Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cháu ông Rameau - Denis Diderot

Cháu ông Rameau bắt đầu được sáng tác vào khoảng 1761, nhưng mãi đến 1779 mới hoàn thành, là một thể nghiệm táo bạo của Diderot tiếp tục tìm tòi nội dung và hình thức mới của tiểu thuyết. Đó là “kiệt tác duy nhất” theo chữ dùng của Marx (1818-1883), và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo đánh giá của Engels (1820-1895). Cháu ông Rameau là một người có thật, tên là Jean-François Rameau, cháu gọi nhạc sĩ nổi tiếng Jean-Philippe Rameau (1683-1764) là bác ruột. J-F. Rameau kém Diderot vài tuổi. Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền bạc và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại giữa “Tôi” và “Hắn” trong tiệm giải khát La Régence ở gần Hoàng-Cung, vào một buổi chiều, bên cạnh những người đang chơi cờ. Nếu như đối thoại choán gần hết từ đầu đến cuối trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, chỉ mãi đến khi gần kết thúc mớỉ xuất hiện vai trò của người kể chuyện, thì ở Cháu ông Rameau, người kể chuyện xuất hiện nhiều hơn. Tác phẩm mở đầu bằng lời của người kể chuyện: “Dù đẹp trời hay thời tiết xấu, tôi có thói quen cứ đến năm giờ chiều đi dạo ở Hoàng-Cung. Thiên hạ luôn thấy tôi chỉ ngồi một mình, mơ mộng trên chiếc ghế dài ở Àrgenson[9]. Tôi trò chuyện với bản thân tôi về chính trị, về tình yêu, về thị hiếu và về triết học. Tôi mặc cho đầu óc tôi tha hồ bông lông...” Tiếp đó câu chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” hơn hai chục lần bị ngắt quãng bởỉ lời của người kể chuyện, đó thường là những đoạn ngắn với lối văn tự sự, kể chuyện ở ngôi thứ ba. Khác với mối quan hệ giữa người kể chuyện và “Người trò chuyện thứ nhất” trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, ở tiểu thuyết này, người kể chuyện và “Tôi” có thể xem là đồng nhất. Có nhiều dấu hiệu gắn bó hai nhân vật ấy[10] với chính tác giả, chẳng hạn trong khi trò chuyện, “Hắn” thường xưng hô với “Tôi” là thưa ông triết gia... và nhiều chi tiết khác ám chỉ đến quá khứ nghèo khổ của Diderot. Nhưng dẫu sao, trong khuôn khổ của tiểu thuyết, không thể và không nên quá nhấn mạnh vào sự trùng khớp này. Trong cuộc trò chuyện ở Ý kiến ngược đời về diễn viên, “Người trò chuyện thứ hai” thường nói ngắn, dường như chỉ đóng vai trò đưa đẩy cho “Người trò chuyện thứ nhất” mà thôi. Đến Cháu ông Rameau, lời nói chủ yếu thuộc về “Hắn”. Triết gia chủ yếu là gợi mở để cho “Hắn” nói, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, bắt buộc phải nói dài để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối, ta chỉ nghe vang lên tiếng nói của Rameau trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình. Có tài liệu cho rằng cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Rameau (gọi tắt là Rameau) là có thật, nên có thể đồng nhất “Tôi” với Diderot và “Hắn” với Jean-François. Ý kiến ấy không thỏa đáng. Một tác phẩm viết trong gần hai mươi năm mới xong chắc chắn không phải chỉ là một cuốn kí sự đơn thuần, một tập biên bản ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Jean-François, cũng như “Tôi” là triết gia, nhưng không nhất thiết là triết gia Diderot. Tác giả chắc đã nhìn thấy trong số phận Rameau những nét đặc biệt của thời đại ông và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Lại có ý kiến cho rằng anh chàng ăn bám Rameau sống một thời gian quanh quẩn gần Hoàng-Cung, nên Diderot thỉnh thoảng gặp hắn ta, nhưng không hề diễn ra cuộc trò chuyện giữa hai người trong tiệm giải khát La Régence. Đây chỉ là tác phẩm hoàn toàn hư cấu. Đoạn mở đầu tác phẩm đã dẫn ra trên kia đặc biệt có ý nghĩa. Người kể chuyện có thói quen dạo chơi một mình, mơ mộng một mình và trò chuyện cũng với chính bản thân mình chiều chiều ở Hoàng-Cung. Vậy “Tôi” và “Hắn” ở đây cũng chỉ là hiện tượng lưỡng hóa nghệ thuật như biện pháp lưỡng hóa được sử dụng trong Ý kiến ngược đời về diễn viên mà thôi. Thực chất của những “đối thoại” này là “độc thoại”, hay đúng hơn là “độc thoại nội tâm” phơi bày lên trang giấy những suy tư trăn trở miên man của bản thân, mong đi tới chân lí. Jean-Marie Goulemot so sánh chức năng của đối thoại ở đây với phép đỡ đẻ (maieutique), hiểu theo nghĩa phương pháp gợi hỏi của Socrate (470-399 TCN) nhằm hướng dẫn tìm ra chân lí còn đang thai nghén tiềm tàng ngay trong bản thân Diderot. Rameau, nhân vật chính của tiểu thuyết này, có thể nói hoàn toàn có thật mà cũng hoàn toàn hư cấu. Hắn có thể nhận ra chân dung của mình qua những dòng sau đây: “Chẳng có gì khác với hắn hơn là chính bản thân hắn. Đôi khi, hắn gầy gò và xanh xao như một người ốm sức tàn lực kiệt; ta như đếm được qua hai bên má những chiếc răng của hắn. Ta tưởng đâu hắn đã nhiều ngày chẳng ăn uống gì, hoặc là hắn vừa ra khỏi tu viện dòng Trappe. Đến tháng sau hắn lại béo mập và đẫy đà như thể hắn chưa từng rời bàn ăn của một nhà tài chính, hoặc là hắn bị lưu giữ trong một tu viện dòng thánh Bernard. Hôm nay ăn mặc bẩn thỉu, quần áo rách bươm, vá chằng vá đụp, hầu như giày dép chẳng có, hắn cúi gầm mặt xuống mà đi, lén la lén lút, khiến người ta như chỉ muốn gọi hắn để bố thí cho hắn. Hôm sau, đầu tóc chải chuốt, áo quần giày dép tinh tươm, hắn ngẩng cao đầu bước đi, vênh vang, và bạn có lẽ tưởng đâu hắn là một bậc hào hoa phong nhã...” Nhưng Jean-Marie Goulemot cũng hoàn toàn có lí khi nhận định rằng những dòng miêu tả Rameau trên đây, để cho hắn thay đổi dáng vẻ tuỳ ngày, tuỳ mùa... chính lại là một cách phủ nhận hoàn toàn sự có thực của nhân vật này[11]. Rameau là một nhân vật tiểu thuyết. Xét về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. J-M. Goulemot lưu ý chi tiết phụ đề của tác phẩm này là “truyện châm biếm” - satire - bắt nguồn từ chữ latin “satura” có nghĩa là món hổ lốn, mớ hổ lốn, tập tạp văn. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài linh tinh, Goethe nhận định “câu chuyện đối thoại này thật ra có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là lầm; nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi”[12]. Theo Michel Launay, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là “Nhận xét về con người và tính cách”. Tiếp đến là “Đạo đức”, chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là “Triết học” với những suy nghĩ về lí lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là “Thị hiếu” bàn luận về mĩ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học[13]. Rameau vốn là người có sức khoẻ, thông minh và chẳng phải không yêu đời, tuy cuộc sống của hắn có nhiều điều bất hạnh. Hắn có những khả năng đặc biệt, rất yêu âm nhạc và rõ ràng có thể trở thành một nhạc sĩ khá. Nhưng Rameau chọn cái nghề dễ dàng nhất, cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi phải có trí thông minh, phải lanh lẹn tháo vát, đó là nghề ăn bám. Hắn phủ nhận tất cả những cái gì tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận một nguyên tắc sống là thoả mãn những bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Rameau là sản phẩm của xã hội phong kiến Pháp đang đi đến chỗ tan rã. Chính xã hội đã phơi bày ra trước mắt hắn cuộc sống mà bao nhiêu kẻ tai to mặt lớn lại là những kẻ không có đạo đức; trong xã hội ấy, “thiên hạ ca ngợi đức hạnh, nhưng thiên hạ ghét nó, nhưng thiên hạ trốn tránh nó, nhưng nó lạnh cóng, mà trong thế gian này lại cần phải có đôi bàn chân ấm nóng”; trong xã hội ấy, chính những kẻ quyền quý đã dạy cho hắn lòng căm ghét những người lương thiện như lập luận của vị thượng thư kia khi chứng minh rằng “đối với nhân dân không có gì ích lợi bằng sự dối trá và không có gì hại bằng sự thật thà”. Trong sự phủ định triệt để của Rameau, tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật của thời đại, vì thế vẫn toát lên ý nghĩa phê phán tích cực. Rameau không ngần ngại nói toạc ra rằng ở đời “khi người ta đã giàu có thì người ta muốn làm gì mặc lòng, không bao giờ bị nhục nhã cả”, và còn vô liêm sỉ hơn, nhưng chẳng phải là không sâu sắc: hắn tuyên bố con tôi sẽ phải giàu có... “Cháu sẽ có vàng, tôi xin nói với ông như vậy. Nếu cháu có nhiều vàng, thì cháu sẽ chẳng thiếu gì hết, kể cả lòng tôn trọng và sự kính nể của ông”. Tác giả viết: “Rameau là một người đáng ghét không hơn không kém những kẻ khác, chỉ có điều hắn thẳng thắn hơn, nhất quán hơn và đôi khi sâu sắc hơn trong sự hư hỏng của mình”. Rameau không đơn thuần là sản phẩm thụ động của xã hội. Hắn còn vượt lên trên xã hội, quan sát nó bằng con mắt có ý thức và trí thông minh sẵn có. Hắn mò mẫm tìm ra nguyên nhân của những bất công trong xã hội: “Sự sắp đặt quỷ quái gì mà có những kẻ ngốn đầy ứ đủ thứ, trong khi những người khác có cái dạ dày quấy nhiễu như họ, có cái đói tái phát như họ, mà lại chẳng có gì để đút vào miệng”. Hắn hiểu rằng “trong thiên nhiên có các loài vật xâu xé nhau, trong xã hội có các giai cấp xâu xé nhau”. Nhưng Rameau lại rút ra kết luận muốn trở thành “một tên kẻ cướp sung sướng giữa những tên kẻ cướp giàu có”, vì hắn lí luận rằng “người ta phỉ nhổ một kẻ lưu manh tầm thường, nhưng không thể không cảm phục một tên đại gian đại ác”. Rameau chính là hình ảnh lớp người đang vật lộn trong xã hội lúc bấy giờ để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân do đó rơi vào bế tắc. Có ý kiến cho rằng trong cuộc trò chuyện này, Rameau hoàn toàn nắm quyền chủ động. Những lập luận của hắn tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại có sức lôi cuốn ghê gớm ngay cả đối với người đang ngồi trò chuyện với hắn và thỉnh thoảng lên tiếng phản đối. Dường như “Tôi” chỉ phản ứng lấy lệ, chứ trong thâm tâm thầm cảm phục “Hắn”. Có ý kiến lại cho rằng Rameau chỉ có vẻ thắng thế trong phần thứ hai trên bình diện lí thuyết, nhưng sang đến phần sau, triết gia dễ dàng chứng minh cho hắn thấy rằng mọi lí thuyết của hắn chẳng có giá trị gì trong thực tiễn, mà chỉ đưa đến những thất bại và những thái độ mâu thuẫn. Dù sao cũng phải thừa nhận có sự bắt gặp, thông cảm đến một mức độ nào đấy giữa triết gia và Rameau. Điều này cũng dễ hiểu khi ta biết rằng có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Triết gia tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Rameau những ý nghĩ lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá, không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân ông. *** Denis Diderot (1713-1784) là kiến trúc sư của công trình Bách khoa thư (Encyclopédie) đồ sộ, nhà văn có nhiều đóng góp độc đáo, nhà triết học duy vật, sôi nổi “lòng yêu chân lí và chính nghĩa”[1], nhà phê bình nghệ thuật sắc sảo. Ông là “nhà thơ lớn, nhà họa sĩ lớn, nhà điêu khắc lớn, nhà nhạc sĩ lớn... tuy chưa từng bao giờ làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nặn tượng”[2]. Denis Diderot sinh ở Langres, một thành phố cổ kính miền Đông-Bắc nước Pháp, trong một gia đình thợ thủ công nhiều đời chuyên sản xuất các loại dao. Thuở nhỏ, Diderot học ở quê nhà; năm mười hai tuổi, nhà triết học tương lai chịu lễ cắt tóc chuẩn bị phụng sự tôn giáo. Nhưng ba năm sau, năm 1728, ông quyết định từ giã quê hương lên Paris học tập, bất chấp mọi người can ngăn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Những năm đầu tiên sống ở Paris, nhà văn sẽ có dịp gợi lại sau này qua cuộc đối thoại kì lạ giữa “Tôi” và “Hắn” trong Cháu ông Rameau (Le Neveu de Rameau), một cuộc sống gần như lang thang, bữa đói bữa no, nay đây mai đó. Cảnh túng thiếu sẽ còn đeo đẳng ông cho mãi về già. Nhưng để bù đắp lại, Diderot được hưởng một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú. Ông thoả sức tắm mình trong không khí của thời đại; ông mở tâm hồn ra đón những luồng gió mớỉ của bốn phương; ông đọc sách của Voltaire (1694-1778), ông tham dự những buổi tọa đàm ở nhà triết gia D'Holbach (1723-1789); ông kết bạn với F.M. Grimm (1723- 1807) ở Đức vừa sang; ông được Rousseau (1712- 1778) đến thăm ở Vincennes khi bị giam cầm; ông dự đám tang Montesquieu (1689-1755)... Diderot - nhà triết học ra mắt độc giả bằng tác phẩm Những tư tưởng triết học (Les Pensées philosophiques, 1746). Liền năm sau, ông cho in Cuộc dạo chơi của người theo chủ nghĩa hoài nghi. Tác phẩm nổi tiếng Bức thư về những người mù (Lettre sur les Aveugles, 1749) khiến ông bị tống giam ở Vincennes mấy tháng. Năm 1753, ông cho in Về việc giải thích tự nhiên (Sur l’Interprétation de la nature). Đến 1772, hai tác phẩm quan trọng nữa ra đời: Trò chuyện giữa Diderot và D'Alembert và Giấc mơ của D'Alembert (Le Rêve de d'Alembert). Diderot bước vào lĩnh vực văn học gần như đồng thời với triết học, nhưng Diderot - nhà văn được khẳng định sau Diderot - triết gia khá lâu, và những kiệt tác văn học của ông cũng trải qua số phận long đong hơn nhiều. Tiểu thuyết Những đồ trang sức không kín đáo (Les Bijoux indiscrets, viết năm 1745, in năm 1748) chưa bộc lộ tài năng của tác giả. Với các vở kịch Đứa con hoang (Le Fils naturel, 1757) và Người cha trong gia đình (Le Père de famille, 1758), ông thử nghiệm một thể loại mới: kịch “drame” hoặc “hài kịch nghiêm chỉnh”; đáng tiếc ở đây tài nghệ của nhà soạn kịch không tương xứng với ý đồ lớn lao. Năm 1760, ông viết cuốn tiểu thuyết Nữ tu sĩ (La Religieuse) thực sự có giá trị, nhưng mãi đến 1796, sau khi tác giả qua đời mười hai năm, mới được xuất bản. Đó cũng là số phận của kiệt tác Cháu ông Rameau, sáng tác khoảng năm 1761, lưu hành một vài bản ở dạng chép tay trong số bạn bè quen biết. Một bản theo Grimm về Đức, lọt vào tay Goethe (1749-1832), được ông dịch ra tiếng Đức. Mãi đến 1823, Cháu ông Rameau mới được dịch lại từ bản tiếng Đức để xuất bản ở Paris, và tới gần cuối thế kỉ XIX, năm 1891, ngưòỉ ta mới tìm thấy nguyên bản của nó! Tiểu thuyết không kém phần độc đáo Jacques người theo thuyết định mệnh (Jacques le Fataliste), sáng tác năm 1773, cũng phải đợi đến 1796 mới được ra mắt công chúng.   Mời các bạn đón đọc Cháu ông Rameau của tác giả Denis Diderot.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Người Nuôi Giữ Bồ Câu
