Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Thợ Thêu

Pascal Lainé là một nhà văn Pháp sinh năm 1942 ở Anet.    Ông đã đoạt cả hai giải thưởng lớn của Pháp là Medicis (1971 với tác phẩm l'Irrévolution) và Goncourt (1974 với tác phẩm La Dentellière), ngoài ra ông còn là tác giả của hơn 20 tiểu thuyết cũng như kịch bản phim.    Tác phẩm chính:  B comme Barrabas (1967) L'Irrévolution (Prix Médicis - 1971) La Dentellière (Prix Goncourt - 1974) Si on partait (1978) L'Eau du miroir (1979) Tendres cousines (1979) Terres des ombres (1982) Les Petites Egarées (1988) Dialogues du désir (1992) L'Incertaine (1993) Le Commerce des apparences (1997) Derniers jours avant fermeture (2001) Capitaine Bringuier (Théâtre) Monsieur vous oubliez votre cadavre Le mystère de la Tour Eiffel (2005) Un clou chasse l'autre ou La vie d'artiste (essai, Punctum editions 2006) *** Chuyện bắt đầu ở một tỉnh phía Bắc nước Pháp, cái tỉnh nhìn trên bản đồ nom giống một củ cải đường.   Về mùa đông, những người từ xa tới bằng ô-tô nhìn thấy trước mắt mình một vết phồng. Một mảng rộp ở chân trời. Cây cối ven đồng trơ trụi làm cho cảnh chiều tà thành mênh mông vô tận.   Nhà cửa trong làng rặt bằng gạch, một tầng. Vẫn chưa phải là phố, tuy giữa hai dãy nhà có con đường nhựa cộc cằn, thường được các trận mưa kỳ cọ chu đáo làm cho bóng loáng lên. Xe cộ rạch bùn trong các thửa ruộng trồng củ cải đường bị xéo nát thành hai cái rãnh sóng đôi. Cả những chiếc xe tải cũng làm việc tương tự đó.   Ngoài cái dòng các em bé đầu đội mũ trùm kín trước cửa trường học, mà sự lộn xộn tan biến ngay lập tức vì các em buộc phải tản đi theo lề đường, hoặc đi vào các rãnh rau, làng xóm nói chung im ắng vào mùa đông. Trong đêm tối, những con chó luồn từ xó tối này sang xó tối khác. Hoặc giả, tiếng lạch cạch của một chiếc xe đạp, tiếng động duy nhất làm nổi bật sự im ắng mỗi lúc một sâu hơn giữa các cơn động quen thuộc do những chiếc xe kéo moóc gây nên.   Đó là một làng công nhân nhưng nhà máy đã ngừng hoạt động, chỉ còn lại có cái vỏ bằng gạch và sắt.   Mùa hè ở đây thậm chí còn kỳ cục hơn. Có những đợt nắng kéo dài và con đường trở nên sạch sẽ. Khoai tây mọc trên những mảnh vườn nhỏ. Quần áo được đem phơi ra ngoài trời. Con đường hẻm xen giữa các ngôi nhà đầy những vỏ chai rỗng. Buổi tối, người đi làm ở thành phố trở về, sau khi bước khỏi ôtô, còn nán lại một chút. Họ sưởi chút nắng còn sót lại của mặt trời đang lặn trong ráng đỏ ánh lên từ phía đường quốc lộ. Đêm xuống. Bầu trời chuyển sang màu ximăng ướt và biến thành một bức tường nhẵn bóng, trên đó treo lơ lửng chiếc bóng đèn to tướng là mặt trăng.   Vào khoảng bảy giờ rưỡi, họ trở về nhà để xem tivi.   Với lũ trẻ, đó là khoảng thời gian để chạy nhảy trên đường phố và chơi những trò nghịch ngợm trong các ngõ ngách phía sau nhà.   Ở chỗ giao nhau của quốc lộ và con đường nội tỉnh đã có từ lâu là một quảng trường. Quốc lộ có trước. Trên quảng trường có nhà thờ; kề đó là đài tưởng niệm, xung quanh có những chiếc ghế dài. Các cụ ông, cụ bà bé choắt lại vì tuổi tác, thường đến đây vào những ngày đẹp trời. Với dáng điệu khẽ khàng một cách co ro, họ ngồi lên những chiếc ghế băng để đan len hoặc đọc báo. Cũng có khi hai ba em bé gái, mà thường thì vẫn chỉ có bọn chúng, ngồi trước mặt con đường quốc lộ, nhìn những chiếc xe con và xe tải chạy qua chạy lại. Một cô bé trong số đó có tên là Pom (Pomme - quả táo tây).   Và đây là ngôi nhà của hai mẹ con cô bé Pom. Trước hết là một phòng lớn với chiếc bàn dài sơn trắng. Mặt bàn phủ tấm vải dầu có in những bông hồng đã ngả màu vàng vì thuốc tẩy (cũng còn có cả những vết nhòe màu vàng giống như những chiếc lá của bó hoa. Còn những vết thủng do tàn thuốc lá gây nên thì chẳng ra hình thù gì cả).   Những chiếc ghế sơn, có vài chiếc cùng kiểu với bàn, còn nữa thì mỗi chiếc mỗi kiểu. Rồi đến chạn bát.   Có thể ru rú trong nhà đốt lò sưởi, cũng có thể ngồi thoải mái với bộ quần áo ngủ; và bất chấp tất cả, ta vẫn cảm thấy, hầu như bằng xúc giác, cũng rung lên theo nhịp rung của những chiếc bánh xe tải đồ sộ. Những chiếc xe hối hả chạy qua, chỉ cách nhà có vài mét, nó cũng là lý do để tạo nên một cái gì đó khiến ở trong nhà cũng có cái vẻ ở ngay cạnh lề đường.   Căn phòng này do vậy đã trở thành phòng chính, và ở hai bên, mỗi bên một phòng nhỏ. Trong phòng thứ nhất có một chiếc tủ gương và một chiếc giường, một cái vũng mềm mại từ đó các giấc mơ, như ta vẫn thường nói, sẽ chảy thẳng ra lề đường. Ở chân chiếc giường lớn là một chiếc giường cũi dành cho trẻ em. Các thanh chắn trên thành cũi có cái bằng sắt mạ kền, có cái đã han gỉ.   