Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sơn Ca Vẫn Hót

Câu chuyện xoay quanh 2 chị em Isabelle (biệt danh "Sơn ca") và Vianne tham gia kháng chiến, sẵn sàng nhận những nhiệm vụ đầy thách thức trong cuộc chiến tranh năm 1939 tại Pháp. *** Kristin Hannah là tác giả Mỹ đoạt giải và nhà văn ăn khách của hơn 20 tiểu thuyết, bao gồm cả bom tấn quốc tế.  Các tác phẩm tiêu biểu: A Handful of Heaven, The Enchantment, Once in Every Lifetime, If You Believe, When Lighting Strikes, Waiting for the Moon, Home Again, On Mystic Lake, Angel Falls, Summer Island, Distant Shores, Betwwen Sisters, The Thing We Do for Love, Comfort & Joy, Magic Hour… Sơn ca vẫn hót (The Nightingale), là tựa sách đoạt giải Tiểu thuyết lịch sử hay nhất do bạn đọc bình chọn trên Goodreads năm 2015, và thắng giải Bạn đọc bình chọn ở hạng mục sách hay cùng năm. Cô cũng đoạt giải Sách hay nhất của năm trên trang Amazon, iTunes, Buzzfeed, thời báo Wall Street Journal, Paste, và The Week. Sơn ca vẫn hót hiện đang hoàn tất khâu sản xuất tại hãng phim Tri Star, với sự chỉ đạo của đạo diễn giành được nhiều giải thưởng Michelle MacLaren. Home Front đã được hãng phim 1492 Film (nhà sản xuất của bộ phim đề cử Oscar The Help) lựa chọn để dựng thành phim, với Chris Colombus viết kịch bản, sản xuất, và đạo diễn. Cuốn Between Sisters từng được chương trình The Early Show của kênh CBS chọn là một trong những cuốn sách hay nhất trong mùa hè. Những điều chúng ta làm vì yêu là một câu chuyện đầy sâu lắng, trọn vẹn để tôn vinh sự kỳ diệu của tình mẫu tử, những niềm vui sướng khi được trở về nhà, và nhận được kết quả xứng đáng của tình yêu. Tác giả ăn khách nhất của Thời báo New York Times “đã chạm vào nơi sâu lắng nhất, đa cảm nhất trong từng góc nhỏ của trái tim chúng tôi.” (tác giả Tami Hoag).  “Hannah nắm bắt được niềm vui và nỗi đau trong một gia đình khi cuốn hút người đọc vào cuộc đời các nhân vật của cô và khiến họ cảm thấy như những người bạn thân quen, một lần nữa chứng tỏ cô là ngôi sao trong thể loại văn học hư cấu về người phụ nữ.” (Booklist) “Hannah rất giỏi đi sâu vào tâm lý của các nhân vật chính và khắc họa những sắc thái của cảm xúc.” (The Washington Post Book World) “Vô cùng thú vị… Hannah có đôi tai nhậy cảm với lời thoại và khả năng thiên phú đưa người đọc xâm nhập vào trong đầu nhân vật.” (The Seattle Times) “Cuốn sách tuyệt vời này là một ví dụ kinh điển cho những câu chuyện vô cùng xúc động và kích thích tư duy, sở trường của Hannah. Sự ấm áp và đa dạng của các nhân vật đã chạm tới được những cảm xúc sâu kín nhất.” (Romantic Times) *** Những ánh đèn sẽ tắt trên toàn cõi châu Âu; Cả đời chúng ta sẽ không thấy chúng sáng trở lại nữa. SIR EDWARD GREY, VỀ THẾ CHIẾN I   Tháng Tám năm 1939 Pháp Vianne Mauriac rời khỏi căn bếp lạnh lẽo với những bức tường trát vữa giả đá và bước ra sân trước. Trong buổi sáng hè đẹp nắng này ở thung lũng sông Loire, mọi thứ thật rực rỡ. Những tấm khăn trải giường màu trắng bay lật phật trong gió, đám hoa hồng xô nhau hé cười dọc theo tường rào bằng đá ngăn giữa ngôi nhà của chị với con đường. Hai chú ong cần mẫn lượn quanh những bông hoa. Vianne nghe thấy tiếng một đoàn tàu rền rĩ xa xăm, sau đó là tiếng cười đáng yêu của một bé gái. Sophie. Vianne mỉm cười. Chắc đứa con gái tám tuổi của chị đang chạy quanh nhà, khiến bố con bé phải làm đủ thứ để vừa lòng nó trong lúc chuẩn bị cho chuyến dã ngoại ngày thứ Bảy của cả nhà. - Con gái em đúng là một bạo chúa. - Antoine lên tiếng khi xuất hiện trên ngưỡng cửa. Anh đi về phía vợ, mái tóc bóng mượt loang loáng dưới ánh nắng. Anh vừa tút tát lại đồ nội thất sáng nay - chà giấy ráp một cái ghế đã nhẵn bóng - nên trên mặt và vai anh có một lớp bụi gỗ mỏng. Anh cao lớn, vai rộng, khuôn mặt chữ điền, và có một lớp râu mỏng đen nhánh luôn đòi hỏi phải nỗ lực để ngăn nó trở thành một hàm râu rậm rì. Antoine vòng một cánh tay quanh người Vianne và kéo vợ sát vào người anh. - Anh yêu em, V. - Em cũng yêu anh. Trên thế giới này không còn điều gì chân thật hơn thế. Vianne yêu mọi thứ nơi người đàn ông này: nụ cười của anh, cách anh lầm bầm trong khi ngủ, cười ngượng nghịu sau khi hắt hơi, và hát ông ổng trong lúc tắm. Chị đã phải lòng anh từ mười lăm năm trước, trên sân trường, trước cả khi hiểu được tình yêu là gì. Anh là tất cả những điều đầu tiên đối với chị - nụ hôn đầu, mối tình đầu, người yêu đầu. Trước khi gặp Antoine, Vianne chỉ là một con bé gầy như que củi, vụng về, hay lo lắng và nói lắp bắp mỗi khi sợ hãi, mà sợ hãi là chuyện khá thường xuyên. Một đứa con gái mồ côi mẹ. - Giờ con sẽ là người lớn trong nhà, - ba đã nói với Vianne như thế khi họ đến ngôi nhà này lần đầu tiên. Lúc đó Vianne mới mười bốn tuổi, mắt đỏ hoe và đau buồn không chịu nổi. Chỉ trong một khoảnh khắc, ngôi nhà này đã từ một chỗ nghỉ mát của gia đình trở thành một dạng nhà tù. Mẹ mất chưa được hai tuần, ba của Vianne đã từ bỏ vai trò người cha. Khi họ đến đây, ông không còn nắm tay hay đặt tay lên vai con gái, hay thậm chí là đưa cho nó một cái khăn mùi xoa để thấm nước mắt. - Nhưng con... con còn nhỏ mà, - Vianne đã nói như thế. - Con không còn nhỏ nữa. Lúc đó Vianne đã nhìn xuống đứa em gái, Isabelle, một đứa bé bốn tuổi chỉ biết mút ngón tay và chẳng hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Isabelle cứ hỏi đi hỏi lại khi nào thì mẹ về. Khi cửa nhà bật mở, một phụ nữ có cái mũi như vòi nước và hai con mắt nhỏ xíu, đen thui như quả nho khô xuất hiện. - Bọn trẻ đây à? - Người phụ nữ hỏi. Cha Vianne gật đầu. - Chúng sẽ không gây rắc rối cho ông nữa. Chuyện đó diễn ra rất nhanh. Vianne không thực sự hiểu hết. Người cha rũ bỏ hai đứa con gái như người ta thay quần áo bẩn và để chúng lại với một người xa lạ. Hai đứa bé chênh tuổi nhau quá nhiều, đến nỗi dường như chúng không phải chị em ruột. Vianne muốn dỗ Isabelle, nhưng bản thân còn đang đau buồn tới mức chẳng thể nghĩ đến ai khác, đặc biệt là một đứa bé cứng đầu, nóng nảy và ồn ào như em gái mình. Còn nhớ những ngày đầu tiên ở đây, Isabelle cứ khóc ré lên và bị bà kia đánh đòn. Vianne phải xin cho con bé và cứ nhắc đi nhắc lại: “Chúa ơi, Isabelle, đừng khóc nữa. Nghe lời đi em”. Nhưng dù chỉ mới bốn tuổi, Isabelle đã tỏ ra là một đứa bất trị. Vianne đã trở nên tuyệt vọng