Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút

Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Công Viên Trung Tâm - Guillaume Musso
Với “Central Park”, Guillaume Musso tạo nên một cuộc gặp giữa hai kẻ xa lạ. Ông đưa người đọc đến xúc cảm mãnh liệt nhất, mà chúng ta có thể cảm nhận được màn đấu trí căng thẳng. Một sớm mai thức dậy, Alice Schäfer- nữ cảnh sát thuộc đội hình sự Paris, bỗng phát hiện ra mình đang ở trong một khu rừng, tay bị còng vào tay người đàn ông lạ mặt. Cổ áo sơ mi cô đang mặc có một vết máu lạ, khẩu súng hiệu Sig Sauer quen thuộc biến mất, thay vào đó là một khẩu Glock 22. Sau khi Gabriel Keyne - người bị còng chung với cô, đồng thời là một nghệ sĩ dương cầm nhạc jazz tỉnh lại, Alice mới biết một sự thật đáng kinh ngạc: cô không ở Pháp, mà đang ở New York, cách Paris 8 giờ bay. Làm sao cả hai con người xa lạ ấy có mặt ở Central Park? Khi một người quả quyết rằng tối qua mình đã đến đại lộ Champs- Elysées để tiệc tùng cùng các cô bạn gái. Còn người kia chắc chắn rằng tối qua mình chơi nhạc tại một quán bar ở Dublin. Không tiền, không điện thoại di động, tất cả các giấy tờ tùy thân đều mất sạch; hai con người xa lạ ấy đang bị đặt vào một tình thế hết sức nguy hiểm và họ chỉ còn một cách duy nhất là bắt tay hợp tác với nhau. Manh mối mà họ có chỉ là một dãy số nguệch ngoạc được viết trên bàn tay của Alice và một dãy số được khắc trên cánh tay Gabriel. Họ cảm thấy nguy hiểm hơn khi phát hiện có ai đó đã bí mật gắn thiết bị định vị GPS trong giày và áo khoác của mình. Những manh mối dần dần được lật mở, tất cả chúng khiến Alice nghĩ đến một cái tên: Erik Vaughn. Hắn là một tên giết người nguy hiểm, kẻ đã gây ra hàng loạt vụ giết người ở Paris cách đây 3 năm. Nhưng kẻ gây ra tất cả mọi chuyện liệu có phải là tên Erik Vaughn? Và liệu anh chàng Gabriel kia có thực sự đáng tin? Dù sao Alice cũng phải hợp tác với anh ta vì đó là lựa chọn duy nhất của cô. Càng điều tra, những bí mật khủng khiếp nhất dần được hé lộ. Đâu mới thực sự là kẻ thù mà Alice phải chống lại? Central Park là sự kết hợp tài tình giữa một một cuốn tiểu thuyết trinh thám nghẹt thở và một câu chuyện lãng mạn. Việc sắp xếp các tình huống một cách hợp lý, có lớp lang đã giúp tác phẩm có những “nút thắt” bất ngờ, hấp dẫn người đọc. Tác giả khéo léo đan cài giữa quá khứ và hiện tại tạo nên một không gian đa chiều, giàu chất điện ảnh cho tác phẩm. Đọc tiểu thuyết của Guillaume Musso, khiến người đọc liên tưởng đến những bọ phim trinh thám kinh điển của đạo diễn thiên tài Alfred Hichcock như: Dial M for Murder, Rear Window hay Spycho. *** Guillaume Musso, sinh năm 1974 tại Antibes (miền Đông nước Pháp), hiện đang là giáo viên chuyên ngành kinh tế. Say mê văn học từ thuở nhỏ, anh bắt tay vào viết văn khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học. Văn chương của Guillaume Musso được ví như sự kết hợp hoàn hảo giữa Marc Levy và Stephen King, đậm màu sắc liêu trai, hấp dẫn, bất ngờ và lãng mạn mê đắm, tiệm cận chiều sâu tâm hồn mỗi con người.   