Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bậc Thầy Của Nghệ Thuật Giao Tiếp (Dale Carnegie)

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...5

CHƯƠNG 1: KHIẾN ĐỐI PHƯƠNG VUI VẺ

TRÒ CHUYỆN VỚI BẠN...16

CHƯƠNG 2: NỖ LỰC KHIẾN ĐỐI Tìm mua: Bậc Thầy Của Nghệ Thuật Giao Tiếp TiKi Lazada Shopee

PHƯƠNG NHÌN NHẬN SỰ VIỆC MỘT

CÁCH KHÁCH QUAN..327

CHƯƠNG 3: GIÚP ĐỐI PHƯƠNG THAY

ĐỔI NHẬN THỨC.456

LỜI MỞ ĐẦU

Dale Carnegie là bậc thầy nhân sinh vĩ đại của thế kỷ XX. Nửa thế kỷ trở lại đây, danh tiếng của ông ngày càng được nhiều người biết đến. Từ phương Tây sang phương Đông, các tác phẩm của Dale Carnegie được dịch ra mười thứ tiếng, gần như bất kỳ ngữ hệ nào cũng có những bản dịch sách của ông. Vì thế ông được coi là tác giả có lượng sách bán chạy lớn thứ hai trong lịch sử xuất bản nhân loại. Tờ Timecủa Mỹ từng viết: “Có lẽ ngoài Nữ thần Tự do, ông chính là biểu tượng của nước Mỹ”.

Từ một đứa trẻ nông thôn trở thành một danh nhân nổi tiếng thế giới, dựa vào đâu mà được như vậy? Đó là vấn đề khiến nhiều người suy nghĩ. Cho dù “Thất bại là mẹ thành công”, nhưng ai chẳng hy vọng tìm ra bí quyết thành công để có thể thuận lợi đoạt được vòng nguyệt quế?

Thành công của Carnegie được lý giải là dựa vào việc ông có cách đối nhân xử thế sâu sắc hơn người, trí tuệ vượt bậc; tư tưởng quản lý bất hủ, mẫn tiệp nhanh nhạy; nghệ thuật ngôn ngữ giao tiếp phong phú, hàm súc. Dựa vào thành công và tư tưởng của ông, chúng ta có thể chắt lọc được tinh hoa trong đó. Suy nghĩ một cách sâu sắc, chúng ta sẽ thấy được phong thái và trí tuệ của bậc thầy nhân sinh, vị thần trí tuệ, kỳ tài kinh doanh, bậc thầy ngôn ngữ này, để từ đó có thể lĩnh hội được nghệ thuật thành công bất hủ của ông. Tin rằng điều này chắc chắn rất có ích đối với bạn.

Dale Carnegie là một cao thủ trong kinh doanh. Trên đời, điều con người khó lý giải nhất chính là “đứng soi gương nhưng lại nhìn thấy kẻ trong gương không phải mình mà là một người khác”. Bạn có nhận ra bản thân mình không? Bạn có nhân sinh quan của riêng mình không? Bạn có thể tạo lập và sống cuộc đời tự chủ không?

Trong cuộc sống có quá nhiều điều không được như ý, có khi những bất hạnh sẽ phát sinh ở xung quanh, thậm chí là giáng xuống đầu bạn. Có lẽ bạn sẽ cảm thấy mình nản lòng thoái chí, sống không có mục đích. Dale Carnegie chính là vị cứu tinh, người dẫn dắt cho những người gặp khó khăn, thất bại. Carnegie đã tiếp cận cuộc sống với cái nhìn tinh tế và sâu rộng về mọi mặt, tiến hành thay đổi ngay trong quá trình sinh tồn, trưởng thành và phát triển để hạn chế bớt những sự việc đáng tiếc của nhân loại. Tư tưởng của Dale Carnegie giúp ta nhận ra và vượt qua chính mình.

Dale Carnegie là một vị thần trí tuệ. Tuy không bàn về vũ trụ rộng lớn vĩ đại nhưng ông biết gợi mở trí tuệ của mình và người khác, tư tưởng của ông chính là một cẩm nang về trí tuệ. Con người học tập và làm việc trong cuộc sống này luôn thể hiện và vận dụng trí tuệ nhưng nhiều khi lại không chú tâm, thậm chí có thể cảm thấy lực bất tòng tâm. Carnegie nhận ra tiềm năng của con người là không giới hạn, mấu chốt là phải biết cách gợi mở và vận dụng nó. Ông đã đưa ra chính những biểu hiện về trí tuệ trong cách cư xử, sinh hoạt và làm việc thường ngày của mình để giải thích một cách toàn diện nhất về điều này cho người đời sau.