vì tất cả chuyện đó - nỗi đau mất mẹ, nỗi buồn bị cha bỏ rơi, sự thay đổi gia cảnh đột ngột, và việc đòi mẹ đến ngán ngẩm của Isabelle. Chính Antoine là người đã cứu Vianne. Mùa hè đầu tiên sau cái chết của mẹ, hai đứa đã không thể tách rời nhau được. Với Antoine, Vianne đã tìm được một lối thoát. Năm mười sáu tuổi Vianne đã mang thai, và đến năm mười bảy thì kết hôn, trở thành bà chủ của Le Jardin. Hai tháng sau, Vianne sẩy thai và hoang mang, bối rối một thời gian. Không có cách nào khác hơn để diễn tả điều đó. Vianne thu mình lại với nỗi đau buồn và để nó vây kín mình, không thể quan tâm đến bất kỳ ai, hay bất kỳ điều gì, đặc biệt là đứa em gái nhỏ ưa khóc lóc vòi vĩnh. Nhưng chuyện đó đã qua rồi. Đó không phải là ký ức mà Vianne muốn nghĩ đến trong một ngày đẹp trời như hôm nay. Chị dựa người vào chồng trong lúc đứa con gái chạy đến chỗ hai người, tuyên bố: - Con xong rồi. Mình đi thôi. - Ồ. - Antoine nhăn mặt. - Công chúa đã sẵn sàng, chúng ta phải lên đường thôi. Vianne mỉm cười quay trở vào nhà để lấy chiếc mũ treo trên cái móc cạnh cửa. Vốn có mái tóc vàng hoe ánh đỏ, làn da trắng sứ và đôi mắt xanh, chị luôn phải bảo vệ mình khỏi ánh nắng. Trong lúc chị đội chiếc mũ rơm rộng vành, lấy đôi găng tay ren và chiếc làn đựng đồ ăn, Sophie và Antoine đã ra khỏi cổng. Vianne nhập bọn với hai cha con trên con đường đất trước nhà Nó chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe hơi chạy qua. Bên kia đường là những đồng cỏ mênh mông, điểm xuyết cỏ xanh, hoa anh túc đỏ, thanh cúc lam, và những cánh rừng. Trong khu vực này của thung lũng sông Loire, những cánh đồng thích hợp để trồng cỏ khô hơn là trồng nho. Chỉ cách Paris chưa đầy hai giờ xe lửa, nhưng nó giống như một thế giới khác hẳn. Khách du lịch ít khi đến đây, kể cả trong dịp hè. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi bình bịch chạy qua, hoặc một chiếc xe đạp, xe bò, nhưng chủ yếu chỉ có gia đình họ trên đường. Họ sống cách Carriveau khoảng một cây số rưỡi, thành phố chưa đến một ngàn dân được biết đến như một điểm dừng chân trên con đường hành hương đến với thánh Jeanne d’Arc. Thành phố không có ngành công nghiệp nào, và chỉ có rất ít việc làm - ngoại trừ những chỗ làm ở sân bay, niềm tự hào của Carriveau. Đó là sân bay duy nhất của cả vùng. Ở Carriveau, các con đường nhỏ hẹp lát đá cuội len lỏi giữa những tòa nhà xây bằng đá vôi nép vào nhau một cách vụng về. Vữa rơi ra từ những bức tường đá, dây thường xuân che giấu sự sụp đổ khó thấy bằng mắt nhưng luôn cảm nhận được. Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi làng đã được xây dựng theo kiểu chắp vá từng phần: những con đường cong queo, những bậc thang khấp khểnh và ngõ cụt. Màu sắc làm cho các tòa nhà trông sống động hơn: bạt đỏ căng trên khung sắt đen, ban công tô điểm những cây phong lữ trồng trong chậu sành. Đâu đâu cũng thấy thứ gì đó hút mắt: một khay bánh hạnh nhân với các tông màu nhạt, những chiếc làn đan bằng cành liễu đầy phô mai, giăm bông và xúc xích khô, những thùng cà chua, cà tím và dưa chuột đầy màu sắc... Các quán cà phê đông khách trong một ngày Chủ nhật đẹp trời. Cánh đàn ông ngồi quanh những chiếc bàn sắt, uống cà phê và hút thuốc lá tự cuốn, tranh luận sôi nổi. Đó là một ngày như mọi ngày ở Carriveau. Ông LaChoa đang quét quáy phía trước tiệm bán xa lát, bà Clonet lau tủ kính bày bán mũ, một nhóm các cậu thiếu niên sánh vai nhau đang đi bát phố, chuyển tay nhau một điếu thuốc lá và đá tung những món rác rưởi trên đường. Khi đến cuối thành phố, cả nhà rẽ về phía dòng sông. Tại một bãi cỏ phẳng phiu bên bờ sông, Vianne đặt làn đồ ăn xuống và trải khăn dưới bóng một cây dẻ. Chị lấy từ trong làn ra một ổ bánh mì que nóng giòn, một miếng phô mai béo ngậy, hai quả táo, vài lát giăm bông Bayonne, và một chai Bollinger’36. Chị rót cho chồng một ly champagne rồi ngồi xuống bên cạnh anh trong khi Sophie chạy ra bờ sông. Ngày hôm ấy trôi qua trong bầu không khí khoan khoái ấm áp của mùa hè. Họ trò chuyện, cười đùa và ăn uống. Chỉ đến cuối ngày, khi Sophie đã vác cần đi câu cá và Antoine đang làm cho cô bé một vòng hoa cúc đội đầu, anh mới nói: “Hitler sẽ sớm lôi tất cả chúng ta vào cuộc chiến tranh của hắn.” Chiến tranh. Đó là tất cả những gì người ta nói tới trong những ngày ấy, nhưng Vianne không muốn nghe nhắc đến nó. Đặc biệt là trong một ngày hè đẹp trời như thế. Chị khum tay che mắt quan sát con gái. Bên kia dòng nước, thung lũng sông Loire được canh tác cẩn thận và tỉ mỉ. Không có hàng rào, ranh giới, chỉ có những cánh đồng xanh mướt trải dài nhiều dặm, các mảng rừng và đây đó những ngôi nhà hoặc kho chứa xây bằng đá. Nhiều bông hoa nhỏ xíu màu trắng bay lơ lửng trong không khí, tựa như những túm bông nhỏ. Vianne đứng dậy và vỗ tay. - Sophie, đến giờ về rồi con. - Em không thể phớt lờ chuyện này được đâu, Vianne. - Em có cần phải bận lòng không? Mà tại sao chứ? Mẹ con em có anh bảo vệ đây rồi. Nói đoạn Vianne bật cười, có lẽ hơi to quá mức. Chị thu dọn đồ dã ngoại rồi dẫn cả nhà quay về con đường đất. Chưa đầy ba mươi phút sau, họ đã ở trước cánh cổng gỗ vững chãi của Le Jardin, trang viên của gia tộc chị từ ba trăm năm qua. Ngôi nhà hai tầng xây bằng đá đã ngả màu xám theo thời gian, có các cửa sổ cánh chớp màu xanh dương nhìn ra vườn cây. Dây thường xuân leo lên tận hai ống khói và phủ kín lớp gạch. Diện tích của khu đất chỉ còn lại bảy mẫu. Hai trăm mẫu đã bị bán đi trong hai thế kỷ, khi tình hình tài chính của gia đình suy sụp dần. Bảy mẫu là quá đủ đối với Vianne. Chị không nghĩ mình cần nhiều hơn thế. Vianne đóng cửa lại sau khi mọi người đã vào nhà. Trong bếp, xoong chảo bằng đồng và gang được treo phía trên bếp lò. Những bó oải hương, hương thảo và cỏ xạ hương được treo trên xà nhà. Ngoài ra còn một cái chậu bằng đồng đã gỉ xanh qua năm tháng, đủ to để tắm cho một con chó nhỏ. Theo thời gian, lớp thạch cao trên tường đã bong tróc nhiều chỗ. Phòng khách là một sự pha trộn lung tung các món đồ và vải trang trí: ghế trường kỷ bọc dạ, thảm Aubusson, đồ gốm cổ Trung Hoa, rèm hoa và tranh vải. Một vài bức tranh treo trên tường rất đẹp và có thể được giá, số còn lại có vẻ nghiệp dư. Bao trùm lên tất cả là nét lộn xộn chắp vá của tình trạng sa sút tiền nong và gu thẩm mỹ lỗi thời, hơi tồi