Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lao Động Biển Cả

Về Victor Hugo, bạn đọc Việt Nam đã được biết nhiều qua những tác phẩm của ông như Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris), Những người khốn khổ (Les Misérables),Chín mươi ba (Quatre-vingt-treize)… Riêng cuốn ‘Lao động biển cả’ (Les Travailleurs de la mer) đã cuốn hút rất nhiều bạn đọc Việt Nam biết tiếng Pháp qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là một tác phẩm hiện thực phản ánh xã hội tư sản Pháp trong những ngày đầu của chế độ tư bản ở nước này. Qua tác phẩm này tác giả cũng xây dựng thành công một số nhân vật điển hình đại diện cho cái Thiện và cái Ác. Với một ngòi bút vững vàng đầy kinh nghiệm, tác giả đã vạch trần những mánh khóe xảo quyệt táng tận lương tâm của những con người như Rantaine hay Clubin. Đồng thời ông cũng miêu tả rất thực và rất sinh động những con người chân chính, lao động không mệt mỏi như Gilliatt. Qua câu chuyện tình éo le, dang dở của Gilliatt, bạn đọc vừa cảm thương cho số phận hẩm hiu của anh vừa căm giận những bất công trên đời này. Phải chăng đấy là một thứ “định mệnh của vạn vật”? Dẫu sao, sau khi đọc xong dòng chữ cuối cùng, gập sách lại, bạn đọc vẫn còn thấy lắng lại trong tâm tư những gì cao quý, tuy chua chát, của con người. Bởi vì trước sau Victor Hugo vẫn là một nhà văn đại diện cho các nhà văn lớn thế giới với những tư tưởng nhân văn cao quý. Tôn giáo, xã hội, thiên nhiên; đấy là ba cuộc tranh đấu của con người. Ba cuộc tranh đấu ấy đồng thời cũng là ba nhu cầu. Con người cần tin tưởng, vì vậy mà lập nên đền thờ; con người cần sáng tạo, vì vậy mà thành ra đô thị; con người cần phải sống, vì vậy mà có cày cuốc, thuyền bè. Nhưng ba giải pháp ấy lại chứa đựng ba cuộc chiến tranh. Khó khăn bí mật của cuộc sống từ ba chỗ ấy mà ra. Con người gặp phải trở ngại dưới hình thức mê tín, dưới hình thức thành kiến, và dưới hình thức nguyên tố cơ bản. Ba định mệnh đè nặng lên chúng ta, định mệnh của tín điều, định mệnh của luật pháp, định mệnh của vạn vật. Trong Nhà thờ Đức Bà Paris, tác giả đã tố cáo cái thứ nhất; trong Những người khốn khổ, tác giả đã làm nổi bật cái thứ nhì; trong quyển sách này, tác giả nói rõ đến cái thứ ba. Cùng với ba thứ định mệnh bao trùm con người ấy, lại xen thêm định mệnh bên trong, sức mạnh lớn nhất, trái tim con người. Hauteville House, tháng ba 1866. *** Tôn giáo, xã hội, thiên nhiên, đấy là ba cuộc tranh đấu của con người. Ba cuộc tranh đấu ấy đồng thời cũng là ba nhu cầu. Con người cần tin tưởng, vì vậy mà lập nên đền thờ; con người cần sáng tạo, vì vậy mà thành ra đô thị; con người cần phải sống, vì vậy mà có cày cuốc, thuyền bè. Nhưng ba giải pháp ấy lại chứa đựng ba cuộc chiến tranh. Khó khăn bí mật của cuộc sống từ ba chỗ ấy mà ra. Con người gặp phải trở ngại dưới hình thức mê tín, dưới bình thức thành kiến, và dưới hình thức nguyên tố cơ bản. Ba định mệnh[1] đè nặng lên chúng ta, định mệnh của tín điều, định mệnh của luật pháp, định mệnh của vạn vật. Trong Nhà Thờ Đức Bà Paris, tác giả đã tố cáo cái thứ nhất; trong Những Người Khốn Khổ, tác giả đã làm nổi bật cái thứ nhì; trong quyển sách này, tác giả nói rõ đến cái thứ ba. Cùng với ba thứ định mệnh bao trùm con người ấy, lại xen thêm định mệnh bên trong, sức mạnh lớn nhất, trái tim con người. Hauteville House, tháng ba 1866. *** “Lao động biển cả” - chút luyến lưu với văn chương cổ điển. Đại văn hào Victor Hugo đã để lại một gia tài đồ sộ cho văn học thế giới, những đóng góp của ông có lẽ không cần bàn nhiều. Nhà xuất bản Văn học mới đây đã cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầy không khí sử thi của ông mang tên “Lao động biển cả”. Tác phẩm mô tả cuộc đấu tranh của chàng đánh cá Giliatt với biển cả và sự hy sinh cao quý của chàng cho hạnh phúc của người chàng yêu tha thiết, Deruyset. Trước tiên phải khẳng định, đọc cuốn tiểu thuyết này không dễ, bởi người đọc phải có sự hiểu biết tương đối về không gian sử thi và thần thoại Hy Lạp. Các nhân vật trong tiểu thuyết “Lao động biển cả” cũng như hầu hết những tác phẩm khác của đại văn hào Victor Hugo đều không có nét đặc sắc về tâm lý. Gilliatt- nhân vật chính không có những biến đổi tâm lý mạnh, cuốn sách cũng không có nhiều trường đoạn khắc hoạ suy nghĩ của anh. Như Giáo sư Đặng Thị Hạnh đã nhận xét, những tâm lý nhân vật trong “Lao động biển cả” chỉ là những giản đồ tâm lý so với các tiểu thuyết gia khác như Stendhal, Balzac, Flaubert... Vì vậy so với thời gian