Dale Carnegie là một kỳ tài trong quản lý kinh doanh. Quan niệm của ông về quản lý được cả thế giới công nhận.

Những tư tưởng của ông về tự quản lý, quản lý công khai, quản lý tiêu thụ, cách dùng người đều được coi là xuất sắc.

Những kinh nghiệm quản lý phong phú tích lũy trong cuộc sống sinh nhai cả đời ông chính là lời giáo huấn đáng để chúng ta tham khảo, mở ra cánh cửa rộng lớn trên con đường bước vào sự nghiệp kinh doanh.

Nghệ thuật và tài năng kinh doanh xuất chúng của ông khiến mỗi một thành công đều khiến nhân loại hướng về.

Dale Carnegie trở thành biểu tượng của chủ nghĩa hoàn mỹ trong giới quản lý trên thế giới, nhận được sự sùng bái và ngưỡng mộ của nhân loại. Dale Carnegie còn là một bậc thầy về ngôn ngữ. Trong thời đại internet hiện nay, phương thức quan hệ quốc tế biến đổi rất nhanh chóng, mỗi một cá nhân với xuất thân, tính cách, sở thích khác nhau, trong cuộc sống hay trên thương trường,

10 chính trường đều cần có tài ăn nói và khả năng thuyết phục... Nhờ vậy mới có được sự coi trọng từ cấp trên và đồng nghiệp, sự yêu mến của cấp dưới, sự tin tưởng của khách hàng, có được tình yêu cũng như tình bạn tốt đẹp. Có thể diễn đạt một cách rõ ràng, ngắn gọn để thuyết phục người khác trong một thời gian ngắn hay không, đó chính là vấn đề mấu chốt dẫn tới thành công.

Dòng sông lịch sử chảy cuồn cuộn, chôn vùi bao kẻ thành bại được mất với bao buồn vui, hoan lạc, bi thương. Nhiều kẻ đến tuổi xế chiều quay đầu nhìn lại không ngăn nổi tiếng thở dài “Nếu được sống thêm một lần, tôi tuyệt đối không lặp lại những thất bại đó”. Kỳ thực, thất bại và thành công nhiều khi chỉ cách nhau trong gang tấc, thay đổi trong chớp mắt mà thôi. Dale Carnegie muốn chúng ta kiên trì tin tưởng, thành công đang cách ta không xa, thất bại trong đời có thể tránh được. Trên đời không có thất bại tuyệt đối.

Trên thế giới, mỗi người đều có chỗ đứng của riêng mình, đó chính là cái gọi là “Trời sinh ra ta, ắt có lý do để ta tồn tại”. Qua việc nghiên cứu các sách về thành công của Dale Carnegie, bạn có thể phát hiện mỗi người đều có cơ hội thành công, mấu chốt là ở thực tế thành tựu trong cuộc đời, chính như Dale Carnegie đã từng nói: “Một trăm lần suy nghĩ không bằng một lần hành động”.

Bạn có thể lựa chọn cuộc đời tốt hơn hay không? Câu trả lời là bạn có thể nắm giữ vận mệnh của chính mình. Thế bạn có thể kiểm soát được bản thân để không trở thành cái máy sinh tồn chỉ biết lặp đi lặp lại những hành động nhàm chán hay không? Rõ ràng ai cũng đều có trí tuệ, đều muốn thể hiện trí tuệ của mình vượt qua kẻ khác. Vậy bạn có thể nắm giữ và nâng cao trí tuệ của mình bằng cách nào? Câu trả lời chính là “Quản lý sẽ khiến công việc và cuộc sống được trật tự hóa”. Vậy bạn có muốn biết cách quản lý không? Hiếm ai lại không muốn có được sự nghiệp kinh doanh vĩ đại như của Dale Carnegie.

Ngôn ngữ của thành công giống như sự dao động của quả lắc đồng hồ, nó được coi là phương thức hài hòa để dẫn dắt đối phương tự nguyện tự giác đi theo.