tàn, nhưng dễ chịu. Vianne dừng lại trong phòng khách và nhìn qua cửa kính trông ra sân sau, nơi Antoine đang đẩy Sophie trên chiếc xích đu anh làm cho con bé. Chị nhẹ nhàng treo mũ lên cái móc cạnh cửa rồi với lấy chiếc tạp dề, mặc vào người. Trong khi hai bố con chơi ngoài trời, Vianne nấu bữa tối. Chị bọc một miếng thăn lợn trong khoanh thịt hun khói cắt dày, buộc dây nhiều vòng rồi rán vàng trong dầu nóng. Trong lúc món thịt lợn được nướng trong lò, Vianne chuẩn bị các món ăn còn lại. Đúng tám giờ tối, chị gọi cả nhà vào dùng bữa rồi mỉm cười mãn nguyện khi nghe thấy tiếng chân chạy rầm rập, tiếng trò chuyện vui vẻ và tiếng kéo ghế ken két bên bàn ăn. Sophie ngồi ở đầu bàn, con bé đội vòng hoa cúc mà bố đã làm cho ở bờ sông. Vianne đặt đĩa thức ăn lên bàn. Một mùi thơm phức bốc lên - thịt lợn nướng và thịt xông khói rán giòn nấu táo, bên trên phủ một lớp nước xốt rượu vang béo ngậy, bên dưới là một lớp khoai tây nướng. Cạnh đó là một bát đậu Hà Lan tươi rưới bơ và rắc lá ngải giấm nhà trồng. Và để dùng kèm thì không thể thiếu bánh mì mà Vianne đã nướng sáng hôm qua. Như thường lệ, Sophie huyên thuyên suốt trong bữa ăn. Về khoản này thì con bé giống y hệt dì Isabelle của nó, không thể giữ mồm giữ miệng được. Cuối cùng, lúc họ ăn đến món tráng miệng - île flottante, đảo trứng nổi trên một lớp kem Anh -, sự im lặng hài lòng bao trùm quanh bàn ăn. - Thôi. - Cuối cùng Vianne đẩy món tráng miệng mới ăn hết một nửa của mình sang một bên và tuyên bố. - Đến lúc rửa bát rồi. - Mẹ ơi... - Sophie mè nheo. - Không được làm nũng. - Antoine nói. - Con lớn rồi. Vianne và Sophie đi vào trong bếp như mọi buổi tối. Hai người đứng vào vị trí - Vianne cạnh cái chậu đồng, Sophie cạnh cái bàn đá - và bắt đầu rửa rồi lau khô bát đĩa. Vianne có thể ngửi thấy thứ mùi ngòn ngọt và hơi gắt của điếu thuốc mà Antoine hút sau bữa tối phảng phất trong nhà. - Hôm nay bố chẳng thèm cười với mấy câu chuyện con kể. - Sophie nói trong lúc Vianne xếp đĩa lên chiếc kệ gỗ treo tường. - Bố bị làm sao ấy. - Không cười á? Ờ, chuyện đó cũng đáng báo động đấy. - Bố đang lo lắng vì chiến tranh. Chiến tranh. Lại nữa rồi. Vianne xua con gái ra khỏi bếp. Hai mẹ con lên gác rồi vào phòng của Sophie. Chị ngồi trên chiếc giường đôi, lắng nghe con gái huyên thuyên trong khi thay đồ ngủ; đánh răng và lên giường. Chị cúi xuống hôn con bé. - Con sợ lắm. - Sophie nói. - Chiến tranh sắp xảy ra ạ? - Đừng sợ. - Vianne nói. - Bố sẽ bảo vệ mẹ con mình. Nhưng ngay khi nói câu vừa rồi, chị chợt nhớ ngày trước mẹ cũng từng bảo chị đừng sợ. Đó là khi cha Vianne ra chiến trường. Sophie có vẻ chưa yên tâm. - Nhưng mà... - Không nhưng nhị gì cả. Con không việc gì phải lo lắng. Giờ thì ngủ đi. Vianne hôn Sophie lần nữa và để môi mình nấn ná lâu hơn trên má con bé. Chị xuống cầu thang rồi bước ra sân sau. Trời đêm khá oi bức, không khí đượm mùi hoa nhài. Chị tìm thấy Antoine đang ngồi ở chiếc ghế uống cà phê bằng sắt đặt trên bãi cỏ, chân choãi ra, người ngả sang một bên. Chị đến bên cạnh và đặt một tay lên vai chồng. Antoine nhả khói, rồi rít một hơi thuốc dài. Sau đó anh ngước nhìn vợ. Dưới ánh trăng, khuôn mặt anh tái nhợt và u ám, gần như không thể nhận ra. Anh thò tay vào trong túi áo và lôi ra một tờ giấy. - Anh bị động viên rồi, Vianne. Cùng với hầu hết đàn ông tuổi từ mười tám đến ba lăm. - Động viên? Nhưng... chúng ta chưa có chiến tranh mà? Em không... - Thứ Ba tới anh sẽ phải lên đường. - Nhưng... nhưng... anh chỉ là một bưu tá. Anh nhìn sâu vào đôi mắt chị, khiến chị đột nhiên nghẹn ngào. - Giờ anh đã là một người lính. Hình như thế. Mời các bạn đón đọc Sơn Ca Vẫn Hót của tác giả Kristin Hannah.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Ngôi Của Người
Ba ngôi của người, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Nguyễn Việt Hà, trước hết là cuốn sách của không gian và thời gian vô cùng Hà Nội. Tiếp nối mạch chủ đề của Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, cuốn tiểu thuyết một lần nữa bóc ra những lớp đan cài phức tạp của một Hà Nội dồn dập những “sóng lớp phế hưng” trong thời gian tồn tại. Không chỉ dừng ở một Hà Nội những năm gần đây, cuốn tiểu thuyết còn tham vọng trải thời gian trên cùng mảnh đất, ngược lên 600 năm trước, thông qua 10 kiếp “luân sinh” của nhân vật chính. Những kiếp đời này tựa như những mũi khoan thăm dò thời đại đã qua, bằng những chấm phá của lớp trầm tích khảo lên mà tác giả phác thảo một đôi nét đặc thù của thời ấy - cố nhiên là thủ pháp giả lịch sử, hư cấu quyện với những trích dẫn nằm trong mạch viết, tạo nên một không gian xa mà gần, rất đắc dụng để một nhân vật có lý lịch đi xuyên thời gian tung hoành. *** Không gian và thời gian của vô cùng Hà Nội 1- Không gian nhị nguyên, thời gian đa chiều Khi tìm hiểu về một nhà văn, tôi thường chú ý đến nguồn cội hay nơi cư trú của họ. Dù viết thể loại giả tưởng đi chăng nữa, cách họ quan sát và tái hiện không gian sống xung quanh vào tác phẩm vẫn bộc lộ xuất xứ của họ. Trong nhiều trường hợp, đây lại là mảng sinh động nhất, bộc lộ cách nhìn thế giới xung quanh của người viết. Vì thế, tôi không ngạc nhiên khi Nguyễn Việt Hà trở đi trở lại con phố Nhà Chung nơi anh ở trong các tác phẩm của mình, hoặc rộng hơn một chút là những phố cổ chật hẹp gắn với Hồ Gươm, từ các tiểu thuyết Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn hay các tập tản văn rất ăn khách gần đây – Con giai phố cổ, Đàn bà uống rượu, và cuốn tiểu thuyết mới nhất này – Ba ngôi của người. Phố xá, nhà cửa, cây cối và những không gian công cộng của Hà Nội quanh mấy khu vực này dường như là sân bóng của Nguyễn Việt Hà, để anh như một tiền đạo cắm sẽ ghi bàn vào những phút quan trọng. Hình dung được quang cảnh không gian tác giả hít thở sẽ hiểu cách anh ta cho nhân vật sinh tồn ra sao. Phố Nhà Chung đi qua nền ngôi chùa Báo Thiên xa xưa có từ thời Lý, lại cũng là nơi Nhà thờ Lớn được dựng lên, và trong quy hoạch thời Pháp, nó là một con đường nối khu 36 phố phường của người Việt với khu phố Tây. Gần ngay Hồ Gươm, trung tâm của đô thị Hà Nội hơn trăm năm qua, nó chứng kiến những va chạm giữa thần quyền và thế quyền, giữa “phảng phất như là có đức tin” và “chẳng cần có cái đếch gì” (lời nhân vật trong Ba ngôi của người). Mang một vai trò