Dona Flor Và Hai Người Chồng
Kiệt tác của tượng đài văn học Braxin Gợi cảm và là cô giáo dạy nấu ăn giỏi giang, Dona Flor kết hôn với Vadinho, một kẻ vô lại, bài bạc nhưng quyến rũ khó cưỡng. Tám năm sau, chính giữa những ngày vũ hội hóa trang, Vadinho đột tử khi đang cuồng nhiệt trong điệu samba sôi động, trên mình là bộ đồ giả trang thiếu nữ Bahia. Với người chồng thứ hai, dược sĩ Theodoro uy tín, cô được hưởng một sống đủ đầy, êm ả, có phần tẻ nhạt, cho đến một ngày dona Flor bàng hoàng nhìn thấy... một Vadinho trâng tráo, trần như nhộng, nằm trên chiếc giường của vợ chồng cô, mời gọi cô. Điều kỳ lạ là không ai ngoài cô có thể nhìn thấy anh ta… Đậm màu sắc văn hóa ẩm thực và âm nhạc Bahia, với thần Xangô, với samba, lễ candomblé,  rượu cachaça…. “Dona Flor và hai người chồng” còn vượt khỏi một “câu chuyện đạo đức, câu chuyện tình yêu” xúc động để trở thành “trận chiến khủng khiếp giữa Tinh thần và Vật chất” qua lời kể hài hước và sinh động của Jorge Amado, một trong những nhà văn hàng đầu của Braxin thế kỷ XX. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim vào năm 1976, bởi đạo diễn Bruno Barreto với vai dona Flor do Sonia Braga thể hiện. Bộ phim được coi là một trong những tác phẩm thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Braxin. *** Đôi nét về tác giả Jorge Amado   Jorge Amado (1912-2001) là cây đại thụ văn học của Braxin, nơi không một nhà văn nào nổi tiếng, được yêu mến và có uy tín như ông. Và ông cũng là nhà văn Braxin nổi tiếng nhất ở nước ngoài. Các tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng trên khắp năm châu. Dona Flor và hai người chồng là một trong những tác phẩm được ra nhiều thứ tiếng nhất của Jorge Amado. Đây là lần thứ hai tác phẩm này được xuất bản tại Việt Nam. *** Lời khen tặng dành cho Dona Flor và hai người chồng   "Đại sứ văn chương của Braxin.” - NXB Gallimard   “Một trong những tượng đài của nền văn học.” - L’Express *** trường nghệ thuật  ẩm thực và hương vị Phải mời khách món gì trong đêm viếng trước ngày tang lễ? Dona Flor trả lời câu hỏi của một học sinh. Cho dù đó là ngày tang gia bối rối, buồn bã khóc lóc thì cũng không thể để khách tới viếng phải nhịn đói nhịn khát. Nếu bà chủ nhà, đang nức nở nghẹn ngào và sắp ngất xỉu, ngập chìm trong đau đớn, hay chính là người nằm chết trong áo quan, không thể lo được, thì bà con hay bạn bè phải đứng ra lo liệu, vì không thể để những người khách khổ sở đến đây viếng thăm vì tình nghĩa phải nhịn đói nhịn khát suốt đêm; chưa kể lúc mùa đông giá rét hay tiết trời lạnh lẽo. Để cho đêm tang lễ được nhộn nhịp và thật sự tôn kính người đã khuất, chủ nhân của đêm đó, làm cho linh hồn anh được nhẹ nhàng trong đêm đầu tiên và đang rất bối rối trong cõi chết của anh, phải thật chu đáo, chăm chút về cả tinh thần lẫn đồ ăn thức uống. Lúc nào mời và mời món gì? Lúc nào ư? Đơn giản thôi: suốt cả đêm, từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc. Cà phê thì dĩ nhiên là cần thiết vào bất cứ lúc nào, rót vào những tách nhỏ. Còn bữa sáng đầy đủ cả sữa, bánh mì, bơ, pho mát, bánh bích quy, vài cái bánh sắn, vài lát bánh ngũ cốc kèm trứng đặt trên đĩa thì chỉ cần dọn vào buổi sáng và cho những người đã thức suốt đêm. Quan trọng nhất là luôn luôn phải có nước sôi trong bình để pha cà phê, vì lúc nào cũng có người đến viếng. Thêm cả bánh nướng, bích quy kèm với cafezinho§.Thi thoảng mang ra vài món khai vị như bánh kẹp pho mát, giăm bông, giò, những thứ đơn giản, thể hiện sự tế nhị trước người đã khuất. Nhưng nếu đêm tang lễ của gia đình ở tầng lớp cao, sau đêm này tiền viếng cứ là dồi dào, thì đương nhiên phải có tách sô cô la thật đặc và thật nóng vào lúc nửa đêm, hay bát xúp gà mỡ màng. Sau cùng là cá tuyết viên, các món rán, các loại bánh kẹo, đồ ăn vặt, hoa quả khô. Về đồ uống thì nếu đó là gia đình khá giả, ngoài cà phê, còn có bia hay rượu vang, chỉ một ly thôi và chỉ để uống kèm xúp gà và các món rán. Tuyệt đối không dùng sâm panh, như thế không hợp cảnh cho lắm. Trong mọi trường hợp, dù là đêm viếng ở nhà giàu hay nhà nghèo, bắt buộc và cần thiết, đều phải có rượu cachaça§ nổi tiếng. Có thể thiếu gì cũng được, kể cả cà phê, nhưng rượu đó thì không thể thiếu. Không có chất trợ lực ấy, đêm viếng sẽ mất hết giá trị. Đêm viếng không có rượu tức là thiếu tôn trọng đối với người đã khuất, là vô tình, là ác nghiệt. *** REVIEW “DONA FLOR VÀ HAI NGƯỜI CHỒNG” Chắc chắn là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất tôi từng đọc về tính hai mặt của tinh thần con người. Cuốn tiểu thuyết này đã chạm đến trái tim và tâm trí của tôi và lôi cuốn tôi vào câu chuyện huyền bí và mê tín của đất nước Brazil. Jorge Amado bắt đầu bằng cách nhắm trúng sự thích thú của độc giả thông qua một câu chuyện tình lãng mạn giữa một cô gái tốt bụng là Flor và một con bạc đáng yêu, gợi tình là Vadinho. Anh ấy là nhân vật phản diện kinh điển mà chúng ta khi đọc sẽ cảm giác vừa ghét vừa thương.  Amado tiếp tục đưa chúng đến với người dân của bang Bahian với những nhân vật tuyệt vời và thú vị. Người đọc gặp gỡ các nhà văn, người mù chữ, người ngoại đạo và người mê tín, người giàu và người nghèo, những lời đồn đoán, gái điếm, chế độ mẫu hệ và rất nhiều chuyện khác nữa. Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy một bối cảnh đầy màu sắc với đủ các vấn đề và chi tiết khác nhau. Thêm vào đó, Amado đã vẽ ra nguyên mẫu hình ảnh của Brazil cùng với việc đặt “nền móng” phức tạp cho chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết. Ngay cả khi chúng ta đang suy ngẫm về tính hai mặt thể hiện trong tâm hồn của nhân vật chính là Flor thì câu chuyện của Amado nổ ra trong sự hỗn loạn và mâu thuẫn tâm trí đến mức khó tin. Những thay đổi thần bí xảy ra khi các vị thần trở nên minh bạch trong sự trùng lặp của chính họ. Bất bình đẳng giai cấp xã hội, số phận cá nhân, lòng trung thành và tình yêu,... không có chủ đề nào vượt quá giới hạn trong câu chuyện tâm lý sâu rộng này. Amado là một bậc thầy tuyệt vời về khả năng tạo ra một nền văn hóa và cuốn hút người đọc bằng cách sử dụng những câu văn kết nối với cốt truyện kỳ diệu, văn xuôi lôi cuốn, phát triển nhân vật hoàn toàn tài tình và khiến chúng ta mê đắm với màu sắc của bối cảnh truyện. Cuối cùng, người ta có thể tin vào điều gì? Hòa bình đi kèm với sự chấp nhận vừa có cảm giác cưỡng ép vừa có cảm giác thích thú? Hay những góc khuất trong chính con người đang sống trong xã hội hiện nay khi có vô vàn những ước muốn khác nhau và lòng tham vô đáy đã ngự trị hết thảy tâm hồn của mọi người? Tất cả điều này diễn ra tại Bahia - nơi những điều quái lạ và những hành động ma thuật khác xảy ra mà không làm ai ngạc nhiên hay giật mình. Một góc phố nghèo dù cho có chuyện gì kinh thiên động địa hay chuyện con cóc vỉa hè cũng không còn đáng quan trọng nữa.  - Trần Thông Mời các bạn đón đọc Dona Flor Và Hai Người Chồng của tác giả Jorge Amado.
