Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Thay Thế H23

Câu chuyện miêu tả việc CIA muốn đầu độc ,sát hại ,ám sát Fidel Castro nhưng ko thành .Kèm theo đó là sự tài giỏi những điệp viên Cuba trong “Người Thay Thế H23                 Người dịch : Đức Thuần – Hoàng Lan                 dịch từ bản tiếng Nga, Nhà xuất bản Quân sự, Bộ Quốc  Phòng Liên Xô, M., 1982         - Tác giả : Đ.  L. I – BA – NHÉC         - Nhà xuất bản : Quân đội nhân dân         - Năm xuất bản : 1985 *** Người thay thế H.23 ca ngợi tinh thần quả cảm,tài lược mưu trí của lực lượng an ninh Cu-Ba,tinh thần cảnh giác cách mạng cao của nhân dân đập tan các âm mưu phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế,bảo vệ vững chắc Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên lục địa Châu Mỹ. ***   Chiếc đồng hồ treo tường trong phòng tác chiến Phân cục Tình báo trung ương Mỹ ở Mai-a-mi thong thả điểm sáu tiếng. Đã chạng vạng tối. Mai-cơ, người chỉ đạo trực tiếp chiến dịch sắp được mở màn sau mười lăm phút nữa, giơ tay ấn nút chuông điện và cất cao giọng Tây Ban Nha khá sõi:         - Mời vào!         Một gã đàn ông cao lớn, to khoẻ nước da màu đồng hun hiện ra trước ngưỡng cửa. Bộ âu phục ghi sẫm, lịch sự đã tôn thêm dáng vẻ gã lên. Giơ tay nhấc nhẹ chiếc mũ phớt mốt nhất trên đầu và thong thả gỡ cặp kính đen khỏi mắt, gã nói nhỏ nhẹ:         - Chào ngài.         - Ngồi xuống đây, Rô-béc-tô,- Mai-cơ nói với người vừa vào phòng.         - Cám ơn ngài.         - Anh đã hiểu rõ nhiệm vụ của anh có ý nghĩa lớn thế nào chứ?         - Vâng, tôi hiểu rõ cả.         - Thời gian gần đây công việc của chúng ta không được trôi chảy cho lắm. Phần lớn những người của ta tung sang Cuba, bằng cách này hay cách khác đều bị cơ quan an ninh Cuba lần lượt cho vào tròng hết. Hoặc người của ta vừa mới hành động đã bị chúng bắt ngay, hoặc cũng có kẻ tự ra đầu thú với bọn an ninh Cuba.         Vừa nghe Mai-cơ nói, Rô-béc-tô vừa thong thả hút xì gà và ngắm nhìn những vòng tròn khói thuốc đang loang toả lên cao.         - Anh cần hỏi thêm điều gì nữa không? – Mai-cơ hỏi.         - Có ạ, tôi chỉ muốn hỏi một câu nữa thôi. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tôi sẽ trở về bằng cách nào?         Thay vì câu trả lời, Mai-cơ nhếch mép.         - Chỉ có mình Đ-45 là biết rõ nhiệm vụ cụ thể của anh ở Cuba. Ngay khi đến nơi anh cần gọi ngay số điện thoại này báo cho Đ-45 hay tin. - Rô-béc-tô liếc nhìn mảnh giấy Mai-cơ vừa chìa ra trước mặt và dễ dàng nhớ ngay các con số, sau đấy Mai-cơ đốt luôn mảnh giấy nhỏ.         - Như vậy là rất tốt, - Rô-béc-tô nói – nhưng ngài vẫn chưa trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi.         Nheo đôi mắt vẻ không hài lòng, Mai-cơ đáp:         - Đ-45 sẽ chịu trách nhiệm đưa anh rời khỏi đất Cuba, nhưng anh cần phải nhớ một điều quan trọng: Sau khi gọi dây nói báo cáo cho ông ta biết anh đã đến Cuba an toàn thì phải quên ngay ông ta ta đi. Đó chính là sự đảm bảo cho anh hoàn thành nhiệm vụ thắng lợi và mặt khác, đấy cũng chính là đảm bảo cho việc anh trở về nữa.         