nhị nguyên ở nhiều khía cạnh như thế, vùng phố xá Nguyễn Việt Hà rất thông thạo này đã ảnh hưởng lên không gian trang viết của anh. Một cuốn tiểu thuyết có không gian, có chiều sâu thời gian, luôn hứa hẹn là cuốn sách tầm cỡ. Ba ngôi của người, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Nguyễn Việt Hà, trước hết là cuốn sách của không gian và thời gian vô cùng Hà Nội. Ba ngôi của người, tiếp nối mạch chủ đề của Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, một lần nữa bóc ra những lớp đan cài phức tạp của một Hà Nội dồn dập những “sóng lớp phế hưng” trong thời gian tồn tại. Không chỉ dừng ở một Hà Nội những năm gần đây, cuốn tiểu thuyết còn tham vọng trải thời gian trên cùng mảnh đất, ngược lên 600 năm trước, thông qua 10 kiếp “luân sinh” của nhân vật chính. Những kiếp đời này tựa như những mũi khoan thăm dò thời đại đã qua, bằng những chấm phá của lớp trầm tích khảo lên mà tác giả phác thảo một đôi nét đặc thù của thời ấy – cố nhiên là thủ pháp giả lịch sử, hư cấu quyện với những trích dẫn nằm trong mạch viết, chẳng hạn những ghi chép của Hoàng Lê nhất thống chí, tạo nên một không gian xa mà gần, rất đắc dụng để một nhân vật có lí lịch đi xuyên thời gian tung hoành. “Luân sinh” là chữ Nguyễn Việt Hà tạo ra trong tiểu thuyết này, nó cố gắng tránh chữ luân hồi trong Phật giáo và tránh áp một hàm nghĩa đạo đức nào. Các nhân vật của Nguyễn Việt Hà cũng vậy, không bám vào các thang giá trị đạo đức cứng nhắc, họ linh hoạt trong ứng xử, nhiều khi có tính bản năng và tỏ ra cực mạnh về trực giác. Bảo rằng họ tốt cũng không hẳn, mà cũng khó thể nói họ là người xấu. Ở mỗi kẻ có một lương tri riêng, tự nhiên và gắng gỏi tránh sự suy đồi dưới sức ép mặt trái xã hội. Ba ngôi của người diễn tiến ở thì hiện tại theo quá trình đứa con có tên hay biệt danh là Kun sinh năm 1982 tìm lại cha mình – kẻ yếm thế trốn đời tên Tôi – chính là nhân vật đi xuyên thời gian đã nói. Người đàn ông sinh năm 1956 này có khả năng nhớ ngẫu nhiên những gì ở các kiếp luân sinh trước, đấy là một phép lạ nhưng cũng là một gánh nặng. Gần 30 năm trước, người vợ hai mươi tuổi vì một cơn ghen đã dứt khoát chia tay bằng việc nói dối rằng mình đã phá bỏ cái thai. Tất nhiên như kiểu Nguyễn Việt Hà nói, ba người trong cuộc đều là người tử tế nên cuộc đoàn viên sẽ diễn ra. Nhưng cũng tất nhiên như lối viết Nguyễn Việt Hà, cuộc đoàn viên ấy không có màn hân hoan dung tục trào nước mắt, nó tiếp theo bằng sự biến mất của người cha, kẻ chấm dứt kiếp luân sinh thứ 10 của hắn với niềm an ủi rằng đứa con trai mình là một kẻ tử tế và sẽ còn phải trải nhiều duyên nợ với đời. 2-Sự can dự thần bí của kẻ khác Bên cạnh mối quan hệ tam giác đó là ngôi còn lại của “người” – tay tài phiệt trẻ Quang Anh, là em của mẹ Kun, sinh ra vào giữa cuộc chiến tranh khốc liệt năm 1972. Anh ta có phải là “Các Thánh Thần” bên cạnh “Cha-Con” không, điều này là một khả năng bỏ ngỏ, nhưng Quang Anh là kẻ sống với hiện tại. Khác với Tôi hay Kun, nếu có nhớ chuyện đã rồi, anh ta không dành thời gian để dằn vặt nhiều, cho dù là vô tình phát hiện ra mình ngủ với bạn gái của cháu hay sơ sẩy trong làm ăn để thành tay trắng. Điều này ít nhiều có liên quan đến xuất thân học vấn. Nhân vật Tôi hoàn toàn là một trí thức lỡ dở, tuổi xuân nằm gần trọn trong giai đoạn chiến tranh và bao cấp, không rõ làm nghề gì, mà như nhận xét của cậu con trai họa sĩ khi gặp cha lần đầu: “Đấy là một trung niên phong độ bình thường, mặt mũi cũng bình thường, nhưng nếu nhìn thật kỹ thì có nhiều nét lạ”, thì quả thực anh ta khó nắm bắt. Kun là một họa sĩ nhiều năng lực sáng tạo vẫn đang đi tìm một cái đích, mọi suy nghĩ đều xuất phát từ trực quan thiên phú. Còn Quang Anh sinh ra trong gia đình bố hàm Thứ trưởng, có những điều kiện lý tưởng nhất, du học Mỹ, làm việc toàn hợp đồng có vốn tài chính lớn, con đường dù có lúc gập ghềnh bất trắc nhưng anh ta luôn tự tin trí tuệ của mình đang cầm lái đúng hướng. Quang Anh có thể xem như một mẫu hình đàn ông thời thượng, một người hùng kinh tế của xã hội hiện tại. Nhưng khác với Tâm của Cơ hội của Chúa bỏ vốn để lập công xưởng sản xuất, Quang Anh là một nhà đầu cơ tài chính, gần với hình ảnh giới văn phòng cổ trắng, có vẻ sạch sẽ và đẳng cấp.   Mời các bạn đón đọc Ba Ngôi Của Người của tác giả Nguyễn Việt Hà.
Trao Em Mặt Trời
Noah và Jude: chẳng ai bảo họ là một cặp song sinh. Một tên nhóc èo uột rụt rè kỳ quặc lúc nào cũng ôm khư khư cuốn sổ phác họa và vẽ lại tất cả những gì nó thấy. Một nữ thần ánh sáng với suối tóc vàng rực và thân hình nóng bỏng, ngạo nghễ lướt trên con sóng bạc, hiên ngang lao xuống Vực Tử Thần. Mỗi người mang theo mình một nửa câu chuyện, một nửa thế giới – từng mảnh ghép của tình yêu, sự phản bội, lòng thù hận, những nỗ lực hàn gắn, chữa lành dần hiện ra và khớp vào nhau tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh, một bức tranh bùng nổ màu sắc và ngập tràn những phép mầu. Trao em mặt trời khiến người đọc choáng ngợp trước những hình ảnh bay bổng tuyệt đẹp và nghẹt thở bởi cảm xúc của những mối tình đầu cùng tình cảm gia đình. Tác phẩm đem lại cho Jandy Nelson vô số giải thưởng danh giá và được nhiều tạp chí, diễn đàn văn học bình chọn là tiểu thuyết nổi bật nhất năm 2015. Đến nay, cuốn sách đã được xuất bản ở hơn 25 quốc gia và được hãng phim Warner Bros mua bản quyền để chuyển thể thành phim. “Một cuốn tiểu thuyết hoang dại, đẹp đẽ, sâu sắc và đầy cảm động. Giọng văn của Jandy Nelson sôi nổi và sống động đến nỗi những trang truyện của cô ấy gần như tỏa sáng trong bóng tối.” – Ransom Riggs, tác giả bộ truyện Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine *** DÀNH TẶNG BỐ VÀ CAROL Vượt qua ranh giới của những quan niệm về hành vi sai trái và hành vi đúng đắn, có một cánh đồng. Tôi sẽ gặp bạn ở đó. RUMI Tôi chỉ tin vào sự thiêng liêng của tình yêu trìu mến từ con tim và chân lý của trí tưởng tượng. JOHN KEATS Ở đâu có tình yêu thương vĩ đại, ở đó luôn có những phép màu. WILLA CATHER Cần có lòng dũng cảm để trưởng thành và trở thành con người thật sự của bạn. E. E. CUMMINGS *** Mọi chuyện đã bắt đầu như thế. Zephyr và Fry - hai kẻ tâm thần chống đối xã hội làm vua làm chúa khu này - phóng theo tôi, toàn bộ thảm rừng dưới chân rung chuyển trong khi tôi lao đi giữa