Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Băng Cướp Thụy Điển

221 khẩu súng máy biến mất khỏi kho vũ khí quân sự quốc gia. Mười vụ cướp tàn bạo. Một quả bom phát nổ ở Nhà ga Trung tâm Stockholm. Không nhân chứng nào tường tận chuyện đã xảy ra, giới cảnh sát như bị bịt mắt, cả đất nước chìm trong hoảng loạn… Đó không chỉ là những tình tiết trong Băng cướp Thụy Điển mà chính là chuỗi sự kiện gây chấn động đất nước này hồi đầu thập niên 1990, và giờ đây tất cả được thuật lại sống động dưới ngòi bút người anh em trai của ba tên cướp lừng danh. Khắc họa rõ nét và chân thực từng vụ cướp khét tiếng, đồng thời cũng đi sâu vào mối quan hệ gia đình phức tạp nhưng khăng khít, Băng cướp Thụy Điển là một trong những tiểu thuyết tội phạm đáng đọc nhất năm nay.  “Hoàn toàn điên rồ, hoàn toàn liều lĩnh, và hoàn toàn xuất sắc...” - Nordjyske Stiftstidende  “Độc nhất và choáng ngợp. Một trong những tiểu thuyết lôi cuốn nhất của năm.” - Nhà văn Stephen Booth  “Một cuốn sách sâu sắc... miêu tả và phân tích tâm lý tội phạm vô cùng khéo léo và thuyết phục.” - Diversioni “Sự hòa hợp hoàn hảo của thực tế và hư cấu.” - Skanska Dagladet *** Từ xưa đến nay, bạo lực và giận dữ chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề. Mahatma Gandhi từng nói “An eye for an eye only ends up making the whole world blind” (tạm diễn dịch: Nếu ai cũng báo thù bằng cách 1 mắt trả 1 mắt thì thế giới sẽ toàn là người mù). Bạo lực có thể nào xuất phát từ tình thương và sự che chở không? Nếu dựa vào thứ gọi là “tình cảm gia đình” mà tự cho mình cái quyền đối xử bạo lực với người thân thì Biển nghĩ hành động đó thật sai lầm, vừa hại mình vừa hại người, và chỉ đẩy mọi người vào cảnh chỉ còn thân thể tồn tại nhưng tâm hồn đã hoàn toàn mất đi. Đã lâu rồi mới có 1 quyển sách đem đến cho Biển nhiều cung bậc cảm xúc như thế. Tuy mới vài tuần trước, quyển “Trảng đất trống” của Robert Dugoni đã khiến Biển khóc 3 lần, nhưng chính quyển “Băng cướp Thụy Điển” này mới khiến Biển từ bất mãn, giận dữ chuyển sang thỏa mãn, rồi lại hoang mang suy tư đủ điều. Qủa thật, những quyển sách được viết bởi 2 tác giả có những nét rất đặc sắc so với những quyển được viết bởi 1 tác giả. Nếu như ở quyển “Dị chủng”, từng dòng chữ bình thường cũng đem lại cảm giác bất an bồn chồn, thì ở quyển “Băng cướp Thụy Điển”, từng chương sách đều khiến Biển cảm thấy 1 sự giận dữ ngấm ngầm. Tính ra thì Biển đọc quyển này suốt 3 tháng, từ tháng 3~5/2018, vì những đoạn đầu khiến Biển rất bất mãn & không muốn đọc tiếp. 1 người vợ bị chồng bạo hành, 1 người phụ nữ khác thì chấp nhận lìa xa con mình để sống chung / để yêu 1 người đàn ông, người mà đem đến cho cô nhiều ngày giờ căng thẳng hơn là những giây phút yêu thương và an toàn. Nhưng rốt cuộc Biển đã lướt qua cảm giác bất mãn ban đầu để theo dõi tiếp quyển sách, càng về sau câu chuyện càng lôi cuốn. Tuy đầu sách có 2 dòng mang tính chất rất đánh đố như sau “Điều này cũng chẳng lấy gì làm quan trọng. Nhưng cuốn sách này được viết dựa trên một câu chuyện có thật” thì Biển cũng không hoàn toàn tin là nó có thật. Nhưng dù có thật hay không thì đây vẫn là 1 câu chuyện rất ấn tượng. Tưởng như bạo lực tràn ngập các vụ cướp, nhưng cá nhân Biển lại tập trung vào những tình tiết mà tính nhân văn được hé mở, tập trung vào những khoảnh khắc mà sự thiện lương còn nguyên vẹn chưa bị đánh mất. Chính những khoảnh khắc ấy đã lôi kéo Biển tiếp tục đọc. Những câu chữ miêu tả tâm lý tuyệt vời, cứ như người đọc đang được ở cạnh và chứng kiến trực tiếp từng khung hình. Đọc xong quyển này và những quyển khác của các nhà văn Thụy Điển, Biển chợt tự hỏi : chẳng lẽ ở 1 đất nước thuộc Châu Âu văn minh lại có tỷ lệ tội phạm và bạo lực cao như vậy sao, hay đó chỉ là tiểu thuyết? Sách khá to, dày, đúng kiểu Biển thích. Bìa có màu sắc đẹp, thiết kế sáng tạo. Trình bày hoàn hảo, chữ in to rõ, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy. Nhã