tiểu sử-cốt truyện thì có thể coi dòng thời gian tâm lý trong tác phẩm này không có vai trò như trong các tiểu thuyết đương thời của Balzac, Flaubert.... Nhịp điệu trong tác phẩm này chỉ vang lên rõ nhất ở thời gian sự kiện. Nhưng “Lao động biển cả” cũng có một kết cấu sự kiện chặt chẽ chứng tỏ sự già dặn trong nghệ thuật kể chuyện của Hugo sau những kiệt tác “Nhà thờ Đức Bà Paris” (1831), “Những người khốn khổ” (1862). Có thể chứng minh điều này khá rõ qua cách bố trí một cách chặt chẽ kết cấu sự kiện trong lời kể của tác giả và việc sử dụng những thủ pháp “treo tình tiết” theo kiểu tiểu thuyết đen khá phổ biến đương thời. Một độc giả yêu văn học cho biết: “Các đoạn tả cảnh gió, cảnh bão, cảnh Gilliat tự dựng xưởng sửa tàu giữa biển khơi khiến tôi đọc đi đọc lại không thấy chán. Cả các đoạn viết về địa chí của cụm đảo Ghecnơxê cũng vô cùng hấp dẫn. Đoạn tôi thích nhất là đoạn hội thoại giữa tay thuyền trưởng và tay lái súng khi mặc cả khẩu súng 6 nòng của Mỹ - hoặc đoạn mặc cả với bọn buôn lậu cũng vậy”. Như lời đề tặng của tác giả: "Tôi tặng quyển sách này cho hòn núi mến khách và tự do, cho mảnh đất Normandi già cỗi, nơi sinh sống của dân tộc cao quý nhỏ bé miền biển, cho đảo Ghecnơxê nghiêm nghị và hiền hòa, chỗ nương thân hiện thời của tôi và có thể là nơi tôi yên nghỉ", cuốn tiểu thuyết “Lao động biển cả” là một món quà vô cùng ý nghĩa cho những độc giả vẫn còn nặng tình với vẻ đẹp thuần khiết của văn chương cổ điển. *** MỘT CHỮ VIẾT TRÊN TRANG GIẤY TRẮNG Lễ Giáng sinh năm 1820 ở Guernesey đáng được chú ý. Hôm ấy trời tuyết. Trên các đảo vùng biển Manche, mùa đông có băng là điều đáng được ghi nhớ, và nếu có tuyết thì lại thành sự kiện đặc biệt. Sáng hôm lễ Giáng sinh ấy, con đường dọc theo bờ biển từ Saint-Pierre-Port đến Valle trắng xóa một màu. Tuyết rơi suốt từ nửa đêm đến tận bừng sáng. Quãng chín giờ, sau khi mặt trời mọc một tí, vì chưa phải lúc để các người theo giáo phái Anh quốc đi nhà thờ Saint-Sampson và để những người theo phái Wesley đến tiểu giáo đường Eldad, nên đường đi hầu như vắng vẻ. Suốt quãng đường giữa tháp thứ nhất và tháp thứ nhì, chỉ có ba người khách qua đường, một em bé, một người đàn ông và một người đàn bà. Ba khách qua đường này, đi cách nhau, rõ ràng không có quan hệ gì với nhau cả. Em bé, độ lên tám, dừng lại và tò mò nhìn tuyết. Người đàn ông đi cách sau người đàn bà, độ một trăm bước. Cũng như người đàn bà, anh từ Saint-Sampson đến; anh còn trẻ, có vẻ như một công nhân hay một thủy thủ. Anh mặc bộ quần áo tứ mùa, một chiếc áo varơ bằng da nâu xấu và một cái quần dính bết nhựa đường, hình như chứng tỏ là bất chấp ngày lễ anh chẳng đi đến giáo đường nào cả. Những chiếc giày cục mịch bằng da thô của anh, đế chi chít đinh to, để lại trên tuyết một dấu vết nom tương tự khóa nhà lao nhiều hơn là chân người. Còn người đàn bà qua đường thì tất nhiên là đóng bộ cánh đi lễ; cô khoác một chiếc áo choàng rộng lót lụa đen, trong diện áo dài popeline Ireland bó sát, sọc trắng, sọc hồng, và giá cô không mang bít tất đỏ thì ta đã tưởng cô là người Paris. Cô cất bước nhanh nhẹn, thoải mái, nhẹ nhàng và qua dáng đi chưa bợn dấu đời đó người ta đoán được cô còn con gái. Điệu bộ cô mang cái vẻ duyên dáng thoáng qua, đánh dấu thời kỳ chuyển tiếp tế nhị nhất, tuổi dậy thì, hai cảnh hoàng hôn lẫn lộn, bước đầu của một người đàn bà trong phút cuối cùng của một em bé. Điểm ấy người đàn ông kia không nhận thấy. Thình lình, đến cạnh một lùm sồi xanh ở góc một khu vườn con, chỗ gọi là Dãy Nhà Thấp, cô gái bỗng quay lại, động tác ấy khiến người đàn ông phải nhìn cô. Cô gái dừng lại, có vẻ như ngắm nhìn anh chàng một lúc, đoạn cúi xuống; người đàn ông thấy hình như cô lấy ngón tay viết gì đó trên tuyết. Rồi cô ngẩng lên, đi tiếp, bước nhanh, rồi ngoảnh lại, lần này còn cười nữa, và đi khuất sang phía trái con đường, trong cái lối mòn hai bên có hàng rào dẫn đến lâu đài Trường Xuân. Lúc cô ngoảnh lại lần thứ hai, người đàn ông mới nhận ra đây là Déruchette, một cô gái xinh đẹp của địa phương. Anh thấy cũng chẳng cần phải vội và lát sau anh đã đến bên lùm sồi ở góc khu vườn con. Anh không nghĩ gì đến cô gái qua đường đã đi khuất, và nếu giây phút ấy có một con cá heo văng mình ngoài biển hay một con chim đỏ cổ nhảy nhót trên cành, thì có thể người đàn ông ấy đã đi qua, mắt chăm chú vào con chim đỏ cổ hay con cá heo. Tình cờ lúc trông xuống, anh chợt nhìn đúng vào chỗ cô gái đứng lại. Hai bàn chân nhỏ bé vẫn rành rành ở đấy, và bên cạnh, anh đọc được mấy chữ cô viết trên tuyết: Gilliatt. Mấy chữ ấy là tên của anh. Anh là Gilliatt. Anh đứng lặng hồi lâu, nhìn cái tên, nhìn mặt tuyết, nhìn đôi chân nhỏ bé, rồi lại trầm ngâm đi tiếp. Mời các bạn đón đọc Lao Động Biển Cả của tác giả Victor Hugo & Hoàng Lâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bảy Năm Sau - Guillaume Musso