Tại sao bạn lại không phát huy công dụng to lớn nhất của ngôn ngữ một cách hữu hiệu? Mấu chốt làm nên thành công không phải ở xuất thân, trình độ giáo dục, nền tảng kinh tế, mà đó là tính cẩn thận, thực tế, dũng cảm hướng về phía trước. Hãy dùng ngôn ngữ, trí tuệ, suy nghĩ và tư tưởng quản lý của bạn để làm nên cuộc đời vĩ đại.

Cuốn sách này không chỉ bàn về chiến thuật và đạo lý trong nghệ thuật thành công của Dale Carnegie mà còn hàm chứa tinh hoa tư tưởng cuộc đời ông. Nó có giá trị tham khảo lớn đối với những ai muốn khiêu chiến với cuộc đời, đạt tới thành công, nâng cao bản thân.

Tổng thống Nga Putin đã nói: “Một người chỉ cần không hạ thấp bản thân mình thì không một thế lực nào có thể đánh bại”. Vậy bây giờ chúng ta hãy bắt đầu cuộc đời vĩ đại thôi nào!Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Dale Carnegie":Quẳng Đi Gánh Lo Và Vui SốngBậc Thầy Của Nghệ Thuật Giao TiếpTâm Lý Vợ ChồngChiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng ThẳngBằng Hữu Chi GiaoTrở Thành Người Lãnh Đạo Hiệu QuảNghệ Thuật Nói Trước Công ChúngQuẳng Gánh Lo Đi Và Vui SốngThay Đổi Để Thành CôngĐứng Dậy Lần NữaLợi Thế Bán Hàng