Đoạn Tuyệt
Tiểu thuyết Đoạn tuyệt của nhà văn Nhất Linh xuất bản năm 1934, viết về cuộc đời Loan, một cô gái mới được tiếp thu những tư tưởng mới và hành trình chống lại những luật lệ phong kiến hà khắc, kìm kẹp quyền tự do cá nhân của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Qua tác phẩm của mình, Nhất Linh phản ánh một cách trực diện xung đột mới – cũ, cổ vũ sự giải phóng của con người thoát khỏi những hủ tục. Và ông cũng ca ngợi sự tự do sống theo đuổi những ước vọng, khát khao cá nhân, những lý tưởng cải tạo xã hội.  Đoạn tuyệt là một trong những tác phẩm mà Sống (Thương hiệu sách Tác giả Việt) đặc biệt tuyển chọn để đưa vào Tủ sách Khuê Văn – tủ sách gồm những áng văn trác tuyệt được ví như những vì tinh tú trong nền văn học Việt Nam. *** Chuyện nàng tân thời. “Đoạn tuyệt” gồm 28 chương, được viết trong năm 1934 – 1935, nội dung chính xoay quanh cô gái tân thời tên Loan. Loan thuộc hàng ngũ thanh niên có học, được tiếp thu nền văn minh mới, hiểu biết về tư tưởng nhân đạo, trọng tự do cá nhân. Nhưng rồi cảnh nhà túng bấn, nàng buộc phải bỏ học, thuận lời cha mẹ kết hôn với Thân con nhà giàu có, cũng là chủ nợ, dẫu lòng nàng vẫn yêu Dũng tha thiết. Dũng là điển hình của thanh niên tân thời vì thoát ly khỏi khuôn khổ đạo đức cũ mà làm trái ý gia đình, bị thầy me từ mặt. Anh sống một cuộc đời cô độc, lênh đênh, thiếu thốn, nhưng tự do. Dũng là hình tượng hướng tới của Loan, không chỉ là tình yêu, anh là hạt nhân trong tính cách của Loan, khiến nàng khát vọng được như Dũng, có những phẩm chất của Dũng, sống một cuộc đời như Dũng. Loan về nhà chồng, gạt bỏ cái tôi, cố sống như mọi người, cố lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nhưng nàng muốn yên mà gia đình chồng không để cho nàng yên. Nàng cưới chồng mà cảm tưởng như bị người ta mua về hì hục lạy người ta để nhận làm cái máy đẻ, làm con sen hầu hạ không công. Mâu thuẫn tư tưởng mới cũ diễn ra gay gắt. Đỉnh điểm là con trai bé bỏng của Loan không may sinh bệnh, mẹ chồng mê tín tin bọn thầy bùa, chữa bệnh bằng uống tàn hương nước thải và có khi lại dùng roi dâu để đánh đuổi tà ma ám ảnh, nghĩa là đánh người ốm. Bé con qua đời một cách tức tưởi. Vốn khó sinh, Loan không còn khả năng mang thai, mẹ chồng bắt Loan đứng ra cưới vợ lẽ cho Thân, thật ra là hợp thức hóa một cuộc hoang dâm, ngoại tình. Vợ lẽ sinh được con trai, lại tỏ ra “kẻ trên”. Khi chức năng đẻ đã bị hỏng, Loan sống như một nô lệ không công, không thiếu đòn roi đánh mắng. Thương thân sinh và bởi cả món nợ cha mẹ chưa trả cho gia đình chồng, Loan tiếp tục nhẫn nhịn. Những tưởng cái đời sẽ từng bước đi lùi, mãi lùi về điểm già cỗi như thế, thì định mệnh xảy ra. Một vụ án mạng. Một phiên hầu tòa. Trắng án. Tự do! Nỗ lực tái thiết xã hội. Viết “Đoạn tuyệt”, Nhất Linh có chủ ý muốn bạn đọc đương thời yêu mới ghét cũ. Để thực hiện chủ ý ấy, ông dựng nên một cuộc xung đột giữa mới và cũ, ở đấy cái cũ hiện hình với tất thảy những xấu xí hủ bại: luân lý cay nghiệt ép con người vào đời nô lệ dưới vỏ bọc bổn phận gia đình, trọng nam khinh nữ, gia trưởng, dân trí thấp, mê tín dị đoan, bạo hành… Quyết định trắng án của quan tòa dành cho Loan, là thêm một tầng khẳng định để tác giả kết án chế độ đại gia đình cũ và dựng lập một chế độ mới, nơi con người cá nhân, đặc biệt là người phụ nữ có thể vui sống tự do trong tư tưởng lẫn thể xác, thoát ly mọi khuôn khổ gò bó của lễ giáo phong kiến. Ở một chừng mực nào đó, Nhất Linh đã thành công. “Đoạn tuyệt” được xem là một trong những kiệt tác của văn xuôi Việt Nam. Nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu đã viết trên báo Loa năm 1945: ““Đoạn tuyệt” là một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận sự tiến bộ và hăng hái ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng phấn đấu. Nghĩa là vui mà sống.” Hẳn nhiên, không thiếu những ý kiến trái chiều, họ cho rằng xung đột trong gia đình  Việt Nam thời bấy giờ là kết quả tai hại của đầu óc lãng mạn trái mùa chạy theo Âu hóa (điều này đúng với cậu Văn Minh con cụ cố Hồng trong “Số đỏ”), nhưng lại sai đối với cô Loan. Loan trong “Đoạn tuyệt” là một người con gái có học, đứng đắn, khôn ngoan, đủ lý trí để xem xét mọi việc, đủ nghị lực để vượt qua thống khổ. Một người con gái mà khát khao “sống một cuộc đời tự lập, cường tráng” như Dũng, như một đấng nam nhi. Tuy nhiên, dùng tình tiết ngẫu nhiên để tạo bước ngoặc cởi bỏ nút thắt truyện đã gây nên một sự may rủi trong giải quyết vấn đề. Và bởi sự may rủi đó, nỗ lực tái thiết xã hội của Nhất Linh cũng còn bỏ ngỏ. Góc nhìn thiên lệch của Nhất Linh. Các sáng tác của Nhất Linh nói riêng, của Tự Lực văn đoàn nói chung đã “mở đầu một chặng đường mới trong văn xuôi” (chữ của Tô Hoài), góp phần định hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, và “đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam” (chữ của Huy Cận). Tiểu thuyết của Nhất Linh hay! – Cho đến hiện tại, đây có lẽ đã là sự thật được chia ở thì hiện tại đơn. Cái hay ấy được tạo nên từ bút pháp nghệ thuật, lời văn, cách viết vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ. Nhưng về nội dung đề tài, phải nhận định rằng Nhất Linh đã có góc nhìn khá thiên lệch. Bản thân là một trí thức du học trời Tây 3 năm, Nhất Linh thành lập Tự Lực văn đoàn với 10 tôn chỉ, mà điều thứ 8 trong số đó là “Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa.” Để thực hiện tôn chỉ mà mình đưa ra, Nhất Linh kiên quyết bài trừ phong tục truyền thống, song song với ủng hộ văn minh, ủng hộ Âu hóa. Chưa nhắc đến việc Âu hóa trong bối cảnh đất nước bấy giờ có phải tất cả đều tốt đẹp hay không (cái này phải hỏi cụ Vũ Trọng Phụng). Nhưng phải chăng phong tục cũ nào cũng đáng bị công kích? Đạo Khổng du nhập vào Việt Nam hơn 1000 năm, để lại dấu ấn rất lớn trong quá trình giáo dục và lịch sử dựng giữ nước ở các triều đại phong kiến. Một ví dụ đơn giản dễ hiểu, đạo Khổng răn dạy con người phải “Trung quân ái quốc”, “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, bởi vậy góp phần không nhỏ tạo nên truyền thống bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta. Những truyền thống ấy có giá trị vĩnh hằng! Quay lại với “Đoạn tuyệt”, với luận đề giải phóng phụ nữ, mở rộng ra là giải phóng cá nhân và đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, chống chế độ đại gia đình, phê phán nền luân lý khắc khổ… Nhất Linh đã đặt toàn bộ phong tục tập quán truyền thống trong cái nhìn thành kiến, ông gạt bỏ toàn bộ, gạt bỏ luôn cả một cái lạy của đứa con khi tiễn đưa người mẹ về nơi chín suối. Ông đã để Loan, vì thể hiện thái độ chống cự lại tập tục cũ, mà không tế lễ, không bàn cỗ trong đám tang của mẹ mình. Dĩ nhiên, không cần rầm rộ “một đám ma gương mẫu” như cái cách ông vua phóng sự đất Bắc trào phúng trong “Số đỏ”, và đành rằng, có tưởng nhớ trong lòng, nhưng cái dập đầu với tất cả lòng thành kính tiếc thương đối với đấng sinh thành trước khi đưa người về nơi an nghỉ cuối cùng chưa bao giờ là điều thừa thãi hay đáng bài trừ cả! Nói cho cùng, đứng trước phong tục tập quán cũ, cần có thái độ gạn đục khơi trong để không làm mất đi bản sắc văn hóa truyền thống cũng như các giá trị tinh thần, chứ không phải là phủ định toàn bộ như cách mà Nhất Linh tuyên ngôn và thực hiện. Hiểu thêm về Nhất Linh (1906 – 1963). Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam, nguyên quán ở Quảng Nam nhưng sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là anh ruột của Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long và Thạch Lam Nguyễn Tường Lân. Ông từng theo học ngành Y và Mỹ thuật nhưng đều bỏ dở. Năm 1927, Nguyễn Tường Tam du học Pháp ngành khoa học, thời gian này ông có nghiên cứu nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông lấy bằng cử nhân khoa học và về nước trong năm. Nguyễn Tường Tam đứng ra thành lập Tự Lực văn đoàn (03/1933), giữ vị trí cây bút chủ chốt và là linh hồn của nhóm. Ông cũng từng đảm nhiệm Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Ngoài cái tên Nhất Linh được dùng phổ biến hơn cả, ông còn sử dụng các bút danh Tam Linh, Nhất Chi Mai, Bảo Sơn, Lãng Du khi viết văn làm báo, Đông Sơn khi vẽ, Tân Việt khi làm thơ. Nguyễn Tường Tam còn là một chính trị gia. Ông sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một cây bút có tài, đồng thời là một chính khách có lòng yêu nước nhưng tham quyền lực và thiếu tầm nhìn nên đã lầm đường lạc lối. Bỏ qua lăng kính trính trị, cần khẳng định và thừa nhận những đóng góp có giá trị của Nhất Linh nói riêng và Tự Lực văn đoàn nói chung vào nghệ thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, vào câu văn và tiếng nói của dân tộc Việt Nam. *** Một buổi trưa chúa nhật, về mùa đông. Trong gian phòng ấm áp, bốn người ngồi quây quần nói chuyện trước lò sưởi đỏ rực. Bên ngoài, mưa bụi lặng lẽ bay qua mờ mờ như hơi sương. Hai gốc hoàng lan cạnh cửa sổ đứng rũ rượi, cành lá nặng nề, ướt át. Nghe có tiếng trẻ rao báo ngoài phố, cô giáo Thảo nhìn ra vườn hỏi chồng: – Cậu đã mua báo hôm nay chưa? Ông giáo Lâm đáp: – Mua rồi, tôi quên không đưa mợ xem – Thế họ có đăng tin gì thêm không, cậu? – Không. Thảo quay về phía một cô thiếu nữ ngồi ở ghế đệm dài, rồi hỏi: – Thế nào, chị Loan đã biết tin cô Minh Nguyệt tự tử chưa? Loan đáp: – Tôi biết rồi, biết trước khi họ đăng báo, vì tôi có quen cô ta. Khốn nạn, việc quái gì mà phải tự tử. Mẹ chồng ác thì về nhà bố mẹ mà ở, tội gì rước khổ vào thân rồi đến nỗi tự tử. Thảo nhìn bạn mỉm cười: – Chị nói dễ quá. Còn chồng, còn con… Loan ngắt lời: – Cô ấy chưa có con. – Vâng thì cô ấy chưa có con. Nhưng còn chồng… con gái đã bỏ chồng là mất cả một đời rồi còn gì. Mẹ chồng ghét, chồng bênh mẹ đuổi đi, cô Minh Nguyệt cho đời mình là hết hy vọng. Loan nói: – Việc gì mà hết hy vọng. Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không thể một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường. Thảo thấy bạn nói có vẻ giận dữ, mỉm cười đáp: – Chị đã biết ở xã hội mình, lấy chồng là lấy cả gia đình nhà chồng. Nếu không muốn thế thì chỉ có một cách là không lấy chồng nữa hay là chọn người nào không có gia đình mà lấy. Rồi nghĩ đến việc riêng của Loan, thấy Loan hiện đang bị bố mẹ ép lấy một người mà Loan không thuận, Thảo liền ôn tồn nói tiếp: – Nhưng nào mình có được tự ý kén chọn đâu mà bảo kén chọn. Từ nãy đến giờ, Dũng ngồi sát lò sưởi, loay hoay xếp lại mấy thanh củi, không nói một câu. Thấy hai cô bạn bàn tán mãi về một câu chuyện đã cũ kỹ, chàng liền quay lại nói: – Chuyện gia đình bao giờ cũng rắc rối; nào tự do kết hôn, nam nữ bình quyền, mẹ chồng nàng dâu, bao nhiêu thứ lôi thôi, muốn yên ổn thì đừng nghĩ đến nữa. Thảo đáp: – Anh thì anh cần gì gia đình mà bảo nghĩ đến. Còn chị Loan nay mai phải về nhà chồng, chị ấy không để tâm sao được. Rồi nàng mỉm cười tinh nghịch: – Chỉ trừ khi nào chị Loan lấy được người chồng không có gia đình như anh. Câu nói đùa làm cho Loan buồn rầu cúi mặt nghĩ đến nhân duyên của nàng. Nàng bị cha mẹ ép phải lấy Thân, một người bạn học thuở nhỏ của nàng, con một nhà giàu ở ấp Thái Hà. Việc này nàng thấy cha mẹ nói từ hồi nàng mới để tóc. Hai nhà trong mười năm trời nay vẫn đi lại thân mật, hai bên cha mẹ đã định ước cho Thân và Loan lấy nhau. Loan vẫn nhất quyết không chịu không phải là Loan chê gì Thân, vì Thân đối với nàng chỉ là một người quen, nàng không yêu mà cũng không ghét. Nhà Thân lại giàu, Loan chắc chắn rằng khi về nhà chồng, sẽ được sung sướng, an nhàn. Nhưng chỉ vì Loan càng ngày càng thấy cái tình của mình đối với Dũng không phải chỉ là cái tình bạn bè như trước kia. Nàng yêu Dũng và cái hy vọng của nàng lúc đó là được làm vợ Dũng. Tuy định bụng không chịu lấy Thân, nhưng nàng cũng hằng lo lắng, vì nàng biết cha mẹ nàng đã quả quyết về việc đó. Nếu nàng cưỡng tất có sự rắc rối trong gia đình. Thảo nói: – Chị Loan nghĩ ngợi gì mà ngồi thừ ra thế kia? Hay là nghĩ đến đường chồng con sau này đấy? Loan mỉm cười rồi muốn giấu ý nghĩ riêng, nàng ngồi ngay người, hai tay để vào lòng, mặt nghiêm trang nhìn thẳng, bắt chước dáng cô dâu ngoan ngoãn, thỏ thẻ nói: – Cha mẹ đặt đâu, con xin ngồi đấy. Thảo cười bảo: – Còn cô rồi lại không thế à? Loan nói: – Em không lấy chồng. – Không lấy chồng thì làm gì? Loan ưa mắt nhìn Dũng đáp: – Thế anh Dũng thì sao? – Anh Dũng khác. Có phải không, anh Dũng? Dũng thẫn thờ đáp lại: – Phải, tôi thì đâu dám nghĩ đến đường vợ con. Không cửa, không nhà, nay đây mai đó, chính thân tôi, tôi cũng không biết sau này ra sao nữa là. Tôi chỉ có bạn chứ không có gia đình nào cả. Dũng đưa mắt nhìn vợ chồng ông giáo như cảm ơn hai người bấy lâu đã không sợ gì lời dị nghị của thiên hạ, sẵn lòng để chàng đi lại và lúc nào cũng âu yếm, coi chàng như một người em nhỏ đáng thương vì đã bị nhà và họ hàng ruồng bỏ. Ông giáo Lâm dựa vào câu của Dũng bảo đùa vợ: – Đấy, mợ xem sống như anh Dũng mới là đáng sống. Không vợ, không con, thênh thang tự do. Tôi thì có đi đâu một tí, mợ đã kêu la ầm trời đất. Cả ngày chỉ co ro ngồi đánh bóng tủ chè, đỉnh đồng. Cái đời vô vị tẻ ngắt. Mọi người cười ồ. Thảo nói tiếp câu của chồng: – Nhưng mà yên thân. Loan thoáng nghĩ đến hai cảnh đời trái ngược nhau: một cảnh đời yên tịnh ngày nọ trôi theo ngày kia như dòng sông êm đềm chảy, nhẫn nại sống trong sự phục tùng cổ lệ như mọi người con gái khác và một cảnh đời rộn rịp, khoáng đạt, siêu thoát ra hẳn ngoài lề lối thường. Loan nhìn Dũng, ngắm nghía vẻ mặt cương quyết, rắn rỏi của bạn, nghĩ thầm: – Học thức mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như Dũng, sống một đời tự lập, cường tráng, can chi cứ quanh quẩn trong vòng gia đình, yếu ớt sống một đời nương dựa vào người khác để quanh năm phải kình kịch với những sự cổ hủ mà học thức của mình bắt mình ghét bỏ. Mình phải tạo ra một hoàn cảnh hợp với quan niệm mới của mình. Dũng chợt thấy Loan nhìn mình đăm đăm không chớp, có ý ngượng, quay lại với điếu thuốc lá, gắp than hồng châm hút, rồi uể oải đứng dậy xin phép về nhà. Thảo nhìn ra cửa sổ: – Trời vẫn còn mưa. Chúa nhật nhàn rỗi hãy ngồi ít lâu nữa. Rồi âu yếm như chị nói với em, Thảo ân cần hỏi: – Thế nào anh Dũng dọn nhà chưa? – Tôi vừa dọn xong, hôm nào thong thả mời anh chị và cô Loan lại chơi. Tôi xuống bếp đun nước lấy. Có thế mới quý. Thấy bộ quần áo của Dũng đã cũ kỹ, bạc màu, nghĩ đến cảnh nghèo của người bạn sống cô độc trong một gian nhà trọ, không thân thích, không đầy tớ, Loan bùi ngùi thương hại, hai con mắt dịu dàng nhìn Dũng, nói nửa đùa nửa thật: – Anh Dũng cần người hầu hạ thì đã có em. Em lấy rẻ mỗi tháng có năm hào công thôi… Câu nói đùa có ngụ ý không được tự nhiên làm cho Dũng ngượng nghịu, chàng gượng cười bắt tay ông giáo, cúi đầu chào Thảo và Loan, rồi cầm mũ, mở cửa đi ra ngoài mưa gió. Mời các bạn đón đọc Đoạn Tuyệt của tác giả Nhất Linh.