Một cuộc ly dị đã chia cắt họ... ... hiểm nguy sẽ lại gắn kết họ Nikki: nữ nghệ sĩ bốc đồng, và Sebastian, nghệ nhân làm đàn, - họ gặp nhau và trúng tiếng sét ái tình, bất chấp tính cách và hoàn cảnh xuất thân hoàn toàn trái ngược... Rồi tình yêu nồng thắm bao nhiêu thì khi tan vỡ những oán hận cũng mãnh liệt bấy nhiêu. Hai người chia lìa, mỗi người nuôi dạy một đứa con... Bảy năm ròng rã trôi qua...Cho đến một ngày, cậu con trai ở tuổi mới lớn của họ mất tích một cách bí ẩn... Nikki và Sebastien tìm đến nhau, lao vào một cuộc rượt đuổi tưởng chừng không có hồi kết, không biết mình là người chủ động hay bị động... Một cuộc phiêu lưu kinh dị, ngạt thở, nối dài từ các đường phố Paris đến rừng rậm Amazon.. Nhờ đó, những gì sâu đậm thầm kín nhất tưởng chừng vĩnh viễn mất đi đang dần trở lại trong trái tim họ... *** Nhận Định "Bảy năm sau... u tối hơn những tác phẩm trước đó của Guillaume Musso. Một cuốn tiểu thuyết kinh dị nhuốm màu bạo lực, nhưng vẫn vô cùng lãng mạn." - Le Monde "Một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh dị ly kỳ đến ngạt thở và đáng tin cậy từ đầu chí cuối. Guillaume Musso đã trở thành ông hoàng của thể loại này." - Bernard Thomasson, France Info "Guillaume Musso có khả năng ít ai bì kịp trong việc pha trộn các tình tiết đầy cảm xúc với nền tảng trinh thám." - Le Progrès "Hiện tượng của ngành xuất bản Pháp đã viết nên một cuốn tiểu thuyết kinh dị tuyệt hay với tiết tấu nhanh và khai thác tối đa các sắc màu cảm xúc, đưa độc giả chu du đến tận cùng thế giới." - Le journal du Québec *** - Táxi! Táxi! Um táxi para levá-lo ao seu hotel. Không khí ồn ào, những tiếng ù ù khó phân biệt nổi là tiếng gì, những hàng người chờ lấy hành lý hay qua cửa hải quan dài dằng dặc: sân bay Geleão rộng lớn chìm trong cái nóng nhớp nháp và ngột ngạt của lò hơi. - Táxi! Táxi! Um táxi para levá-lo ao seu hotel? Mặt mày nhăn nhó vì mệt mỏi, khi ra đến sảnh, Nikki và Sebastian vượt qua đám tài xế taxi đang mời chào khách du lịch rồi đi về phía quầy cho thuê ô tô. Chuyến quá cảnh dự kiến rất ngắn ở São Palo đã phải kéo dài. Vì một lý do tắc nghẽn đường băng mù mờ mà chuyến bay của họ khởi hành tiếp muộn hơn hai tiếng rưỡi và hạ cánh lúc 11h30. - Em sẽ đi đổi ít tiền trong khi anh lo vụ xe cộ nhé, cô đề nghị. Đồng ý với cách phân công nhiệm vụ này, Sebastian đứng vào dòng người đang xếp hàng chờ đợi rồi lấy ra bằng lái của Botsaris. Khi đến lượt mình, anh do dự chọn kiểu xe. Cuộc tìm kiếm của họ sẽ chỉ nằm trong phạm vi thành phố hay sẽ khiến họ phải đi đến những địa điểm hiểm trở hơn? Vẻ lưỡng lự, anh chọn một chiếc Land Rover chắc chắn rồi ra nhận xe ở một bãi đỗ ngập tràn ánh nắng. Người đầm đìa mồ hôi, anh cởi áo vest rồi ngồi vào ghế lái trong khi Nikki đang nghe trên điện thoại "của cô" tin nhắn mà Constance đã để lại. Theo đúng thỏa thuận, cô cảnh sát đã đặt trước cho họ một phòng khách sạn tại khu phố Ipanema, liền kề bãi biển nơi Flavia làm việc. Về phần mình, cô vẫn tiếp tục cuộc điều tra và cô chúc họ may mắn. Mệt rã rời sau chuyến bay, họ chạy xe trong im lặng, đi theo các biển chỉ đường (Zonna Sul - Centro - Copacabana 6) phác họa hành trình xuống phía Nam từ Ilha do Governada 7 tới tận trung tâm thành phố. Sebastian lau mồ hôi trên trán rồi dụi mắt. Bầu trời thấp hẳn xuống, nặng nề, bóng dầu, không khí ô nhiễm ngột ngạt khiến mắt anh mờ đi và hai mí cồm cộm. Qua cửa kính nhuộm màu, khung cảnh bên ngoài như mờ đi, phủ đầy sắc vàng cam, như hình ảnh lớp mỡ cắt dày thớ. Mới đi được vài cây số, họ đã phải dừng vì tắc đường. Vẻ cam chịu, cả hai nhìn qua cửa sổ xe toàn cảnh không gian xung quanh. Ven đường cao tốc, hàng nghìn ngôi nhà gạch trải dài đến hút tầm mắt. Nhiều ngôi nhà hai tầng mái bằng giăng đầy dây phơi quần áo. Những ngôi nhà đó tạo ấn tượng như đang chồng lên nhau, đan xen với nhau thành một chùm nhà xếp chồng rất chênh vênh. Chằng chịt, lộn xộn, rộng lớn: khu ổ chuột chen ngang vào khung cảnh, phá vỡ và bóp méo viễn cảnh về nơi này, khiến chân trời nứt rạn để biến nó thành một tác phẩm cắt dán lập thể với tông màu đất son, bốc lên mùi khét, han gỉ. Dần dần, khung cảnh đô