Pom ngủ ở phòng thứ hai, căn phòng mà chúng ta chưa hề miêu tà đến, từ khi nó còn quá rộng đối với một chiếc giường cũi.   Chính vì có đôi má bầu bĩnh nên người ta mới gọi cô bé là Pom. Đôi má của cô rất nhẵn và khi có ai đó nói về nó trước mặt cô thì nó càng nhẵn, càng tròn và càng bóng nhoáng lên.   Cô bé còn có những thứ tròn trịa khác nữa. Vì thiếu một nhà thơ, kẻ xa lạ đến tội nghiệp trong câu chuyện này, bọn con trai trong làng bắt đầu nhìn cô bé như nhìn một giỏ trái cây.   Nhưng cô bé Pom cũng chẳng cần có nhà thơ để có thể rất hài hòa theo cốt cách riêng của cô. Có thể không thật đẹp. Cô không có cái mảnh mai thú vị của các thiếu nữ yêu kiều mà chỉ nhìn thôi, ta cũng đã có cảm giác rằng làn da tay của họ có thể làm chén nước rửa tay[1] mát mẻ và trong vắt hẳn lên. Trái lại, đôi bàn tay của cô, tuy không đến nỗi thô thiển, vẫn được gắn một cách chắn chắn vào cổ tay, rồi cổ tay lại được gắn vào cánh tay, và cứ như thế với cái vẻ hết sức tự nhiên.   Từ đầy đặn không phải dành cho một cô bé ở độ tuổi này (cứ cho là tuổi 14 đi), nhưng quả thật cô bé này tạo cho ta ngay lập tức một ấn tượng về sự đầy đặn: dù cô bận tíu tít hay chỉ ngồi rồi một chỗ, hoặc giả nằm bất động, mơ màng, dù mắt cô có lim dim, miệng há ra và tâm trí có phiêu diêu trong trạng thái gà gật thì sự có mặt của thân thể cô vẫn chế ngự cả căn phòng. Pom chỉ vừa đến độ tuổi trưởng thành, nhưng cả thân thể cô là một khối đồng nhất và chắc nịch. Cả phần hồn của cô cũng vậy. Cô không thuộc loại sinh vật mà sự hiện diện của nó tan biến đi những cái nhìn và những lời nói mơ hồ; cử chỉ, công việc của cô, dù là phù phiếm nhất, cũng vẫn làm cho mỗi giây phút của cô trở nên vĩnh cửu. Cô dọn ăn ở chỗ này, giặt giũ ở chỗ kia, cô ngồi làm bài tập (với một sự chăm chú khiến ai cũng phải mủi lòng) và những thái độ ấy, những cung cách ấy đều toát lên từ cô theo một nhu cầu hoàn toàn tự nhiên trong một thế giới yên bình.   Đôi bàn tay ngắn ngủi của cô bé trở nên luống cuống khi tập thêu, tưởng chừng như đã bị tách khỏi cô, nhưng cũng không vì thế mà mất đi ở cô cái nhất quán của sự tinh tế và sự thô kệch nào đó. Công việc cô làm, dù là việc gì ngay lập tức trở thành sự hòa hợp ấy, sự nhất quán ấy. Khi đó, cũng như những người khác, cô là chủ đề của một trong những bức tranh sinh hoạt mà trong đó hiện ra rất sống động qua cách bố cục và qua các giai thoại. Cái dáng vẻ ấy của cô thật riêng biệt, chẳng hạn như khi cô ngậm giữa hai làn môi chiếc ghim trong lúc đang sửa lại mái tóc. Cô bé là Cô thợ giặt, Cô xách nước, hoặc giả, Cô thợ thêu.   Có thể Pom đã thừa hưởng những năng khiếu đó ở bà mẹ, người đang phục vụ ở một quán rượu trong thành phố. Bà nói “Xin hầu ngài” một cách rất thoải mái bất cứ khi nào có một quý ông yêu cầu bà lên buồng trên gác. Bởi vì bà cũng là một người hầu theo đúng nghĩa riêng của từ đó dù ở gác lửng hay dưới tầng trệt, đứng hay bò, luôn luôn đơn giản và tự nhiên, cũng đơn giản, tự nhiên như cô con gái của bà vậy. Cả ở nhà bà mẹ và cô con gái, sự thoải mái trong tư thế là giống hệt nhau, kể cả khi ở trong căn buồng trên gác của quán rượu, vẫn là động tác tự nhiên ấy, luôn luôn đồng nhất và với một sự trong trẻo chân thành bất chấp tất cả. Tuy nhiên bà mẹ, người hầu ấy, không cởi giày vì trên sàn có những cái giằm. Đó chính là chỗ bất ổn duy nhất trong cuộc sống của bà.   Hai mẹ con nhà Pom còn giống nhau về tính nết. Họ chấp nhận một cách đơn giản những niềm vui và nỗi cay đắng mà số phận ban phát cho họ, cũng chẳng lấy gì làm nhiều lắm. Cả hai, cùng với ngôi nhà nhỏ của họ nằm ở rìa đường, tạo thành một cánh tay chết của cuộc sống, vệt sáng lặng lẽ từ một ô cửa sổ ở ngay cạnh một miệng cống, nơi những sinh vật khác qua lại nhộn nhịp.   Pom không hề tỏ ra ngạc nhiên và hoảng sợ khi cô thấy những dấu hiệu đầu tiên của giới tính, những dấu hiệu chưa ai nói trước với cô. Cô tự thay và giặt lấy đồ lót của mình, không giấu giếm nhưng cũng không nói với ai, như một con mèo bới đất và mùn cưa giấu đi các thứ bẩn thỉu mà nó vừa bĩnh ra. Mẹ cô đã nhìn thấy cô làm cái công việc tỉ mẩn và lặng lẽ này, và cô lắng nghe những lời khuyên của mẹ với một sự chăm chú chừng như chính cô đã hỏi vậy. Tâm hồn Pom cũng tròn trĩnh và nhẵn bóng như thân thể cô: không có chỗ gồ ghề khúc khuỷu nào ngăn được dòng chảy mọi vật trong cô.   (Ở đây tác giả có thể nhấn mạnh một chút về sự chung sống giữa một thiếu nữ với một người mẹ có quan hệ với nghề làm điếm. Có thể gợi lại những đêm không ngủ, những giờ khác chờ đợi dày thêm nỗi tủi nhục âm thầm của cô gái, cho đến tận khi mẹ trở về vào giữa đêm khuya, bước đi mệt mỏi và nặng nề, đôi mắt đờ dại vì mệt và chán chường, đụng phải ngay khi cánh cửa vừa hé mở, bộ mặt nhợt nhạt và cái vẻ dò hỏi đầy đau khổ của đứa con. Cũng cần phải nói về những lời giễu cợt bóng gió, hoặc sự im lặng nhọn hoắt như lưỡi kim mà Pom thật khó bề chống đỡ được mỗi khi cô đi trên đường làng, làm những thương tổn của tâm hồn cô mỗi lúc một rõ ràng, sâu sắc hơn. Ta cứ hình dung số phận chua xót của cô bé, và cuốn tiểu thuyết có thể sẽ trở nên một câu chuyện về những hư đốn của cô tiếp theo sau sự ngây thơ trong trắng ban đầu).   Thế nhưng mọi việc lại khác hẳn. Trước tiên Pom và mẹ cô có đặc quyền về sự vô tư. Cái đó không che lấp thực tế mà ngược lại làm cho thực tế trở nên trong suốt khiến con mắt người đời lướt qua đi mà không dừng lại. Quả thật chẳng ích lợi gì để mà tìm hiểu xem Pom có “nghi ngờ” vị thế của bà mẹ hay không. Pom làm gì có đủ tư cách để mà nghi ngờ. Tuy nhiên, số phận của cô (nếu chúng ta cứ khoác cho tâm hồn đơn sơ ấy tấm áo “số phận”) không phải không liên quan đến việc mẹ cô làm điếm tại một quán rượu trong thành phố, hơn nữa, bà mẹ vốn tính ngay thật, cứ kể bô bô trước mặt con gái về những người đàn ông đã chung chạ với mình. Tình trạng đó cùng với những câu chuyện mà mẹ cô thường nói, những câu chuyện kỳ quặc vì sự tầm thường của nó (trong đó chỉ có sự vô hại và chỉ có một người mẹ trung thực mới có thể nói với con mình bằng những từ ngữ chính xác như vậy), đã tạo nên trong Pom lòng kính trọng lớn lao đối với phẩm chất của “các quý ông”. Cô không nhìn thấy phẩm chất ấy ở trong đám trai làng. (Chẳng hạn khi cô đi đến trường hoặc khi cô trở về nhà). Bọn này mang trên mình chúng tất cả những gì là bừa bãi, là nhếch nhác trên trái đất này, mùi rượu vang, mùi các cuộc đình công, các đám rước ngày Một tháng Năm, và mọi lộn xộn khác mà đôi khi người ta đã chiếu trên vô tuyến truyền hình. Mẹ con nhà Pom có một người hàng xóm, gã này mỗi lần say khướt thường làm bọn trẻ trong làng sợ hết hồn, chạy bán sóng bán chết cho đến tận đường cái. Pom đã nhìn thấy bộ phận sinh dục của gã. Những quý ông ở thành phố không thể được tạo nên như vậy. Bằng chứng là các quý ông ấy là những chưởng khế, dược sĩ, nhà công nghiệp, nhà buôn. Ngoài thú tính, họ còn có những chiếc đồng hồ, những chiếc nhẫn vàng và sau nữa là những tập séc dày cộp. Chính với những thứ ấy mà các quý ông cưỡi lên bụng các cô gái trong khi vợ của quý ông đang vào thời kỳ mãn kinh ở nhà (tất nhiên Pom không thể diễn đạt nổi tất cả những điều đó).   Mùa hè, cô bé ngồi trên một chiếc ghế băng ở quảng trường, buông thả mình trong một sự chú ý mơ hồ đến những người lái xe, rất gần vào lúc mà bọn chúng chuẩn bị chạy qua đường quốc lộ đến tận chân trời; và cũng rất xa, như những quý ông mà cô nhận biết được qua tấm kính bằng những lời kể của bà mẹ.   Mời các bạn đón đọc Cô Thợ Thêu của tác giả Pascal Lainé.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyện Tình Tristan & Iseut
Truyền thuyết về truyện tình của Tristan và Iseult là một sáng tạo lớn của trí tuệ, được hình thành bởi sự gặp gỡ của nhiều luồng tư tưởng văn minh khác nhau. Truyện tình rất đam mê, ai oán, não nùng, nhưng cũng rất “người” này, cho thấy là khi đụng phải nó, các cổ tục khắc khe, các luật lệ nghiêm khắc đều phải bó tay. Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, mối tình của Tristan và Iseult vẫn làm say mê lòng người cũng như vẫn gây những xúc động mạnh. Trong một số tác phẩm văn học xưa và nay, đôi khi xuất hiện những nhân vật ảo xen lẫn với nhân vật thực, thí dụ như trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỉ 16). Có lẽ cũng là một hình thức hữu hiệu để tác giả phát biểu được ý kiến của mình trên một số vấn đề tế nhị. Mặt khác, ở chính trong một con người - tác giả - cũng có thể có mặt này và mặt nọ, vv. , làm tôi liên tưởng tới truyện Dr. Jekyll và Mr. Hyde (1886) của tác giả (người Anh) Robert Louis Balfour Stevenson. Bác sỹ Jekyll, là con người thiện, tình cờ phát minh ra được một liều thuốc, uống vào thì biến thành ông Hyde, một con người ác. Nhưng trong bài viết này, không phải là lúc luận chuyện thiện hay ác, thuần đạo hay nghịch đạo, có chăng chỉ là hình thức phát biểu. Tôi có một kẻ đối thoại, thực và ảo, gọi là Y, thường cùng tôi trao đổi, luận bàn, trong những buổi thư nhàn hay trong những cơn mộng mị. Y và tôi có qui ước như sau : khi đã trao đổi xong về một vấn đề gì mà y muốn tôi viết ra, tôi mất công ghi chép, thì tôi nhận phần « hơn » : những gì ôn tồn, nghiêm chỉnh, thanh tú, thì tôi nhận phần tôi ; những gì thô bạo ngang ngược, chướng tai thì y phải nhận ; và y đã đồng ý. Lại qui ước với nhau về cách xưng hô : gọi nhau bằng « vị », xưng tôi, để