không trung, giữa những hàng cây và giữa cơn hoảng sợ cuồng loạn. “Mày lại đây, thằng hèn!” Fry hét. Rồi Zephyr đè lên người tôi, ghìm chặt một rồi cả hai cánh tay tôi ra sau lưng, còn Fry giật lấy cuốn sổ ký họa. Tôi lao tới chực giật lại nhưng hai tay đang bị giữ chặt, hoàn toàn bất lực. Tôi quằn quại để thoát khỏi vòng tay ghì chặt của Zephyr. Không thể. Cố chớp mắt biến chúng thành lũ bướm đêm. Không. Chúng vẫn là chúng: hai thằng đần lớp Mười, cao bốn mét rưỡi, lấy trò quẳng lũ mười ba tuổi còn sống nhăn như tôi xuống vách đá để mua vui. Zephyr khóa đầu tôi từ phía sau, lồng ngực nhấp nhô của hắn áp vào lưng tôi, lưng tôi áp vào lồng ngực hắn. Cả hai đứa đều đầm đìa mồ hôi. Fry bắt đầu lật mở cuốn sổ. “Mày đang vẽ cái gì thế, Bong Bóng?” Tôi mường tượng cảnh hắn bị xe tải cán. Hắn giơ một trang ký họa lên. “Zeph, nhìn mấy gã trần truồng này xem.” Máu trong cơ thể tôi ngừng chảy. “Đấy không phải mấy gã. Đấy là David,” tôi bật lên thành tiếng, cầu mong giọng mình nghe không giống một con chuột nhảy, cầu mong hắn sẽ không lật tới những bức vẽ sau đó, những bức được vẽ hôm nay khi tôi đang bí mật theo dõi, những bức vẽ chúng đang ngoi lên khỏi mặt nước, nách kẹp ván lướt sóng, không mặc đồ lặn, chẳng mặc gì cả, toàn thân bóng nhẫy và, ờm: nắm tay nhau. Có lẽ tôi đã hơi phóng túng trong nghệ thuật. Và chúng sẽ nghĩ… Chúng sẽ giết tôi trong chớp mắt, chúng sẽ làm thế đấy. Thế giới bắt đầu chao đảo. Tôi quăng từng từ về phía Fry: “Anh biết chứ? Michelangelo? Từng nghe về ông ấy chưa?” Tôi sẽ không thể hiện giống bản chất của mình đâu. Hãy tỏ ra cứng rắn, rồi con sẽ cứng rắn, bố đã nhắc đi nhắc lại nhắc tới nhắc hồi như thế - như thể tôi là một cái ô èo oặt vậy. “Ừ, tao từng nghe về ông ta rồi,” Fry cất tiếng nói từ cái miệng rộng ngoác kết thành khối với những đường nét trương phình còn lại bên dưới vầng trán đồ sộ bậc nhất thế giới, khiến người ta rất dễ lầm tưởng hắn là một con hà mã. Hắn xé trang sổ. “Nghe nói ông ta đồng tính.” Đúng thế - mẹ tôi đã viết nguyên cả một cuốn sách về chuyện đó - mà chắc Fry cũng chẳng biết. Hắn gọi tất cả mọi người là đồng tính khi không gọi họ là pê đê hay đồ hèn. Và tôi: pê đê, thằng hèn và Bong Bóng. Zephyr bật lên một tiếng cười quỷ quyệt hắc ám. Tiếng cười ấy như rung thấu khắp cơ thể tôi. Fry giơ bức ký họa tiếp theo lên. Lại David. Nửa dưới của David. Một bức nghiên cứu chi tiết. Cơ thể tôi ớn lạnh. Giờ thì cả hai đứa đều cười hô hố. Tiếng cười vang vọng khắp khu rừng. Tiếng cười cất lên từ lũ chim. Một lần nữa, tôi nỗ lực thoát ra khỏi thế khóa của Zephyr để có thể giật lại cuốn sổ từ tay Fry, nhưng tôi chỉ khiến Zephyr ghì chặt thêm. Zephyr, thằng này khác quái nào Thor. Một cánh tay hắn nghiến chặt cổ tôi, tay kia quàng quanh thân trên tôi như một sợi dây an toàn. Hắn để ngực trần vì vừa chạy thẳng từ dưới biển lên, hơi ấm từ cơ thể hắn đang ngấm dần qua áo phông của tôi. Mùi kem chống nắng hương dừa sực nức khắp khoang mũi lẫn đầu óc tôi - cả mùi biển cả mặn mòi nữa, như thể hắn đang mang cả đại dương trên lưng mình vậy… Zephyr kéo theo con sóng như một tấm chăn phủ xuống sau lưng… Cảnh ấy đẹp quá, chuẩn quá (CHÂN DUNG: Chàng trai sải bước cùng biển xanh) - nhưng không phải bây giờ, Noah, hiển nhiên giờ không phải lúc để vẽ thằng đần này trong trí tưởng tượng. Tôi thả lỏng toàn thân, nếm vị muối biển mặn mòi trên môi, thầm tự nhủ đời mình thế là tàn… Mái tóc dài như rong biển của Zephyr ướt nhem nhép, nhỏ giọt xuống khắp cổ và hai vai tôi. Tôi nhận thấy cả hai chúng tôi đang cùng nhịp nhàng thở hổn hển. Tôi cố thở khác đi. Tôi cố chống lại định luật của trọng lực và lềnh bềnh nổi lên. Cũng không xong. Chẳng làm được gì cả. Gió đang thổi bay từng bức vẽ của tôi khỏi tay Fry - giờ phần lớn là những bức chân dung gia đình - trong khi hắn xé từng trang, từng trang một. Hắn xé đôi bức vẽ Jude và tôi ở ngay chính giữa, chia cắt tôi khỏi bức tranh. Tôi nhìn bản thân theo gió bay đi. Tôi trông theo trong khi hắn lật giở ngày một gần tới những bức vẽ sẽ khiến tôi tiêu tùng. Bên tai tôi, tiếng mạch đập dội lên thình thịch. Rồi Zephyr nói, “Đừng xé, Fry. Chị nó bảo nó vẽ đẹp lắm đấy.” Bởi vì hắn thích Jude sao? Giờ thì hầu như thằng nào cũng thích chị, bởi chị có thể lướt sóng cừ hơn bất cứ ai, chị thích nhảy từ vách đá xuống và chẳng sợ gì, kể cả lũ cá mập trắng khổng lồ hay là bố đi chăng nữa. Và bởi mái tóc của chị - tôi tô mòn hết cả màu vàng chỉ để vẽ mái tóc ấy. Mái tóc dài cả trăm dặm và tất cả người dân Bắc California đều lo sẽ bị mắc vào đó, đặc biệt là đám trẻ con, lũ chó lông xù và giờ là cả những tay lướt sóng đần độn nữa. Còn cả bộ ngực nữa, bộ ngực mà tôi thề rằng xuất hiện chớp nhoáng như được chuyển phát đến chỉ trong một đêm. Khó tin thay, Fry nghe theo lời Zephyr và thả cuốn sổ xuống. Từ cuốn sổ, Jude ngó lên nhìn tôi, tươi cười, thấu hiểu. Cảm ơn chị, tôi thầm nói với chị trong tâm trí. Chị vẫn luôn giải cứu tôi, thường thì việc đó khá là đáng xấu hổ, nhưng không phải hôm nay. Việc hôm nay là hoàn toàn chính đáng. (CHÂN DUNG, CHÂN DUNG TỰ HỌA: Cặp song sinh: Noah nhìn vào gương, bóng Jude phản chiếu lại) “Mày biết bọn tao chuẩn bị làm gì mày mà, phải không?” giọng Zephyr ken két bên tai tôi, trở lại với chế độ sát nhân được lập trình sẵn như thường lệ. Cái tôi của hắn đặc sệt trong từng hơi thở. Cái tôi ấy đè quá nặng trên cơ thể tôi. “Em xin các anh đấy,” tôi van nài. “Em xin các anh đấy,” Fry nhại lại bằng cái giọng giả gái the thé. Bụng tôi quặn lại. Vực Quỷ, vách đá cao thứ nhì trên ngọn đồi, nơi chúng định ném tôi xuống, mang cái tên ấy cũng là có lý do của nó. Bên dưới bờ vực là cả một bãi đá nhọn lởm chởm và một xoáy nước hiểm độc sẽ lôi bộ xương mục ruỗng của ta xuống tận âm ty địa phủ. Tôi cố thoát khỏi vòng tay Zephyr một lần nữa. Rồi một lần nữa. “Tóm lấy chân nó, Fry!” Cả ba tấn thịt hà mã của Fry lao tới chộp lấy mắt cá chân tôi. Xin lỗi nhưng chuyện này sẽ không xảy ra. Chỉ đơn giản là không. Tôi ghét nước, dễ là tôi sẽ chết đuối và trôi dạt tới tận châu Á lắm. Tôi cần hộp sọ của mình nguyên vẹn. Nghiền nát nó sẽ chẳng khác nào đem quả tạ đến đánh sập một viện bảo tàng bí mật trước khi bất cứ ai được thấy trong đó có gì.   Mời các bạn đón đọc Trao Em Mặt Trời của tác giả Jandy Nelson.