thị cũng thay đổi. Những khu dân cư nghèo nhường chỗ dần cho các khu công nghiệp. Cứ khoảng một trăm mét lại có những áp phích khổng lồ quảng cáo thông tin về Cúp bóng đá thế giới sắp tới và Thế vận hội 2016. Khẩn trương chuẩn bị cho hai cuộc thi tài thể thao này, cả thành phố dường như đã biến thành công trường. Sau tấm lưới rào đất trống là những công trường khổng lồ đang định hình lại cảnh quan: máy ủi thì phá hủy nốt các bức tường, máy xúc thì đổ đất vào một chỗ nào đó, xe tải ben thì nối đuôi nhau chạy không ngừng. Rồi chiếc xe chạy qua cánh rừng toàn nhà chọc trời của khu phố buôn bán trước khi tiến vào khu phố phía Nam thành phố nơi tọa lạc đa số khách sạn lớn và trung tâm thương mại của thành phố. Thủ phủ vùng Carioca khi ấy trở lại với những hình ảnh quen thuộc trên các tấm bưu thiếp: hình ảnh một cidade maravilbosa 8 được biền cùng những ngọn đồi và núi bao quanh. Đến cuối hành trình, chiếc Land Rover tiến ra trước mặt biển, chạy chậm dọc theo con đường nổi tiếng Avenida Vieira Souto. - Chính là ở đây! Nikki vừa thốt lên vừa chỉ tay về phía một tòa nhà nhỏ có mặt tiền rất khác lạ bằng kính, gỗ và đá cẩm thạch. Họ giao chiếc xe 4x4 cho nhân viên đỗ xe rồi tiến vào tòa nhà. Theo đúng hình ảnh khu phố này, khách sạn có vẻ sang trọng và màu sắc, được bài trí rất có phong cách bằng nội thất từ những năm 1950 và 1960, tạo ấn tượng như trong không gian một tập phim Mad Men. Sảnh khách sạn toát lên một không khí thú vị: gạch trần, nhạc dìu dặt, sàn nhà lát ván, trường kỷ bọc đệm chần, tủ sách phong cách old school. Họ bồn chồn tiến vào quầy lễ tân - được tạc từ một thân cây trong rừng Amazon - rồi lấy phòng dưới danh nghĩa Constance Lagrange và Nicolas Botsaris. Nikki và Sebastian chỉ ở trong phòng đủ để giải khát và ngắm nhìn, từ ban công phòng họ, từng con sóng mạnh mẽ tràn đến rồi vỡ tan trên bờ cát. Tập quảng cáo của khách sạn viết rằng cái tên Ipanema xuất phát từ phương ngữ của người da đỏ châu Mỹ, nó có nghĩa là "vùng nước dữ". Một điềm dữ khiến họ bối rối, và họ đã quyết định không quá bận tâm đến điều đó. Quyết tâm đi tìm bằng được "cô gái ở Ipanema" nên họ rời phòng khách sạn ngay. Vừa đặt chân ra ngoài, họ lại bị cái nóng, mùi khói xe và tiếng ồn ào của xe cộ bao vây. Một dòng chảy bất tận những người chạy bộ, trượt ván và những người đi xe đạp tranh giành vỉa hè với người đi bộ. Khu phố này quy tụ một lượng lớn các cửa hàng sang trọng, các phòng tập thể hình và những viện thẩm mỹ tư nhân. Nikki và Sebastian băng qua đường để sang lối dạo hai bên trồng cọ chạy dọc bãi biển. Đây là khu vực dành cho cánh bán hàng rong tranh giành nhau từng ly một và dùng mọi chiêu trò để thu hút sự chú ý của khách đi đường. Đeo trên người các thùng kem, thùng kim loại, hoặc ngồi hẳn trong một chiếc lán nào đó, họ mời chào nước dừa, trà đá, dưa hấu, bánh quy nướng vàng ươm, bánh cocada phủ caramen giòn tan, và còn cả thịt bò xiên nướng, mùi cay nồng của món quà vặt này phảng phất khắp cả con đường. ... Mời các bạn đón đọc Bảy Năm Sau của tác giả Guillaume Musso.
Amber: Kiếp Hồng Nhan - Kathleen Winsor
Có thể nói ngay, Forever Amber là một tác phẩm văn học xuất sắc của nữ văn sỹ Kathleen Winsor. Bà đã kể lại một câu chuyện xảy ra vào thế kỷ 17 tại Anh quốc, xoay quanh nhân vật nữ chính là Amber - một cô gái mồ côi - đã dùng nhan sắc và sự quyến rũ của mình để tồn tại trong xã hội đa dạng lúc bấy giờ. Cô sẵn sàng làm người tình hay vợ những kẻ giàu có, nhưng lại không có được người cô yêu. Một điều lạ của cuốn sách, đó là nó vừa được yêu thích, vừa (từng) bị cấm xuất bản ở nhiều nơi (và bị xếp vào hàng… khiêu dâm). Dù vậy, cuốn sách vẫn có sức sống mạnh mẽ và luôn nằm trong danh sách tiểu thuyết hay nhất. Đoạn đời tuổi trẻ của Amber vùi dập trong chuỗi ngày mê muội, trong sự vùng vẫy để đạt điều cô mong ước. Những biến cố lịch sử có thật cũng được thể hiện sinh động dọc theo quãng đời của cô. Vừa dũng cảm lại vừa lẳng lơ, Amber có những lúc “lên voi” trong giới thượng lưu, thậm chí cả triều đình, và có những khi “xuống chó” phải đổi thân xác để có miếng ăn. Một trong những sự kiện khiến cho câu chuyện mang hơi thở thật của bối cảnh là trận dịch hạch kinh hoàng tại London. Qua đó cũng chứng tỏ tình yêu mãnh liệt và sự dũng cảm của Amber. Suốt đoạn đời được mô tả trong tác phẩm, Amber yêu và chỉ yêu Bruce Carlton. Kết thúc câu chuyện, Amber bắt đầu một hành trình vô vọng đến Hoa Kỳ để tiếp tục tìm kiếm Bruce, người đã lập gia đình với một cô gái khác. Hình