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bậc Thầy Của Nghệ Thuật Giao Tiếp PDF của tác giả Dale Carnegie nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người (George Berkeley)
Lời người dịch George Berkeley (1685-1753) là triết gia duy nghiệm kiệt xuất người Ireland, một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kì đầu. Lập trường triết học của Berkeley là duy tâm thường nghiệm (empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi” (tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần (mind hay spirit)1 là cái tri giác những cái được tri giác. Các công trình của Berkeley trải rộng trên các lĩnh vực khoa học, triết học và thần học; riêng trong lĩnh vực triết học thì Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (1710) và Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous (1713) là hai công trình được biết đến nhiều nhất. Vài nét tiểu sử và sự nghiệp của Berkeley Berkeley chào đời vào ngày 12 tháng Ba năm 1685 ở Hạt Kilkenny, Ireland. Năm 11 tuổi, ông vào học trường Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity College), cũng ở Dubin. Berkeley lấy bằng cử nhân tại đây vào năm 1704, đến năm 1707 lấy bằng Thạc sĩ và được tuyển làm giảng viên (Junior Fellow) của học viện này. Tìm mua: Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người TiKi Lazada Shopee Năm 1709, Berkeley được thụ phong chức chấp sự (deacon) trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn. Trong công trình này, Berkeley bàn về những giới hạn của cái nhìn của con người và đưa ra quan niệm rằng đối tượng thực sự của thị giác không phải là các đối tượng vật chất mà là ánh sáng và màu sắc. Những luận điểm được nêu ra trong công trình này báo hiệu sự ra đời của các công trình triết học quan trọng nhất của ông. Vào năm 1710, khi chỉ mới 25 tuổi, Berkeley xuất bản công trình triết học Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người - Phần I, từ đây chúng tôi sẽ nói gọn là Các nguyên tắc. Công trình này là những nỗ lực của Berkeley gắng tìm cách bác bỏ những yêu sách của John Locke, một triết gia duy nghiệm thuộc thế hệ trước ông, về bản chất của tri giác con người. Nhưng vì công trình này thuộc dạng kén độc giả, chỉ dành riêng cho giới trí thức ở thủ đô London, nên ông bắt tay viết những bài dễ đọc hơn, trong hình thức đối thoại, và cho xuất bản ở London vào năm 1713 dưới nhan đề Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous. Trong thời gian ở London, để xúc tiến việc xuất bản các công trình triết học của mình, ông kết giao bằng hữu với một số nhà trí thức nổi danh thời bấy giờ như nhà thơ Jonathan Swift (1667-1745), nhà thơ, nhà tiểu luận Joseph Addison (1672-1719), nhà soạn kịch Richard Steele (1709-1729), và nhà thơ Alexander Pope (1688-1744). Ông tham gia viết bài cho tờ Guardian của Steele để chống lại tư tưởng tự do của thuyết bất khả tri lúc bấy giờ, nhưng do ông không kí tên vào các bài báo này nên cho đến nay các ý kiến về việc ông có phải là tác giả của chúng hay không vẫn còn bất đồng. Năm 1721, ông xuất bản cuốn Bàn về sự vận động, một luận văn ngắn bàn về những nền tảng triết học của cơ học. Ngoài ra, ông còn có một tập các bản ghi chép những nhận xét triết học trong suốt quá trình phát triển học thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của mình; và tập ghi chép này, thường được gọi là Những nhận xét triết học, ông chỉ viết cho riêng mình nên không có ý định công bố. Năm 1724, Berkeley được bổ nhiệm làm Trưởng Tu viện Derry. Lúc này, ông bắt tay khai triển dự án xây dựng một trường học ở Bermuda với ý nghĩ châu Âu đã trở nên già cỗi sau cuộc khủng hoảng “Bong bóng Biển Nam’’ (South Sea Bubble) và Thế giới Mới sẽ là niềm hi vọng cho tương lai con người. Được Nghị viện Anh hứa tài trợ kinh phí, ông dong buồm sang châu Mỹ vào năm 1728. Sau ba năm hoài công ngồi chờ kinh phí được hứa hẹn, ông trở về Anh. Trong thời gian ở châu Mỹ, ông đã soạn thảo Alciphron, cũng là một công trình triết học và là một suối nguồn quan trọng cho các quan niệm của ông về ngôn ngữ. Sau khi về Anh, Berkeley tập trung viết và cho xuất bản một loạt các công trình: Bài giảng trước Hội Truyền giáo Phúc âm ở nước ngoài (1732), Lí thuyết về cái nhìn (chứng minh