Nam đã thành công rực rỡ khi xuất bản quyển sách này. Biển không thuộc loại thích khen 1 cách quá mức như thế này, nhưng Biển buộc phải khen quyển “Băng cướp Thụy Điển” này vì không có chỗ nào để chê. Biển cho điểm 10/10 vì đây là 1 siêu phẩm xứng đáng với mức điểm đó, nhưng nếu kết cuộc của nó lạc quan hơn thì Biển sẽ cho điểm cao hơn, khoảng 14/10. Đây là 1 quyển sách xứng đáng có trên kệ của các mọt sách nói chung và các mọt trinh thám nói riêng. *** Bà Ariadne Oliver đi với người bạn ở cùng, bà Judith Butler, giúp chuẩn bị một bữa tiệc cho các trẻ em trong vùng, diễn ra vào buổi tối hôm ấy. Khung cảnh hoạt động chuẩn bị lúc này hết sức rộn rịp. Các bà các cô hăng hái đi ra đi vào, người kê bàn, người giúp chuyển những chiếc ghế nhỏ, bê lọ hoa, và rất nhiều quả bí ngô đặt vào những chỗ được định sẵn một cách có chủ ý. Hôm nay là tiệc Hallowéen cho các vị khách độ tuổi từ mười đến mười bảy. Tách ra khỏi đám người hối hả trong phòng, bà Oliver đứng dựa vào bức tường trống, săm soi nhìn trái bí ngô khổng lồ trên tay. “Lần gần đây nhất tôi nhìn thấy bí ngô,” bà nói, tay khẽ vuốt những sợi tóc muối tiêu vương trên vầng trán cao, “là ở Mỹ hồi năm ngoái - cả trăm trái ấy. Bày khắp trong nhà. Đời tôi chưa thấy nhiều bí ngô thế bao giờ. Mà kỳ thực,” bà nói thêm, vẻ trầm ngâm, “tôi chẳng phân biệt nổi đâu là bí ngô và đâu là bí đao. Đây là loại nào nhỉ?” “Xin lỗi, bồ,” bà Butler vội nói khi vấp phải chân bà bạn. Bà Oliver càng nép sát vào tường. “Là lỗi của tôi,” bà nói. “Tại tôi cứ đứng quẩn chân, chắn lối mọi người đi lại. Nhưng hồi đó họ tổ chức cũng hoành tráng lắm, bao nhiêu là bí ngô, hay bí đao gì đó. Đi đâu cũng thấy, trong cửa hàng cửa hiệu, rồi thì từ nhà ra ngõ, khắp mọi nơi, người ta còn thắp nến hoặc đèn bên trong trái bí, hoặc buộc dây treo chúng lên. Hết sức vui mắt. Nhưng dịp ấy lại không phải trang trí cho tiệc Hallowéen, mà là Lễ Tạ ơn. Tôi thì cứ thấy bí ngô là lại nghĩ đến Hallowéen, tức là cuối tháng 10. Lễ Tạ ơn muộn hơn nhiều chứ nhỉ? Có phải tháng 11 không? Tầm tuần thứ ba của tháng 11 gì đấy? Dẫu sao thì, lại nói, Hallowéen là ngày 31 tháng 10 phải không? Đầu tiên là Hallowéen, rồi sau đó là gì nhỉ? Lễ Các đẳng linh hồn à? Ngày ấy ở Paris người ta đến nghĩa trang và đặt hoa viếng mộ. Cũng không phải ngày lễ buồn thảm gì đâu. Ý là, cả trẻ con cũng đi viếng nữa, và chúng thích thú lắm. Đầu tiên mọi người phải ra chợ hoa và mua thật nhiều nhiều hoa đẹp. Chẳng hoa ở đâu trông đẹp mắt bằng hoa ở Paris bán ở chợ ấy cả.” Các bà các cô hối hả qua lại, thi thoảng lại vấp phải bà Oliver, nhưng chẳng ai nghe bà nói. Ai cũng quá bận với công việc đang làm. Đa số họ là các bà mẹ, có một vài bà cô chưa chồng tháo vát; cũng có những cậu trai mười sáu mười bảy trèo thang hoặc đứng lên ghế để treo đồ trang trí, bí ngô hoặc bí đao, hoặc treo những quả cầu màu sắc sặc sỡ ở ngang tầm mắt; còn các cô bé mười một mười lăm tuổi túm tụm thành nhóm cười khúc khích. “Rồi sau ngày Các đằng và viếng mộ ấy,” bà Oliver lại tiếp tục, khẽ tựa người xuống tay vịn ghế sofa nhỏ, “là đến Lễ Các thánh. Tôi nói có đúng không nhỉ?” Không ai trả lời bà. Bà Drake, một phụ nữ trung niên quý phái, cũng là gia chủ tổ chức bữa tiệc, cất tiếng tuyên bố: “Tôi không định gọi đây là tiệc Hallowéen gì cả, dù tất nhiên, nó đúng là như thế. Tôi sẽ gọi đây là bữa tiệc Trên Mười Một Tuổi. Để chỉ độ tuổi người tham dự, hầu hết là những người sắp học hết trường Elms* và tiếp tục học lên các trường khác.” Elms là trường nội trú nam nữ ở Colwall, Herefordshire, Anh, dành cho trẻ em từ 2,5 đến 13 tuổi. “Nhưng gọi thế không chính xác lắm, có đúng không, Rowena?” cô Whittaker nói, tay chỉnh cặp kính không gọng trên mũi, ra vẻ không tán thành. Cô Whittaker vốn là giáo viên trường làng, rất kỹ tính về chuyện đúng sai trong lời ăn tiếng nói. “Vì chúng ta đã bãi bỏ chế độ trên mười một tuổi từ lâu rồi mà.” Bà Oliver đang ngồi tựa vào tay ghế vội