Chuộc Tội
Vào một ngày hè nóng nhất năm 1935, cô bé mười ba tuổi Briony Tallis bất chợt trông thấy chị gái Cecilia trút bỏ áo quần rồi lao mình xuống bể đài phun nước trong khu vườn rộng trước nhà. Cùng chứng kiến cảnh ấy, là Robbie Turner, người bạn của nàng từ thuở nhỏ, và cũng như nàng vừa trở về từ đại học Cambridge.  Đến cuối ngày hôm ấy cuộc đời của cả ba người đã vĩnh viễn thay đổi. Robbie và Cecilia sẽ vượt qua một biên giới mà họ chưa từng hình dung rằng có tồn tại, và trở thành nạn nhân của trí tưởng tượng của cô bé mười ba tuổi kia. Còn Briony, em đã chứng kiến những chuyện bí ẩn và phạm phải một tội ác mà để chuộc lại thì có lẽ cần nhiều hơn một đời người.  Chuộc tội được làm nên bằng từng chi tiết được khắc họa tỉ mỉ đến tinh xảo, những nhân vật và tâm hồn nhân vật được xây dựng cá biệt nhưng thống nhất cao độ, những khám phá cơ hồ thanh tân về sự dối trá của vẻ bề ngoài và sự ngây thơ ẩn tàng diệt hủy, tất cả đặt trong một kết cấu độc nhất vô nhị - dàn trải mà vẫn tập trung, phi tuyến tính nhưng hoàn toàn logic. Vẫn những chủ đề quen thuộc như tình yêu và tội lỗi, giận dữ và thứ tha, nhưng Chuộc tội đã được tạo tác tuyệt vời đến mức không gì trong cuốn sách đem lại cho người đọc cảm giác cũ mòn. Phảng phất u tối nhưng quyến rũ kỳ lạ, cho đến nay đó thực sự là tác phẩm viên mãn nhất của McEwan, xứng đáng với giải thưởng cao quý National Book Critics Circle Award dành cho thể loại tiểu thuyết vào năm 2002.   "Một tiểu thuyết tuyệt tác" - Independent "Những khám phá xuất sắc về dòng chảy của tội lỗi, nỗi hổ thẹn và sự giận dữ..." - Scotsman *** Ian McEwan sinh ngày 21/6/1948 tại Aidershot, Anh. Ông từng học ngành Văn học Anh tại Đại học Sussex và tốt nghiệp cử nhân năm 1970, sau đó lấy tiếp bằng Thạc sĩ Văn học Anh tại Đại học East Anglia. Các tác phẩm của McEwan được giới phê bình thế giới đánh giá cao. Ông đã giành giải thưởng Somerset Maugham Award năm 1976 cho tập truyện ngắn First Love, Last Rites; giải Whitbread Novel Award (1987) và Prix Femina Etranger (1993) cho tác phẩm The Child in Time; đồng thời giành được cả giải Germany’s Shakespeare Prize vào năm 1999. Ông đã nhiều lần lọt vào danh sách đề cử chốt của giải Man Booker Prize và đến năm 1998 đã giành được giải thưởng cao quý này cho tác phẩm Amsterdam. Cuốn tiểu thuyết Atonement đã giành được giải WH Smith Literary Award (2002), giải National Book Critics’ Circle Fiction Award (2003) của giới phê bình Anh, giải Los Angeles Times Prize dành cho thể loại hư cấu (2003) và giải Santiago Prize dành cho Tiểu thuyết Châu Âu (2004). Năm 2000, ông cũng được trao giải CBE, giải thưởng cao quý của Hoàng gia Anh dành cho những người có cống hiến xuất sắc. Năm 2006, cuón tiểu thuyết Saturday của ông đã giành được giải James Tait Black Memorial Prize. Còn tại lẽ trao giải British Book Awards 2008, Trên bãi biển Chesil đã giành được giải Book of the Year (Cuốn sách của năm) đồng thời đem lại cho tác giả của nó danh hiệu Author of the Year (Tác giả của năm). McEwan đã kết hôn hai lần. Người vợ thứ hai của ông, Annalena McAfee, từng là biên tập viên cho mục Bình luận của tờ The Guardian danh tiếng. Ngoài sự nghiệp, ông còn khá nổi tiếng trên mặt báo khi vào năm 1999 người vợ đầu tiên của ông bắt cóc đứa con trai 13 tuổi khi tòa trao quyền giám hộ con chỉ cho mình ông. Tiểu thuyết Chuộc tội cũng từng bị cáo buộc là đạo văn từ cuốn No Time for Romance của Lucilla Andrews. Tuy nhiên McEwan công khai khẳng định mình vô tội trên tờ The Guardian, lý do là trong ghi chú cuối tiểu thuyết của mình, ông đã nêu rõ tác phẩm của Andrews. Bộ phim cùng tên dựng lại từ tác phẩm Chuộc tội của McEwan đã được đề cử bảy giải Oscar quan trọng và giành được giải Nhạc nền xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 80 năm 2008. Cùng năm đó, bộ phim cũng đồng thời giành được giải Phim hay nhất ở cả giải Quả cầu Vàng và giải British Academy Film Awards của Viện Điện ảnh Anh Quốc. Hiện Website chính thức của tác giả tại địa chỉ www.iannicewan.com. *** Review Thu Hoài - Trạm Đọc: Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao? Khi mà xã hội ngoài kia đang sôi sục về những vụ ấu dâm thì tôi cũng đọc được một câu chuyện ấu dâm khác trong thời Thế chiến thứ Hai, khi con người ta còn nhiều nỗi lo hơn so với cái xã hội rảnh như bây giờ. Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao?  Cấu trúc truyện lồng trong truyện trong cuốn sách Chuộc tội của Ian McEwen kể về lời khai của một cô bé mười ba tuổi khi là nhân chứng duy nhất trong vụ cưỡng hiếp người chị họ, kèm theo nỗi đau tinh thần đã kéo dài hơn sáu mươi năm, và một lời thú tội muộn màng. Mùa hè 1935, Robbie Turner bị bắt vì tội cưỡng hiếp cô bé Lola mười lăm tuổi,  một người họ hàng của gia đình Tallis. Nhân chứng và lời khai duy nhất của vụ án là con gái út mười ba tuổi, Briony Tallis, người đã chắc chắn khẳng định hung thủ là Turner, khi cô tình cờ bắt gặp cảnh tượng khủng khiếp ấy trong đêm tối tại khu vườn gần nhà. Turner là con trai người hầu và người giúp việc của gia đình Tallis, đồng thời cũng là người bạn ấu thơ của Cecilia Tallis. Qua lời tố cáo của Briony, Turner cũng là người đã bắt Cecilia cởi bỏ đồ trước mặt hắn, viết bức thư dâm đãng gửi và tra tấn Cecilia trong thư viện. Trong thời chiến tranh, để huy động hết lực lượng quân số, những người mang trọng tội như Turner đã được cho phép đi lính thay vì ngồi trong tù của chính phủ Anh.  Đọc đến đây, bạn có thể nói “Đáng đời hắn, những kẻ vô nhân tính như hắn đáng phải đền tội” hay những câu tương tự như vậy. Tôi cũng phần nào đồng cảm với bạn. Nhưng lời khai của một đứa trẻ tuổi vị thành niên có đáng tin không? Nếu là thời nay chắc cảnh sát và truyền thông còn phải mổ xẻ rất nhiều tình tiết trong lời khai ấy. Nhưng khi ấy, cảnh sát và quân đội Anh còn phải lo về thuốc súng đạn dược trong cuộc chiến tranh với Đức, ai rảnh đâu đi điều tra lời nói của một đứa bé. Họ thậm chí còn mừng thay khi có một nhân chứng, và nhân chứng ấy lại vô cùng quả quyết, chắc chắn về những gì mình nhìn được. Briony có lẽ còn xứng đáng trở thành anh hùng trong lòng các cô gái trẻ ấy chứ.  Ấy vậy mà, người “anh hùng” của chúng ta, Briony lại sống trong những năm tháng đau khổ và dằn vặt suốt phần đời còn lại của mình. Năm năm sau, cô trở thành y tá thực tập trong bệnh viện London thay vì đi học tại Cambridge. Những lần chứng kiến thời khắc cuối cùng của người lính, cô thường nghĩ đến số phận của Robbie ngoài chiến trường. Cô cũng đã viết rất nhiều bức thư gửi chị gái Cecilia, người đã từ bỏ gia đình sau khi Robbie bị bắt và trở thành y tá, nhưng chưa bao giờ nhận được hồi âm. Cô đã lo sợ nếu không gặp được chị gái, cô sẽ không bao giờ có thể nói được lời xin lỗi, vì sự thật mà cô tiết lộ vô cùng đau lòng. Hung thủ mà Briony nhìn thấy năm năm trước hóa ra lại không phải là Robbie Turner.  Đối với cô khi ấy, Robbie là một con quỷ dâm dục nhưng trước đó cũng là người mà cô vô cùng cảm mến. Briony đã từng liều mình nhảy xuống hồ chỉ để xem liệu Robbie có cứu mình không, và để nói lời yêu với anh. Nhưng hỡi ôi, một cô bé ngây thơ và nông nổi trong thâm tâm không muốn người mình yêu ở bên cạnh chị cô nên đã sẵn sàng nói dối dù đã mười mươi nhìn thấy hung thủ là ai, một lời nói dối đủ làm thay đổi cuộc đời của cả ba con người. Trong suốt những năm tháng làm y tá, Briony vẫn viết, nhưng không còn là những tiểu thuyết mộng mơ như thuở nhỏ nữa. Ngồi cô độc đánh máy trong những đêm lạnh tại bênh viện, Briony đã viết một lời thú tội chân thành không màu mè, hoa mỹ cho những người đã tin vào những lời nói dối năm xưa của cô. Lời thú tội đó sau cùng trở thành cuốn tiểu thuyết cuối đời của cô, cuốn sách mang tên Chuộc Tội.  Nhưng rốt cuộc đó vẫn chỉ là sự hèn nhát sau cuối của Briony, khi tất cả những người liên quan đều đã chết, họ mãi không được biết sự thật. Dù có viết bao nhiêu cuốn sách cũng không thể bù đắp lại được cuộc đời hạnh phúc cho Robbie và Cecilia. Vở kịch đầu tiên của Briony xuất hiện ở cuối truyện giống như nhắc lại cuộc đời hai con người ấy suy cho cùng cũng chỉ là vở kịch mà người khác dựng lên.  