như bản dịch tôi đọc là từ bản tiếng Pháp, cho nên tác giả đặt tựa là “Ambrơ” (theo Ambre). Sau này tôi có thấy sách được tái bản. Một cuốn sách không thể bỏ qua, tuy nhiên, cùng nguyên nhân với lệnh cấm từng dành cho nó tại nhiều nơi, tôi nghĩ nó chỉ thích hợp với người trên 20 tuổi (hoặc hơn nữa). * *   * Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý. Amber St. Clare sinh ra đã mất mẹ và không bao giờ được biết mặt cha. Từ đó, cô bé lớn lên trong sự ganh ghét, dè bỉu của những người xung quanh, ngoại trừ tình yêu của cô Sarah tốt bụng. Cuộc gặp gỡ với Bruce Carlton năm cô 16 tuổi, khi anh cùng đoàn kỵ sĩ của Nhà vua đi ngang qua làng Marygreen, đã thực sự đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời cô. Cô dành cho anh tất cả tình yêu sâu đậm, cháy bỏng và cuồng nhiệt… Cô theo anh đến Luân Đôn và không ngờ rằng trong suốt 10 năm sau đó cô phải trải qua biết bao biến động của thời cuộc và nhất là những thay đổi ghê gớm của cuộc đời mình. Xã hội dạy cho cô cách thức để vượt qua những hiểm nguy, gian khó, kể cả những ngày tháng kinh hoàng và khủng khiếp nhất. Amber không ngần ngại trước mọi thứ có thể đem lại cho cô tình yêu, tiền tài và danh vọng. Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý, một nữ bá tước… và hơn thế nữa là một quận chúa được nhà vua đặc biệt sủng ái. Cô đã có tất cả những gì cô muốn, ngoại trừ một điều thiêng liêng nhất - đó là tình yêu và một mái ấm gia đình thật sự với người đàn ông mình rất yêu… *** Mùa xuân năm ấy khô ráo và bụi bặm. Trời ít mưa. Tuy nhiên đến tháng Năm, trên các cánh đồng xung quanh Luân Đôn phủ đầy những tấm thảm đỏ chói của cây chĩa ba, hoa mào gà lớn, những đàn ong vo ve, những cánh đồng lúa xanh rì. Ngoài phố lại vang lên tiếng rao: - Trái anh đào chín đỏ đây! Hoa tường vi đây! Ai muốn mua hoa oải hương của tôi nào! Khu Mậu dịch lóng lánh những bộ áo mùa hè, vải ga mỏng, vải có vân sóng, đủ màu sắc: vàng lưu hoàng, mận, Thổ Nhĩ Kỳ, hồng tươi. Thời tiết nắng đẹp, gió mát thổi tới. Trong suốt năm, không có tin tức nào làm người ta sôi sục và tức giận bằng tin đồn là York đã cải hóa sang Công giáo. Không ai có thể chứng minh được việc đó; quận công từ chối không chấp nhận, trừ Charles lẽ ra phải biết rõ thì chỉ nhún vai, từ chối không để liên lụy đến mình. Tất cả những kẻ thù của quận công mưu mô với nhau chặt chẽ hơn; trong lúc đó người ta nhận thấy quận công York và Arlington bỗng trở nên rất thân với nhau. Điều đó càng có ảnh hưởng đến tin đồn một cuộc liên minh Pháp - Anh, vì Arlington đã từ lâu có thiên vị với Hòa Lan, bị nghi ngờ bản thân ông là công giáo, hoặc dù sao thì cũng có cảm tình với công giáo. Những lời đồn đại đó lan truyền nhanh chóng trong thành phố, Charles khó che giấu được nỗi bất bình của mình và có mấy lời nhận xét về sự không kín đáo của dân tộc Anh. Tại sao họ không bằng lòng được cai trị bởi những người làm nghề đó? Mẹ kiếp! Làm vua cũng chẳng hay gì hơn một anh làm bánh hoặc anh thợ lợp nhà. Có lẽ ông học một nghề còn tốt hơn! Không còn nghi ngờ gì nữa; nếu vua không kết hôn một lần nữa, York chỉ cần sống lâu, sẽ nối nghiệp vua Charles. Hoàng hậu đã lại sẩy thai lần thứ tư vào cuối tháng Năm. Một con cáo đói đã liếm mặt trong khi bà đang ngủ, làm bà hoảng sợ và mấy giờ sau bà mất đứa con! Buckingham đã thuê các thầy thuốc khẳng định là hoàng hậu không bao giờ có con được nữa, nhưng Charles không muốn nghe. Vua và hoàng hậu, cả hai đều sầu não, Catherine không còn chút nghi ngờ gì nữa, mình là người bất hạnh nhất trong tất cả các người đàn bà: một hoàng hậu tuyệt sản. Nhưng Charles vẫn tiếp tục cả quyết chống lại mọi góp ý làm Người phải xa vợ. Lòng trung thực hay nỗi thờ ơ, người ta không sao hiểu được! Ở trong triều có nhiều thiếu phụ mà những cuộc tranh luận về một hoàng hậu mới hướng vào đấy, gây ra những mối lo ngại. Dù sao thì Barbara Palmer cũng nghe với một nụ cười thích thú và ranh mãnh. Bởi vì, không còn là nhân tình của vua, vị trí của bà không còn may rủi nữa. Dần dần mối quan hệ của bà với Charles dịu đi. Họ giống như cặp vợ chồng, thờ ơ lẫn nhau, tổ chức một cuộc sống yên lành, không cãi cọ, ghen tuông, không giận hờn, vui sướng. Họ tìm thấy ở những đứa con của họ một lợi ích chung; và bây giờ giữa hai người xuất hiện một thứ tình bạn mà họ không thấy vào thời họ yêu nhau. Bà không còn ghen tuông với các nhân tình của Người, và Người thì vui lòng hả dạ thấy đã thoát được những cơn thay đổi tính nết đột ngột của bà. Charles vui thích