đứng dậy, tỏ vẻ hối lỗi. “Nãy giờ tôi chẳng giúp được gì cả, toàn ngồi đây nói chuyện linh tinh về bí ngô với bí đao.” Và cho phép chân mình ngơi nghỉ một lúc, bà nghĩ thầm, lương tâm hơi có chút bứt rứt, nhưng lại chẳng đủ cảm giác tội lỗi để nói to suy nghĩ ấy ra. “Tiếp theo tôi có thể giúp gì đây?” bà hỏi, rồi chợt thốt lên: “Mấy quả táo này đẹp quá đi mất!” Ai đó mới bưng một tô lớn đựng táo vào đặt trong phòng. Bà Oliver vốn rất mê táo. “Táo đỏ đẹp quá,” bà tấm tắc khen. “Ăn không ngon lắm đâu,” bà Rowenda Drake tiếp lời. “Nhưng được cái trông đẹp mắt và hợp với buổi tiệc. Chỗ táo này là để cho bọn trẻ chơi trò dùng miệng lấy táo trong thau nước. Chúng khá mềm nên dễ cắn hơn. Bưng tô này vào trong phòng đọc sách được không, Beatrice? Trò cắn táo này lúc nào cũng làm nước bắn tung tóe khắp sàn, nhưng thôi kệ, thảm phòng đọc sách đằng nào cũng cũ rồi. Ôi! Cảm ơn cháu nhé Joyce.” Joyce, cô bé mười ba tuổi người rắn rỏi, hăng hái bưng tô đựng táo lên. Hai quả bị rơi xuống sàn và lăn tới chân bà Oliver thì ngừng lại, như thể có ai vẩy đũa phép điều khiển chúng vậy. “Bà thích táo mà, phải không,” Joyce nói. “Cháu có đọc được là bà thích táo, hoặc có khi cháu nghe trên tivi người ta nói thế cũng nên. Bà chính là người hay viết truyện trinh thám đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bà Oliver đáp. “Chắc phải mời bà làm gì đó liên quan đến mấy vụ án mạng mới được. Bà dựng một vụ án mạng trong buổi tiệc tối nay và cho mọi người phá án đi.” “Không, cảm ơn cháu,” bà Oliver nói. “Đủ lắm rồi.” “Là sao ạ? Sao lại đủ lắm rồi?” “Ờ thì, ta từng làm thế một lần, và kết quả không thành công chút nào,” bà Oliver nói. “Nhưng bà đã viết rất nhiều sách,” Joyce hào hứng, “bà kiếm được rất nhiều tiền nhờ đó phải không ạ?” “Ở một chừng mực nào đó,” bà Oliver đáp, tâm trí lang thang trở về Inland Revenue. “Và bà có một thám tử là người Phần Lan nữa.” Bà Oliver thừa nhận. Một cậu bé khác trông có vẻ lãnh đạm, bà Oliver đoán hẳn phải hơn mười một tuổi, nói với vẻ nghiêm nghị: “Sao lại là Phần Lan?” “Ta cũng thường tự hỏi như thế,” bà Oliver thành thực trả lời. Bà Hargreaves, vợ người đánh đàn ống ở nhà thờ thở hổn hển bước vào phòng, tay bê một xô nhựa lớn màu xanh lá cây. “Cái này thì sao,” bà nói, “để chơi trò cắn táo ấy? Có vẻ màu mè rực rỡ đấy, tôi nghĩ thế.” Cô Lee, người bán thuốc theo toa bác sĩ, đáp: “Xô mạ kẽm thì tốt hơn. Thế mới khó lật. Bà định đặt cái này ở đâu đây, bà Drake?” “Tôi đã nghĩ trò cắn táo nên tổ chức trong phòng đọc sách. Tấm thảm phòng ấy cũng đã cũ rồi, và thể nào cũng có nước vương vãi cho xem.” “Được rồi. Vậy để chúng tôi bưng xô này theo luôn. Rowena, đây thêm một giỏ táo nữa này.” “Để tôi giúp,” bà Oliver xăng xái. Bà nhặt hai quả táo dưới chân lên. Gần như quên bẵng mất mình đang làm gì, bà đưa một quả lên miệng cắn và bắt đầu nhai rau ráu. Bà Drake đưa tay giật lại quả táo thứ hai và đặt trở vào giỏ. Cả phòng dậy lên tiếng nói chuyện ồn ào. “Vâng, nhưng giờ biết tìm đâu ra hoa mõm sói?” “Bà phải có hoa mõm sói đặt trong phòng đọc sách chứ, đấy chắc là phòng tối nhất nhà rồi.” “Không, chúng ta phải đặt hoa trong phòng ăn.” “Ta phải phủ cái gì lên bàn trước đã.” “Bàn đã bọc một lớp vải len tuyết dài, rồi lại phủ một tấm cao su lên nữa.” “Thế còn các tấm gương? Chúng ta sẽ nhìn được các ông chồng trong đó chứ?” Len lén cởi giày và vẫn khẽ nhai miếng táo trong miệng, bà Oliver lại thả người trở xuống chiếc sofa nhỏ và chăm chú quan sát căn phòng đầy người qua lại. Lúc này bà bắt đầu dùng đầu óc nữ tác giả của mình để suy nghĩ: “Giờ thì, nếu mình định viết một cuốn sách về tất cả những người này, mình nên viết gì nhỉ? Họ đều là những người tử tế, mình nghĩ là vậy, nhưng ai mà biết được?” Một mặt, bà cảm thấy thật thú vị khi không biết gì về họ. Tất cả đều sống ở Woodleigh Common, vài người bà có biết đôi chút qua lời kể của Judith. Cô Johnson - hình như có liên quan nhà thờ, nhưng không