Briony đã nhận sai, nhưng vẫn tiếp tục làm sai, vẫn chỉ là con người hèn nhát không giống như trong cuốn tiểu thuyết kia.  Briony đã đi đến cuối đời bằng nỗi tuyệt vọng và tự lừa dối chính mình bằng ảo tưởng hạnh phúc. Không có gì sai khi lên tiếng trước một tội ác, chỉ là đừng như Briony, hãy làm người hùng thật đúng cách để không bao giờ phải nhận lấy đau khổ khi đứng trước sự thật mà thôi. *** Vở kịch - mà vì nó Briony đã thiết kế áp phích, tờ chương trình và vé, dựng quầy bán vé từ một bình phong xiêu vẹo quây lại và lót hộp thu tiền bằng giấy kếp đỏ - được em viết trong hai ngày sáng tác vũ bão, khiến em bỏ mất một bữa sáng và một bữa trưa. Khi mọi chuẩn bị đã chu tất, em chỉ còn việc thưởng ngoạn bản thảo hoàn chỉnh và đợi các em họ từ phương Bắc xa xôi đến. Sẽ chỉ có một ngày duy nhất để diễn tập trước khi anh trai em về. Lúc ớn lạnh xương tủy, khi buồn đau bén ngọt, vở kịch kể một câu chuyện của trái tim mà thông điệp được của nó, được chuyển tải trong phần mào đầu có vần điệu là tình yêu không được dựng xây trên nền tảng lý trí thì rồi sẽ lụi tàn. Nỗi đam mê bồng bột của nhân vật chính Arabella dành cho một tên bá tước ngoại quốc gian ác đã bị vận rủi trừng phạt: nàng mắc phải bệnh tả khi bốc đồng lao đến một thị trấn ven biển cùng kẻ ngỡ là sẽ cưới ấy. Bị hắn và hầu như hết thảy mọi người ruồng bỏ, nằm liệt giường trên một căn phòng gác xép, nàng khám phá ra tự trong mình khiếu hài hước. Số phận đem lại cơ hội thứ hai cho nàng xuất lộ dưới hình hài một vị thầy lang bần hàn - thực ra là chàng hoàng tử vi hành tự nguyện lao động giữa những người cùng khổ. Được chàng chữa lành bệnh, Arabella lần này chọn lựa một cách sáng suốt, và được đáp đền bằng cuộc đoàn tụ với gia đình và lễ cưới với chàng hoàng tử-thầy lang trong “một ngày xuân ngập tràn nắng và gió”. Bà Tallis đọc bảy trang vở kịch Những gian nan của nàng Arabella trong phòng ngủ, tại bàn trang điểm, với vòng tay của tác giả choàng qua vai suốt thời gian ấy. Briony chăm chú theo dõi từng dấu hiệu biến đổi cảm xúc trên khuôn mặt mẹ, và Emily Tallis chiều lòng con bằng vẻ mặt khi thảng thốt, lúc khúc khích hân hoan, rồi cuối cùng, nụ cười khích lệ và những cái gật đầu lịch duyệt, tán thành. Bà vòng tay ôm con gái vào lòng - ôi, cái cơ thể nhỏ nhắn mịn màng ấm nóng bà nhớ từ khi còn đỏ hỏn này, vẫn còn chưa lìa khỏi bà, chưa lìa hẳn - và bảo vở kịch thật “tuyệt diệu”, rồi ngay lập tức thì thầm vào vành tai đang căng ra của con gái đồng ý cho phép trích dẫn từ này lên tấm áp phích sẽ treo trên giá dựng ở tiền sảnh cạnh quầy vé. Khi đó Briony cơ hồ chưa biết, nhưng lời nhận xét ấy chính là cực điểm thành công của công trình này. Không gì đem lại cảm giác thỏa nguyện hơn thế, tất cả còn lại chỉ là mộng mơ và thất vọng. Có những khoảnh khắc chiều hè chạng vạng, khi ánh sáng phòng lụi tắt, vùi mình trong sự ảm đạm ngọt ngào của chiếc giường bốn cọc màn, em khiến tim mình rộn lên bằng những tưởng tượng lung linh, khao khát, mang trong chúng những vở kịch ngắn nho nhỏ, từng vở một đều có vai chính là Leon. Ở vở này, khuôn mặt to, hiền lành của anh nhăn lại vì đau đớn khi Arabella rơi vào cảnh cô đơn và quẫn bách. Ở vở kia, kìa anh đó, ly cocktail trên tay tại một quán bar thành phố thời thượng, đang lớn tiếng huênh hoang với đám bạn: Phải, em gái tớ đấy, văn sĩ Briony Tallis, các cậu hẳn đã nghe tiếng rồi. Vở thứ ba, anh đắc chí đấm tay vào không khí khi sân khấu hạ màn, mặc dù chẳng có tấm màn nào hết, cả khả năng tồn tại một tấm cũng không. Vở kịch em viết không phải để dành cho mấy đứa em họ, nó dành cho anh của em, để chào mừng anh trở về, để khơi dậy ở anh lòng ngưỡng mộ và hướng anh tránh xa khỏi hàng loạt cô bạn gái kế tiếp nhau một cách thiếu suy nghĩ, đến hình mẫu người vợ chân chính, người vợ sẽ thuyết phục anh về sống ở vùng quê, người vợ sẽ dịu dàng đề nghị Briony làm phù dâu cho lễ cưới. Em là đứa trẻ bị ám ảnh bởi nỗi khát khao biến thế giới thành nơi trật tự tuyệt đối. Trong khi phòng chị em là mớ hổ lốn những sách không gấp, áo quần không xếp, giường không dọn, gạt tàn không đổ, thì phòng Briony là một thánh đường cho vị thần thích kiểm soát trong em: mô hình trang trại đồ chơi trải ra trên bậu cửa sổ sâu vào phía trong, gồm những súc vật quen thuộc, nhưng tất cả đều hướng về một phía - chủ nhân của chúng - như thể toan cất lời đồng ca, và ngay cả đàn gà mái trên sân trại cũng được quây lại gọn ghẽ. Mà thực ra, phòng Briony là căn phòng ngăn nắp duy nhất ở tầng trên trong nhà. Các em búp bê lưng được đặt thẳng đứng trong biệt thự nhiều phòng của chúng dường như tuân theo một chỉ thị nghiêm ngặt là không được phép chạm vào tường; vô vàn các con giống đồ chơi to cỡ ngón tay cái trên bàn trang điểm - những chàng cao bồi, những thợ lặn biển sâu, những chú chuột hình người - được sắp xếp theo hàng lối ngay ngắn và cách nhau đều đặn như một đạo dân quân đang chờ lệnh. Thích vật thu nhỏ là một khía cạnh của tinh thần ngăn nắp. Một khía cạnh khác là đam mê bí mật: trong chiếc tủ đánh véc ni quý giá có một ngăn kéo bí mật chỉ mở ra được bằng cách nhấn vào thớ gỗ của cái mộng đuôi én khớp lại một cách khéo léo, ở đó em cất giấu cuốn nhật ký khóa bằng móc gài, và cuốn sổ viết bằng thứ mật mã do em tự chế ra. Trong cái két đồ chơi mở bằng mật mã sáu số, em lưu thư từ và bưu thiếp. Một hộp thiếc cũ đựng tiền nhỏ xíu được giấu dưới một tấm ván sàn cạy lên được dưới gầm giường em. Trong hộp là kho báu em tích trữ được trong bốn năm qua, bắt đầu từ lần sinh nhật chín tuổi: một quả sồi đôi đột biến, viên quặng pyrit, một bùa làm mưa mua tại hội chợ giải trí, một cái sọ sóc nhẹ bẫng như chiếc lá. Nhưng ngăn kéo bí mật, nhật ký khóa cài và hệ thống mật mã không che được cho Briony một sự thật giản dị: em chẳng hề có bí mật nào. Khát khao vươn tới một thế giới trật tự hài hòa tước khỏi em khả năng bốc đồng làm điều sai trái. Phá hỏng và hủy diệt là những thứ quá hỗn loạn không phù họp với sở thích của em, và bản tính em cũng không phải là người ác nghiệt. Thân phận thực tế là đứa trẻ duy nhất trong nhà, cộng với việc ngôi nhà gia đình Tallis khá hẻo lánh, đã khiến em, ít ra là trong suốt những ngày nghỉ hè dài dặc, không tham dự vào các trò con gái với đám bạn. Không gì trong cuộc sống em đủ độ hấp dẫn hay đáng xấu hổ đến mức phải giấu đi; không ai biết về cái sọ sóc dưới gầm giường, mà cũng chẳng ai buồn biết. Không gì trong số những điều vừa kể là nỗi ưu phiền gì đặc biệt; có chăng chỉ phảng phất vậy khi hồi cố lại, mà khi đó, giải pháp đã được tìm ra. Năm mười một tuổi, em viết câu chuyện đầu tay - một chuyện tình xuẩn ngốc, mô phỏng đến quá nửa tá truyện dân gian và thiếu, sau này em nhận ra, sự hiểu biết thiết yếu về cách thế giới vận hành để buộc độc giả phải ngưỡng phục. Nhưng thử nghiệm vụng về đầu tiên này mở ra cho em biết trí tưởng tượng, chỉ riêng nó thôi, đã là cả một nguồn sản sinh bí mật: một khi em bắt đầu một câu chuyện, sẽ không ai biết gì cả. Ngụy tạo thế giới bằng ngôn ngữ là việc quá không chắc chắn, quá yếu ớt, quá xấu hổ không thể để ai biết được. Ngay cả viết ra những cô nói, những và rồi cũng khiến em nhăn mặt, và thấy mình thật ngốc nghếch khi tỏ vẻ hiểu cảm xúc của một sinh vật tưởng tượng. Tự phơi bày chính mình là điều không thể tránh khỏi khi em miêu tả sự yếu mềm của nhân vật; độc giả buộc phải ngờ rằng em đang miêu tả chính em. Em còn có tư cách nào khác nữa chứ? Chỉ khi câu chuyện kết thúc, mọi số phận được dàn xếp ổn thỏa và toàn bộ vấn đề đã hoàn toàn khép lại để giống như, ít nhất ở khía cạnh này, mọi câu chuyện có kết thúc khác trên thế giới, thì em mới cảm thấy yên tâm, và sẵn sàng đục lỗ trên lề, dùng dây đóng các chương lại, vẽ bìa bằng màu hay chì đen, rồi mang tác phẩm hoàn tất đến khoe với mẹ, hoặc cha, khi ông có nhà. Mời các bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Ian McEwan.
