận ra ngay Calvin. Nàng ngồi thẳng người, cứng nhắc và nhìn tôi bằng ánh mắt mờ đục. Tôi nhón gót bước đến gần Calvin và hỏi nhỏ: - Cô khoẻ chứ? Bằng giọng trầm đơn điệu, nàng hỏi: - Vâng. Tôi rất mừng khi trông thấy ông đến. Tôi đã ngồi đây khá lâu để đợi ông. - Về chuyện tiền, cô đã thay đổi ý kiến? - Vâng. - Cô muốn nhận tiền ư? - Vâng. - Sauron đã khuyên cô nên nhận? Nàng há miệng: - Vâng… ... Mời các bạn đón đọc Vũng Lầy của tác giả Carter Brown.
Vụ Án Mạng Ở Vùng Mesopotamie - Agatha Christie
Murder in Mesopotamia là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà sách Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh ngày 6 tháng 7 năm 1936. Lấy bối cảnh là một công trường khảo cổ nằm tại Iraq, tiểu thuyết nói về hai vụ án mạng bí ẩn với nhân vật chính là thám tử người Bỉ Hercule Poirot. Qua lời giới thiệu của bác sĩ Giles Reilly, nữ y tá người Anh Amy Leatheran được chuyên gia khảo cổ người Mỹ là Tiến sĩ Leidner mời tới nơi ông đang tiến hành khai quật ở Tell Yarimjah, Hassanieh, Iraq với nhiệm vụ là chăm sóc người vợ của ông, bà Louise Leidner. Đoàn khảo cổ của Tiến sĩ Leidner có tổng cộng 10 thành viên, ngoài cô Johnson cùng chuyên gia kiến trúc Richard Carey vốn là đồng sự lâu năm của Tiến sĩ Leidner, sống tại Tell Yarimjah còn có chuyên gia khảo cổ Mercado cùng vợ, Cha Lavigny, một chuyên gia văn tự cổ người Pháp cùng ba thành viên trẻ tuổi Coleman, một thanh niên Anh hoạt bát nhiều chuyện, Reiter, thợ ảnh người Mỹ của đoàn khảo cổ và Emmott, một người ít nói trái ngược hẳn với Coleman. Bệnh nhân của y tá Leatheran, bà Louise Leidner, là một phụ nữ có vẻ ngoài quyến rũ cùng cử chỉ lịch thiệp, dễ mến, tuy vậy theo mọi người trong đoàn khảo cổ thì bà bị mắc chứng hoang tưởng khi thường xuyên nghĩ ra những hình ảnh khủng khiếp hoặc bịa chuyện mình bị mưu sát, Louise Leidner cũng bị nhiều người cho là nguyên nhân của không khí căng thẳng ở Tell Yarimjah. Tới Tell Yarimjah làm việc chưa được bao lâu thì Amy Leatheran đã phải chứng kiến cái chết bất ngờ của bà Louise Leidner. Đúng như những lo sợ từ lâu của Louise, bà bị giết chết ngay tại phòng bằng một cú đánh duy nhất, người đầu tiên phát hiện ra xác Louise là chồng bà, Tiến sĩ Leidner. Ngay lập tức thám tử Hercule Poirot được mời tới điều tra vụ án. Chưa kịp phát hiện ra hung thủ thì đoàn khảo cổ đã phải chứng kiến cái chết thứ hai của cô Johnson sau khi cô này không rõ do vô tình hay cố ý đã uống nguyên một cốc axit trong lúc đang ngủ. Trước lúc chết Johnson chỉ kịp trăng trối với Amy Leatheran hai từ: “Cửa sổ”. Từ lời trăng trối của cô Johnson cùng những suy luận của mình, Poirot cuối cùng đã tìm được hung thủ không ai ngờ tới của cả hai vụ án mạng, đó là Tiến sĩ Leidner, người mặc dù rất yêu vợ nhưng vẫn tìm cách giết cô sau khi Louise Leidner tỏ tình ý với người cộng sự Carey. *** Những sự việc kể trong chuyện này xẩy ra cách đây đã bốn năm, và tôi thấy nó cần được thuật lại một cách thật trung thực, khách quan. Thiên hạ đồn thổi rất nhiều chuyện vô lý chung quanh vấn đề này; báo chí Mỹ hồi ấy cũng tung ra nhiều thông tin sai lạc. Tốt nhất là bản tường thuật này nên do một người trong cuộc viết, một người mà ta không thể nghi ngờ là có thiên kiến với ai. Tôi liền khuyên cô Leatheran nên đảm nhận trách nhiệm này. Theo tôi, cô đúng là người có thể làm tròn nhiệm vụ. Cô có kiến thức chuyên môn tốt, lại không hề quen biết trước các thành viên của đoàn khảo cổ trường đại học Pitlstown hoạt động tại Iraq. Thông minh và có óc quan sát, cô là một nhân chứng rất quý, ở ngay tại chỗ. Cô Leatheran ngần ngại mãi mới chịu nhận lời, và đến khi viết xong, phải hối thúc mãi cô mới đưa tôi xem bản thảo. Sau này tôi mới biết sự do dự ấy một phần là do trong đó có một số chỗ cô đã nhận xét về Sheila, con gái tôi. Tôi vội làm cô yên tâm ngay: thật vậy, thời nay, bố mẹ thường quá nuông chiều con cái, và con cái thì không ngại chỉ trích bố mẹ. Mặt khác, cô rất khiêm tốn khi nói về văn phong của mình, cô yêu cầu tôi sửa giùm những sai sót về chính tả và ngữ pháp. Nhưng tôi đã không chữa một chữ nào. Theo tôi, cô Leatheran viết rất có hồn, có bản sắc. Chương này, cô gọi trống không nhà thám tử người Bỉ là “Poirot”, chương sau lại viết “Ông Poirot”, sự thay đổi ấy là rất hay, hàm chứa ý nghĩa. Đó là vì dù sao, cô cũng được giáo dục một cách cặn kẽ (thật vậy, chớ quên là các nữ y tá ở nước Anh luôn tuân thủ nghiêm túc nội quy). Tôi chỉ tự cho phép mình một điều duy nhất, là viết chương mở đầu, dựa vào bức thư mà một cô bạn của Leatheran vui lòng chuyển cho tôi. Thư này sẽ giúp bạn đọc có một ý niệm về tính cách của tác giả thiên truyện này. *** Mời các bạn đón đọc Vụ Án Mạng Ở Vùng Mesopotamie của tác giả Agatha Christie.