Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt

Tại sao tên sách lại là NHỮNG ĐỨA TRẺ BỊ MẮC KẸT? Bạn có biết, trong mỗi chúng ta đều có một đứa trẻ không bao giờ được giải phóng? Đó là một người trưởng thành luôn thấy mình thiệt thòi, cô đơn bởi tuổi thơ không trọn vẹn tình yêu thương của cả cha và mẹ, không có bạn bè chơi cùng. Đó là một người lớn không tự tin, luôn cô đơn vì từ bé đến lớn luôn bị mẹ so sánh và đối xử phân biệt với chị/em của mình. Đó là những nhân cách khác trong con người chúng ta, một góc tối trong tâm hồn được hình thành bởi những ẩn ức tuổi thơ, ám ảnh cuộc đời mà chính ta không vượt qua được. Đó cũng chính là một trong những tâm lý tội phạm dẫn đến các hành vi phạm tội. Nổi tiếng là nữ hoàng của dòng văn học khai thác góc khuất của tâm lý con người, nữ nhà văn Kanae Minato đã rất thành công khi miêu tả, khắc hoạ diễn biến tâm lý nhân vật trong cuốn sách này. Độc giả dễ dàng bị cuốn đi theo cảm xúc của nhân vật, cùng rơi vào những góc tối của tâm hồn, cùng khám phá và nhận ra những góc tối đó, cùng trải qua hoặc sẽ cố vượt thoát hoặc sẽ bị chìm vào. Đậm chất tâm lý tội phạm, từ việc khai thác ẩn ức tuổi thơ, chứng ám thị đến các triệu chứng hoang tưởng của con người, NHỮNG ĐỨA TRẺ BỊ MẮC KẸT phản ánh góc khuất tâm hồn những con người cô đơn ngay trong gia đình mình, giữa xã hội này. Ngoài ra, còn là một lời khẳng định: Tuổi thơ của con người vô cùng quan trọng, đó là giai đoạn có khả năng ghi nhớ tốt nhất, tiếp nhận nhanh và ngấm lâu nhất để đi đến những ký ức bền vững mà sẽ trở thành tiềm thức, hình thành nhân cách con người. Rằng môi trường giáo dục con người quan trọng nhất là gia đình. Từ đó dẫn đến các hành vi trong đời sống, nhân cách và cả hình thành con người trưởng thành về sau sẽ như thế nào. *** Một án mạng xảy ra, nạn nhân là những người hiền lành, tốt bụng, chẳng gây thù chuốc oán với ai bao giờ. Và nghi can đang bị cảnh sát thẩm vấn cũng là một người trầm lặng, ít nói, chưa bao giờ gây gổ với ai, thậm chí còn cúi đầu xin lỗi dù đối phương là người sai. Tại sao? Tại sao một người hiền lành, nhẫn nhịn đến nhu nhược lại có thể trở thành kẻ giết người chỉ trong chớp mắt? Rốt cuộc họ nghĩ gì? Vì sao họ làm vậy? Đã bao giờ bạn tự hỏi vì sao mình lại trở thành “mình” của ngày hôm nay? (Ảnh: Facebook)Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt gồm 6 phần, không có sự liên kết với nhau, rời rạc, rạch ròi, mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người một câu chuyện để kể lại về quá khứ, về tuổi thơ và về gia đình mình. Họ đều xưng “tôi” và đều là một kẻ giết người. Có người thì kể lại câu chuyện bố mẹ đã đối xử bất công giữa mình với em gái. Tại sao cùng là con, cùng dứt ruột đẻ ra, nhưng “tôi” là chị thì bị hằn học, khắt khe còn đứa em gái lại dễ dàng được bỏ qua và tha thứ? Chẳng lẽ tôi không phải con của họ? Hay tôi chỉ là người thừa trong cái gia đình đó? Câu chuyện khác lại kể về đứa con gái nhận được quá nhiều kỳ vọng của mẹ. Mẹ muốn “tôi” phải trở nên tuyệt vời, phải thành đạt, “phải trở thành giáo viên giỏi như bố nhé”… Hoặc như bố mẹ “tôi” thì lại muốn tôi trở thành một con rối, một chiếc cúp để bố mẹ tự hào, một chiếc huân chương cho việc bố mẹ đã nuôi dạy “tôi” tốt như thế nào, dù cho có phải hủy hoại, vùi dập mọi ước mơ của tôi, cũng được… Hay câu chuyện của “tôi”: nếu mẹ không cấm tôi dùng máy tính, dùng điện thoại, có lẽ tôi sẽ lên mạng và search từ khóa “tự sát” nhiều đến mức không thể đếm nổi nữa. Một cuộc sống bị cấm đoán, giống như cầm tù, giống như nô lệ, có lẽ chết đi sẽ tốt hơn… Nguồn : https://bloganchoi.com/review-sach-trinh-tham-nhung-dua-tre-bi-mac-ket/ Một án mạng xảy ra, nạn nhân là những người hiền lành, tốt bụng, chẳng gây thù chuốc oán với ai bao giờ. Và nghi