đứng xa quan sát tính thất thường và nỗi yếu đuối của Barbara. Amber thấy sốt ruột, cô tống cho Almsbury rất nhiều thư hỏi xem anh có nghe nói gì về Carlton không. Mỗi lần cô đều nhận được trả lời với cùng một ý. Almsbury không còn biết gì hơn, người ta đợi Bruce vào tháng Tám hoặc tháng Chín, làm sao mà có thể cụ thể hơn được với cuộc hành trình trên mặt biển? Amber không sao có thể nghĩ đến việc khác. Lại một lần nữa, nỗi khát vọng cũ đau đớn và say mê lại trào dâng trong lòng cô. Tuy nhiên cô quyết định là lần này phải có thái độ đàng hoàng và đúng nghi thức. Cô sẽ đứng hơi xa để nhường cho chàng đi những bước đầu. Đó là cách tốt nhất để giữ một người đàn ông. Cô tự trách mình: “Ta cứ luôn luôn như là một người hầu hèn mọn của chàng: nhưng lần này sẽ khác hẳn. Dù sao thì bây giờ ta cũng đã là một bà lớn rồi, một bà quận chúa, và chàng mới chỉ là nam tước. Bất kể thế nào, cũng phải để chàng bắt đầu trước!” Cô biết là vợ chàng sẽ đi theo chàng, nhưng cô không lo lắng đến việc ấy. Bởi vì nhất định Bruce Carlton không phải là người đàn ông phô trương một tình yêu thái quá đối với vợ. Điều đó chỉ đúng với bọn trưởng giả vô học thức, còn đối với một người quý phái có kể chi đến vợ mà không dám đi ra ngoài không gươm! Hai vợ chồng Almsbury trở lại Luân Đôn hồi tháng Bảy để thu dọn nhà cửa, thuê một số người hầu mới và chuẩn bị đón những người khách quý đang sốt ruột chờ mong. Almsbury đến thăm Amber, cô quyết định giữ thái độ thản nhiên, nói huyên thuyên về nhiều vấn đề tước vị của cô, tòa nhà lớn cô đang xây, những vị khách cô sẽ mời chủ nhật tới. Almsbury mỉm cười nghe cô nói và gật đầu tán thưởng, không hề đả động đến Bruce. Câu chuyện của Amber chậm dần lại. Cô có vẻ phân vân, rồi cuối cùng biết là anh trêu mình, cô cảm thấy bực, bèn hỏi: - Thế nào, có tin tức gì không? - Tin tức à? Để tôi suy nghĩ đã, con ngựa cái đen của tôi, mà em vẫn cưỡi đấy, mới đẻ một chú ngựa con tuần trước và… - Quỷ nó bắt anh đi! Tại sao anh cứ để em phải chết dần thế này? Hãy nói em nghe, anh biết những gì? Khi nào anh ấy tới? Nàng cũng đi theo chứ? - Tôi không biết gì hơn những điều đã viết cho em, vào khoảng tháng Tám hoặc tháng Chín. Phải, nàng cũng sẽ tới. Tại sao? Em không sợ nàng à? Amber liếc cặp mắt dữ tợn nhìn anh; cô khinh khỉnh nhại lại: - Sợ nàng? Almsbury, anh tò mò thật! Đề nghị anh cho biết vì sao tôi lại sợ nàng? - Cô ngừng lại rồi hùng hổ nói tiếp - Vả lại tôi đã hình dung được rất rõ ả rồi, ả Corinna ấy! - Thật hả? - Almsbury lễ phép nói. ... Mời các bạn đón đọc Amber: Kiếp Hồng Nhan của tác giả Kathleen Winsor.
Thời Bi Tráng - Nguyễn Văn Thịnh
Nửa sau thế kỷ XX là thời kỳ biến động lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Vì độc lập, tự do và thống nhất tổ quốc, người Việt Nam liên tục phải đương đầu với những thế lực bành trướng lớn nhất trong lịch sử loài người. Thành thị là nơi hợp lưu người tứ xứ. Nhưng mỗi nơi hình thành những đặc trưng cư dân khác nhau. Người Hà Nội là đặc trưng của nền văn hóa sông Hồng, tiêu biểu là nền văn hóa Thăng Long. Qua những biến thiên thời cuộc, người Hà Nội trải khắp theo chiều dài đất nước và tỏa đi tứ xứ, tiếp thu nhanh văn minh thời đại. Kết hợp truyền thống văn hóa Đại Việt họ luôn hướng về cội nguồn dân tộc, góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ tổ quốc để dân tộc trường tồn. Thời Bi Tráng là tiểu thuyết về thời kỳ lịch sử ấy. Truyện là chuỗi hồi ức sống động mang nét sử thi với nhiều nhân vật vương bóng nhũng con người thật, nổi chìm theo sự đổi thay trong bối cảnh thời gian và không gian đất nước rộng dài. Dưới thể tiểu thuyết chính luận xã hội, những sự kiện và diễn biến thời cuộc được sưu tầm cẩn trọng, phong phú, công phu gần với tiến trình lịch sử. Tác giả sinh ra và lớn lên ở đất Hà Thành và trôi nổi theo dòng thác biến động xã hội lớn lao suốt mấy mươi năm từ Bắc vào Nam, lòng còn mang đậm ký ức tuổi thơ về cố đô Thăng Long. Những kỷ niệm của tuổi ấu thơ ngọt ngào và tuổi thanh xuân buồn vui trong khói lửa chiến tranh cùng cuộc sống xô bồ trong buổi giao thời. Những sự kiện ngày một mờ đi. Những con người ngày càng vắng bóng. Nhưng những dấu tích còn vương lại nơi trang sách, họa là chút gợi nhớ với lớp chứng nhân và gợi cảm với lớp người sau về một quá khứ bi hùng... *** Hà Nội, mùa thu Mậu Tuất 1958. Vào một buổi trưa, cuối đê La Thành đầu ô Đống Mác, trên con đường trải đá xanh lởm chởm, một người tàn tật mặc quân phục, đội chiếc mũ gắn ngôi sao vàng quân hiệu điều khiển