tránh gọi nhau bằng « Ngài », xưng « tại hạ », vv., lủng củng và lỉnh kỉnh. *** Ngày xưa, thời trung cổ bên Âu châu, vua Marc trị vì tại miền Cornouaille. Đất đai rộng lớn, nhiều đô thị, nhiều rừng tốt, nhiều mỏ quý và nhiều lông thú. Nhà vua ngự tại Tintagel, trong một tòa lâu đài với những cây tháp cao vời vợi. Thương thuyền tứ xứ đua nhau kéo tới bỏ neo dưới bến. Hiệp sĩ bốn phương đều ao ước tới triều đình vua Marc dự những cuộc đua tài đấu võ. Rivalen, trị vì tại miền Loonois, cũng tới dự đua. Rivalen dòng dõi quý tộc và can trường, trước triều vua Marc có nhiều dịp biểu dương đức tính hiệp sĩ và chiếm được trái tim công chúa Blanchefleur, em gái của vua Marc. Cả hai cùng xinh đẹp và phong nhã, được cảm tình của hết thảy mọi người chung quanh. Nhà vua hoan hỷ chiều ý đôi bạn,cho phép kết hợp thành đôi vợ chồng. Hôn lễ vừa xong, có tin từ Loonois tới cấp báo. Công tước Morgan cho quân tới đánh chiếm lãnh thổ của Rivalen. Dọc đường tiến quân lâu đài bị phá nát, chúng dân bị cướp bóc, quân lính của Rivalen bị hại rất nhiều. Rivalen vội vã xuống thuyền trở về, đưa theo công chúa Blanchefleur đã thụ thai. Về tới đất nhà, Rivalen hối hả triệu tập binh sĩ, tung quân ngăn chặn xâm lăng. Trước khi lên đường, Rivalen trao cho người thân tín Roald, tức Foi-Tenant, nhiệm vụ bảo vệ và chu toàn công chúa Blanchefleur. Trong một cuộc đấu nảy lửa, Rivalen bị hạ sát. Blanchefleur đợi mãi chồng chẳng thấy tin. Khắp miền Loonois, dân chúng kêu gào than khóc. Khi hay tin Rivanlen đã bị giết, Blanchefleur tái xanh, chết ngất. “Phu quân ta chết đi làm sao ta sống được nữa. Ta là cuộc sống, là nguồn an ủi của chàng; chàng là niềm vui, là cả đời ta. Ta phải chết theo chàng. Nếu ta không mang thai trong bụng chắc ta phải chết tức khắc.” Blanchefleur cho gọi Foi-Tenant. “Ta giao phó cho nhà ngươi đứa nhỏ trong bụng. Nhớ tới phu nhân ta, nhà ngươi hãy lo bao bọc đứa nhỏ, coi như con của nhà ngươi. Còn đây là chiếc nhẫn: tặng vật của vua Marc. Một ngày nào vua Marc trông thấy chiếc nhẫn sẽ nhìn nhận con của em gái nhà vua.” Một ngày một đêm công chúa Blanchefleur đau đớn, sáng hôm sau hạ sanh một trai. Nhờ ơn Thượng Đế, đứa nhỏ khỏe mạnh. Bồng con trên tay, công chúa Blanchefleur nhủ thầm với con: Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Tristan & Iseut của Dân Gian Pháp.
Chiếc Hộp Giáng Sinh
Giáng sinh đã về trên thành phố. Những cơn gió tháng Mười hai buốt giá, tuyết rơi dày và ngọn lửa trong lò sưởi đã rực lên ấm nóng. Trong căn áp mái một ngôi biệt thự trên khu Đại Lộ thành phố Salk Lake, những bức thư ngả vàng nằm đó mấy chục năm, chờ được đọc lên lần nữa.  Những lá thư bí ẩn khiến người ta rơi lệ, bởi nỗi đau song hành cùng tình yêu tha thiết của một người mẹ mất con. Và nhờ đó, ý nghĩa của Chiếc hộp Giáng sinh đựng những bức thư, của ngày Giáng sinh thiêng liêng đã hé lộ. Một cuốn sách như lời ngợi ca tình yêu bất tử mà Thượng đế dành cho loài người, khi Người gửi con trai mình ra đi, dẫu biết con đường nào chờ đợi phía trước… Kể từ lần xuất bản đầu tiên, hơn bảy triệu người đã bị lay động bởi Chiếc hộp Giáng sinh, cuốn sách kinh điển về ngày Giáng sinh của thời đại chúng ta, thường được xếp cạnh Bài ca mừng Giáng sinh của Charles Dicken. Richard Paul Evans đã viết Chiếc hộp Giáng sinh như  một sự bày tỏ tình yêu ông dành cho hai con gái nhỏ của mình, Jenna và Allyson, nhưng câu chuyện rồi đã trở thành một thông điệp đầy sức mạnh, vượt qua nhiều biên giới, không chỉ dành riêng ngày Giáng sinh, gieo những nốt nhạc cảm động trong tâm hồn người nhận. Nhận định “Cuốn sách là về những sức mạnh bao bọc chúng ta, như gió, vô hình nhưng mãnh liệt khiến ta bàng hoàng chấn động. Và câu chuyện Giáng sinh nhỏ mà tôi viết ra là kết quả của những sức mạnh đó. Một vài người có thể coi đó là sự linh thiêng, một số khác gọi là sự trùng hợp. Còn có những người mà với họ, đó chính là phép màu.” *** “Chiếc hộp Giáng sinh" của Richard Paul Evans từng giành vị trí thứ nhất trong top best-seller cho cả ấn bản bìa cứng và bìa mềm của tạp chí New York Times “Món quà Giáng sinh đầu tiên là gì?” - bạn đã bao giờ đặt ra và trả lời câu hỏi này. Có lẽ phần lớn chúng ta khi được hỏi câu này đều nghĩ đến một món quà vật chất, một thứ đồ quý giá nào đó. Và nếu bạn chưa có câu trả lời, hãy đọc “Chiếc hộp Giáng sinh” (The Christmas Box) của nhà văn người Mỹ Richard Paul Evans.  Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh gia đình Richard - Keri và cô con gái nhỏ Jenna, một gia đình nhỏ gặp những khó khăn về chỗ ở khi trở về quê hương lập nghiệp. Căn hộ một phòng ngủ chật chội đến mức cô con gái của họ đã 4 tuổi vẫn được đặt trong chiếc nôi kê vừa khít vào phòng ngủ. Qua một trang báo, hai vợ chồng tìm được ngôi biệt thự cổ của một người phụ nữ độc thân sống trong vùng cần một gia đình có trẻ nhỏ đến ở cùng. Từ đây, ý nghĩa câu chuyện dần được mở ra. Mary Anne - chủ nhân ngôi biệt thự lộng lẫy ấy đã mất cô con gái duy nhất khi cô bé được 3 tuổi và chưa đêm nào bà nguôi ngoai nỗi nhớ con. Nỗi nhớ ấy được bà gửi gắm vào những bức thư nhuốm màu thời gian đựng trong chiếc hộp Giáng sinh bí mật trên căn gác áp mái của ngôi biệt thự. Sự ra đi của cô con gái khiến bao nhiêu năm Mary đắm chìm trong buồn bã, đau khổ và cô độc, khi không biết thổ lộ lòng mình cùng ai. Có thể nói, cuộc gặp gỡ giữa gia đình Rachard và bà Mary giống như một định mệnh mà Chúa trời đã sắp xếp. Một bên người phụ nữ dư giả nhưng gần như cả đời sống trong cô đơn, đến tuổi “gần đất xa trời” chợt nhận thấy cần có ai đó để được sẻ chia, được trò chuyện, để yêu thương: “Thật là tuyệt khi có ai đó trong nhà khi những ngày lễ đến”. Còn bên kia là một gia đình trẻ hạnh phúc, ăm ắp tiếng cười trẻ thơ nhưng đang gánh trên vai nỗi lo toan cơm áo gạo tiền. Sự gặp gỡ giữa họ giống như những mảnh ghép trong cuộc sống, bổ khuyết cho nhau những phần thiếu để làm nên một bức tranh tươi đẹp về cuộc sống hạnh phúc.  Sống chung với Mary, càng ngày vợ chồng Richard càng cảm thấy gần gũi với người phụ nữ cô đơn ấy, cảm thấy bà như một người thân trong gia đình: “Em có cảm giác như em đã biết bà ấy cả đời rồi” - Keri nói. “Như là bà mình vậy”, tôi nhận xét. Vợ chồng Richard nhận ra rằng người phụ nữ ấy muốn có người ở cùng là vì bà mong muốn có được cái không khí gia đình chứ không phải vì nhu cầu vật chất. Và điều làm Richard tò mò, muốn khám phá chính là những bức thư ngả vàng trong chiếc hộp Giáng sinh có thể chơi nhạc trên căn gác áp mái của căn biệt thự. Những lá thư chứa đầy tình yêu thương tha thiết, nỗi nhớ nhung của người mẹ đối với con gái mỗi dịp Giáng sinh về. Chủ nhân của những bức thư bí ẩn ấy là ai? Tại sao nó lại được đựng trong chiếc hộp Giáng sinh ấy. Nhưng bí mật dần hé mở cũng là lúc Mary phát hiện có một khối u trong não. Chính trong những ngày tháng ấy, khi Richard tìm hiểu được nguồn gốc những bức thư kia là của bà Mary viết cho cô con gái đã qua đời Andea. Đọc những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng chứa chan xúc cảm của người mẹ ấy, Richard đã có câu trả lời cho câu hỏi của bà Mary dành cho anh “có bao giờ anh tự hỏi món quà Giáng sinh đầu tiên là gì không?”. Đấy chính là lời nhắn gửi đầy yêu thương mà bà góa phụ đã gửi đến cho anh, để anh nhận thấy đâu mới là thứ quý giá nhất của cuộc đời. Trải qua mất mát, đớn đau của cuộc đời nên Mary hiểu rõ, dù có kiếm được bao nhiêu tiền, dù cuộc sống vật chất có đầy đủ đến đâu nhưng thiếu sự quan tâm, dành thời gian cho gia đình là ta đã đánh mất món quà quý giá nhất của cuộc đời. Những lo toan thường nhật, những giấc mơ kiếm tiền dần thành công đã phần nào chiếm mất thời gian Richard dành cho gia đình, dành cho cô con gái nhỏ Jenna. Trẻ con luôn ngây thơ, trong sáng những cực kỳ nhạy cảm. Nghe cách cô bé Jenna trò chuyện với bà Mary không ít người trong chúng ta cũng tự soi lại chính mình bởi rất nhiều lúc, giống như Richard, ta mải mê với những lo toan mà xao nhãng sự quan tâm dành cho con cái. Có đôi lúc ta nghĩ cố gắng dành cho con những gì tốt nhất, cố gắng kiếm tiền để lo cho cuộc sống của con mà quên đi rằng, tuổi thơ của con cần nhất là sự gần gũi, chuyện trò của cha mẹ. Và cũng giống như Richard, chắc hẳn cũng không ít người, một ngày nào đó bỗng nhận ra rằng thời gian sẽ đưa tuổi thơ của con đi xa. Và càng lớn thì dường như con càng rời xa vòng tay của mình, cho nên hãy ở bên con, gần gũi với con khi vòng tay mình còn đủ rộng để ôm được nó. “Con gái nhỏ quý giá của tôi. Tôi đã ngu ngốc làm sao, khi để tuổi thơ của nóm tuổi thơ quý giá thoáng qua của nó vô tình trôi đi. Mãi mãi. Trong cái đầu óc khờ khạo của tôi sẽ mà là con gái nhỏ của tôi. Nhưng thời gian đã cho thấy tôi mới lầm lạc biết nhường nào. Một ngày nào đó con bé sẽ lớn. Một ngày nào đó con bé sẽ ra đi, còn tôi bị bỏ lại với ký ức về tiếng cười khúc khích và những điều bí mật mà lẽ ra tôi đã được biết”. Hiếm có tác phẩm đầu tay của tác giả nào lại giành được vị trí thứ nhất trong top best-seller cho cả ấn bản bìa cứng và bìa mềm của tạp chí New York Times như “Chiếc hộp Giáng sinh” cho dù ban đầu tác giả chỉ định viết câu chuyện như một món quà dành cho hai cô con gái của mình. Ngay từ lần xuất bản đầu tiên (năm 1994) “Chiếc hộp Giáng sinh" đã được bán ra tới hơn 7 triệu bản. Tác phẩm này được dịch ra