can đang bị cảnh sát thẩm vấn cũng là một người trầm lặng, ít nói, chưa bao giờ gây gổ với ai, thậm chí còn cúi đầu xin lỗi dù đối phương là người sai. Tại sao? Tại sao một người hiền lành, nhẫn nhịn đến nhu nhược lại có thể trở thành kẻ giết người chỉ trong chớp mắt? Rốt cuộc họ nghĩ gì? Vì sao họ làm vậy? Đã bao giờ bạn tự hỏi vì sao mình lại trở thành “mình” của ngày hôm nay? (Ảnh: Facebook)Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt gồm 6 phần, không có sự liên kết với nhau, rời rạc, rạch ròi, mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người một câu chuyện để kể lại về quá khứ, về tuổi thơ và về gia đình mình. Họ đều xưng “tôi” và đều là một kẻ giết người. Có người thì kể lại câu chuyện bố mẹ đã đối xử bất công giữa mình với em gái. Tại sao cùng là con, cùng dứt ruột đẻ ra, nhưng “tôi” là chị thì bị hằn học, khắt khe còn đứa em gái lại dễ dàng được bỏ qua và tha thứ? Chẳng lẽ tôi không phải con của họ? Hay tôi chỉ là người thừa trong cái gia đình đó? Câu chuyện khác lại kể về đứa con gái nhận được quá nhiều kỳ vọng của mẹ. Mẹ muốn “tôi” phải trở nên tuyệt vời, phải thành đạt, “phải trở thành giáo viên giỏi như bố nhé”… Hoặc như bố mẹ “tôi” thì lại muốn tôi trở thành một con rối, một chiếc cúp để bố mẹ tự hào, một chiếc huân chương cho việc bố mẹ đã nuôi dạy “tôi” tốt như thế nào, dù cho có phải hủy hoại, vùi dập mọi ước mơ của tôi, cũng được… Hay câu chuyện của “tôi”: nếu mẹ không cấm tôi dùng máy tính, dùng điện thoại, có lẽ tôi sẽ lên mạng và search từ khóa “tự sát” nhiều đến mức không thể đếm nổi nữa. Một cuộc sống bị cấm đoán, giống như cầm tù, giống như nô lệ, có lẽ chết đi sẽ tốt hơn… *** Kanae Minato là một nhà văn Nhật Bản về viễn tưởng và phim kinh dị. Cô là thành viên của các nhà văn bí ẩn của Nhật Bản và Câu lạc bộ nhà văn bí ẩn Honkaku của Nhật Bản. Tác phẩm: Thú Tội Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Tất Cả Vì N Vòng Đu Quay Đêm ,,, *** Cuốn sách này gồm 6 phần, là tập hợp 5 câu chuyện về những kẻ gây án khó hiểu. Đây là một cuốn sách về tâm lý tội phạm, về nguồn gốc nhân cách hoặc cư xử của con người mà sâu xa là do phương pháp giáo dục trong gia đình từ lúc còn nhỏ đến khi trưởng thành – Nó khẳng định một điều rằng, tuổi thơ của con người rất quan trọng. Trong thời thơ ấu của mỗi người, chỉ cần có một vệt ký ức ám ảnh mà bản thân người đó không tự vượt qua và thoát khỏi thì chính ký ức đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách, hành vi và thậm chí cả hành vi phạm tội (nếu có) của con người đó. Trong câu chuyện về từng án mạng là lời tự sự của từng nhân vật, khi thì nạn nhân, khi thì thủ phạm và có lúc lại là người có mối liên hệ mật thiết với nạn nhân. Với lối tự sự này, tâm lý, tính cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét. Cú đánh lừa ngoạn mục của tác giả chính là cách đan xen lời tự sự khiến cho bất cứ ai chỉ đọc lướt sẽ không thể nhận ra ai mới là hung thủ thực sự. Bởi tâm tư của từng nhân vật cuốn người đọc hoá thân thành nhân vật đó và tưởng như chính họ có thể gây án bất cứ khi nào. Đó là câu chuyện về gia đình có hai cô con gái mà cách giáo dục hai đứa con trái ngược nhau hoàn toàn là nguyên nhân chính để lại ẩn ức của hung thủ. Dường như người em gái được bố mẹ dạy dỗ thoải mái hơn lúc nào cũng chờ cơ hội mỉa mai người chị bốn mươi tuổi chưa chồng, luôn mộng mơ chìm trong thế giới tiểu thuyết. Người chị dù không thân thiết nhưng cũng không ghét bỏ gì em gái mình. Người chị nhận con mèo trắng làm thú cưng chỉ bởi vì cảm thấy nó đáng thương và nó cần mình, đặc biệt là cô có khoái cảm với việc giết rận cho mèo. Một cô gái mộng mơ, trắc ẩn như vậy, có ai biết đến thẳm sâu thế giới tưởng tượng của cô ấy có một con rận khổng lồ… Ba tác giả biên kịch gặp nhau