phải là em gái của mục sư. À không, cô ấy là em người đánh đàn ống mới phải, đúng rồi. Rowena Drake, hình như chuyên chỉ đạo các hoạt động chung trong vùng Woodleigh Common này. Và cả người phụ nữ đang thở hổn hển sau khi bưng cái xô nhựa lúc nãy, một cái xô xấu đến phát gớm. Bản thân bà Oliver vốn chẳng bao giờ ưa nổi đồ nhựa. Rồi bọn trẻ con và các cô cậu tuổi choai. Đến bây giờ tất cả chỉ mới là những cái tên trong đầu bà Oliver. Cô bé Nan này, Beatrice này, Cathie, Diana này và Joyce, một cô bé khoác lác và hay hỏi lung tung. Mình không thích cô bé Joyce này lắm, bà Oliver thầm nghĩ. Cô bé kia tên là Ann, trông cao ráo và kẻ cả. Rồi hai cậu thiếu niên, hình như thích thử các kiểu tóc khác lạ, chỉ có điều kết quả không được tốt đẹp lắm. Một cậu bé người nhỏ nhắn rụt rè bước vào phòng. “Mẹ bảo cháu đem những tấm gương này đến xem có dùng được không,” cậu nói, giọng như hụt hơi. Bà Drake đón lấy các tấm gương: “Cảm ơn cháu nhiều nhé, Eddy.” “Chỉ là gương cầm tay bình thường thôi mà,” cô gái tên Ann lên tiếng. “Có thật bọn cháu sẽ nhìn thấy mặt chồng tương lai trong đó không?” “Có đứa sẽ thấy, có đứa không,” Judith Butler đáp, vẻ bí hiểm. “Bà đã bao giờ thấy mặt chồng mình khi đến một bữa tiệc chưa ạ - ý cháu là những bữa tiệc như thế này này?” “Tất nhiên là chưa rồi,” Joyce đáp thay. “Có lẽ bà ấy đã thấy rồi,” Beatrice lên giọng kẻ cả. “Cái đó người ta gọi là giác quan thứ sáu,” cô bé nói thêm, giọng hài lòng vì mình thông thạo những từ ngữ hợp thời. “Cháu đã đọc truyện của bà,” Ann nói với bà Oliver, “The Dying Goldfish. Cuốn đó hay đấy ạ.” cô bé lịch sự tán dương. “Cháu lại không thích cuốn đó,” Joyce lên tiếng. “Không đủ máu me. Cháu thích những vụ án đổ máu thật nhiều ấy.” “Thế thì hơi bẩn,” bà Oliver nói, “cháu không thấy vậy sao?” “Nhưng rất ly kỳ,” Joyce đáp. “Cũng không hẳn,” bà Oliver nói. “Cháu đã chứng kiến một vụ án mạng đấy,” Joyce la lên. “Đừng có ăn nói hàm hồ vậy chứ, Joyce,” cô giáo Whittaker lên tiếng. Mời các bạn đón đọc Băng Cướp Thụy Điển của tác giả Anders Rosluno & Stefan Thunberg.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lộ Mặt - Sidney Sheldon
Sách Nói Lộ Mặt   Judd Stevens, một nhà ph'n tích t'm lý đã phải đương đầu với một phán quyết oái oăm và nguy nan nhất trong đời. Nếu anh không th'm nhập vào t'm trí của một kẻ giết người, chính anh sẽ bị bắt giữ vì vụ giết người ấy, hoặc buộc phải tự sát... Hai cảnh sát dính dáng vào bác sĩ Stevens đã bị giết. Có phải một trong những bệnh nh'n của anh phải chịu trách nhiệm? Người nào đó đã đe dọa vì những vấn đề của anh? Một người loạn thần kinh bị dẫn dắt bởi sự ép buộc? Một kẻ điên khùng? Trước khi kẻ sát nh'n lại hành động, Judd phải lột trần bộ mặt ng'y thơ của tên tội phạm, khám phá những xúc cảm bên trong, nỗi sợ hãi và dã t'm của hắn - phơi bày khuôn mặt trần trụi bên trong... "Sidney Sheldon thể hiện là bậc thầy của tiểu thuyết bán chạy." - People *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Judd đứng trước thang máy, bóng tối dày đặc vây quanh. Ông cảm thấy có lúc tim như ngừng đập rồi lại đập liên hồi. Một nỗi sợ đột ngột ập lên người ông. Ông sờ túi tìm hộp diêm. Chẳng may nó lại bị bỏ quên trong văn phòng rồi. Có lẽ đèn ở những tầng dưới vẫn sáng. Ông thận trọng dò dẫm tìm bược về phía cửa dẫn ra cầu thang. Ông đẩy cửa ra. Cầu thang cũng tối như mực. Cẩn thận nắm vào tay vịn, ông bắt đàu từ từ bước xuống cầu thang vẫn trong bóng tối dầy đặc. Tít phía dưới, ông thấy một làn ánh sáng chập chờn đang lên cầu thang. Đột nhiên nghe thấy người nhẹ nhõm hẳn đi như được giải vây. Bigelow, người gác cổng. Ông thét lên: - Bigelow, bác Bigelow, bác sĩ Stevens đây! Giọng ông dội vào vách tường đá, vang vọng khắp thang lầu. Bóng đen cầm chiếc đèn cứ lặng lẽ, tiếp tục lầm lũi leo lên. - Ai đó? - Judd hỏi lớn. Vẫn chỉ là tiếng ông vang vọng lại. Bỗng nhiên, Judd chợt nhận ra đó là ai - Kẻ định ám sát ông. Có ít nhất