và giải thích) (1733), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), Các lí do không đáp lại câu trả lời đầy đủ của ngài Walton (1735), cũng như xem xét lại để tái bản Các nguyên tắc và Ba cuộc đối thoại (1734). Năm 1734, Berkeley được phong Giám mục xứ Cloyne, vì thế ông trở lại Ireland và sống tại đó, tập trung chăm lo cho giáo phận của mình. Năm 1752, ông rời xứ cloyne đi Oxford để giám sát việc học hành của con trai, và không lâu sau đó, ông tạ thế vào ngày 14 tháng Giêng, được chôn cất trong Thánh đường Giáo hội Kitô thuộc địa phận OxfordĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người PDF của tác giả George Berkeley nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Freud Đã Thực Sự Nói Gì (David Stafford-Clark)
Một người sáng đi ra định bắt tay vào một công việc quan trọng. Ra ngõ gặp gái liền quay về, hôm ấy không đi nữa. Đúng là mê tín. Một người thứ hai cũng ra đi, lỡ chân bước hụt tam cấp suýt ngã. Cho là điềm gở cũng không chịu đi nữa. Một nhà “khoa học” cười là mê tín. Nhưng nếu hỏi Freud ông sẽ bảo người này làm đúng. Vì lỡ chân suýt ngã không phải là điềm gở mà biểu hiện một vướng mắc trong tâm tư, cho biết là người kia chưa thực sự sẵn sàng hào hứng bắt tay vào công việc định làm. Sự kiện “lỡ chân” ấy là biểu hiện của vô thức. Freud không phải người đầu tiên nêu lên khái niệm vô thức nhưng là người đầu tiên bày ra cái “thuật” để thăm dò tìm hiểu vô thức và từ đó để chữa những bệnh rối nhiễu tâm lý. Thuật phân tâmSigmund Freud (1856 - 1939) xuất thân là một bác sĩ sinh ra và lớn lên ở Viên, thủ đô nước Áo vào cuối thế kỷ XIX là một nước lớn ở Tây Âu. Là một bác sĩ xuất sắc, Freud đã tiếp nhận sâu sắc những phương pháp cơ bản của y học Âu châu vào cuối thế kỷ XIX với 2 bộ phận chủ yếu: một bên là lâm sàng kỹ lưỡng rồi vận dụng những phương tiện vật lý học nghiên cứu thể chất con người, tạo nên một nền y khoa sinh học, phát hiện những thực tổn và căn nguyên của các bệnh tật. Mỗi một giả thuyết đều phải được chứng minh thông qua thực nghiệm. Tốt nghiệp y khoa, Freud vào công tác ở một phòng thí nghiệm sinh lý thần kinh và đã có những công trình đáng kể về mặt này. Nhưng theo Freud ghi lại trong hồi ức thì cần phải tìm một nghề có thù lao khá hơn là làm phòng thí nghiệm, nên phải chuyển sang nghề chữa bệnh và ông đã đi vào chuyên khoa các bệnh gọi là thần kinh. Vào thời ấy, mặc dù giải phẫu sinh lý thần kinh và bộ não đã có những thành tựu đáng kể, ngành y vẫn vấp phải một loại hiện tượng tâm lý, dù hết sức tìm tòi cũng không thể nào phát hiện được tổn thương thực thể, bệnh không để lại một dấu tích thể chất nào cả, thật là những bệnh “vô tích sự”.Đặc biệt là một chứng bệnh khá phổ biến, với một loại triệu chứng xuất hiện từng cơn, hiện ra, biến mất, đột xuất không hiểu vì đâu. Cứ như là bệnh nhân đóng kịch vậy, bỗng nhiên liệt chân không đi được, mù không thấy, câm tịt không nói nữa, rồi một lúc nào đó bệnh lại biến mất. Y học gọi đó là hystêri. Các bác sĩ thời ấy, người thì nhún vai bĩu môi bảo là bệnh tưởng tượng, chẳng cần quan tâm đến, người thì cho rằng thế nào rồi vật lý học tiến lên sẽ tìm ra tổn thương ở hệ thần kinh, nhất là ở não, người thì cho rằng phải tìm nguyên nhân không phải trong thể chất mà trong cái “tâm”. Nhưng lý luận thế nào thì chưa rõ, bệnh nhân và gia đình vẫn đòi hỏi được chăm chữa. Bắt đầu, Freud dùng phương pháp thôi miên được thông dụng thời ấy. Kết quả nhiều khi ngoạn mục, có những bệnh nhân bại liệt hàng tháng, mù câm, đau bụng, đau đầu, nhức xương kinh niên, sau thôi miên “thầy” chỉ cần bảo: đứng dậy mà đi, nói đi, bệnh của anh hết rồi, là lành bệnh. Freud và ông bạn chí thân là Bruer vận dụng thôi miên bắt đầu nổi tiếng. Nhưng dần thấy rõ kết quả thôi miên không được lâu dài và sau một thời gian, hết chứng này lại xuất hiện những hiện tượng khó hiểu. Trong bệnh hystêri có những ca bệnh nhân tưởng tượng là mình có thai, bụng phình lên và tâm tư thay đổi đúng như một người thai nghén. Một hôm, một phụ nữ xinh đẹp xông vào phòng khám của bác sĩ Breuer bảo: tôi sắp sinh con của ông đấy. Breuer hoảng hốt vì đã có có vợ con, phải bỏ trốn khỏi thành phố Viên mấy tuần sau đó, bỏ luôn cả nghề chữa bệnh thần kinh. Freud vẫn tiếp tục, rồi phát