Mai-cơ giơ tay xem đồng hồ.         - Anh còn ý kiến gì nữa không?         - Hết rồi ạ.         Mai-cơ bước lại gần bàn giấy và bắt chặt tay con người đang đứng trước mặt mình. Nhìn thẳng vào mắt Rô-béc-tô, ông ta nói khẽ:         - Từ giờ phút này trở đi, anh sẽ lấy bí số là Đ-54. Đêm nay anh sẽ trở về đất Cuba. Chúc anh hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao!         - Cám ơn ngài!         Rô-béc-tô cúi đầu và bước ra khỏi phòng.         Đến cổng, gã lặng lẽ ngồi vào chiếc xe đã chờ sẵn và đưa mắt nhìn bãi trống đằng trước, hút tiếp điếu xì gà, nghĩ thầm:         - Giờ định mệnh đã đến!         Trong lúc đó từ cửa sổ phòng mình, Mai-cơ quan sát từng cử chỉ của Rô-béc-tô. Khi chiếc xe vừa rú ga lao đi, ông ta liền ấn nút máy bộ đàm, hạ lệnh:         - Hãy theo dõi hắn.         Suốt nửa giờ liên, Mai-cơ chăm chú xem xét tập tài liệu đặt trên bàn. Ông ta đặc biệt chú ý đến tập hồ sơ riêng của con người vừa mới rời khỏi phòng. Một hồi chuông điện thoại bất ngờ đổ dồn.         - Tôi nghe đây. Vâng, chính Mai-cơ đây… Được. Hẹn gặp lại nhé.         Cuộc nói chuyện trong điện thoại chỉ diễn ra gần một phút nhưng cũng đủ làm cho Mai-cơ xúc động mạnh. Đặt ống nghe xuống, ông ta đứng dậy và im lặng hồi lâu nhìn vào khoảng không xa xăm, mờ ảo. Bên tai Mai-cơ hình như vẫn còn vẳng lại giọng báo cáo của điện báo viên: “”Những bông hoa Ngài đặt sẵn sẽ được gửi theo địa chỉ số 24””. Điều đo có nghĩa là đêm nay điệp viên F-1 sẽ đổ bộ lên Cuba.         Ngả lưng xuống chiếc ghế bành, Mai-cơ quay số điện thoại:         - Trực ban hả?         - Vâng.         - Cho tôi nói chuyện với tiến sĩ.         - Ngài là ai đấy ạ?         - Mai-cơ đây.         - Xin ngài vui lòng chờ một phút.         Mới vài giây trôi qua, Mai-cơ đã cảm thấy nóng ruột. Cuối cùng trong ống nghe vang lên:         - Mọi việc tốt đẹp cả chứ, ông Mai-cơ?         - Hoàn hảo cả, thưa sếp. Một ngày nữa tôi sẽ chuẩn bị bay đi…         - Còn một vấn đề này, ông Mai-cơ ạ. Không có gì khó khăn phiền nhiễu với mấy tấm hộ chiếu ấy chứ?         - Không đâu ạ, thưa sếp.         - Thôi được rồi, vậy hãy hành động đi.         - Tôi sẽ gửi về biếu ngài chai rượu rum “ca nhây”. Xin chào ngài.         Mai-cơ đặt ống nghe xuống.         Ông ta xếp cẩn thận các tập tài liệu vào tủ sắt, mà mỗi ngăn đều có khoá riêng và dấu niêm phong đặc biệt. Sau khi đã kiểm tra lần cuối và đánh dấu riêng cho từng loại, Mai-cơ tắt đèn, bước ra khỏi phòng.         Trên đường ra xe, Mai-cơ thầm nghĩ: “Mọi việc đều đúng với dự tính. Cứ thể xem vận may của chuyến du lịch đang đợi ta ở Cuba sẽ ra sao. Đây không phải là lần đầu và ta cảm thấy cũng chưa phải là lần cuối”.         Thấy Tiến sĩ để nhẹ máy điện thoại lên bàn, người hầu phòng bước lại bàn và hỏi:         - Ngài dùng rượu trước khi về?         - Đúng đấy, anh Ha-xin-tô. Rót ra ly đi!... Khoan đã, loại Rum “Ca-nhây” uống ngon lắm hả?         Ha-xin-tô chăm chú nhìn Tiến sĩ rồi chậm rãi đáp:         - Lúc tôi rời Cuba, thưa ngài, tôi thường uống “Bác-ca-di” nhưng tôi được biết bọn cộng sản dự định đổi tên rượu “Bác-ca-di”. Hiên nay “Ca-nhây” có hai loại nhãn – vàng và trắng. Người ta nói nó cũng khá lắm.         - Cám ơn Ha-xin-tô. Một người bạn định mang về cho tôi chai “ca-nhây”, bởi thế tôi mới phải anh thêm vấn đề này.         Cùng thời gian đó tại một điểm đối diện với cảng La Ha-ba-na cách bờ hai mươi hải lý trên một chiếc tàu thuỷ đã tắt động cơ, lần lượt có hai người nhảy sang chiếc xuồng máy có tốc độ nhanh mang ký hiệu “U-20” bên mạn thành.         Một thanh niên trạc ba nhăm tuổi, dáng cao, nhưng tóc đã điểm bạc ngồi ở đầu mũi. Gã mặc chiếc quần bò, áo sơ mi kẻ sọc, ngoài khoác thêm chiếc Blu-dông đen, đôi mắt nhíu lại chăm chú nhìn dải bờ xa xa đang tiến dần lại. Bóng tối và sự yên tĩnh bao phủ xung quanh. Chiếc xuồng máy tắt động cơ và giờ đây chỉ còn nghe tiếng sóng oàm oạp vỗ nhẹ vào hai bên mạn.         Người thanh niên nhìn đồng hồ. Mười hai giờ kém mười lăm. Máy nổ lại từ từ vang lên, chiếc xuồng máy lao lên và khoảng năm phút sau đã trườn đến phần bắc hòn đảo nhỏ.         Nhảy nhẹ lên bờ, tay lăm lăm khẩu súng ngắn nhỏ, gã ẩn mình sau những tảng đá lởn chởm, nhấp nhô bên bờ biển. Nghe ngóng động tĩnh vài phút, gã băng mình chạy đến gần con đường lớn cách đấy không xa. Đến đó, gã dừng lại, thõng chân xuống hố cát cố làm ra vẻ bình tĩnh ngồi hút thuốc. Đằng xa kia có ánh đèn pha ô tô buýt nhấp nháy, và khi chiếc xe vừa dừng lại, gã nhanh chóng nhảy phóc lên xe. Thế là điệp viên F-1 đã thực hiện được phần đầu kế hoạch xâm nhập vào Cuba của mình.         Cũng lúc ấy, phòng trực ban của cơ quan An ninh Cuba nhận được một bức điện báo: “Điệp viên “Thần thông” sẽ đến thăm các anh. H-23”.   Mời các bạn đón đọc Người Thay Thế H23 của tác giả D. L. I-ba-nhec.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết Giữa Thinh Không - Agatha Christie
Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây), Nguyên tác: Death in the Clouds/ Death in the Air. Là tập 12 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Trên chuyến phi cơ hạng sang Prometheus nhắm hướng bay đến phi trường Croydon, thám tử Hercule Poirot theo thói quen nghề nghiệp đưa mắt theo dõi từng hành khách trên máy bay. Trước tiên là nàng Jane Grey đang ngồi thu mình rụt rè... còn Norman Gale đăm chiêu nghĩ ngợi... đến anh chàng nhà khảo cổ trẻ tuổi Jean Dupont vừa nhổm người đứng dậy giơ tay đập chết con o­ng vò vẽ bay vù vù trên đầu mọi người. Mãi đến lúc phát hiện Madame Giselle ngồi chết ở dãy ghế phía sau khoang tàu, thám tử Hercule Poirot mới nhận ra còn một con o­ng khác nữa, chính là một mũi tên tẩm độc dùng ống xì đồng thổi bay đi.  Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Bẫy Chuột - Agatha Christie