Những tác phẩm tiêu biểu của Guillaume Musso là: Skidamarink, Rồi sau đó…, Hãy Cứu Em, Hẹn Em Ngày Đó, Bởi Vì Yêu. Bảy Năm Sau Ngày Mai Nếu Đời Anh Vắng Em Cô Gái Trong Trang Sách Trở Lại Tìm Nhau Cuộc Gọi Từ Thiên Thần Giây Phút Này Central Park ... Tác phẩm của Gaulliaume Musso đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và một số đang được dựng phim. Guillaume Musso được xem là hiện tượng best-seller của văn chương Pháp hiện tại. *** -      Khốn kiếp! Gabriel kêu lên thảng thốt, trong khi gương mặt Alice lộ rõ vẻ kinh ngạc. Ngay cả khi sự thật khó mà chấp nhận nổi thì lúc này cũng không còn nghi ngờ gì nữa. Họ đã thức giấc ngay giữa "Chốn ngao du", địa điểm hoang dã nhất của Central Park. Một khu rừng đích thực rộng mười lăm héc ta trải rộng đến phía Bắc hồ. Tim họ hòa chung nhịp đập, nện thình thịch trong lồng ngực. Trong lúc tiến lại gần bờ hồ, họ bước trên một lối đi náo nhiệt, điển hình cho không khí sôi động của công viên vào đầu giờ sáng. Những tín đồ chạy bộ thể dục hòa hợp với những người đạp xe, những môn đồ của Thái Cực Quyền và những người dắt chó đi dạo. Thế giới âm thanh đặc trưng của thành phố dường như đột nhiên bùng nổ bên tai họ: tiếng xe cộ qua lại ồn ã, tiếng còi xe, tiếng còi hụ của xe cứu hỏa và xe cảnh sát. -      Điên thật rồi, Alice khẽ thốt lên. Cảm thấy bất ổn, cô cố gắng suy nghĩ. Cô muốn chấp nhận rằng tối qua cả Gabriel lẫn cô đều đã quá chén, đến mức quên mất đêm qua đã diễn ra những sự việc gì. Nhưng riêng chuyện người ta có thể cưỡng ép đưa họ lên máy bay thì thật khó hình dung. Alice thường tới New York nghỉ hè cùng Seymour, đồng nghiệp và cũng là bạn thân nhất của cô. Cô biết một chuyến bay Paris-New York kéo dài hơn tám tiếng một chút, nhưng vì chênh lệch múi giờ, nên hai nơi chỉ cách nhau hai tiếng. Khi họ bay cùng nhau, Seymour thường đặt chỗ trên chuyến bay 8 giờ 30 tại sân bay Charles-de-Gaulle, hạ cánh tại New York lúc 10 giờ 30. Cô cũng nhớ rằng chuyến bay đường dài muộn nhất thường rời Paris trước 20 giờ một lúc. Thế mà tối qua lúc 20 giờ, cô vẫn còn ở Paris. Vậy thì Gabriel và cô hẳn đã bay một chuyến bằng máy bay riêng. Cứ cho là người ta đã đưa cô lên một chiếc máy bay lúc 2 giờ sáng tại Paris, cô sẽ tới New York lúc 4 giờ, giờ địa phương. Đủ để thức dậy tại Central Park lúc 8 giờ. Xét về mặt giấy tờ, điều này không thể xảy ra. Trên thực tế lại là một chuyện khác. Ngay cả trên một chuyến bay riêng thì những thủ tục hành chính để nhập cảnh vào Mỹ cũng lâu và phức tạp. Toàn bộ chuyện này tuyệt nhiên không ăn khớp. -      Oups, sorry! Một nam thanh niên đi giày trượt pa tanh vừa xô phải họ. Vừa xin lỗi, anh chàng vừa liếc về phía cặp còng với ánh mắt sững sờ xen lẫn ngờ vực. Tâm trí Alice bùng lên một tín hiệu báo động. -      Chúng ta không thể ở lại đây, bất động trước mắt những kẻ hiếu kỳ được, cô cảnh báo. Chưa đầy một phút nữa cảnh sát sẽ xô tới bắt chúng ta. -      Cô có ý tưởng gì chăng? -      Cầm lấy tay tôi, nhanh nào! -      Hả? ... Mời các bạn đón đọc Công Viên Trung Tâm của tác giả Guillaume Musso.