hai tên, một tên cúp điện trong lúc một tên khác chặn ở thang lầu không cho ông trốn thoát. Ánh lửa chập chờn càng lúc càng gần hơn, nó chỉ còn cách ông độ hai hay ba tầng lầu nữa thôi và vẫn trèo lên mỗi lúc một nhanh hơn. Toàn thân Judd lạnh toát vì sợ, tim đập thình thịch còn chân như muốn khụy xuống đất. Ông quay người thật nhanh chạy lên tầng trên, chỗ cũ. Ông mở cửa và đứng nghe ngóng xem có ai đang chờ mình trong hành lang tối mịt? Tiếng chân bước lên cầu thang càng lúc càng rõ hơn. Miệng ông khô lại, Judd quay người chạy vào hành lang tối đen như mực. Khi đến chỗ thang máy, ông bắt đầu đếm từng cánh cửa. Đây rồi, vừa về đến văn phòng, ông nghe thấy tiếng mở cửa cầu thang. Hốt hoảng, ông đánh rơi chùm chìa khoá. Ông mò mẫm như điên cuồng dưới sàn nhà, tìm thấy rồi, ông mở cửa phòng tiếp khách, lẻn vào trong rồi khoá hai lần cửa lại. Giờ thì không kẻ nào có thể mở được trừ khi có chìa khoá đặc biệt. Bên ngoài hành lang, ông nghe tiếng bước chân đến gần. Đi vào phòng riêng bên trong, ông bật đèn, vẫn không sáng. Cả chung cư đều bị cúp điện. Ông khoá cửa phòng trong lại và đến chỗ điện thoại, ông mò mẫm quay số gọi tổng đài. Ba hồi chuông dài reo liên tục, có người nhấc máy. Judd đã nối liên lạc được với thế giới bên ngoài rồi. Giọng ông nhẹ nhàng. - Thưa tổng đài, một trường hợp thật khẩn cấp. Tôi là bác sĩ Judd Stevens, xin cho gặp thám tử Frank Angeli ở khu vực cảnh sát 19, xin cô nhanh giúp tôi. - Được rồi, ông cho số điện thoại đi. ... Mời các bạn đón đọc Lộ Mặt của tác giả Sidney Sheldon.
Hãy Kể Giấc Mơ Của Em - Sidney Sheldon
Ashley, tao nhã nhưng hay bị ám ảnh... Toni, nhục cảm nhưng sôi nổi... Alette, đáng yêu và kiêu hãnh... Ba phụ nữ trẻ xinh đẹp bị nghi ngờ dính líu vào một loạt vụ giết người đáng sợ. Lúc này một trong những phiên tòa xét xử vụ giết người kỳ quái nhất của thế kỷ chuẩn bị bắt đầu, tiết lộ một bằng chứng y học kinh hoàng và sửng sốt nhất không thể tin được. Trải rộng từ London đến Rome, từ Quebec đến San Francisco, câu chuyện của bậc thầy tiểu thuyết thế giới còn hơn cả một tác phẩm kỳ bí: Nó tinh tế, mê hoặc, và cuối cùng đi thẳng vào phần sâu sắc, hoang dại nhất trong tim mỗi con người. "Khi nói đến câu chuyện hư cấu với những âm mưu đầy rắc rối, không ai sánh được với Sidney Sheldon." - Associated Press đã bình luận thế, song Hãy kể giấc mơ của em lại được người viết ra nó khẳng định: Câu chuyện này dựa trên những sự kiện có thật! *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Ai đó đang theo dõi nàng. Nàng đã đọc nhiều về những kẻ chuyên nghề theo dõi, nhưng dường như là họ thuộc về một thế giới khác - thế giới của bạo lực. Nàng không hề hay biết ai muốn làm hại mình. Nàng cố gắng trấn tĩnh, nhưng cuối cùng cũng rơi vào giấc ngủ đầy những cơn ác mộng và mỗi buổi sáng lại giật mình thức giấc với cảm giác sợ hãi lửng trên đầu Có thể chỉ là do mình tưởng tượng ra. Ashley Patterson nghĩ. Mình đã quá vất vả rồi. Mình nên đi nghỉ một chuyến. Nàng chăm chú ngắm nhìn mình qua tấm gương để ở phòng ngủ. Trong gương in hình một người đàn bà ở độ tuổi 30, trang phục gọn gàng, tỏa ra sự sang trọng, vóc dáng mảnh mai và cặp mắt thông minh song tràn đầy vẻ ưu tư. ở nàng toát lên vẻ tao nhã ưa nhìn và một chút gì đó như là quyến rũ. Mái tóc đen mượt mà buông xõa một cách tự nhiên xuống hai bờ vai. Trông mình đáng ghét quá. Ashley nghĩ. Mình quá gầy. Có lẽ mình phải ăn mạnh nữa lên. Nàng rời tấm gương, xuống bếp chuẩn bị bữa sáng, cố ép mình quên đi những điều đáng sợ có thể xảy ra để tập trung vào món trứng ốpla. Nàng bật máy pha cà phê rồi cho một lát bánh mì vào lò nướng bằng điện. Mười phút sau,, bữa sáng đã sẵn sàng trên bàn. Ashley ngồi xuống. Nàng cầm thìa lên, nhìn đĩa đồ ăn một lúc rồi lắc đầu ngao ngán. Nỗi sợ hãi đã làm tiêu tan cảm giác thèm ăn của nàng, dù nàng đang đói đến cồn cào. Không thể tiếp tục thế này được nữa, nàng giận dữ nghĩ. Bất kể hắn là ai mình cũng