Tính đến năm 2007, Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của Agatha Christie hiện đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay với trên 20.000 buổi diễn. Nội dung của nó kể về một vụ án mạng có thật, từng gây chấn động Vương quốc Anh vào năm 1945. Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương quốc Anh là một trong những đế quốc tham chiến sớm nhất. Cho đến ngày hiệp ước đình chiến được các bên ký kết, tổng thiệt hại về người của đảo quốc sương mù cho cuộc chiến này là 320.000 người. So với những quốc gia tham chiến khác như Liên Xô, Đức, Ba Lan… thì con số này rất "nhỏ". Thế nhưng, chỉ tính riêng tại Vương quốc Anh, thì con số này lớn vô cùng. Ngày 9/1/1945, cậu bé Dennis O’Neill - 13 tuổi bị phát hiện đã chết trong tình trạng thể chất vô cùng kinh khủng. Cậu bé gần như chỉ còn một bộ da bọc xương, cơ thể bầm dập những vết đòn roi, vết đòn cũ chưa mờ thì đã bị che lấp bởi những trận đòn kế tiếp. Dennis và em trai Terence - 11 tuổi, được một đôi vợ chồng trung niên nuôi nhận ở một nông trại hẻo lánh tại Shropshire. 13 giờ chiều, mẹ nuôi của Dennis - bà Esther Gough gọi điện báo với bác sỹ rằng Dennis đã ổn định, sức khỏe đang hồi phục. Thế nhưng đến 15h cùng ngày, khi vị bác sỹ đến nông trại, Dennis đã chết. Và theo khám nghiệm tử thi cũng như kết luận từ các bác sỹ, Dennis đã chết nhiều giờ trước đó. Nước Anh một phen chấn động về cái chết của Dennis. Thời điểm ấy, báo chí xứ sở sương mù chỉ đưa tin về những chiến thắng của quân đội Anh trước phe phát-xít, về hàng nghìn kẻ thù bị tiêu diệt trong ở mỗi chiến trường, về những thiệt hại của người Anh trong cuộc chiến. Vậy nhưng, hình ảnh về cái chết thương tâm của Dennis O’Neill vẫn khiến tất cả phải ngậm ngùi. Kết quả khám nghiệm tử thi gây sốc với tất cả. Dennis bị trụy tim do bị đánh quá mạnh vào lồng ngực. Cậu bé bị giết, chứ không phải vì chết đói nữa. Dennis chết, chỉ 2 ngày trước sinh nhật tuổi 13. Và phải có kẻ phải chịu trách nhiệm cho tội ác này. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Bẫy Chuột của tác giả Agatha Christie.
Ba Điều Bí Ẩn - Agatha Christie
Ba Điều Bí Ẩn là tập 18 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Hamborough Close, Westshire Ngày 24-9-1936 Kính gửi ông Hercule Poirot, Một vụ việc vừa phát sinh, đòi hỏi sự xử lý tinh tế và kín đáo. Tôi đã nghe nhiều người nói tốt về ông, nên quyết định giao phó việc này cho ông. Tôi có nhiều lý do để tự tin mình là nạn nhân của một vụ gian lận, Nhưng vì lý do gia đình, không muốn kêu cảnh sát. Tôi đã có một số biện pháp để phòng thân và đối phó với tình hình, nhưng ông cần sẵn sàng đến đây ngaykhi vừa nhận được điện. Ông khỏi cần trả lời thư này, xin gửi tới ông lòng biết ơn. Kính thư: Gervase Chevenix-Gore *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Ba Điều Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.