chiếc xe lăn quanh quẩn nhiều lần, đưa mắt dò tìm khắp hai dãy phố. Trời bỗng sầm tối lại. Cơn dông ập tới. Con lốc xoáy chạy dọc trên đê cuốn theo khối bụi mịt mù lẫn rác và lá bay lả tả. Những giọt mưa nặng hạt đập lộp bộp rải rác lưa thưa trên những mái nhà, tán lá. Người ta nháo nhác chạy tìm chỗ trú. Anh thương binh dừng xe, cúi gằm xuống, một tay ghì cần lái, một tay giữ chặt mũ cho gió khỏi giật đi. Những hạt mưa mau hơn rải đều lan ra phát lên tiếng rào rào hỗn tạp. Đám mây như con trâu đen trũi ầm ầm chạy qua, đuổi theo sau lại là khoảng trời quang đãng mênh mông rực nắng. Anh thương binh ngẩn ngơ nhìn trước nhìn sau lại thủng thỉnh cho xe đi dò dẫm. Cơn mưa bóng mây ào ào chợt đến, chợt đi. Lại vang lên những tiếng người gọi nhau í ới, những tiếng còi và chuông xe đủ loại pin… pin! kính… coong! ếp ... ếp! và những tiếng thét vội vã cáu kỉnh tục tằn của cuộc sống phố phường thường nhật. Bầu trời lại hiện ra cao ngất ngằn ngặt trong xanh với những áng mây trắng muốt mỏng tang nhởn nhơ đuổi nhau bay về phía chân trời. Anh thương binh dừng xe trước Nhà máy nước, ngại ngùng nhìn con dốc đối diện bên một ngôi nhà tầng cất dở dang nhưng vẫn trưng tấm biển Nhà hộ sinh to tướng. Mấy người đàn ông đứng lơ ngơ quanh đó chạy tới vồn vã hỏi: - Đồng chí bộ đội tìm ai hay muốn vào trong làng? - Vâng! Tôi vào làng trong. Họ xúm nhau lại khiêng cả anh thương binh cùng chiếc xe xuống dốc và ríu rít thân mật hỏi : - Đồng chí bị thương à? - Đồng chí vào nhà ai? Có việc gì không? - Xin cảm ơn các bác! Tôi về nhà tôi. Giọng anh run run và đôi tay anh lập cập điều khiển chiếc xe bon bon như chạy. Con đường làng quen thuộc đây! Những viên gạch dày cộp mòn trũng mấp mô. Dưới gánh nặng của thời gian, rìa đường từng mảng nứt trĩu xuống như muốn rời ra. Con sông Tô Lịch làm ranh giữa làng trong với làng ngoài đôi bờ hẹp lại, nông toèn, đen đặc, tỏa ra một không khí nặng nề. Anh thương binh nhẹ tay đẩy, thủng thẳng nhận ra từng địa danh dấu tích: Đây là hồ Trung! Bên đây là hồ Cổ Ngựa! Mấy đứa trẻ con tò mò nhìn anh xa lạ. Mấy người lớn ngờ ngợ nhưng chiếc xe đã lăn qua khiến họ chưa kịp nhận ra người cũ. Đình làng Hương Thể mình đây! Đình chùa đều bị chiến tranh tàn phá, hơn chục năm rồi vẫn là mái ngói mái tranh tạm bợ trên cốt tường cũ loang lổ gió sương. Cái giếng trước cổng chùa ngày nào nước trong xanh là thế, cả làng ra đây gánh nước về ăn, giờ chỉ còn là cái ao toen hoẻn đặc bèo tổ ong xám ngoét. Cổng đình xưa cao to ngất ngưởng uy nghi giờ là một khoảng trống thông thống với đường làng. Cây đa phủ bóng rợp sân đình, rễ của nó làm bật tung lên những viên gạch lát mòn. Anh dừng xe áp sát vào khúc tường tào xá sứt mẻ rêu phong, hướng ra hồ Đình, ngày xưa có kệ gạch xây rộng lắm. Chiều chiều lớp nhỏ và các anh lớn ra đây vẫy vùng thỏa thích, bây giờ lềnh bềnh những mảng bèo tây. Cái giếng thơi to tướng giữa sân đình đã bị san phẳng đi rồi, mấy đứa trẻ quần nhau một quả bóng bưởi, nhễ nhãi mồ hôi… Anh ngửa mặt nhìn lên tán đa cổ kính già nua, không để ý có người dừng lại dõi nhìn theo. Tiếng ai hỏi làm anh giật mình quay lại: - Ai như là Nghĩa… phải không? Anh bỏ mũ ra. Người ta chạy lại, xúm quanh, nhận ra người làng mình, tíu tít: - Thằng Nghĩa! - Anh Nghĩa! - Cậu Nghĩa! - Cháu nội cụ Hai Mùi! - Con ông Hai Nhàn… Ông ấy chết sớm lắm! - Cháu gọi ông Ba Thanh bằng chú đấy! - Sao đến bây giờ mới về? - Tưởng chết ở mãi đâu rồi chứ! Thấy anh tần ngần, một người giải thích: - Những ngày đầu kháng chiến, lính Pháp nã vãi đạn pháo vào làng, người chết rải rác khắp nơi. Sau nó tràn vào, bắt người sống quăng xác người chết xuống giếng đình nên dân làng phải lấp đi! Nghĩa dần nhận ra từng người nhưng anh không thể trả lời những câu hỏi dồn dập được. Mấy đứa trẻ sấn tới xăm xăm đẩy xe đi: - Chú bộ đội… thương binh về nhà ai? Người ta theo nhau dặn với: - Đất nhà cụ Hai Mùi ở dọc hồ Dài! - Ông Ba Thanh giờ ở… trên phố! - Bà Gái… à bà Bình ấy là cháu nội còn ở đấy! Chiếc xe chạy băng băng dưới sức đẩy của đám trẻ háo hức nhiệt tình và tranh nhau hỏi: - Chú bộ đội bị thương ở đâu thế? - Chú có đánh trận Điện Biên không? - Chú còn đi được nữa không? - Chú không có vợ con à? - Chú Úy hay là Tá? - Là lính… trơn! – Anh trả lời bâng quơ. Một đứa ra vẻ người lớn, giải thích: - Chú giấu sao được bọn cháu. Đi bộ đội lâu thế, bị thương nặng thế, “bốn túi chân trì” lại được cấp xe riêng… bét cũng phải là Đại úy! ... Mời các bạn đón đọc Thời Bi Tráng của tác giả Nguyễn Văn Thịnh.