Chiếc Thang Cao Màu Xanh
Chiếc thang cao màu xanh là câu chuyện về sự trưởng thành, về tình yêu của một chàng trai - một tu sĩ. Tác giả Gong Ji Young đã vẽ nên câu chuyện tình yêu xen lẫn sự bàng hoàng của Yo-Han – một chàng trai sống và làm việc trong tu viện. Đó là quá trình mà Yo-Han gặp gỡ, yêu và trưởng thành, từ đó đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là cái gì?”… Thời gian dần qua đi, khi tất cả những sôi nổi yêu thương ngày nào đã trở thành dĩ vãng, Yo-Han của ngày hôm nay đã có thể bình tâm nhìn lại quá khứ:  “Ai sống trên đời cũng có những khoảng thời gian không thể nào quên. Đau khổ… Tươi đẹp… Cả những vết sẹo đã mờ nhưng vẫn còn nhức nhối... Mỗi khi nghĩ về quãng thời gian ấy, trái tim đang đập của tôi dường như nguội lạnh và phủ đầy rêu phong... Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng: “Tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây”. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời…” Câu chuyện bắt đầu từ một ngày nọ, Yo-Han nhận được tin của Soo-Hee và những ký ức về thời tuổi trẻ của ông trỗi dậy. Ngày ấy, Yo-Han trong khi giúp đỡ cô gái trẻ Soo-Hee làm luận văn đã nảy sinh một thứ tình cảm khác lạ, chưa từng biết đến, thôi thúc anh nghe theo tiếng nói nhân từ vang lên từ trái tim: “Ta đã mang cô ấy đến cho con. Hãy yêu đi, Yo Han”. Nhưng rồi sóng gió cuộc đời ập đến làm cho cuộc sống trong tu viện vốn đang trôi qua một cách bình lặng đột nhiên dậy sóng, nhấn chìm tất cả mọi bình yên đang có, và cuộc đời mỗi nhân vật rẽ sang những hướng khác nhau. Đó là một đêm mưa tầm tã, hai người bạn thân của Yo-Han là Micheal và Angelo chết vì tai nạn giao thông trong một cuộc tìm kiếm những chính kiến và niềm tin của riêng mình. Quá khủng hoảng, Yo-Han đã quay lại nhà thờ để cầu xin được gặp Soo-Hee một lần cuối cùng, nhưng cô đã không đến... Xuyên suốt cuốn sách là cách kể đan xen giữa những câu chuyện về thời kì Chiến tranh thế giới thứ 2 của một cha xứ người Đức, câu chuyện về cuộc loạn lạc trong nội chiến Nam - Bắc Hàn... và hơn hết là câu chuyện thấm đẫm tình yêu và sự hi sinh. Hóa ra, tình yêu thực sự không phải là cố công giữ lấy, mà là biết buông tay và quay đi để người kia bước tiếp mới thực là tình yêu cao cả. Câu chuyện đến cuối cùng mới để người đọc hiểu ra rằng, hóa ra tình yêu của cô gái trẻ Soo-Hee với Yo-Han lớn lao đến thế. Nội dung cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin thực tế về xã hội Hàn Quốc, có một số chi tiết đề cao tính nhân văn cao cả của tình yêu con người, sự hi sinh giữa cái sống và cái chết, giữa sự lựa chọn mất còn. Những chuỗi hồi tưởng nối tiếp nhau như ngàn con sóng vỗ bờ, kí ức với những cảm xúc sống động một thời tuổi trẻ sôi nổi và yêu thương của lớp người sinh ra sau chiến tranh, hưởng thụ cuộc sống đầy đủ về vật chất nhưng không vì thế mà không có lí tưởng về sự công bằng, về những điều đúng - sai, phải - trái, hoặc những bất công trong xã hội. Câu chuyện tình yêu của nhân vật chính được vẽ nên bằng thủ pháp hồi tưởng, vì vậy  càng khiến nó rung lên như những giai điệu trữ tình, sâu lắng nhất mà cũng ám ảnh nhất: “Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ, chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy, vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng”. Có thể nói, toàn bức tranh trong câu chuyện Chiếc thang cao màu xanh khiến người đọc cảm thấy thỏa mãn cả về thông tin cũng như về tiết tấu cảm xúc của nhân vật trong truyện. Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn tiểu thuyết này, hi vọng mỗi độc giả sau khi đọc xong sẽ tự tìm được câu trả lời cho câu hỏi luôn ám ảnh chúng ta suốt cuộc đời: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là gì?” Tác giả GONG JI YOUNG  Sinh năm 1963 ở Seoul, tốt nghiệp khoa tiếng Anh trường Đại học Yonsei – một trong những trường đại học nổi tiếng nhất của Hàn Quốc. Bà là một trong bốn nữ nhà văn đương đại có sức ảnh hưởng lớn trên văn đàn Hàn Quốc, tác giả của nhiều cuốn sách bestseller. Tác phẩm của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng, trong đó có một số đã được dịch sang tiếng Việt như Cá Thu, Dù con sống thế nào mẹ cũng luôn ủng hộ, Yêu người tử tù...  Bà được nhận nhiều giải thưởng văn học có uy tín: - 2001: Giải Văn học Hàn Quốc thế kỉ 21 lần thứ 7 và giải Văn học Tiểu thuyết lần thứ 27 của Hiệp hội Nhà văn Hàn Quốc. - 2004: Giải Văn học Oh Young Soo lần thứ 12. - 2011: Giải Văn học Yi Sang. Dịch giả: NGHIÊM THỊ THU HƯƠNG  Sinh năm 1979, Tốt nghiệp đại học chính quy ngành Tiếng Hàn, nhận học vị Tiến sĩ ngành Ngôn ngữ học, từng được giải thưởng Sinh viên nước ngoài có thành tích học tập xuất sắc nhất năm 2005 của Bộ trưởng Bộ tri thức Kinh tế Hàn Quốc. Hiện đang giảng dạy tại khoa Tiếng Hàn Quốc, Đại học Hà Nội. Các tác phẩm đã xuất bản:  Cẩm nang cho con gái đi lấy chồng (dịch chung), NXB Thanh niên, 2001 100 mẫu câu tiếng Hàn dành cho giáo viên và học sinh (Lee Yun Jin), NXB Giáo dục, 2004 Ngữ pháp tiếng Hàn đơn giản cho người nước ngoài (viết chung với tác giả Doo Won Sook), NXB Language Plus (Hàn Quốc), 2006 Hướng dẫn học và thi KLPT, NXB Giáo dục, 2008 Nâng cao năng lực dịch Hàn – Việt (viết chung với tác giả Lee Kye Sun), NXB Moon Erim (Hàn Quốc), 2015 Cá thu (Gong Ji Young), NXB Hội Nhà văn, 2015 Mây họa ánh trăng – Tập 5 (Yoon Isu), NXB Phụ nữ, 2018. Một số trích đoạn trong tác phẩm: 1. [...] Nói về cuộc sống trong tu viện, điều đầu tiên phải nhắc đến có lẽ là sự im lặng. Sống ở nơi này, tôi ngộ ra rằng sự im lặng không đơn giản là sự thanh vắng hay là trạng thái không có tiếng động, cũng không phải là khoảng lặng giữa những thanh âm. Ngược lại, có thể gọi nó là trạng thái của sự lắng nghe tích cực. Để tiếng ồn át tiếng ồn, cảm xúc vượt lên cảm xúc thì im lặng là lẽ tất nhiên.    Lần đầu tiên đến nơi này, tôi đang dạo bước bỗng dừng lại bởi nghe thấy tiếng chân mình – thứ âm thanh tôi chưa từng nghe thấy. Phần đế dép của tôi lúc đó bằng cao su, hầu như không phát ra tiếng động. Vậy mà có vô số tiếng động ẩn sau tiếng dép khe khẽ ấy vọng đến tai tôi. Tiếng của những bông hoa tuyết phủ trên cành thông rơi rơi, tiếng những cành cây trơ trụi lặng lẽ rung rung trong gió, tiếng côn trùng trở mình trong lòng đất, tiếng rễ cây từ từ vươn những nhánh rễ nhỏ đâm sâu vào đất mẹ. Tiếng gió nhẹ thoảng qua bên tai tôi lúc đó, phải chăng là tiếng ma sát của trái đất tự quay quanh trục? Dù vũ trụ, thần hay là người, khoảnh khắc dường như hé lộ về bản thân một cách ít ỏi, chính là những lúc như vậy. Thi thoảng những lúc ấy, bầu trời bất chợt mở ra với tôi, và có cái gì đó như sự bình yên không thể diễn tả được cứ lan ra trong lồng ngực.[...] 