hiện ra là những người hystêri như vậy có những nét tâm lý đặc biệt và khác với người bình thường, có những hành vi, những lời nói hình như bị ai xui khiến không làm chủ được. Bình thường trong cuộc sống hàng ngày, phải đối phó với thế giới vật chất và phản ứng của những người khác trong một nền văn hóa xã hội nhất định, cho nên mọi hành vi đều phải có ý thức để thích nghi với thực tế. Làm việc gì thường có ý định, có ý nghĩa, tức là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, có lý lẽ phù hợp với lý lẽ thông thường của xã hội. Nhưng cũng có biết bao hành vi vô lý, vô nghĩa, làm như con người bị “ma quỷ” nào thúc ép hay cấm đoán. Điển hình nhất là những giấc mộng diễn ra bất kể thời gian, không gian nào với những câu chuyện vô lý nhất. Freud dần dần nhận ra những triệu chứng của nhiều bệnh nhân, cùng với giấc mộng, những hành vi lỡ tay, lỡ lời đều là những hiện tượng rất gần gũi nhau và phỏng đoán từ những hiện tượng này đều có đường dẫn đến những cấu trúc và cơ chế của vô thức. Tìm mua: Freud Đã Thực Sự Nói Gì TiKi Lazada Shopee Muốn hiểu phân tâm học, bước đầu tiên là phải hiểu cái thuật phân tâm là phương pháp cơ bản để nhìn vào vô thức và chữa trị bệnh nhân. Và muốn phê phán phân tâm học không thể bắt nguồn từ triết lý, từ hệ tư tưởng mà từ sự đối chiếu kết quả chẩn đoán và chữa trị các rối nhiễu tâm lý. Luận thuyết phân tâm họcVới cái vốn học vấn đồ sộ của bản thân, Freud không thể bằng lòng với kinh nghiệm chữa bệnh thuần túy. Từ những kinh nghiệm cụ thể, Freud đã kiến tạo ra một hệ thống những khái niệm cơ bản để lý giải những phức tạp của tâm lý học. Hệ thống ấy gọi là métapsychologie, có người dịch là siêu tâm lý học. Thực chất đây không có gì là siêu nhiên cả, đây là một luận thuyết trong nhiều luận thuyết khác của tâm lý học. Bài tựa này không đi sâu vào những khái niệm sẽ được trình bày trong sách, chỉ nêu lên ý nghĩa của một vài từ. Luận thuyết Freud mang tính thứ nhất là topique. Topos là vị trí, khu trú, có ý xem cái tâm của con người được chia ra thành những khu riêng biệt với nhân cách con người có những ngôi riêng biệt với những vị trí riêng biệt. Luận điểm cơ bản thứ hai mang tên là dynamique, có ý nói là mọi hành vi hiện tượng tâm lý đều phải có một nguồn năng lượng mới thể hiện ra được và cái tâm thường xuyên ở vào tình trạng động với một xu thế chuyển động nhất định. Luận điểm thứ ba ông gọi là économique tức kinh tế, ở đây phải hiểu theo nghĩa là nguồn năng lượng nói trên được phân phối như thế nào, đầu tư vào đâu. Cái lực thúc đẩy tâm lý học thường gọi là bản năng (instinct) và nhận ra hai bản năng cơ bản: bản năng bảo vệ sự tồn tại của cá thể và bản năng bảo đảm sự tái sinh sản nòi giống. Lúc đầu Freud cũng chấp nhận hai bản năng này, nhưng sau nhiều năm tiếp xúc với thực tiễn và nghiền ngẫm, ông đã đi đến kết luận là có hai bản năng (ông gọi là xung năng - tiếng Pháp: pulsion - tiếng Anh: drive - tiếng Đức: Triebe): một là Eros vừa là tính dục vừa là xung năng sống, hai là Thanatos tức là xung năng chết. Ông cho rằng sinh ra là ngay từ đầu con người đã mang trong mình bản chất cái chết, chứ không phải trong con người chỉ có bản năng tự bảo tồn để sống mãi. Luận thuyết này đã gây ra những tranh cãi hết sức sôi nổi, đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Một điều đáng chú ý là Freud từ những hiện tượng bệnh lý của người lớn đã vạch ra cả một quá trình phát triển tâm lý suốt thời bé và nhấn mạnh những gì đã xảy ra vào thời tấm bé có ảnh hưởng quyết định đến cả cuộc đời của một con người. Freud chỉ quan sát con của ông một vài lần và chỉ nghiên cứu một ca bệnh trẻ em, thế mà những khái niệm và luận điểm ông nêu lên về sự phát triển tâm lý ở tuổi bé phần lớn sau này được những học giả chuyên về trẻ em công nhận là đúng. Ngày nay, giở bất kỳ một quyển sách khoa tâm lý nào, của bất kỳ nước nào (quyển Tâm lý học Trung Quốc chúng tôi mới nhận được năm 1996) cũng thấy trình bày những khái niệm Freud đã đưa ra. Học tập nghiên cứu tâm lý, nhất là tâm lý trẻ em không thể không biết đến phân tâm học.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Freud Đã Thực Sự Nói Gì PDF của tác giả David Stafford-Clark nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.