Đi Tìm Chiếc Bình Graal - Vincent Watelet
Chiếc bình thiêng có tên là Graal trong đó đã chứa những giọt máu quý giá của Đấng Cứu Thế vào ngày Chúa tử nạn trên cây thánh giá để cứu vãn những nỗi khổ của loài người. Một thiên thần đã đọc cho Joséphé viết nên câu chuyện này. Đến lượt tôi, tôi lại kể các bạn nghe để các bạn biết sự thật về những hiệp sĩ và những con người thần thánh qua các cuộc phiêu lưu kỳ lạ đầy nguy hiểm của mình đã làm thế nào để cuối cùng chinh phục được chiếc bình Graal. Vào thời kỳ Chúa tử nạn trên cây thánh giá, ở Jérusalem có một người tốt bụng và chính trực tên là Joséphé d’ Arimathie, ông đã đi theo Chúa trên tất cả các chặng đường đau khổ của Người. Nghe nói chính Joséphé đã hứng những giọt máu chảy ra từ những vết thương của Chúa vào trong chiếc bình Graal, chiếc bình thiêng này được giữ và lưu truyền trong gia đình Joséphé từ đời cha sang đời con trong thời gian rất dài. Rồi một hôm, chiếc bình Graal, sau khi đã chu du qua nhiều đại dương, được mang tới nước Anh do một người cháu họ lâu đời của Joséphé, mà người ta chỉ biết dưới tên gọi "Vua Câu Cá". Vị vua này không trị vì như các vị vua khác trên trái đất mà cho xây tại một nơi bí mật một lâu đài rộng mênh mông xứng đáng lưu giữ chiếc bình thiêng, sau đó giam mình trong lâu đài để cầu nguyện. ít lâu sau một vị vua mới lên ngai vàng vương quốc Anh, tức là vua Arthur. *** Perceval đi ngựa lâu lắm, hy vọng cuối cùng tìm được lâu đài vua Câu Cá. Trên đường, chỗ nào chàng cũng nhìn thấy những dấu hiệu của cái ác cái xấu đang hoành hành trong vương quốc: trang trại bị cháy rụi, nhà tu bị phá phách, đất đai hoang tàn... Lòng chàng đau đớn trước những thảm họa này và càng mong mau chóng đạt tới mục đích của cuộc tìm kiếm. Nhưng mãi vẫn chẳng thấy lâu đài Graal đâu cả... Một hôm, trong khi cứ lang thang như vậy không biết đi đâu thì chàng gặp cô gái trọc đầu, người đã để lại tấm khiên ở lâu đài Camelot mà hiện chàng đang mang, giữa có chữ thập đỏ chót. - Xin chào hiệp sĩ, - cô nói. - Ta chưa bao giờ gặp nhau, ấy thế nhưng tôi xin bảo đảm với chàng rằng số phận chúng ta ràng buộc chặt chẽ với nhau. Không! Xin chàng đừng nói gì hết! -.Cô vội nói khi Perceval định cất lời. - Tôi biết chàng là ai và chàng đang đi tìm cái gì. Vì vậy chàng hãy nghe tôi nói. Một thử thách cuối cùng đang chờ đợi chàng. Chắc chàng đã nghe tên tay hiệp sĩ ác Long và các hiểm họa hắn gây ra quanh lâu đài Camelot. Chàng phải thắng bằng được tên hiệp sĩ Dragon Argent này mà muốn vậy chàng hãy mau chóng trở lại Camelot. - Đã bao lần rồi, kể từ lâu lắm, tôi cứ phải rời xa mục đích đã dắt dẫn cuộc đời tôi! - Per-ceval kêu lên. Chàng bỗng thấy mình vô cùng mệt mỏi. - Chàng hãy tin tôi, con đường chàng tìm phải đi qua những cuộc giao tranh mới tới được, - cô gái trọc đầu nói rồi bỏ đi. - Hỡi chàng hiệp sĩ được chúa Trời ban phúc, ta sẽ gặp nhau sau! Perceval hiểu rằng từ nay đời chàng không còn thuộc về mình nữa, chàng phải nhất nhất tuân theo các hiệu lệnh đưa ra trước mặt mình. Mà cuộc gặp gỡ này là một trong những hiệu lệnh ấy. Chàng bèn theo con đường dẫn về lâu đài Camelot và tới đây sau nhiều ngày đường. Gau-vain và Lancelot, mới trở lại đây từ chưa lâu lắm đón tiếp chàng rất nồng nhiệt và khi nghe chàng bày tỏ động cơ trở lại Camelot họ nhất trí chàng làm như vậy là đúng. - Xin thề với ngôi mộ của Chúa, lưỡi kiếm này sẽ cùng lưỡi kiếm của bạn đâm xuyên thân mình tên hiệp sĩ Dragon Argent! - Lancelot hứa. - Và kiếm của tôi cũng vậy! - Gauvain phụ họa. Những thể hiện của tình bằng hữu ấy làm tâm hồn Perceval mạnh mẽ thêm, chàng quyết định cả ba ngay sáng sớm hôm sau sẽ lên đường đương đầu với tên hiệp sĩ đang phá hoại cả vùng đó. Ngày hôm sau họ tỉnh dậy thì đã thấy tất cả các hiệp sĩ Bàn Tròn tập trung trong sân lâu đài và xin với họ cho đi cùng. Nhưng Perceval từ chối chỉ để Lancelot và Gauvain đi theo mình. Họ phóng ngựa rất lâu, rời khu rừng ra vùng đồng bằng rộng lớn, từ đây ra đến biển không bao xa. Vừa tới gần bờ biển thì một thầy tu mình đầy máu lại gần họ. - Thưa các ngài, xin các ngài hãy chọn con đường khác và đi xa vùng bờ biển này ra! Bởi vì trên hòn đảo trước mặt các ngài kia là lâu đài.của tên hiệp sĩ Dragon Argent, không ai thoát được hắn đâu! Ba hiệp sĩ trấn an thầy tu và hỏi xem có thể kiếm thuyền ở đâu. Thấy ba chàng kiên quyết như thế ông thầy tu đưa họ đến một chỗ có thể xuống thuyền lên đảo. ... Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Chiếc Bình Graal của tác gi Vincent Watelet.