Kẻ Giết Người Được Giải Goncourt - Pierre Gamarra
“Minh bạch - đó là sự lịch thiệp của nhà văn.” - Jules Renard "Kẻ giết người được giải Goncourt" của nhà thơ, nhà văn Pierre Gamarra là quyển sách lạ ở thể loại trinh thám, không anh hùng hiệp sĩ, không kinh điển hào nhoáng… nhẹ nhàng mà kịch tính. Một thành viên trong ban giám khảo giải thưởng văn học Goncourt đã nhận được 1 bản "Sự im lặng của Harpocrate" (Harpocrate - Thần Im Lặng). Tác phẩm được đánh máy và ký tên Paul Doubois ở dưới. Tác phẩm đoạt giải mà tác giả lại không xuất hiện tại buổi lễ. Ban giám khảo hàn lâm viện Pháp bị đưa vào tình thế khó xử, cánh báo chí thì bắt đầu giơ nanh vuốt ra. "Sự im lặng của Harpocrate" là một cuốn tiểu thuyết vượt hẳn tất cả những gì mà người ta có thể tưởng tượng được, ban giám khảo nói rằng đấy là một tuyệt tác và quyển sách đã gây cho họ một ấn tượng đặc biệt. Ở trên một trong những đường phố nhỏ mà thường là im ắng và vắng lặng có một người buôn sách cũ tên là Muet bị giết. Ông ta bị giết bởi ba phát súng lục. Tội ác do tác giả, nghĩa là kẻ đã kể lại chuyện này thực hiện. Nguyên nhân là sự căm ghét không thể giải thích được. Đó là nội dung cơ bản của cuốn tiểu thuyết. Gần 220 trang sách được dành cho việc giải thích rõ nguyên nhân thúc đẩy tác giả - kẻ giết người - gây tội lỗi. Tác giả đã giải thích rõ cái gì đã đẩy anh ta tới lòng thù hận như vậy. Nếu như một người đam mê đến mức mất cả lý trí và bản năng bảo tồn thì người đó có thể đi đến tội lỗi. Và tên giết người cũng xảy ra đúng như vậy. Hắn ta muốn đạt được vinh quang văn học, muốn cho tên mình xuất hiện trên tất cả các báo để tất cả phải ghen tỵ kêu lên khi gặp mình… Nhưng cho tới nay hắn ta hoàn toàn không gặp may. Cứ mỗi năm lại thêm một người đoạt giải còn hắn ta thì bị bỏ qua. Cuối cùng thì hắn ta phát điên lên và lập một kế hoạch thật kỹ lưỡng nhằm đoạt giải. Và kế hoạch đó suy tính một vụ giết người không tang chứng. Nguyên nhân thúc đẩy là giành cho được giải thưởng văn học Goncourt danh giá trong một hoàn cảnh thật không bình thường… trong sự huyên náo của báo chí… Ngoài ra còn là khát vọng không thể chối cãi được nhằm thách thức ban giám khảo và dư luận xã hội: Một khi các ngài không muốn trao vòng nguyệt quế mà tôi đã nhiều lần xứng đáng được hưởng, các ngài đã giành cho tôi cái vị trí xoàng xĩnh của một nhà văn không ai biết tới… Được rồi, tôi sẽ cho các ngài biết khả năng của tôi như thế nào, tôi sẽ chơi cho các ngài một vố đau… Tên giết người là một kẻ có đầu óc. Đầu tiên hắn ta phác thảo kế hoạch hành động chung: mô tả vụ giết người, trang điểm chuyện đó bằng những lý luận bên ngoài về văn chương, về tâm lý và phản triết học rồi sau đó thì thực hiện nó, thực hiện chính cái vụ giết người đã được vạch ra từ trước theo đúng nghĩa của từ đó. Một tội ác chỉ vì vinh quang văn học. Về bản chất, nó khá tiêu biểu cho thời đại của chúng ta… *** Pierre Gamarra (1919-2009) Nhà giáo ,nhà văn, nhà thơ kiêm phê bình văn học Pháp sinh tại Toulouse , gốc Basque. Ông từng làm chủ nhiệm tờ tạp chí Châu Âu ( Europe ). Ông đặc biệt nổi tiếng với thơ và truyện viết cho trẻ em. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông có như: “Sát nhân” (L’assasin) – 1963 đoạt giải Goncourt; “Những bí mật ở Toulouse” (Les mistères de Toulouse ) – 1967; “Hoa tử đinh hương ở Saint-Lazare” (Les lilas de Saint-Lazare) – 1951 v.v… *** Và thấy trời hửng sáng, nàng Shêhêrêdađa ngừng câu chuyện của mình... Nghìn lẻ một đêm Mấy bức tường trong phòng làm việc khá chật hẹp của Simonie xếp dày sách. Giống như Montaigne, Gaston Simonie gọi phòng làm việc của mình là cửa hàng sách. Một sự bừa bãi kinh khủng trên các giá sách. Như chính ông chủ nói, chỉ mình ông ta mới có thể biết rõ chúng. Những cuốn sách cực kỳ sang trọng đặt xen lẫn với những cuốn sách nhỏ, những cuốn sách đóng bìa đắt tiền phô trương cạnh những cái gáy sờn rách mà các trang sách thì đã cuộn xoắn tít bẩn thỉu. Trên mặt lò sưởi cũng để mấy chồng sách. Bàn làm việc chất đầy tạp chí, hàng chồng giấy viết chi chít và hàng núi sách khác. Khắp nơi đầy những đồ vặt vãnh: mấy con thú bé xíu bằng thủy tinh, bằng sành sứ, bằng thiếc. Đó là một thú vui của Simonie. Mỗi tuần một lần, và đôi khi còn thường xuyên hơn, mà mọi người đều biết rõ chuyện ấy, ông ta sục sao khắp các cửa hiệu buôn đồ cổ để tìm những đồ mới lạ khác. Đó là những con khỉ hẳng ngà voi, mấy ông Phật mấy pho tượng người hút thuốc nhỏ xíu hay là lại một cục chặn giấy khác nữa. Vào tối hôm đó có rất nhiều khách có mặt ở phòng làm việc của Simonie. Đó là một hiện tượng cực kỳ đặc biệt. Thường thường Simonie không cho phép ai vào phòng làm việc của mình, thậm chí cả bà quét dọn nữa và không bao giờ ông ta tiếp ai ở đây cả. Hiện giờ trong phòng làm việc có mặt Joseph Robenne, dĩ nhiên cả Max Bary, Tổng biên tập "Paris-Nouvelles", Rosie Sauvage, d’Arjean, Simonie, nhà văn Vollar, một chàng trai nhỏ con, đậm người với vẻ mặt chua chát và thêm hai viên thanh tra cảnh sát đã đến đây vì lý do đặc biệt. Joseph quay về phía Tên giết người. Hắn ta ngồi đó đầu gục xuống. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Được Giải Goncourt của tác giả Pierre Gamarra.
Giai Điệu Dưới Tầng Hầm - John Trinian
Giai Điệu Dưới Tầng Hầm mô tả một vụ tổ chức cướp sòng bạc được thực hiện ly kỳ và đầy nhân tính. Hai vai chính trong truyện là hai con người gần như hoàn toàn trái ngược nhau: Karl Heisler, người chủ mưu vụ cướp, gần suốt cả một đời vào tù ra khám và khi mãn hạn lần cuối thì đã năm mươi lăm tuổi với đôi bàn tay trắng. Yêu người vợ chung thủy già hơn tuổi vì quá nghèo khổ, thương đứa con trai độc nhất bị suy dinh dưỡng vì không đủ ăn, ông chỉ còn mơ ước thực hiện một vố thật lớn rồi giải nghệ để làm lại cuộc đời. Leeon Bertuzzi, chủ nhân sòng bạc, suốt hai mươi lăm năm phục vụ đắc lực cho "Nghiệp đoàn" không một lần sai sót để rồi bị cấp trên dùng một tay phụ tá trẻ loại trừ dần, tên này ngang nhiên cướp đoạt cả người vợ mà ông ta yêu hơn bất cứ gì trên đời, khiến ông ta chỉ còn cách âm mưu hạ sát kẻ thù, dù sau đó phải trả giá bằng cái chết... John Trinian sẽ dẫn dắt người đọc một cách say sưa từ khởi đầu cho đến kết thúc bằng một câu chuyện với những tình tiết đột biến, những cảnh tượng kỳ lạ, những cảm thương bàng bạc gần như không thấy rõ nhưng vẫn khiến cho ta xúc động. Xúc động cho những kiếp người khốn cùng trong một xã hội mà đồng tiền quyết định tất cả, do đó ngay cả những kẻ xấu cũng có vài nét đáng yêu, cũng vẫn là "người *** Mặc dù bị lên án, tệ nạn cờ bạc vẫn còn hoành hành nhiều nơi trên thế giới. Thậm chí, trong nhiều quốc gia phương Tây, tệ nạn này được đưa lên ngang hàng với nhiều ngành kinh tế khác: các sòng bạc được phép hoạt động công khai; và lẽ tất nhiên tất cả đều gian lận trong việc khai nạp thuế cho nhà nước. Do đó, ngoài tác hại khủng khiếp là khiến cho nhiều kẻ tán gia bại sản, nhiều con người đáng kính phải thân bại danh liệt, chúng còn làm băng hoại xã hội về nhiều mặt