2. [...] Bi kịch của cuộc sống là khi ta giải mã được những tín hiệu đó thì sự việc đã kết thúc, hoặc không thể quay lại được nữa. Khi tất cả mọi sự đã chấm dứt rồi, ta nhìn lại, ta cứ tin rằng cuộc sống sẽ cho ta thấy những điểm sáng, nhưng cuộc sống lại phản chiếu cho ta những khung cảnh lộn xộn. Thế nên, tôi biết bắt đầu câu chuyện năm đó từ đâu nhỉ? Phải nói về ai trước nhỉ? Núi Bulamsan, tu viện Joseph, hoa lê trắng... Phải rồi, tên của cô gái ấy, tôi sẽ viết ra tên của cô ấy lần đầu tiên ở đây. Kim So Hee, So Hwa Teresa. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, cô ấy mặc chiếc áo len chui đầu màu đậu đỏ rộng thùng thình, đôi tất trắng cao đến đầu gối, đôi giầy thấp màu xanh nhạt diêm dúa. Khi tôi lần đầu tiên ngắm nhìn từ xa bóng dáng nhẹ nhàng ấy, cô gái ấy đang bước cùng một tu sĩ khác dưới những cành hoa lê. Cô vuốt ve mái tóc dài xõa ngang vai và nói gì đó với tu sĩ đang đi bên cạnh rồi nghiêng đầu về phía sau cười khúc khích. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, dáng vẻ của cô ấy là như thế đó. Lúc đó, tuy ở khoảng cách rất xa nhưng tôi vẫn như thấy rõ cô ấy đưa những ngón tay trắng ngần lên vuốt mái tóc. Những ngón tay mảnh mai. Và tôi giấu bức tranh chớp nhoáng của kí ức lần đầu gặp mặt người con gái ấy xuống tận đáy sâu của vô thức. Có lẽ là tôi đã xúc động mãnh liệt. Nếu lần đầu gặp mặt không bị uy hiếp thì chắc chắn tôi đã không cần thiết phải như vậy. Một thời gian sau, phải đến khi nhận được câu hỏi đầy thách thức của người con gái ấy ở thành phố W, kí ức cũ kĩ được lưu giữ trong vô thức kia mới hắt lên hóa thành ý thức của tôi. Đến lúc đó và một thời gian từ sau đó, cô ấy đã không hề có ý nghĩa gì đối với tôi.  “Cháu gái của Đức Giám mục, đã hoàn thành khóa học thạc sĩ ở Mỹ và về nước viết luận văn. Hình như là viết về sự áp lực của người theo tôn giáo. Thấy bảo là nhất định phải đến thành phố W”.[...] 3. [...] Đêm hôm đó, dường như tôi đã mang về phòng mình hình ảnh em bước đi giữa những bông hoa lê trắng, bộ váy trắng ngang đầu gối bay phất phơ, đôi chân nhỏ khi cánh cửa tàu bật mở, dáng ngồi nghiêng nhìn đăm chiêu qua khung cửa sổ, và tiếng em nghiêng đầu cười khúc khích.    Khác với cảm xúc hân hoan trong lòng, người tôi mệt lử, tôi không buồn nghĩ đến việc tắm rửa, mà đổ ập xuống giường và tắt đèn. Đúng khoảnh khắc đèn tắt, có luồng ánh sáng vụt qua. Tâm thức mệt ngoài của tôi tự hỏi, hay là tôi chưa tắt đèn? Chính giây phút tưởng lầm ấy, tôi hiểu ra ánh sáng đó chính là gương mặt em. Tôi chẳng ý thức được hết tất cả, gương mặt trắng mịn của em làm giãn các đốt xương tôi, ùa vào trái tim tôi. Ngẫm lại, có lẽ điều đó đi kèm với một chút đau đớn. Tôi hiểu đây là tình yêu. Dù tôi đã nhìn thấy mũi tên em bắn vào trái tim tôi, tôi nhìn thấy khoảnh khắc mũi tên lao đến, tôi đổ gục, nhưng tôi biết mình chẳng thể làm gì được. Nỗi đau của cảm giác ngọt ngào cực độ, nỗi đau của cảm giác cay đắng nghiệt ngã... “Như vậy không được đâu!” Tôi từ chối bằng một giọng rất nhỏ và cảm thấy thanh thản hơn. “Tại sao bạn yêu người ấy?” là một câu đúng về ngữ pháp. “Làm thế nào mà bạn được người ấy yêu?” cũng là một câu đúng về ngữ pháp. Thế nhưng thực tế, những câu đó không thể trả lời được. Nếu có thể nói rõ ràng lí do tại sao yêu thì là bởi vì trước đó không phải là tình yêu. Mãi sau này, một người đồng môn của tôi đã yêu một người con gái và rời tu viện để cưới cô ấy. Khi được hỏi tại sao cậu thấy yêu cô ấy, cậu ta đã trả lời thế này: “ Khoảnh khắc tớ nhìn thấy đôi tay cô ấy lúc đưa cho tớ tờ giấy A4, tớ đã phải lòng cô ấy rồi.” Thế thì là vì tờ giấy A4, hay là vì đôi tay của cô ấy? Câu trả lời là vì tình yêu, vậy thôi! [...] 4. [...] Đêm đó, tôi mang về phòng mình gương mặt em sau khi xóa lớp trang điểm có vết tàn nhang mờ mờ dưới mắt, tôi mang về đôi tay em mềm mại như cục bột mì mới nhào và giọng nói pha chút nũng nịu của em nữa. Lần này, trước khi tắt đèn, tôi thấy hình ảnh em vội nắm lấy và kéo tay tôi lại. Tôi không nhớ đã nhìn tay mình từ lúc nào. Tay trái tôi là tay So Hee, tay trái ấy nắm lấy tay phải. Bàn tay đã sần sùi nhiều. Tôi ngượng nghịu xoa xoa bàn tay thô ráp lên mu bàn tay khô. Rồi tôi ngả lưng, tôi trông thấy gương mặt em với đôi mắt mở to, chớp chớp và cứ thế tôi gọi tên em. “So” nghĩa là Hy vọng, “Hee” nghĩa là Màu trắng. Tên em nghĩa là HY VỌNG MÀU TRẮNG. Tôi gọi tên em mà thấy như từ đâu những bông hoa trắng đang rơi rơi.  Tôi không kể với ai chuyện có hình bóng em trong trái tim tôi. Mỗi ngày, tôi cầu nguyện vì em. Tôi tin những lời cầu nguyện của tôi là chân thành, và tôi hạnh phúc. Tiếng chuông sáng sớm vừa reo, tôi cất gương mặt trắng mịn ấy trong lồng ngực và dự giờ cầu nguyện sáng. Cả thế giới đang là mùa xuân, khắp đất trời đang ngập tràn hương hoa.[...] 5. [...] Chúng tôi đi vào con đường hướng ra phía bờ sông. Thành phố W rất yên tĩnh. Thỉnh thoảng có chiếc xe chạy ngang qua rất nhanh như cắt mặt đường nhựa nhợt nhạt, gió thổi mạnh làm mái tóc của So Hee tung bay, và mỗi lần như thế, tôi lại nghe như có một mùi hương tựa hương hoa thần bí lãng đãng đâu đây. Mặt trăng đang chiếu soi mọi con đường của thành phố W. Con đường hắt lên thứ ánh sáng bàng bạc, và những cột đèn đường màu vàng đứng sừng sững như những cây hoa cao lớn ở thành phố W lúc về đêm. Bóng của chúng tôi đổ xuống lắc lư, dài ngoằng. Lúc đầu, khoảng cách giữa cô ấy và tôi rộng đủ để gập cả khuỷu tay, nhưng rồi theo bước chân và hình dáng của con đường mà khoảng cách ấy dần dần thu hẹp lại, và cứ mỗi lần bờ vai của hai chúng tôi va vào nhau, chúng tôi lại cúi đầu và tiếp tục bước đều, xen lẫn chút căng thẳng. Mỗi người cầm một lon bia trên tay, và chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng bên bờ sông. Dường như thứ bột ánh sáng bạc từ mặt trăng rắc xuống đang bao phủ cả thế gian này. Dường như khi chúng ta ngủ, bằng một mùi hương khác, thế gian như bị ủ lại, muối và lên men. Việc tôi ngồi cùng cô ấy ở bờ sông đêm nay chỉ như một giấc mơ. So Hee ngồi trên băng ghế, chân đung đưa, chắp hai tay lại ngay ngắn và nhìn ngắm nước sông. Chiếc bóng của vầng trán trắng, của sống mũi  thật sự rất đẹp. “Em đã đọc một bài viết của tác giả nào đó. Trong đó có nói là thế giới này có hai loại người. Một là bỗng dưng vào một đêm nào đó muốn nắm tay ai thật chặt và bỏ chạy, một là chưa từng có suy nghĩ như vậy. Vấn đề là ở chỗ phải nắm tay thật chặt”. So Hee nhìn dòng sông và lẩm nhẩm như đang nói một mình, vừa dứt lời liền quay đầu nhìn tôi chăm chú. Tôi không nhớ rõ ai là người đã tiến đến gần với người kia trước. Và rồi đêm hôm ấy, hai cặp môi, một thì lạnh như đá khô và một thì nóng bỏng như lò luyện, một nét đẹp như cánh hoa hồng và sắc ngọt như một vết thương của lưỡi dao lam đã khắc sâu vào trái tim tôi. Khoảnh khắc môi chạm vào bờ môi, toàn bộ cơ thể tôi như tan vụn xuống giống những hạt vụn bạc, và toàn bộ cơ thể tôi lại đột ngột trong tích tắc như muốn bay vút lên đỉnh núi. Máu trong huyết quản dồn ứ như nước sông xoay vần, và một dòng điện hàng vạn vôn khiến tôi không còn chút sức lực nào, tôi thấy mình rộng thênh thang như những bình nguyên lộng gió. Chúng tôi ngồi trên băng ghế, hai tay của mỗi người vẫn giữ những lon bia, đôi môi vừa chạm nhẹ, So Hee liền vừa vòng tay ôm lấy cổ tôi, vừa nép sát vào người tôi. “Chúng mình nắm thật chặt tay, rồi... bỏ chạy nhé?” Tôi hỏi. “Ừ, chúng mình nắm thật chặt tay rồi...” Cô ấy đã trả lời. Chúng tôi đã nắm tay thật chặt và ngồi ở đó cho đến khi mặt trăng gần như lặn mất ở phía bên kia sông. Ngày hôm ấy, dòng sông, ánh trăng, băng ghế, con đường và những thân cây đã hiện diện cùng chúng tôi hết sức bình yên. Đến khi giây phút mà tôi đã ước gì thời gian ngưng lại được ấy, cái đêm mà tôi đã nghĩ muốn buộc chặt trăng vào bầu trời trên kia, giữ lại nước sông và làm cho những thân cây với màu xanh mơn mởn sẽ mãi mãi đung đưa trên đầu chúng tôi ấy tàn đi, chúng tôi lại bước về hướng tu viện. Tu viện đang chìm trong giấc ngủ. Thế nhưng tu viện đang ngủ như bao ngày khác đó, đối với tôi đã không còn là tu viện ấy nữa. [...] 