tại một lễ trao giải tác phẩm xuất sắc của một cuộc thi. Từ đó, họ giữ liên lạc và trao đổi tác phẩm với nhau. Đối thủ là kẻ thù nhưng cũng chính là tri âm. Họ phải luôn cố gắng, phấn đấu để tác phẩm của mình được các nhà sản xuất phim để ý. Trong quá trình đó, họ có một áp lực là phải vượt trội so với những người cùng nhận giải năm xưa. Đố kị, ghen ghét, tự ái, ảo tưởng… là nguồn cơn tâm lý tội phạm của hung thủ trong âm mưu sát hại đối phương. Trong ba người đoạt giải năm xưa, có một người nhất định phải biến mất khỏi thế giới này. Trong ba người đó, ai xem ai là kẻ thù, ai xem ai là tri âm? Ai mới thực sự là hung thủ, phải mãi đến cuối chương, người đọc mới thở phào nhẹ nhõm sau những căng thẳng, đố kị, ảo tưởng cùng với các nhân vật. Lại thêm những án mạng, đó là cuộc sống tuổi thơ đầy cố gắng gồng mình trong cô đơn, hoang mang, nhiều sợ hãi của những đứa trẻ có mẹ đơn thân. Khi đọc qua chương này, các bà mẹ, ông bố định đơn thân nuôi con liệu có suy nghĩ gì? Tất cả mọi đứa trẻ đều xứng đáng được sống trọn vẹn với tình yêu thương đầy đủ của cả bố và mẹ. Người lớn có bao giờ nghĩ rằng, mình đã quá ích kỷ khi chấp nhận đơn thân nuôi con từ lúc con chào đời đến khi con đã hình thành nhân cách trưởng thành? Một án mạng khác lại xảy ra, nạn nhân được biết đến như là một con người hiền lành tốt bụng trong mắt tất cả mọi người. Người thuộc diện tình nghi đang bị cảnh sát hỏi chuyện, lại cũng là một người chưa bao giờ nỡ gây gổ với ai và chỉ biết mỉm cười hoặc im lặng nín nhịn kể cả khi bị đối phương gây khó chịu. Điều ngạc nhiên hơn, đây chính là người vốn từ nhỏ luôn nghe lời mẹ, luôn nói câu xin lỗi trước người khác dù đối phương là kẻ gây lỗi. Chính vì được dạy dỗ theo kiểu ép mình trở thành hình tượng hiền hòa, người tốt bụng trong mắt người khác nên cả nạn nhân và kẻ phạm tội đều có những ẩn ức chỉ đợi ngày bùng nổ. Các bậc phụ huynh cần nhìn nhận lại, dạy con cái trở thành người tốt bụng rất đáng hoan nghênh, nhưng phương pháp như thế nào là đúng, là phù hợp với tính cách từng đứa trẻ? Theo hướng nghiên cứu phân tâm học của Sigmund Freud, mối quan hệ giữa cha và con gái thường thân thiết hơn mẹ và con gái; cũng như mối quan hệ giữa mẹ và con trai thì thân thiết hơn so với cha và con trai. Có thể còn nhiều tranh cãi trong chuyên ngành tâm lý học nhưng thực tế cho chúng ta thấy rõ điều này chưa sai, ít nhất thì trùng hợp xảy ra với đa số. Đó cũng là một nguyên nhân trong những khó khăn khi các bà mẹ đơn thân cố tương tác trong quá trình nuôi dạy con gái mình. Từ trước tới nay, người ta đều nói rằng tất cả mọi ông bố, bà mẹ đều luôn mong điều tốt đẹp nhất cho con cái của mình nhưng ít khi có người con nào nhận ra điều đó cho đến khi chính họ trở thành những ông bố/bà mẹ và nuôi con nhỏ. Nếu ai còn nghĩ như vậy thì càng cần phải đọc cuốn sách này! Gia đình là tổ ấm, là nơi vỗ về nhưng gia đình nhiều khi cũng là nỗi kinh sợ. Tình mẫu tử, phụ tử vốn thiêng liêng bỗng dưng trở nên thật đáng nguyền rủa bởi quá nhiều nghiệt ngã. Những đứa trẻ dễ dàng bị bỏ rơi trong chính ngôi nhà của mình chỉ vì mẹ/cha của chúng có mối hận nào đó với người cha/mẹ của chúng. Không ít các bậc làm cha làm mẹ vì những ham muốn thoả mãn cá nhân mà bỏ mặc con cái và thậm chí lạm dụng con đến mức khủng khiếp. Cũng có kiểu phụ huynh dạy con trở thành/thực hiện giấc mơ dang dở của chính họ mà không quan tâm con-người-mà-chính-chúng-vốn-là. Những đứa trẻ như vậy, lớn lên sẽ thế nào? Nếu may mắn, đứa trẻ đó sẽ trở thành một con người bình thường như bao người khác với một cuộc sống bình thường. Sẽ thật đáng thương khi đứa trẻ đó dù lớn lên và vui vẻ bên ngoài xã hội nhưng vẫn không thể thoát được đứa-trẻ-bị-mắc-kẹt bên trong trong ký ức đầy tủi hổ, cô độc về gia đình. Càng bất hạnh