hơn 20 thứ tiếng với bốn mươi triệu bản được bán ra và còn giành được giải Emmy cho bộ phim truyền hình được dựng cùng tên. Tại Việt Nam, sách được Nhà xuất bản Văn học cùng Công ty Nhã Nam liên kết xuất bản năm 2014 và lập tức trở thành cơn sốt với bạn đọc trong nước. Chính những thông điệp đầy nhân văn mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm đã làm lay động trái tim bạn đọc trên toàn thế giới. Không còn đơn thuần là một tác phẩm viết cho ngày Giáng sinh mà tác phẩm này giống như những nốt nhạc đầy yêu thương và cảm động gieo vào tâm hồn mỗi người, để chúng ta nhận ra rằng món quà quý giá nhất của cuộc sống tình yêu thương. Ai đã đọc “Chiếc hộp Giáng sinh” có lẽ sẽ có cùng chung nhận xét, tác phẩm này thật sự xúc động dù cả nội dung và văn phong đều vô cùng giản dị. Kết thúc truyện đượm buồn khi bà Mary ra đi vì căn bệnh u não nhưng đằng sau đó vẫn lấp lánh tình yêu thương. Sự ra đi của Mary không gây cho bạn đọc cảm giác nặng nề, u uất mà vô cùng nhẹ nhàng bởi đó là giây phút bà được gặp lại con gái bé bỏng mà suốt đời bà yêu thương, nhung nhớ. Và chiếc hộp Giáng sinh được trao lại cho Richard như một món quà bà để lại, như một lời nhắc nhở hãy luôn trân trọng món quà quý giá nhất cuộc sống - đó là tình yêu thương trong mỗi gia đình. PHẠM NGỌC Mời các bạn đón đọc Chiếc Hộp Giáng Sinh của tác giả Richard Paul Evans.
Cõi Chết
James Joyce được xem là nhà cách mạng tiên phong trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của thế kỷ XX. Theo kết quả thăm dò của báo Time (Mỹ) và Le Figaro (Pháp), hai tờ báo uy tín trên thế giới, thì dẫn đầu các nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ XX là James Joyce, tiếp theo là Franz Kafka (Tiệp Khắc), Virginia Woolf (Anh), Ernest Hemingway (Mỹ), Gabriel Garcia Maquez (Colombia)... Có thể coi Joyce là một trong những nhà văn hàng đầu của lối viết "dòng ý thức" với bút pháp độc thoại nội tâm chân thật nhất trong văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại hay chính là James Joyce - không chấp nhận lối sáng tác giống các thể loại văn học truyền thống. Nhà văn phá bỏ hoặc tưởng tượng lại các cấu trúc đã được nhận thức và nỗ lực tạo ra chính xác những dòng suy nghĩ theo quy luật hàng ngày với những gì xảy ra. Trong bài viết của nhà nghiên cứu Paul Gray về James Joyce đăng trong tuyển tập 100 con người tạo nên thế kỷ XỬ do báo Time (the Time 100, ngày 6 tháng 8 năm 1998) bình chọn, ông cho rằng chính Ulysses đã mở đường và in dấu sâu đậm trong tác phẩm của nhiều nhà văn lớn của thế giới sau đó như William Faulkner, Albert Camus, Samuel Beckett, Saul Bellow, Gabriel Garcia Marquez và Toni Morrison. Các tác giả này, Paul Gray viết một cách châm biếm, không như Joyce, đều đoạt giải Nobel văn học. James Joyce từng nói "Một trong những điều khi còn trẻ tôi không tài nào quen được là sự khác biệt tôi nhận thấy giữa cuộc sống và văn chương" (trích từ bài của Paul Gray). Joyce dường như đã dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này, đồng thời cách mạng hóa cả nền văn chương thế kỷ XX. Cuộc sống trong tác phẩm của Joyce phần lớn là cuộc đời của chính ông. Tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông, người Dublin, gồm 15 truyện ngắn, bề ngoài có vẻ đơn giản và truyền thống nhưng lại theo một phong cách và ngôn ngữ đa chiều lạ lẫm. Tiếp sau đó là tiểu thuyết mang đậm tính tự thuật A Portrait of the Artist as a Young Man, câu chuyện của chàng Stephen Dedalus, hay chính là Joyce, từ những ngày thơ ấu ở Dublin đến khi quyết định rời quê hương ra đi theo đuổi nghệ thuật. Với độ phức tạp, sáng tạo về ngôn ngữ mô tả những bí ẩn nội tâm thường hiếm khi được tiết lộ, cuốn sách, dù không bán chạy nhưng đã thu hút được sự chú ý của một số nghệ sĩ thuộc trường phái cách tân nổi tiếng thời đó, cho rằng thế kỷ mới đòi hỏi mọi thứ - nghệ thuật, thi ca, văn chương, âm nhạc...cũng phải có gương mặt mới. Vậy là thử nghiệm ngôn từ của James Joyce đã được ủng hộ, và ông cũng không làm họ phải thất vọng. Joyce bắt tay viết Ulysses năm 1914, một số phần của tác phẩm xuất hiện trước trên tạp chí Egoist ở Anh và Little Reivew ở Mỹ, cho đến khi ba số tạp chí bị đình chỉ và chủ báo bị phạt 100 đô la vì bị buộc tội đã đăng bài tục tĩu, không phù hợp với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên việc này chỉ càng làm tăng thêm sự tò mò của độc giả đối với tác phẩm sắp chào đời. Thậm chí trước khi Ulysses được xuất bản năm 1922, các nhà phê bình đã so sánh những sáng tạo của Joyce với khám phá của Einstein và Freud. Được ca ngợi là tiểu thuyết vĩ đại nhất trong lịch sử, Ulysses, như tên gọi của nó, được