không để hắn uy hiếp mình nữa. Nhất định. Ashley liếc đồng hồ. Đã đến giờ đi làm. Nàng nhìn quanh căn phòng quen thuộc như tìm kiếm sự trấn tĩnh lại. Đây là căn hộ trên tầng bốn của khu chung cư ở phố cụt Via Camino, có phòng khách, phòng ngủ, phòng làm việc riêng, phòng tắm, nhà bếp và cả phòng để quần áo. Nàng đã sống ở đây, Cupertino - California được ba năm. Và cho tới hai tuần trước thì nàng vẫn nghĩ đây là một tổ ấm lý tưởng. Còn bây giờ hóa ra nó đã biến thành pháo đài, nơi không ai có thể lọt vào hòng ám hại nàng. Ashley tiến ra cửa chính và kiểm tra lại ổ khóa. Mình sẽ gắn thêm cái chốt vào, nàng nghĩ. Ngày mai. Sau đó nàng tắt đèn, kiểm tra cửa một lần nữa sau khi đã khóa lại rồi dùng thang máy đi xuống tầng hầm để xe. Gara vắng lặng, khoảng cách từ cửa thang máy đến chiếc xe con của nàng là feet. Nàng cẩn thận nhìn quanh, rồi chạy vụt ra xe, chui vào trong và đóng sấm cửa lại, tim đập thình thịch. Nàng lái xe vào trung tâm thành phố dưới bầu trời xám xịt, ảm đảm như báo trước những điềm gở sắp xảy ra. Dự báo thời tiết nói là sẽ có mưa. Nhưng rồi sẽ không mưa đâu, Ashley nghĩ. mặt trời sẽ xuất hiện thôi. Tôi đánh cuộc vớí ngài đấy Thượng đế ạ. Nếu không có mưa thì tức là mọi việc vẫn ổn cả và chuyện đó chỉ là tôi tưởng tượng ra mà thôi. Mươi phút sau, Ashley Patterson lái xe đến khu trung tâm Cupertino. Cho tới bây giờ nàng vẫn chưa hết ngạc nhiên về điều kì diệu đã xảy ra với cái thị trấn im lìm nhỏ nhoi ở vùng Santa Clara Valley này. Cách San Francisco 50 dặm về hướng Bắc, đây là nơi cuộc cách mạng tin học nổ ra và nó rất xứng đáng với cái biệt danh Silicon Valley nổi tiếng thế giới. Ashley làm việc tại Công ty Global Computer Graphic, một công ty mới ra đời nhưng đã khá thành công với khoảng 200 nhân viên. ... Mời các bạn đón đọc Hãy Kể Giấc Mơ Của Em của tác giả Sidney Sheldon.
Bộ Năm Lừng Danh Tập 2: Chuyến Phiêu Lưu Mới - Enid Blyton
Kỳ nghỉ Giáng sinh, bộ Năm Julian, Dick, Anne, George và chú chó Timmy một lần nữa tái hợp ở Trang trại Kirrin. Cả bọn cực kỳ phấn khích! Thế nhưng sự xuất hiện của vị gia sư bí ẩn tên là Ngài Roland đã phá hỏng cuộc vui của bọn trẻ. Một buổi sáng, khi chúng đang học phụ đạo với Ngài Roland thì chú Quentin phát hiện ra một số giấy tờ hết sức quan trọng và bí mật đã bị đánh cắp, và Bộ Năm lừng danh vào cuộc! Nghi phạm đã có, nhưng chúng cần chứng cứ! Và rồi, trên đường đi tìm chứng cứ, chúng lại phát hiện ra một bản đồ cổ và một nơi cất giấu bất thường. Những chuyện này có liên hệ gì với nhau hay không? Hãy cùng Bộ Năm lừng danh giải mã điều bí ẩn? Đã gần 70 năm trôi qua kể từ lần đầu được xuất bản, Bộ năm lừng danh vô cùng sống động của Enid Blyton tiếp tục làm say mê hàng triệu bạn nhỏ trên toàn thế giới. Bộ sách đã nhiều lần được chuyển thể truyền hình, điện ảnh, hoạt hình, truyện tranh, kịch bản sân khấu, trò chơi điện tử. Còn tác giả Enid Blyton thì vững vàng trong hàng ngũ những nhà văn thiếu nhi kinh điển và cuốn hút nhất thế kỷ XX. Bộ Năm Lừng Danh đã xuất bản tại Việt Nam gồm có: Bộ NămTrên Đảo Giấu Vàng Chuyến Phiêu Lưu Mới Bộ Năm Chạy Trốn Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu Bộ Năm Chinh Chiến Dưới Lòng Đất *** Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ năm lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Tác phẩm tiêu biểu Bộ truyện The Wishing-Chair, 1937 – 2000 Bộ truyện The Circus, 1938 – 1942 Bộ truyện The Secret, 1938 – 1953 Bộ truyện The Magic Faraway Tree, 1939 – 1951 Bộ truyện The Naughtiest Girl, 1940 - 1950 Bộ truyện The St. Clare's, 1941 – 1945 Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) Bộ truyện The Mistletoe Farm, 1948 - 1950 Bộ truyện The Secret Seven, 1949 – 1963 Bộ truyện The Barney Mystery, 1949 – 1959 *** ĐÓ LÀ tuần cuối cùng của mùa Giáng sinh và tất cả lũ con gái ở trường Gaylands đều mong ngóng đến kỳ nghỉ lễ. Anne ngồi xuống bàn điểm tâm, cầm một lá thư gửi cho mình lên. “Oa, xem