hơn nếu đứa trẻ đó lớn lên trở thành tội phạm chỉ vì những ấm ức bị kìm nén quá lâu mà vốn để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí và đã tác động trực tiếp đến tâm lý cũng như cách xử lý vấn đề cuộc sống, nhân cách của con người trưởng thành! Để có một công dân tốt cho xã hội, sự giáo dục từ gia đình trong những năm đầu đời của trẻ vô cùng quan trọng. Ký ức tuổi thơ luôn là thứ tồn tại lâu nhất và có ảnh hưởng trực tiếp đến con người trưởng thành về sau. Hầu như người trưởng thành nào cũng luôn có một đứa trẻ bị mắc kẹt từ thẳm sâu tiềm thức. Đó có thể là sự tự ti khó thoát của một cô gái ba mươi tuổi bởi hồi bé luôn bị bố mẹ so sánh với người chị họ từ điểm số học tập đến nhan sắc. Đó có thể là lòng căm thù phụ nữ của một người đàn ông trưởng thành nhất quyết không chịu kết hôn chỉ vì đó là một cậu bé có người mẹ phản bội hai bố con hết lần này đến lần khác. Và còn nhiều hơn thế nữa những sang chấn tâm lý, những bế tắc của người trưởng thành, là lúc đứa-trẻ-bị-mắc-kẹt bên trong đang trỗi dậy và chiếm ngự, điều khiển họ, khiến họ dễ dàng sa ngã vào những hành vi phạm tội. Mọi trẻ em đều xứng đáng được chăm sóc và nuôi dạy trong tình yêu thương đầy đủ của cả cha và mẹ. Đặc biệt, trong quá trình giáo dục trẻ, các bậc phụ huynh thường có xu hướng “lái” cho con trẻ lớn lên như cách mình mong muốn mà không kịp nhận ra đó chỉ là “con người lý tưởng” mà chính họ đang hình dung và mơ ước trở thành chứ chưa hẳn đã phù hợp với con trẻ và không-là-chính-đứa-trẻ-đó. Mọi đứa trẻ đều xứng đáng được lớn lên là chính bản thân các con! Với lối khắc hoạ tâm lý nhân vật tài tình của Kanae Minato, độc giả sẽ được cuốn đi theo từng phân cảnh tâm lý, cùng hồi hộp, cùng căng thẳng, cùng tưởng tượng với nhân vật cho đến khi mọi chuyện vỡ oà… Thân mến! Biên tập viên I love books Mời bạn đón đọc Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt của tác giả Kanae Minato.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vì Nghĩa, Vì Tình
“Vì nghĩa vì tình” như chính tên gọi của nó cho chúng ta thấy được nhân nghĩa và tình cảm ở đời. Vì một chữ tình nên sanh ghen rồi vô tình khiến mẹ phải lìa con, chồng lìa vợ, gia đình ly tán. Mẹ khóc hết nước mắt vì mất con nên lúc tỉnh lúc dại. Chồng vì nỗi vợ không tha thứ nên u uất, thối chí. Con vì cha nên sống cảnh cơ hàn, sống đời lang bạt, đói cơm rách áo… Và vì một chữ nghĩa để rồi cuối cùng mẹ lại được gặp con, chồng lại được gần vợ, trẻ con hết sống cảnh côi cút, bơ vơ, nhà cửa coi hực hỡ mà mặt ai nấy đều vui vẻ, hớn hở lắm. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mất con lìa vợ gần sáu năm trường rồi, thình lình trong một buổi mà cha con tương phùng, vợ chồng hội hiệp; làm người ai gặp cái cảnh như vậy, dầu tánh tình trầm tịnh đến thế nào đi nữa cũng khó mà giấu cái mừng, cái vui trong lòng được. Chánh Tâm được sum hiệp với vợ con, tuy chàng không lộ cái vẻ vui mừng của chàng cho ai thấy, nhưng mà chàng ngồi cứ ngó vợ rồi ngó con mà cười hoài. Lâu lâu chàng ngoắc con lại gần rồi ôm mặt nó mà hun, hoặc chàng lại đứng một bên vợ mà coi vợ may áo cho con bận. Chàng hưởng thú hòa hiệp một cách êm ái như vậy đó, người ngoài dòm vô ai cũng tưởng chàng không vui mừng cho lắm duy Cẩm Vân biết tánh ý chồng, nên nàng hiểu cái cử chỉ ấy là cử chỉ khoái lạc của chồng thuở nay. Trọn buổi sớm mơi, Chánh Tâm xẩn bẩn ở nhà mà chơi với vợ con. Buổi chiều, chàng đi ra Sài Gòn, mướn Trưởng tòa ra giấy ký cho người mướn nhà lầu của chàng trong vòng 15 ngày phải dọn đồ đi và trả lại cho chàng ở. Việc đó xong rồi chàng mới lại hãng xe hơi chồng bạc mà lấy xe. Đến 5 giờ chiều, chàng đem xe về. Chánh Hội nghe thấy xe thì mừng quýnh, chạy vô trong nó kéo má nó ra coi. Chánh Tâm mời Cẩm Vân với cô Ba Hài đi thử. Cẩm Vân