sáng tác với cảm hứng từ Odyssey của Homer (khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên). Khi còn bé, Joyce đã bị mê hoặc bởi sử thi Odyssey. Năm 20 tuổi, khi được viết về người anh hùng yêu thích nhất của mình, Joyce đã chọn Ulysses, người chiến thắng bằng chính sự khéo léo và thông minh hơn là dùng bạo lực. Khi viết Ulysses, (tên của Odysseus theo cách gọi của người La Mã), Joyce đã nói rằng Odysseus là một tính cách toàn diện và mang tính nhân văn nhất trong văn học. Trường ca Odyssey kể chuyện Ulysses, người anh hùng muôn vàn trí xảo, au khi dùng mưu hạ được thành Troy thần thánh, đã phiêu lưu khắp nơi, chiến đấu bảo vệ tính mạng của mình và để cho các bạn đồng hành được trở về xứ sở. Ulysses đã chịu nhiều đắng cay, cám dỗ, những gian nan, nguy hiểm...và chàng đã chiên thắng tất cả bằng mưu trí. Ulysses là hiện thân của trí tuệ, sự thông minh. Chàng không biết khuất phục, không biết nản lòng, là hình tượng người đi tiên phong mở đường cho một sự nghiệp lớn. Ulysses đã tự tạo nên số phận mình bằng tinh thần đấu tranh không mệt mỏi với các lực lượng tự nhiên cũng như với những kẻ thù trong xã hội. Ulysses tiêu biểu cho sự giải phóng tinh thần quan trọng, chứng tỏ sự trưởng thành mạnh mẽ của con người. Sau 20 năm lưu lạc, Ulysses đặt chân lên mảnh đất quê nhà, sống trọng nghĩa vợ chồng, tình cha con, tình cảm bè bạn, giống nòi, quê hương, đất nước... Tiểu thuyếy Ulysses của James Joyce sử dụng thiên trường ca cổ điển Odyssey như một phương pháp sắp đặt những trải nghiệm của con người hiện đại, để miêu tả cuộc sống đương đại. Ông sáng tạo Ulysses là một người đàn ông bình thường tên là Leopold Bloom, đấu tranh trước những thử thách thường ngày, trong một ngày bình thường. Cuốn tiểu thuyết dõi theo những khoảnh khắc hành động và suy nghĩ, ẩn ức, tưởng tượng của Leopold Bloom, của vợ anh ta, Molly, và Stephen Dedalus (nhân vật trong A Portrait of the Artist as a Young man) trong một ngày trọn vẹn ở Dublin, ngày 16 tháng 6 năm 1904 (là món quà của Joyce dành cho Nora Barnacle, ngày đầu tiên hai người hẹn hò). Cùng với ba nhân vật chính, tác phẩm đã tải hiện cuộc sống của người dân Dublin trên đuờng phố, những cảnh tượng, không gian, âm thanh, thậm chí cả mùi vị của Dublin. Mọi hoạt động diễn ra tưởng chừng ngẫu nhiên, nhưng ẩn sau chúng là rất nhiều bí ẩn và câu đố đến mức nó sẽ khiến cho các giáo sư phải bận rộn trong hàng thế kỷ để tranh cãi điều tác giả muốn nói, như Joyce từng tuyên bố. Sáng tạo ngôn từ không mệt mỏi của Joyce (nhiều đoạn trong Ulysses ông viết liên tục không hề có dâu câu) cùng thủ pháp "dòng ý thức" miên man giữa hiện tại, quá khứ và tương lai, và tâng tầng lớp lớp ám chỉ về tôn giáo lịch sử, thần thoại trong mỗi từ, mỗi câu nói, đã khiến Ulysses trở thành một cuốn từ điển về bản chất con người, tiến gần nhất đến sự khám phá hoàn hảo về con người, nhưng cũng trở thành cuốn sách khó đọc, và có lẽ chỉ dành riêng cho "một số độc giả nhạy cảm, tinh tế" như nhà phê bình Joseph Collins nhận xét. Một tác phẩm quan trọng khác của Joyce sau đó, và cũng là tác phẩm cuối cùng của ông, Finnegans Wake, thậm chí còn khó đọc hơn cả Ulysses, được viết với ngôn ngữ riêng do Joyce sáng tạo ra. Nếu Ulysses nói về Dublin ban ngày thì Finnegans Wake mô tả cuộc sống ban đêm của Dublin theo logic của những giấc mơ, hơn 600 trang sách tưởng như ngớ ngẩn với những suy nghĩ được mô tả bằng ngôn ngữ đứt đoạn và ngoại lai, thách thức mọi quy ước về cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp dòng ý thức, ám chỉ và những giấc mơ, ẩn ức lộn xộn của Joyce trong Ulysses đã được đẩy đến đỉnh cao với Finnegans Wake. Joyce đã vượt lên chính mình, vượt qua bộ bách khoa Ulysses của chính mình mà không ai vượt nổi. Viết về Joyce, Allen Ruch ca ngợi "James Joyce là nhà văn duy nhất chúng ta có thể hoàn toàn đặt niềm tin, con người duy nhất mà chúng ta có thể chắc chắn 1000 năm sau vẫn sẽ được nhớ đến, nếu như có con người ấy. Như câu nói nổi tiếng của một nhà phê bình: James Joyce đã và sẽ là nhà văn độc nhất trong lịch sử bởi chỉ xuất bản không gì ngoài kiệt tác. *** Tháng 7 năm 1998 Hội đồng cố vấn của Modern Library, một bộ phận của nhà xuất bản Random House, gồm 10 thành viên trong đó có một phụ nữ đã bỏ phiếu chọn một danh sách gồm 100 tiểu thuyết hay nhất viết bằng Anh Ngữ của thế kỷ 20 (Newsweek, 3 Aug. 1998, "Battle of the Books"). Trong số 100 tiểu thuyết được chọn có 6 tác phẩm được viết trong 25 năm qua. Cuốn Ulysses của James Joyce, một nhà văn người Ái nhĩ lan xuất bản năm 1922 đứng đầu danh sách. Cuối cùng là cuốn The Magnificent Ambersons của Booth Tarkington xuất bản năm 1918.  