này!” nó nói với cô em họ Georgina ngồi bên cạnh. “Thư của cha, nhưng hôm qua mình mới nhận được thư của cha mẹ mà.” “Tôi hy vọng không có tin gì xấu,” George đáp. Nó không cho phép bất kỳ ai gọi mình là Georgina, và giờ thì cả các cô giáo cũng gọi nó là George. Thực tình trông nó y hệt một cậu nhóc với mái tóc xoăn ngắn ngủn và cung cách đặc sệt con trai. Nó lo lắng nhìn Anne trong khi cô bé đọc thư. “Ôi, George, Giáng sinh này chúng ta không thể về nhà!” Anne kêu lên, mắt mọng nước. “Mẹ bị sốt phát ban, và cha cũng bị cách ly theo, vậy nên cha mẹ không thể đón chúng ta về. Tệ quá phải không?” “Ôi, tôi rất tiếc,” George đáp. Nó cũng thất vọng không kém gì Anne vì mẹ Anne đã mời nó và chú chó Timothy của nó tới nhà chơi vào kỳ nghỉ Giáng sinh này. Mọi người đã hứa cho nó xem bao nhiêu thứ mà nó chưa từng được thấy - nào kịch câm, nào rạp xiếc - và cả một bữa tiệc lớn với một cây thông Noel thật hoành tráng! Giờ thì chẳng còn những thứ ấy. “Không biết hai anh sẽ nói sao nhỉ?” Anne nói, nghĩ tới Julian và Dick, hai anh trai của mình. “Họ cũng không thể về nhà.” “Ừm… vậy các cậu định làm gì trong kỳ nghỉ?” George hỏi. “Có muốn về Lều Kirrin với tôi không? Tôi chắc là mẹ tôi thích gặp lại các cậu lắm. Chúng ta đã rất vui vẻ khi các cậu tới ở nhà tôi hè vừa rồi.” “Đợi một phút, để tôi đọc nốt thư xem cha nói gì,” Anne lại cầm lá thư lên. “Khổ thân mẹ, tôi rất hy vọng mẹ không yếu quá.” Nó đọc thêm vài dòng rồi reo lên sung sướng đến độ George và những đứa khác đều nóng lòng đợi nó giải thích. “George! Tụi này sẽ tới nhà cậu, nhưng ôi trời ơi, sẽ có gia sư dạy kèm trong kỳ nghỉ, phần là để trông nom tụi này cho mẹ cậu đỡ phiền, phần vì Julian và Dick bị cúm hai lần trong kỳ này và đang bị tụt lại trên lớp.” “Gia sư! Bệnh thật! Kiểu này có nghĩa là tôi cũng sẽ phải làm bài, tôi cá đấy!” George thất vọng. “Khi cha mẹ xem phiếu điểm của tôi, họ sẽ biết ngay là tôi học kém thế nào. Dù sao thì đây cũng là lần đầu tiên tôi tới một ngôi trường nghiêm chỉnh, và có hàng đống thứ tôi không biết.” “Một kỳ nghỉ khủng khiếp nếu chúng ta có một gia sư kè kè bên cạnh cả ngày,” Anne ủ rũ. “Tôi nghĩ phiếu điểm của tôi khá ổn vì tôi làm bài thi tốt, nhưng nếu không ngồi học cùng ba người thì tôi cũng chẳng vui vẻ gì. Ừm, tất nhiên tôi có thể đi chơi với Timothy, chắc thế. Cậu ấy có phải học đâu!” “Có, có đấy,” George lập tức đáp. Nó không thể nào chịu nổi cái ý tưởng chú chó Timothy yêu quý sáng nào cũng đi chơi với Anne trong khi bản thân nó, George, thì ngồi đó mà cắm đầu vào bài vở với Julian và Dick. ... Mời các bạn đón đọc Bộ Năm Lừng Danh Tập 2: Chuyến Phiêu Lưu Mới của tác giả Enid Blyton.
Qua Cơn Ác Mộng - Mario Puzo
Tác phẩm này còn có bản dịch khác tên là "Đất Khách Quê Người" của dịch giả Đặng Phi Bằng và "Đất Tiền Đất Bạc". ... Đất vàng, đất bạc, cơn ác mộng... Lucia Santa khóc vì những tội lỗi đã phạm, những tàn ác với chính người thân yêu. Bên Ý, ai cũng mong thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật, thiên tai. Nhưng ở đất này cơm gạo thôi không đủ. Người ta còn mơ đến nhiều thứ lỉnh kỉnh khác nữa! Octavia từng muốn làm cô giáo. Vinnie muốn gì nhỏ? Thực tình bà không biết. Và Gino, thằng này bất trị nhất, mơ những chuyện viển vông, hão huyền không đâu vào đâu. Bây giờ bà biết chắc Gino sẽ không bao giờ còn về nhà sau khi chiến tranh. Nó ghét mẹ nó cũng như mẹ nó ghét cha nó. Nó cũng sẽ lên đường tìm kiếm đất lạ. "Chúa ơi, hãy rủ lòng thương, hãy cho con nghe được tiếng chân nó về. Con nguyện sẽ đi lại từ đầu. Con sẽ làm kẻ hành hương vượt biển đầy sóng dữ. Sống lại cả nửa đời nhọc nhằn không một lời than van, hờn oán...". Người mẹ nhìn lại nhà cũ lần chót. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu trường u ám (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (hoàn thành bởi Carla Gino) *** Trong khi thế giới chìm đắm máu lửa, những người dân Ý ngụ cư sống dọc theo tường thành phía tây thành phố lại giàu sang trong những bàn tay đen đúa. Tiền vô như nước. Đàn ông trở nên hiếm hoi, làm không hết việc, những kẻ có con chết trận hay bị thương còn cần cù, chăm chỉ hơn mọi người khác. Buồn khổ cách mấy rồi cũng qua mau hơn cảnh nghèo vô vọng! Gia tộc Angeluzzi-Corbo tới lúc phất rồi. Họ mua một khu gia trang ở khu sang trọng ở Long Island nhờ tiền mặt bòn rút của những người sạt nghiệp vì chiến tranh. Larry, Louisa và lũ con chiếm nguyên một tầng. Như vậy Lucia Santa vẫn còn coi sóc được tất cả. Ai cũng có phòng ngủ riêng, theo lối dân nhà giàu Hoa Kỳ. Một phòng bỏ trống chờ Gino trở về sau chiến tranh. Ngày cuối cùng Lucia Santa quay mặt không muốn nhìn lũ con tháo gỡ đồ đạc trong căn nhà cũ ở chung cư. Đêm đó, nằm trơ trọi trên giường bà không sao ngủ được. Gió hú từng cơn bên ngoài. Ánh đèn đường vàng vọt nhuộm vẻ buồn thảm. Trong nhà có nhiều tiếng động kỳ lạ như hồn ma cũ đang khua rộn. Nhìn mãi trần nhà, sau cùng Lucia Santa thiếp ngủ. Trong giấc mơ bà lắng nghe tiếng Gino và Vincenzo lên giường; tiếng Frank Corbo lần mò trong bóng tối. Thằng Lorenzo lại đi đâu rồi nhỉ? Bà bảo đứa con gái Octavia còn nhỏ síu, đừng sợ con, không ai làm gì các con của má được... Thực tình bà có bao giờ muốn làm kẻ tha phương cầu thực qua biển đầy sóng gió. Lucia Santa choàng tỉnh trong gian phòng lạnh lẽo. Bà trở dậy, mang chiếc gối ra để trên thành cửa, tựa tay ngồi nhìn xuống Đại lộ Thứ Mười, ngong ngóng chờ sáng. Lần đầu tiên từ bao nhiêu năm qua bà nghe thấy tiếng máy tàu, tiếng những toa hàng hóa nghiên trên đường sắt bên kia phố, tàu lửa bay tứ tung như hoa cải thật đẹp. Xa hơn trên bãi biển New Jersey chẳng có đèn đuốc gì vì biện pháp tiết kiệm điện thời chiến, chỉ có ánh sáng yếu ớt của những ngôi sao. Buổi sáng trong khi chờ đợi xe vận tải tới. Lucia Santa tiếp xóm giềng tới chúc may mắn. Nhưng không còn người bạn cố tri nào. Họ đã rời khỏi Đại lộ Thứ Mười hết. Ông chủ lò bánh đã bán cửa tiệm khi thằng Guido đi quân dịch xong, trở về thành phố. Buồn tình, ông đi thật xa, tận West Islip lận. Lão hớt tóc cũng bỏ nghề luôn, thời chiến tranh đàn ông khan hiếm, về nhà chỉ thấy một bầy con gái nhố nhăng, thiệt rầu! Nghe đâu ông ta cũng bỏ đi tới thị trấn Massapequa cũng gần chỗ ông chủ lò bánh. Chủ nhật nào hai bạn già cũng chén chú chén anh, đến say khướt. Những người khác cũng cuốn gói bỏ đi khỏi khu nghèo nàn này, kiếm căn nhà có vườn có sân... Cha đốc tờ Barbato mới thiệt lạ! Không ai ngờ hắn tình nguyện nhập ngũ, phục vụ bên Phi châu. Mới đây báo chí đã đăng hình ông ta huy chương đầy ngực. Ông già bố Barbato đọc đến chiến công rởn gai óc của con đâm nóng lạnh suýt đi tàu suốt luôn. Tội nghiệp Teresina Coccalitti không bao giờ mò ra khỏi nhà, cứ quanh quấn bên những lon sữa, lon dầu, nghĩ rằng một ngày nào đó đợi những đứa con sẽ đội mồ sống dậy. Bạn của Gino, thằng Joey Bianco trốn quân dịch, giờ đây đã giàu sụ. Nó mua cho cha mẹ một lâu đài thiệt hách ở New Jersey. Vậy cũng là tới lúc gia đình Angeluzzi Corbo rời khỏi nơi này. * * * * * Sau cùng Piero Santigi đưa những xe vận tải tới. Thời chiến dịch vụ trở nên mắc mỏ, bữa nay Santini tới vì muốn chơi đẹp với người đồng hương mà thôi. Tuy phải hy sinh một chút nhưng cũng vui vui. Lucia Santa để ra một bên bình cà phê và mấy chiếc ly. Bà đãi Santini cà phê. Cả hai vừa uống vừa đứng ngó xuống. Octavia, Sal và Lena mang những gói đồ nhẹ, còn hai công nhân Ý lực lưỡng thở phì phò như trâu, còng lưng khuân bàn ghế, giường tủ xuống thang. Sau một lát, căn nhà dọn dẹp sạch bách chỉ còn mấy chiếc ghế cũ trong bếp, được bỏ lại. Lúc đó Louisa và ba con mới vào chờ cùng đi ba đứa nhỏ chạy nhảy nghịch ngợm như quỷ. Phút lên đường. Đi trước là chiếc xe bóng lộn của ông Trùm Di Lucca, bây giờ là của Larry. Octavia và Louisa kéo mấy đứa trẻ xuống thang. Octavia bảo mẹ : - Chúng ta đi má. ... Mời các bạn đón đọc Qua Cơn Ác Mộng của tác giả Mario Puzo.