khác ở mức độ nghiêm trọng hơn. Để thỏa mãn lòng tham vô đáy và bảo vệ đồng tiền phi pháp đó, những tên chủ sòng bạc đã mua chuộc đủ các cấp của chính quyền địa phương và thành lập “Nghiệp đoàn” có uy lực bao trùm toàn quốc. “Tổng hành dinh” đặt tại các đô thị lớn như Las Vegas, một cái tên trên nước Mỹ mà có lẽ không một người nào không biết. Bất cứ một thành viên nào chống lại “Nghiệp đoàn” đều bị thanh toán một cách tàn nhẫn. Từ đó nảy sinh những tên côn đồ bảo vệ cho tổ chức này và nhiều tổ chức khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp như cho vay tiền lấy lãi thật nặng, hành nghề mãi dâm, v.v ... Về mặt nghiệp vụ cụ thể, các vần đề cất giữ tiền, vận chuyển tiền đã có nhiều phương pháp tinh vi, tài tình, tưởng chừng như tuyệt đối an toàn. So với các vấn đề tương tự trong ngành ngân hàng, ở đây còn khó khăn gấp bội vì tất cả đều phải tự thực hiện, mà không thể nhờ cơ quan cảnh sát giúp đỡ. Tuy nhiên, trên cõi đời này, đã có “vỏ quýt dày” tất có “móng tay nhọn”. Những con người thông minh, khi gặp những khó khăn “dường như” không thể vượt qua được, lại nổi máu phiêu lưu, quyết tâm thử trò chơi “trứng chọi đá”. GIAI ĐIỆU DƯỚI TẦNG HẦM mô tả một vụ tổ chức cướp sòng bạc được thực hiện ly kỳ và đầy nhân tính. Hai vai chính trong truyện là hai con người gần như hoàn toàn trái ngược nhau: Karl Heisler, người chủ mưu vụ cướp, gần suốt cả một đời vào tù ra khám và khi mãn hạn lần cuối thì đã năm mươi lăm tuổi với đôi bàn tay trắng. Yêu người vợ chung thủy già hơn tuổi vì quá nghèo khổ, thương đứa con độc nhất bị suy dinh dưỡng vì không đủ ăn, ông chỉ còn mơ ước thực hiện một vố thật lớn rồi giải nghệ để làm lại cuộc đời. Léon Bertuzzi, chủ nhân sòng bạc, suốt hai mươi lăm năm phục vụ đắc lực cho “Nghiệp đoàn” không một lần sai sót để rồi bị cấp trên dùng một tay phụ tá trẻ loại trừ dần, tên này ngang nhiên cướp đoạt cả người vợ mà ông ta yêu hơn bất cứ gì trên đời, khiến ông ta chỉ còn cách âm mưu hạ sát kẻ thù, dù sau đó phải trả giá bằng cái chết ... JOHN TRINIAN sẽ dẫn dắt người đọc một cách say sưa từ khởi đầu cho đến kết thúc bằng một câu chuyện với những tình tiết đột biến, những cảnh tượng kỳ lạ, những cảm thương bàng bạc gần như không thấy rõ nhưng vẫn khiến cho ta xúc động. Xúc động cho những kiếp người khốn cùng trong một xã hội mà đồng tiền quyết định tất cả, do đó ngay cả những kẻ xấu cũng có vài nét đáng yêu, cũng vẫn là “người”. Có lẽ chính vì vậy, một hãng phim liên doanh Pháp – Ý đã “phóng tác” câu chuyện này để quay thành một phim đặc sắc với hai bàn tài tử điện ảnh lừng danh thế giới của Pháp là JEAN GABIN và ALAN DELON với tựa đề khác với nguyên tác, mà người dịch đã lấy làm tên cho cuốn tiểu thuyết này. Cuốn phim đã được giới thiệu rộng rãi ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Saigon, v.v ... Trong “Những Ngày Phim Các Nước Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu (EEC)”. Trng quý 4 năm 1988. Chúng tôi đã dùng từ “phóng tác” bởi lẽ, vì một lý do nào đó, nhà làm phim đã hầu như thay đổi toàn bộ các đặc điểm chủ yếu của câu chuyện, thậm chí thay đổi hẳn cách kết thúc. Nhưng chính nhờ vậy, bạn đọc nào đã từng xem cuốn phim nói trên vẫn hoàn toàn thích thú khi được đọc cuốn sách này, nhất là được thưởng thức một niềm vui mới lạ: so sánh giá trị của điện ảnh và văn học trong cùng một tác phẩm. Ngày 09 - 05 - 2003. BỒ GIANG N.N.T Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Dưới Tầng Hầm của tác giả John Trinian.