từ rằng: - Để tôi may đồ sắp nhỏ riết cho rồi đặng mai có đi, chớ đi chơi rồi mai đi sao được. Chánh Tâm nghe nói như vậy thì không dám ép nên đi một vòng với cô Ba Hài và hai đứa nhỏ, còn để vợ ở nhà may đồ. Áo quần của sắp nhỏ may xong rồi, Chánh Tâm bèn thưa với cô Ba Hài đặng rước vợ về Láng Thê thăm nhà ít bữa. Cô Ba Hài nói rằng : - Nó phải đi chớ. Nó có nói với tao rằng, hồi chị Tổng mất, nó có bịnh nó không hay. Mấy năm nay nó phiền mầy nên nó không tới nhà được mà lạy chị Tổng. Bây giờ vợ chồng con cái hiệp với nhau rồi, thì nó đi mới phải chớ. Cẩm Vân lo thâu xếp áo quần bỏ vào hoa ly. Chánh Tâm lấy đồ tây mà bận cho Chánh Hội với thằng Qui, sửa soạn xong rồi mới từ cô Ba Hài mà lên xe. Hai đứa nhỏ rủ nhau ngồi phía trước với sốp phơ, bỏ Chánh Tâm với Cẩm Vân ngồi sau chen ngoẻn. Xe mới, máy còn êm nên chạy nghe tiếng vù vù xuống tới nhà ga An Lạc, Chánh Hội ngoái đầu lại mà nói rằng: - Tôi với thằng Quì có ngủ lại đây một đêm má a. Chánh Tâm ngó vợ mà cười. Xuống tới chợ Đệm, Chánh Hội lại chỉ quán bà già cho ăn cơm hồi trước, rồi xuống tới Gò Đen nó chỉ luôn trường học nó học ngày xưa nữa. Hai đứa ngồi trước, nói chuyện cãi lẽ om sòm. Vợ chồng Chánh Tâm ngồi sau cứ ngó rồi cười cùng nhau. Có một lúc xe đương chạy mau, Chánh Tâm nắm tay vợ mà nói rằng: - Em ốm lung quá ! Để dọn nhà ở yên rồi qua đem em cho quan thầy thuốc coi, để cho thuốc em mập lại như xưa mới được. Cẩm Vân lắc đầu đáp rằng : - Em có đau đâu mà uống thuốc. Bây giờ em gặp con rồi, em hết buồn rầu nữa, thì trong ít ngày đây em mập lại chớ gì. Mời các bạn đón đọc Vì Nghĩa, Vì Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Nhơn Tình Ấm Lạnh
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Huỳnh Tú Phan mới cất một nhà lầu, gần châu thành Bạc Liêu cửa ngó ra lộ đi Sóc Trăng. Nhà cất kinh dinh kiểu vẻ xinh đẹp, nền cao cửa rộng tường chắc, thang lài, tứ hướng đều có làm cửa sổ đặng ánh sáng lọt vào nhà. Hai từng đều lót gạch bông đặng lau chùi cho sạch, nóc lợp ngói móc đỏ lòm, cửa sổ sơn dầu xám láng bóng. Trước có dọn một cái sân rộng lớn, chánh giữa đã xây hòn non trên hồ nước, trên đỉnh ông tiều lum khum gánh củi, dưới khe ngư ông thong thả ngồi câu, bên kia thằng mục cỡi trâu ãn, bên nọ chú cày đi ra ruộng. Ở ngoài đi vô khỏi cửa ngỏ rồi tẻ ra hai đường vô nhà. Dọc theo hai đường ấy đã trồng bông đủ thứ, bông vàng xen bông trắng, lá đỏ lộn lá xanh, hai bên lại đương dọn hai cái bồn, tính để trồng cây coi cho đẹp. Phía sau có cất một cái nhà dài tám căn, rồi chia ra chỗ xây bếp, chỗ chứa đồ, chỗ để xe hơi, chỗ để xe ngựa, còn dư mấy căn dành để cho gia đinh ở. Khoảng đất cất nhà nầy thật là rộng lớn, không còn bỏ trống, nhiều chỗ chưa thấy trồng cây gì. Tuy vậy mà mặt đất đã ban bằng phẳng, có lẽ chừng chủ nhà dọn nền nhà mới sẽ trồng mận, ương cam, hoặc trồng cau, đặt chuối chi đây chớ chẳng không. Phía trước dọc theo mé lộ, đã xây tường rồi rào song sắt, còn ba phía kia xây trụ bạch cấm rào cây. Người đi đường, hễ đi ngang qua thấy nhà mới nguy nga thường hay nghị luận, kẻ khen nhà cất đúng kiểu, người tiếc xung quanh nhà chưa trồng cây, kẻ chê nhà cất xa châu thành, người lại nói muốn khoe của nên cất nhà tốt hơn thiên hạ. Tú Phan cất nhà vừa xong đương lo đóng tủ, mua bàn, đặt giường, sắm ghế đặng ăn lễ tân gia, thình lình hay tin quan trên xét công làm hội đồng địa hạt gần hai khóa và mỗi kỳ nhà nước phóng trái đều sẵn lòng đem bạc cho vay nhiều, nên thưởng chức Huyện Hàm, đặng rở ràng trong hương xã. Chữ phú đã được nay thêm chữ quý nữa, người đời phần nhiều hễ được như vậy thì toại chí phỉ nguyền. Tú Phan là người ở trong bậc thường dân xuất thân, nhờ vận hội may mắn được giàu, nay cũng nhờ vận hội may mắn được sang nữa, thầm nghĩ có tiền mà không có chức