Không phải nhà văn nào cũng đồng ý với lựa chọn này, nhưng ít nhất sự lựa chọn cho chúng ta một tiêu chuẩn tương đối giúp giới thưởng ngoạn văn học quan sát một phần sinh hoạt văn học của thế kỷ này. Riêng nhà văn James Joyce có 3 tác phẩm được chọn trong số 100. Ngoài cuốn Ulysses là cuốn A Portrait of the Artist As a Young Man xuất bản năm 1916, sắp hạng 3 và cuốn Finnegans Wake xuất bản năm 1939 sắp hạng 77. James Joyce sinh tại thành phố Dublin, Ái nhĩ lan năm 1882 và là người độc nhất trong gia đình được ăn học đến nơi đến chốn, Năm 16 tuổi ông vào đại học Dublin và tốt nghiệp năm 20 tuổi. Lúc đó James Joyce đã được biết đến qua bài bình luận về Ibben ông viết đăng trên tờ Fortnightly Review có uy tín trong giới văn học Anh. Năm 1904 James Joyce rời nước qua lục địa Âu châu sống ở Paris, Zurich, Trieste sinh nhai bằng nghề dạy Anh Ngữ, và sống trong nghèo túng cho đến năm 1919 ông được ông Harriet Weaver vì mến tài giúp đỡ một số tiền lớn. Lúc này James Joyce đã nổi tiếng trong giới văn học Âu châu. Việc xếp cuốn Ulysses của ông lên hàng đầu của các tác phẩm viết bằng Anh ngữ hay nhất của thế kỷ dù chỉ là một lựa chọn tương đối đã xác nhận văn tài của ông. Chuyện ngắn "The Dead" tôi dịch sau đây ông viết năm 25 tuổi (khi Anh quốc còn đô hộ Ái nhĩ lan, một quốc gia có hai tôn giáo, hai ngôn ngữ do ảnh hưởng của người Anh) và được xem là một trong những chuyện ngắn xuất sắc nhất của ông. James Joyce qua đời năm 1941, hưởng thọ 59 tuổi. Trần Bình Nam Mời các bạn đón đọc Cõi Chết của tác giả James Joyce.
Bông Hồng Mất Tích
Câu chuyện kể về Diana, một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp mười bảy tuổi khát khao nhận được sự tán dương từ người khác. Chính điều này đã khiến cô từ bỏ giấc mơ trở thành nhà văn và từ bỏ cả những giá trị của chính mình. Trong giây phút lâm chung, mẹ của Diana đã thú nhận rằng Diana còn một người em song sinh nữa - một người khát khao được gặp mẹ, dám chống đối lại những người khác để thực hiện nguyện ước của cô là đi tìm mẹ. Lời mẹ khẩn cầu Diana hãy đi tìm gặp em gái đã thôi thúc Diana thực hiện một cuộc hành trình bí ẩn. Cuộc hành trình dẫn cô đến khu vườn hoa hồng kỳ lạ ở Istanbul, và chính nơi đó, cô đã trò chuyện được với những bông hồng... Serdar Ozkan sẽ đưa chúng ta đến với cuộc hành trình tìm kiếm điều gì đó tưởng như vô cùng đơn giản - HẠNH PHÚC. Nhưng, để có được hạnh phúc chẳng đơn giản chút nào. Để rồi khi chạm tới điểm cuối của hành trình, chúng ta chợt nhận ra rằng, hạnh phúc, nó tựa như một món đồ ta để quên trong ngăn kéo kí ức hóc khóa và chờ đợi bàn tay tỉ mẩn, kiên trì của một ai đó tìm lại mà thôi. *** Ephesus! Thành phố của sự đối ngẫu Là nơi có cả đền thờ nữ thần Artemis lẫn tòa thánh thờ Đức mẹ Maria. Nơi đây là hiện thân của cái tôi bản ngã lẫn chiều sâu tâm hồn. Đây cũng là hình ảnh thu nhỏ của những thứ cao khiết hư ảo lẫn những điều trần tục thấp hèn, là nơi kết hợp cả chế độ nô dịch lẫn sự tự do, phóng khoáng. Ephesus – Là sự hòa quyện của những điều đối lập. Bản thân thành phố ấy cũng có tâm hồn như mỗi con người chúng ta. Một buổi chiều muộn tháng Mười, có hai người ngồi bên cạnh con suối Meles gần thành phố cổ Ephesus. Mặt trời đang khuất dạng dần sau ngọn núi Buldul, nhuộm hồng cả một góc trời. Với những ai am hiểu ngôn ngữ của bầu trời thì chắc hẳn sẽ sớm hân hoan đón chào cơn mưa. “Thánh Paul đang giảng đạo cho mọi người về Mẹ Maria đấy”, cô gái trẻ nói. “Anh có nghe thấy đám đông phẫn nộ đang gào thét, phản đối và nguyền rủa ông ấy không? Hàng nghìn người nổi loạn chống lại tôn giáo mới - thứ tôn giáo ngăn cấm họ thờ nữ thần của mình. Hãy nghe tiếng những bước chân đang giậm trên nền đất và tiếng họ la hét kìa, ‘Chúng tôi không muốn Maria! Chúng tôi tôn thờ nữ thần Artamis!’ “Artemis ư?” Chàng trai trẻ hỏi lại. “Mội nữ thần sao? Nữ thần Diana của La Mã?” “Đừng quan tâm đến bà ấy làm gì”, cô gái trẻ đáp lời, “Bà ấy chẳng là gì ngoài một ảo tưởng đã được hình hài hóa và được người ta tôn thờ.” “Em có vẻ biết nhiều về bà ấy nhỉ?” “Em hiểu rõ bà ấy như chính bản thân mình ấy chứ.” “Được rồi, vậy sao em không kể cho anh nghe về bà ấy nhỉ?” “Bà ấy là nữ thần săn bắn,” cô gái bắt đầu kể. “Đó là một nữ thợ săn thực thụ - người dùng cung tên của mình để đem đến cho kẻ thù một cái chết đột ngột và ngọt ngào. Đó là một tâm hồn tự do bị cầ tmù, một người phụ thuộc nhưng rất đỗi kiêu hãnh. Nhờ có cây oliu mà mẹ bà – bà Leto đã sinh ra bà cùng với…” Sau khi đã hít một hơi sâu, cô gái nói thêm “người em song sinh của bà…” Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Mất Tích của tác giả Serdar Ozkan.