Điệp Viên Ở Washington - Peter Maas
Cuốn sách này kể về toàn bộ những hoạt động của Aldrich Ames kể từ khi bắt đầu quyết định cộng tác với tình báo Liên Xô, năm 1985, cho tới khi bị FBI theo vết và bắt giữ rồi đưa ra tòa án xét xử trong năm 1994. Một điệp vụ điển hình của thời kỳ chiến tranh lạnh. Bắt đầu từ những năm cuối của cuộc chiến tranh lạnh và kéo dài trong cả thời kỳ sau khi chiến tranh lạnh đã kết thúc, điệp vụ chuyển giao những thông tin mật cho phía KGB của Aldrich Ames có một tác động lâu dài đến cộng đồng tình báo Mỹ cả sau khi Aldrich Ames đã bị bắt. Sẽ còn rất lâu nữa, CIA mới có thể đánh giá được những thiệt hại mà cơ quan tình báo sừng sỏ của Mỹ phải chịu trong điệp vụ này. Mà cũng có thể là CIA sẽ chẳng bao giờ có thể lượng định được một cách chính xác những thiệt hại đó. Hoạt động tình báo, phản gián vốn là thế giới của những điều “có thể” và “không thể”! *** Trong những buổi thẩm vấn tiếp theo, khi được hỏi về vấn đề tài chính, Rosario bỗng bất thần nổi đoá. “Sao các ông cứ hỏi tôi mãi về tiền nong thế! Lúc nào các ông cũng chỉ quan tâm đến tiền? Các ông lại còn hỏi khi nào thì tôi biết Rick có nhiều tiền? Vì sao các ông cứ hỏi tôi mãi chuyện ấy? Không phải tôi có vấn đề về tiền nong mà chính lũ người Mỹ các ông mới bị ám ảnh về chuyện đó. Ở Bogotá, chúng tôi không bao giờ hỏi một người xem anh ta kiếm tiền bằng cách nào.” Điệp viên Đanielle Linden, người tham gia hầu hết các cuộc thẩm vấn Rosario, đồng ý rằng nếu ở Bơgotá mà hỏi một người xem anh ta kiếm tiền ở đâu thì có nhiều khả năng người hỏi sẽ bị ăn đạn? Rosario khai vào thời gian họ cưới nhau, Rick đã không nói ngay cho cô ta biết về khoản đầu tư liên quan đến “người bạn Robert ở Chicago”, lý do dẫn đến nguồn tiền ào ạt đổ vào tài khoản của hai người. Rosario nói thời kỳ hai người ở Mexico City, cô ta có cảm tưởng rằng Rick không bao giờ phảl lơ lắng về vấn đề tiền bạc. Sự túng bấn chỉ xuất hiện khi cô ta về sống ở Washington mà nguyên nhân là vì Rick phải chi phí nhiều cho vụ ly dị của mình. Và rồi đến thời kỳ Rick đi công tác ở Roma, khi những tài khoản ở ngân hàng Thuỵ S xuất hiện thì anh bạn “Robert” này mới được viện dẫn ra như là lý do cho những nguồn tiền bất ngờ đó. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Ở Washington của tác giả Peter Maas.