thì cũng không oai, từ rày mình có tiền mà lại có chức, giàu sang gồm đủ, sự mơ ước đã được rồi chẳng lo chi nữa. Tú Phan lật đật sắm sửa dọn dẹp nhà mới cho xong, Ðịnh chiều chúa nhựt 20 janvier (1) sẽ thiết tiệc lớn làm lễ tân gia với tân quan luôn một bữa. Hồng thiệp gởi đi rồi, từ bà con cho đến người quen biết, ai ai cũng đều nao nức lo sắm lễ vật đặng đi khánh hạ. Ngày vui đã đến, sắp đặt cũng vừa xong. Sớm mai chúa nhựt, sắp tá điền, độ gần vài mươi người, chia nhau tốp bắc thang trèo lên mấy cửa treo cờ, tốp đóng nọc giăng dây cùng ngoài sân đặng treo đèn. Huỳnh Tú Phan, vừa tròn năm mươi hai, mặt dài trán rộng, râu vuốt ngoẳng lên hai bên mép, tóc ít lại điểm bạc hoa râm, chân đi giày thêu cườm, mình mặc áo quần lụa trắng, mắt mang kiếng gọng vàng, miệng ngậm đót mã não (2), ra đứng trước sân coi tá điền treo đèn buộc cờ. Cửa ngỏ sắt sơn màu đỏ lòm, mà lại còn biểu cậm tàu dừa vòng nguyệt, rồi kết bông coi cho rực rỡ thêm. Trong nhà bàn cẩm ghế mây, cái nào cũng mới tinh, mà còn biểu lau chùi, đặng nhìn cho thấy mặt. Trên mỗi bàn đều để một bình bông, bông thiệt cắm xen bông giả nên mới thoáng ngó qua không biết bông nào là bông làm, bông nào là bông trồng. Dựa mấy gốc cột đều có một chậu kiểng, chỗ nầy để bùm sụm (3), chỗ kia để càng thăng (4), bên nầy để cau lá vàng, bên kia để đinh lăng (5) trắng. Mấy cửa sổ đều treo màn thêu bông giấy ngang dọc. Trong buồng, vợ Tú Phan là Ðoàn Thị Xuân, tuổi vừa 45, nước da trắng; gương mặt tròn, đầu tóc bới thả đều, móng tay chuốc mũi viết, tay đeo cà rá; cổ vấn dây chuyền, đương ngồi trên ván ăn trầu mà nói chuyện với mấy người đàn bà dưới Cái Cùng lên cung hạ. Con gái Tú Phan là Huỳnh Phi Phụng, tay ôm hai tấm màn thêu, ở trên lầu lần từng nấc thang đi xuống. Cô tuổi mới 17, nước da trắng đỏ, đầu tóc đen huyền, hàm rãng trắng đều như hột bầu, ngón tay dài trông như da giấy, mình mặc áo lãnh màu bông phấn, quần lụa Bom Bay6 mới tinh, chân đi giày thêu cườm, bông tay cà rá dây chuyền đều nhận hột xoàn lóng lánh. Cô xuống hết thang rồi mới nói với mẹ: - Con đã kết hai tấm màn rồi đây má. Ðể đưa cho ba đặng biểu họ treo hé. Thị Xuân ngó hai tấm màn rồi gật đầu. Mấy người đàn bà đương nói chuyện, ai cũng day lại ngó Phi Phụng rồi nói với Thị Xuân: "Cô hai nay lớn dữ! Bà cũng gần làm sui rồi". Phi Phụng nghe nói mắc cở nên ôm hai tấm màn lật đật đi ra ngoài trước, Thị Xuân tay xỉa thuốc, mắt ngó ra cửa sổ mà đáp: "Ôi! Họ muốn làm sui thiếu gì! Có hai ba chỗ gắm ghé, mà ba nó nói còn nhỏ nên chưa chịu gả. Tôi có một mình nó nên cưng lắm. Ba nó nói cực chẳng đã tôi phải để cho nó đi học trên Sài Gòn mấy nãm nay. Xưa rày tôi nói lắm mới chịu lên mà đem nó về đó đa". Ở dưới bếp sắp (7) Triều Châu lãnh dọn tiệc, tốp xe đồ, tốp nhóm lửa. Nói chuyện xí xô xí xào, còn sắp gia đinh nấu cỗ Việt Nam đãi khách đàn bà, đứa xắt thịt, đứa lặt rau chộn rộn chàng ràng như nhóm chợ. Phi Phụng đưa hai tấm màn cho cha rồi cha con đứng coi tá điền treo hai bên cửa buồng. Màn treo vừa rồi thì có một thầy, trạc chừng 19, 20 tuổi gương mặt sáng rỡ, tướng đi khoan thai, mình mặc quần trắng, áo nỉ đen, cổ thắt cà vạt màu tím; đầu đội nón trắng, chân mang giày vàng, ở ngoài cửa ngõ thủng thẳng đi vô nhà. Phi Phụng dòm thấy, miệng chúm chím cười rồi nói với cha: - Anh ký Linh đến kìa ba. Cha chả bữa nay ảnh diện áo quần coi đẹp dữ. Tú Phan dòm ra thấy Phan Duy Linh, con của người bạn thân thiết với mình hồi trước, đương làm ký lục trong Hương Sở Bạc Liêu, rồi cũng cười, chờ Duy Linh bước vô nhà mà hỏi: - Bữa nay chúa nhựt cháu nghỉ hả? - Dạ, bữa nay cháu nghỉ, nên lật đật đến cung hạ bác và ở giúp đãi khách hầu bác. - Ô! Được đa! Sấp nhỏ ở nhà đây nó khờ lắm, vậy cháu ở chơi đặng coi sắp đặt dùm cho bác. - Cô hai về hôm nào? Phi Phụng