Sông
Sông là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư với sự đổi mới toàn diện của chính cô. Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo. Truyện kết thúc bằng dấu chấm hỏi về số phận một con người  - Không hề do dự, cô đã đẩy mầm ý tưởng vừa nhú lên sang tay người đọc, để họ nuôi dưỡng chúng, bằng trải nghiệm qua việc đọc cuốn sách này. Sông là tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư. Sau những truyện ngắn (Cánh đồng bất tận, Gió lẻ, Ngọn đèn không tắt…) đã làm xôn xao tâm trạng của biết bao người đọc suốt một thời gian dài, Sông được xem là một sự đổi thay toàn diện của chính tác giả. Có người đã nhận xét về Sông ngắn gọn như thế này: Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo. Trước khi diễn ra sự kiện này, khi được hỏi: “Phải phá vỡ những gì vốn có của riêng chị để truy vấn chính mình, để tìm kiếm một hiện thực sâu hơn, chân thực hơn trong đời sống con người?”, Nguyễn Ngọc Tư đã trả lời thật chân thành: “Quả đến ngày đến tháng thì đổi vị, chứ sao có thể xanh mãi, chua mãi trên cành…” Vậy, Nguyễn Ngọc Tư đã “đổi vị” như thế nào trong Sông? Để giúp bạn đọc có những cảm nhận đầu tiên trước khi tìm được câu trả lời trong sự tiếp cận đầy đủ với cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư *** Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều, đến mức người đọc luôn có cảm giác chị ăn ngủ trong không khí văn chương. Dường như mọi con đường chị đi qua, sẽ có lúc nào đó hiện lên trong văn chị, mọi con người chị gặp sẽ có một ngày bước vào truyện của chị. Kiểu như nhân vật Mười - người đàn bà không chịu tự mình tỏa sáng mà cứ phải lệ thuộc vào tình yêu của Cao Bồi. Nhân vật nữ mà kiểu gì tác giả cũng sẽ bị càm ràm, cho dù người viết có chục lần dự định cho chị tách khỏi tình yêu của đời mình, cũng sẽ chục lần không thực hiện được, bởi vì Mười sẽ không làm như thế. Và chỉ cần đôi chữ bóng gió viết rằng Mười đã mỏi mòn, nhân vật cũng sẽ lập tức phản ứng, tỉnh rụi bảo: “Đâu có”. “Tui không nghĩ nhân vật của tui có bóng dáng của tui, mà rất nhiều người hơi biết tui một chút đều nói văn tui với người… trớt quớt” - Nguyễn Ngọc Tư tự sự. Chị cho biết: “Văn của tui hoàn toàn chẳng có trải nghiệm gì của cá nhân mình trong đó, chẳng hạn như khi viết về cảm giác lòng tự trọng bị thương tổn của một người đàn ông phải chịu nhục trước bạn gái mình, tui hình dung ra thôi”. *** Ba lô vẫn còn nguyên những vật dụng của chuyến đi trước. Áo mưa. Túi ni lông bọc máy ảnh, điện thoại. Đèn pin. Thuốc chống muỗi và tinh dầu chống vắt, đỉa. Quẹt gas. Trong lúc lục lọi cậu tìm được hai bàn chải đánh răng, thấy tan nát một chút. Giày thể thao có đế dày chống gai cũng không cần mua mới. Đi nhà sách tìm bản đồ giấy được cập nhật mới nhất, tiện tay cậu lấy mấy cuốn sách thiền, hy vọng học được cách quên. Mai Triều nói cũng nên tìm bạn đồng hành. Thêm một người cùng đi thì sẽ bớt khó khăn, cô độc. Cũng phải có người quay về để kể lại người kia chết kiểu nào chớ, ông nói, Ba lô vẫn còn nguyên những vật dụng của chuyến đi trước. Áo mưa. Túi ni lông bọc máy ảnh, điện thoại. Đèn pin. Thuốc chống muỗi và tinh dầu chống vắt, đỉa. Quẹt gas. Trong lúc lục lọi cậu tìm được hai bàn chải đánh răng, thấy tan nát một chút. Giày thể thao có đế dày chống gai cũng không cần mua mới. Đi nhà sách tìm bản đồ giấy được cập nhật mới nhất, tiện tay cậu lấy mấy cuốn sách thiền, hy vọng học được cách quên. Mai Triều nói cũng nên tìm bạn đồng hành. Thêm một người cùng đi thì sẽ bớt khó khăn, cô độc. Cũng phải có người quay về để kể lại người kia chết kiểu nào chớ, ông nói, hay ông hoàng Bảo Đại; Nguyễn Thị Anh hay Huyền Trân công chúa cũng đều đã tắm trên sông này. Thông tin trong Đại Từ Điển Bách Khoa cũng chẳng nhiều nhặn hơn những gì cậu đã biết. Cậu rao trên mạng tìm bạn lặn lội sông Di, có mười bảy hồi đáp. Cuộc hẹn thứ nhất ở quán Gió mười hai người tới. Khi nhũn nhặn nói với ba cô gái có mặt ở đó rằng chuyến đi này không phù hợp với phụ nữ, cậu có chút ân hận đã quên thông tin ngay từ đầu. Một cô gái tóc xù nhuộm trắng xen đỏ như tô mì khô lẫn mấy cọng giá đổ quạu, sao không nói sớm cho người ta biết. Cô còn quăng phẹp câu hỏi trước khi xốc túi xách bỏ đi. - Anh dám chắc trong số họ không một ai là đàn bà? Ai biết đâu. Ở đời luôn có những câu hỏi không thể trả lời, dù không phải quá khó. Chỉ biết vỗ tay tiễn cô đi. Đuổi bằng vỗ tay là học lóm ở các đại hội văn nghệ. Cuộc hẹn cuối cùng cũng ở Gió chỉ còn hai lò dò tới. Một người tên Thuần, biệt danh là Bối, cao lêu đêu, áo thun rộng kẻ chữ “Biển của tao trời đất của tao” , như vừa tan một cuộc biểu tình đòi biển đảo về, quần kaki lửng ống rộng nhiều dây nhợ khiến cậu nhớ tới cái rổ đan dở, đi cùng đôi kính và tai nghe trắng. Vết hằn ở chỗ nút tai của Bối làm cậu ngờ lúc tắm và làm tình anh ta cũng không rời chúng. Khi đang nói, Bối hay ngừng lại giữa câu, mặt lơ mơ như một giai điệu nào đó chợt rót vào người. Người kia là Xu, không biết đó là tên hay biệt danh, người đen trũi lầm lì, mi mắt dài và rợp che lấp cả ánh mắt sâu hút hay nhìn bâng quơ đâu đâu, tóc hớt đinh một phân đều nắng soi tận da đầu. Vẻ kiệm lời chín chắn của Xu ngay lập tức thuyết phục cậu, nhất là khi biết anh ta tham gia điều hành một diễn đàn phượt nổi tiếng, cộng đồng nhiếp ảnh anhdep.com anh ta cũng chung tay chăm sóc. Nhưng cậu cũng cần có Bối góp nói cho vẳng lên tiếng người trong suốt cuộc đi. Cậu vặt vẹo chính mình suốt buổi gặp, để rồi quả quyết rằng Bối nhận được cái gật đầu không phải vì anh ta thích màu hồng, và hay xoay cái ly nước cam vắt ốm ròm như một nàng vũ nữ đang nhón trên những đầu ngón chân. Không phải cậu quan tâm chuyện ngón tay út Bối hay cong tớn lên, như một dấu hiệu của đồng-loại. Bối chụp ảnh giỏi, vậy thôi. Sách cậu hẳn sẽ cần khá nhiều ảnh. Mời các bạn đón đọc Sông của tác giả Nguyễn Ngọc Tư.