6. [...] “Bà chỉ sống chung được với ông khoảng một năm sáu tháng. Nhưng năm mươi năm trôi qua, chưa một lần tình yêu của bà với ông thay đổi. Thật đấy! Dù chỉ là một lần… Như cháu đã biết, sau này bà cũng có những người bạn mới. Nếu nói bà không có người bạn khác là không đúng. Nhưng bà không thể tiến xa hơn với họ được bởi không thể hứa hẹn được điều gì. Vì trong lòng bà, ông ấy vẫn còn hiện hữu. Đừng có mang cái nét mặt như thế, Yo Han! Điều đó không có gì phải buồn! Không phải là vì sau này bà yêu những người đó ít hơn, mà là vì dù cho họ có là ai đi nữa thì tình yêu của bà với họ cũng không thể nào sống động, mạnh mẽ như tình yêu của bà với ông cháu được. Và bà cũng không cảm thấy được ở họ cảm xúc như của ông khi yêu bà. Sau một thời gian dài, thỉnh thoảng bà lại nghĩ, liệu mình có phải là một người phụ nữ hạnh phúc ở tuổi này hay không?” Hồi tưởng lại những việc đã qua hơn năm mươi năm, sức mạnh tình yêu có thể khóc lên như vậy gọi là gì? Là sức mạnh có thể nói rằng: Hạnh phúc khi trải qua nỗi đau? Hay sức mạnh tình yêu ngắn ngủi mãnh liệt hơn tất cả? Người ta cho rằng thời gian là liều thuốc chữa lành vết thương, thời gian trôi đi ta có thể quên tất cả, tôi tin những người lớn tuổi sẽ nói như vậy. Thế chẳng phải thời gian có thể xoa dịu nỗi đau hay sao? Sau đó rất lâu tôi vẫn cứ nghĩ mãi về điều ấy. Và sau rồi tôi nhận ra, sự mài mòn của thời gian chẳng có ý nghĩa gì. Tình yêu chân chính dường như là thứ không thể nào mòn được, nỗi đau chân chính, nỗi buồn chân chính và cả niềm vui chân chính, thời gian có thể làm tiêu tan, làm biến mất mọi thứ giả dối nhưng để lại tất cả những chân tình, đích thực. Như vậy, có thể nói cái mà thời gian có thể khiến ta quên đi được không phải là những chân tình. [...] 7. [...] Một hôm, sau lễ Misa, tôi quỳ lạy ở bục xưng tội và lại ngước nhìn lên cây thánh giá. “Ta gửi cô ấy đến bên con. Hãy yêu đi! Hãy yêu nhiều hơn nữa”. Dường như giọng nói ấy lại vang lên. Sự tức giận vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai. Rốt cuộc Người bảo tôi hãy yêu nhiều hơn nữa, yêu hết mình rồi lại bảo “cái gọi là tình yêu nghĩa là tình yêu không báo đáp”, rốt cuộc thì Người đang chế giễu tôi. Vào một đêm mất ngủ, tôi nghe thấy tiếng những con rệp kêu dai dẳng. Tôi chợt nhận ra mùa thu đã tràn ngập khắp nơi, vào giây phút vũ trụ vẫn đang chuyển mình như thế, tôi thậm chí còn cảm nhận được những chuyển động rất nhỏ. Đó là bởi từ nơi sâu thẳm bên trong tôi có điều gì đó đang thay đổi và đang muốn thay đổi. Bên trong tôi, những điều không muốn thay đổi và những điều muốn thay đổi đang cọ xát và tranh đấu với nhau. Những vết thương lại đau đớn và nhức nhối. Tôi cảm nhận được linh hồn mình sốt cao. Dù không biết điều gì sẽ đến, nhưng tôi dự cảm được rằng qua đêm nay sẽ có điều quan trọng nào đó đến. Dù sao, đêm nay giống như một tiết giao mùa của cuộc đời.  Tôi đứng dậy và đi đến gần cửa sổ. Lâu lắm rồi tôi mới ngước nhìn bầu trời đêm. Mặt trăng tròn viên mãn, phía nửa kia là những vì sao đang tỏa sáng hòng đua tranh. Tôi bỗng lại nhớ về một đêm trong thời gian tu tập ở tu viện. Tôi nhớ đến cây thánh giá của tu viện sáng lấp lánh nhờ luồng sáng kì lạ do những chòm sao gắn với nhau tỏa ra. Sự khoan khoái mỗi khi ngắm nhìn cây thánh giá của tu viện, tấm chân tình của tuổi thanh xuân nồng nhiệt hướng đến thánh thần của tôi đã đi đâu mất rồi? “Bởi tình yêu không biết đi”. Câu nói của tu sĩ Thomas lại vang lên. Tôi cũng nhớ đến câu nói của vị linh mục người Đức: “Đối với chúng ta, cho dù không có niềm tin đủ để xê dịch núi sông, cho dù không thể nói được thứ ngôn ngữ kì lạ, dù không chết vì người khác, nhưng nếu có tình yêu thì chúng ta cũng không vì những điều đó mà trở nên vô nghĩa”. Nghĩ đến việc trong muôn vàn tình yêu thương mà tôi được nhận từ khi sinh ra mà không có thứ gì đọng lại làm trái tim tôi thấy xót xa. Tôi cảm thấy thật bi thảm, cảm thấy mình có lỗi và một chút gì đó như bi quan khiến tôi không thể hiên ngang được. Kể từ sau khi Michael và Angelo chết, tôi còn lại có một mình. Sự cô độc đã kéo tôi chìm sâu hơn nữa vào trong nỗi cô đơn. Sự trầm mặc thì luôn nặng nề mà sự cô đơn thì luôn yếu đuối. Tôi mang tâm trạng hoang mang của một người không biết phải đi đâu, mà con đường trước mắt thì mờ mịt như sương phủ kín. Giống như lời của một nhà thơ nào đó đã nói, “đến cả một chỗ để đặt chân” cũng không thấy. Hàn Quốc trong trái tim tu sĩ Thomas cũng vậy, ông nội tôi trong trái tim bà tôi cũng vậy, Michael trong trái tim cô gái ấy, tôi trong trái tim của người mẹ đơn thân Monica kia, đâu đó luôn ngự trị một tình yêu. Nhưng trong trái tim tôi chẳng có gì. Tự nhiên, lúc đó trong lòng tôi lại vang vang những lời như ai đó đang thủ thỉ vỗ về:  “Không sao đâu Yo Han! Thế cũng được mà”. Trong phút chốc tôi bỗng thấy bàng hoàng, tôi do dự hỏi lại chính mình “có thực sự là không sao không?” và bật khóc. [...]      8. [...] Tôi đã rời khỏi tu viện. Bỗng nhiên đập vào mắt tôi là hình ảnh cây mộc liên mà tôi đã từng treo bộ lễ phục tôi cởi ra để đi dạo đêm với So Hee. Trong mười năm vừa qua, cây đã lan ra thành rất nhiều tán và cao lên nhiều. Dưới bóng râm của tán cây ấy, Angelo trẻ tuổi đang đứng chất những hộp nến sáp ong mới làm xong lên. Michael đang từ từ lần chuỗi hạt và treo hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh lên. So Hee mặc áo len trắng, tai đang đeo tai nghe và vẫy tôi từ đằng xa. Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ. Chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy. Vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng. Tu sĩ Thomas, người đã lên thiên đàng năm ngoái, đã từng nói với tôi như thế này: “Tình yêu là thứ không thể mất đi được. Vì tình yêu là thứ không biết đến sự ra đi”.  Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng sẽ không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời.[...] Mời các bạn đón đọc Chiếc Thang Cao Màu Xanh của tác giả Gong Ji Young & Nghiêm Thu Hương (dịch).