nghe hỏi tới mình thì tay vịn ghế, mắt liếc Duy Linh đáp: - Em về hôm thứ ba. - Hổm rày tôi không hay, chớ tôi dè có cô về thì tôi ra thăm cô. - Em muốn sai bầy trẻ cho anh hay, song em nghe ba em nói có mời anh đến nên không dám làm rộn anh. Duy Linh đem nón móc trên đầu nai gần cửa sổ, Phi Phụng đi lần lại bàn cẩn để ở giữa nhà, thấy trong bình cắm ba bông huệ lộn xộn với bông vải, bèn thò tay kéo nhánh bông huệ để vô lổ mũi mà hửi, mắt ngó theo Duy Linh. Mời các bạn đón đọc Nhơn Tình Ấm Lạnh của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Nam Cực Tinh Huy
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** ...Trong dinh quan Thứ-sử, cửa tư bề đóng chặt, người cũng vắng bóng lại qua; duy trước hiên chị nguyệt dỡn hoa đào và bên chái ngọn đèn chờ bạn ngọc. Trống vừa trở canh tư thì thấy quan Thứ-sử Ngô-Quyền ở trong phòng bước ra, bưng đèn đem để trên án, rồi sẻ lén mở cửa đi ra ngoài. Bóng trăng tỏ rạng, soi sáng cả mình, mới thấy người tuổi vừa mới quá bốn mươi, vóc to, sức mạnh, trán rộng, mặt ngang, mày rậm, râu dài, cặp mắt lớn mà lại sáng, trông hình dạng thì đủ biết là một người chí khí cao, độ lượng lớn. Quan Thứ-sử xem trăng rồi lần bước đi lại gần mấy hàng hoa đào, thấy bụi hoa nào tốt rờ rẩm sâm soi, còn dòm bụi hoa đèo thì châu mày ủ mặt. Xem hoa xong rồi mới chậm chậm đi thẳng ra hồ sau, thấy dưới cội lý có mấy cái ghế bèn lại đó mà ngồi. Bóng trăng soi mặt nước như vàng gieo bạc chảy, tiếng dế kêu dưới cội như câu hát giọng đờn; quan Thứ-sử ngồi một mình nhắm cảnh thanh vật tịnh rồi lòng bắt nhớ chuyện sẽ tới, nhớ người ở xa, nhớ tổ quán cố hương, nhớ ơn cha nghĩa bạn....    HỒI THỨ NHỨT Trong màng loan Dương phu nhơn mộng quái,  Dưới cột lý Ngô Thứ-sử trần tình Năm mậu tuất (năm 938) đêm rằm tháng giêng, lúc gần hết canh ba, mảnh nguyệt treo giữa trời soi sơn-thủy, giọt nước sương chan mặt đất rưới cỏ cây; nẻo lợi danh vắng-vẻ bước con người, mùi cam khổ tạm bay xa trần thế.  Ái-châu thành 1 là chỗ địa-đầu thị-tứ, dân cư trù mật, quan quân nhộn nhàng; chánh là một trường cạnh tranh lợi danh, mà cũng là chánh một chốn nực nồng cam khổ. Đêm nay canh khuya, trời lạnh người người đều ngơi-nghỉ, nhà nhà đều im-lìm, tưởng là bóng âm che khuất lòng trần, nào dè cách một hồi nghe tiếng chuông trên chùa cúng Phật, mới hay đêm tuy khuya, tiết tuy lạnh, chim trong rừng tuy ngủ, cây trên núi tuy yên, nhưng mà người đời chưa rảnh được nợ trần, hoặc còn mưu kế sanh tồn, hoặc đương tính về phương siêu độ.  Trong dinh quan Thứ-sử, cửa tư bề đóng chặt, người cũng vắng bóng lại qua; duy trước hiên chị nguyệt dỡn hoa đào và bên chái ngọn đèn chờ bạn ngọc. Trống vừa trở canh tư thì thấy quan Thứ-sử Ngô-Quyền ở trong phòng bước ra, bưng đèn đem để trên án, rồi sẻ lén mở cửa đi ra ngoài. Bóng trăng tỏ rạng, soi sáng cả mình, mới thấy người tuổi vừa mới quá bốn mươi, vóc to, sức mạnh, trán rộng, mặt ngang, mày rậm, râu dài, cặp mắt lớn mà lại sáng, trông hình dạng thì đủ biết là một người chí khí cao, độ lượng lớn. Quan Thứ-sử xem trăng rồi lần bước đi lại gần mấy hàng hoa đào, thấy bụi hoa nào tốt rờ rẩm sâm soi, còn dòm bụi hoa đèo thì châu mày ủ mặt. Xem hoa xong rồi mới chậm chậm đi thẳng ra hồ sau, thấy dưới cội lý có mấy cái ghế bèn lại đó mà ngồi. Bóng trăng soi mặt nước như vàng gieo bạc chảy, tiếng dế kêu dưới cội như câu hát giọng đờn; quan Thứ-sử ngồi một mình nhắm cảnh thanh vật tịnh rồi lòng bắt nhớ chuyện sẽ tới, nhớ người ở xa, nhớ tổ quán cố hương, nhớ ơn cha nghĩa bạn.  Mắt đương lim dim, trí đương nghĩ nghị, bỗng nghe phía sau lưng có tiếng tằn-hắn. Quan Thứ-sử day lại thì thấy phu-nhơn, là Dương-thị, biệt hiệu là Nguyệt-Cô, nhẹ bước vạch nhành lần lần đi tới, Phu nhơn đã gần bốn chục mà sắc hãy còn thanh tươi, nước da trắng, gương mặt tròn, mặc áo sô đen, dạng đi yểu điệu. Khi phu nhơn bước tới thấy quan Thứ-sử liền đứng lại mà hỏi rằng:  - Đêm khuya tiết lạnh, sao tướng công không ngủ mà lại ra ngồi ngoài nầy?  - Chẳng biết vì cớ nào đêm nay trong lòng tôi bức-rức ngủ không được, nên tôi thức dậy mở cửa ra ngoài. Đứng trước hiên thấy trăng tỏ, trời thanh tôi mới lần bước đến đây ngồi ngoạn cảnh. Sao phu-nhơn không nghỉ, mà sao lại biết tôi ở đây mà kiếm?  - Thưa tướng-công số là tôi đang ngủ, bỗng chiêm bao thấy phụ thân tôi đầu xã tóc, mà mặt mày tái xanh chạy vô cửa kêu tôi rồi đứng ngó tôi mà khóc. Tôi la lên một tiếng rồi giựt mình thức dậy, cả mình hạn xuất ướt dầm. Tuy tôi biết là chuyện chiêm bao, song không hiểu lành dữ lẽ nào, nên chạy qua phòng tướng-công đặng tỏ lại cho tướng-công nghe. Chẳng dè qua đến đó thấy phòng không vắng vẻ, tôi bước ra tiền đường thấy đèn còn chong trên án mà cửa lại mở bét, tôi liệu chắc tướng-công ra ngoài, nên mới nhẹ gót đến đây mà bày tỏ chuyện chiêm bao cho tướng-công bàn thử.  - Phu-nhơn đừng có sợ. Người ta nói mộng là mị biết sao là lành, sao là dữ mà bàn. Phu-nhơn ngồi ghế đó mà nghỉ chơn, rồi trở vào mà ngủ.  Quan Thứ-sử kéo một cái ghế còn bỏ trống dưới cội cây đem ra mời phu-nhơn ngồi. Lúc đó có một vừng mây bay áng mặt trăng làm cho tư bề cỏ cây lờ mờ, cảnh vật trông ra hết đẹp. Chẳng biết hai người ngồi dưới cội, thấy trăng lu mà buồn bực, hay là nhớ giấc mộng là não nề, song cả hai đều ngồi im-lìm không ai nói tiếng chi hết. Cách một hồi lâu vừng mây qua khỏi, nguyệt sáng lòa, hoa cỏ khoe màu, nước non rạng vẻ; phu-nhơn liếc thì thấy quan Thứ-sử nét mặt ưu sầu, bèn cất tiếng hỏi rằng:  - Thưa tướng-công đá nói chiêm bao là mộng mị, mà sao nãy giờ coi bộ tướng-công không được vui? Nếu thiệt là điềm chẳng lành thì xin tướng-công cũng nói cho thiếp hay. Thiếp tuy là phận gái mặc dầu nhưng mà thiếp đã tuần quen nguy hiểm phong ba, bởi vậy dầu gặp dịp chẳng may thiếp cũng đủ trí đởm đương xin tướng-công chớ ngại.  - Phu-nhơn sợ quá nên nghi cho tôi dấu diếm phu-nhơn đó mà thôi, chớ nào có phải điềm chiêm bao đó làm cho tôi buồn đâu.  - Vậy chớ tướng-công buồn về việc chi?  - Tôi buồn cũng nhiều việc, buồn về việc nhà việc nước lo những nghĩa nặng ơn sâu, nghĩ thiệt khó mà tả hết cho phu-nhơn nghe được.  - Thưa tướng-công, thiếp tuy vụng về yếu đuối, nhưng mà thiếp hằng hết lòng lo sửa trắp nâng khăn. Đã vậy mà lại nhờ phật trời ủng hộ cho vợ chồng ta sanh được hai đứa con trai, thằng Xương-Cấp nay tuổi đã 12, và thằng Xương-Văn nay tuổi đà 11. Còn tướng-công thì đường công danh rực rỡ, làm quan đến chức Thứ-sử, oai quyền to lớn binh tướng dõng cường, cứ Ái-châu thành bố đức trăm nhà, dân Chiêm-thành quốc nghe danh khiếp sợ. Việc gia-đình như vậy, đường công danh như vậy, mà sao tướng-công lại buồn? Hay là thiếp ở có chỗ nào thiếu sót nên tướng-công phiền riêng thiếp chăng?  - Phu-nhơn không rõ, để tôi tỏ thiệt cho phu-nhơn nghe. Tôi vốn con nhà hàn vi lê thứ, chẳng may mẹ cha mất sớm nên tôi phải xứ Đường-Lâm 2 mà rảo bước giang hồ, chủ ý của tôi là muốn kiếm bạn tri-âm mà kết nghĩa đồng-tâm, đặng lập chút thân danh cho rỡ ràng nam-tử. Thiệt cũng nhờ có phật trời giúp vận, nên đến Bình-Kiều 3 may gặp được nhạc phụ yêu thương. Tôi chẳng có tài gì mà nhạc-phụ lại gả phu-nhơn cho tôi, rồi trong lúc dấy nghĩa binh mà đánh Lý-Khắc-Chánh, đuổi Lý-Tấn về Tàu, tôi cũng chẳng có công lao bao nhiêu mà chừng nhạc-phụ cầm quyền Tiết-đạt-sứ rồi lại cho tôi lãnh chức Ái-châu Thứ-sử, lo giữ gìn nam-phương cường-giới.  Mời các bạn đón đọc Nam Cực Tinh Huy của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Mẹ Ghẻ Con Ghẻ
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mời các bạn đón đọc Mẹ Ghẻ, Con Ghẻ của tác giả Hồ Biểu Chánh.