Thành Phố Trộm - David Benioff
Trong cuộc phong tỏa Leningrad tàn bạo của quân Đức, Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của và bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai tên Kolya. Thay vì bị hành quyết, Lev và Kolya còn có cơ hội giữ mạng sống bằng cách thực thi một nhiệm vụ tưởng chừng không thể: tìm về một tá trứng. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và chịu sự thiếu đói không thể tin nổi, Lev và Kolya dấn thân vào một cuộc săn lùng qua khắp tình trạng hỗn loạn tàn khốc của Leningrad và đằng sau phòng tuyến địch để tìm cái bất khả. Với những diễn biến khôi hài và thâm thúy, kinh hoàng và xúc động, Thành Phố Trộm là một cuộc phiêu lưu Thế chiến 2 nghẹt thở, đầy chất điện ảnh, là câu chuyện của lứa tuổi thành niên thân thiết với cảm xúc cực kỳ hiện đại để nói về quá trình các chàng trai trở thành đàn ông. “Cuốn tiểu thuyết thứ hai của David Benioff khắc họa một cốt truyện mạnh mẽ, một tình bạn sôi nổi, một chuyện yêu đương kỳ quặc, đủ hạng người xấu đáng sợ, một bầu không khí chập chờn giữa chủ nghĩa hiện thực thô sượng và sự lố bịch kiểu thần thoại và một khiếu hài tăm tối nhưng khó cưỡng; thật ra là mọi thứ mà bạn đọc có thể mong đợi ở một câu chuyện về tình bạn đặt trong bối cảnh quân Đức bao vây Leningrad trong Thế chiến 2.” *** Mùa đông năm 1941, Leningrad bị quân Đức vây hãm gắt gao. Gió rét cắt da cắt thịt, mọi mẩu gỗ trong thành phố đều đã biến mất và cháy trong bếp lò của ai đó, thức ăn đã từ lâu biến thành giấc mơ xa xỉ, những cư dân với phần ăn tem phiếu khiêm tốn trở nên gầy rộc vì đói kém và mọi hành vi phạm tội đều bị hành quyết bởi không có đủ lương thực nuôi tù nhân. Khi Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của, cậu đã nghĩ mình sẽ chết chắc, cho đến khi bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai Kolya. Họ có cơ hội được sống bằng cách thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi: tìm về một tá trứng để làm bánh cho đám cưới của con gái ông đại tá. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và dường như không còn chút thực phẩm nào, Lev và Kolya đã dấn thân vào cuộc săn lùng không thể nào quên… Lev mười bảy tuổi, thân hình gầy gò càng thêm còi cọc vì thiếu ăn, tự nhận không phải là ý trung nhân lý tưởng của con gái, vẫn còn khá ngây thơ và chưa biết tình yêu là gì. Trong khi đó, Kolya hoàn toàn ngược lại: điển trai, khỏe mạnh, tự tin, là một gã khoác lác biết tuốt và nói nhiều không thể tin được. Đồng thời, Kolya là người tử tế, nghĩa hiệp, liều lĩnh, và là bộ óc chỉ dẫn lẫn hành động cho cả hai người. Nhưng dù trái ngược nhau về cả ngoại hình và tính cách, họ vẫn là một cặp bài trùng cực kỳ hợp rơ. Kolya đóng vai trò là người chăm sóc, còn Lev với vai trò một người lắng nghe và chia sẻ. Ngay từ lần đầu gặp mặt, Kolya đã cho Lev một miếng xúc xích ngon lành, rồi không ít lần bảo vệ cho Lev như thể đang bảo vệ một đứa em trai thân thiết. Còn Lev, mặc dù hay cáu kỉnh vì Kolya cứ lải nhải suốt trên hành trình, nhưng vẫn kiên nhẫn lắng nghe những câu chuyện của Kolya mà hóa ra đó chính là câu chuyện anh ta sáng tác. Tình bạn của họ, không phải là kiểu săn sóc cho nhau từng ly từng tí, đây là kiểu tình bạn điển hình của hai đứa con trai: trêu chọc và khiêu khích, nói tục, tình yêu, tình dục, ban đầu là khó chịu và tưởng như không thể hòa hợp, rốt cuộc lại nảy nở rực rỡ, sôi nổi, ồn ào nhưng sâu sắc và cảm động một cách diệu kỳ. Kolya thường vòng tay lên vai Lev và nói đủ thứ chuyện, khi thì để khai thông đầu óc vẫn còn ngây thơ của Lev, khi thì chia sẻ những khát khao bình dị hoặc kể tiếp câu chuyện dở dang… Thật ra, người thuần khiết nhất chỉ thích cho đi mà không cần nhận lại, và người ngây thơ nhất không cần biết phía trước là muôn vàn khó khăn chết chóc, người lạc quan nhất hài hước ngay cả khi cận kề cái chết, lại chính là Kolya.    Hành trình đi tìm trứng băng qua cả thành phố đến tận chiến tuyến kẻ thù cũng là hành trình băng qua súng đạn tàn khốc, băng qua những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đối diện với cái đói khủng khiếp và cái lạnh tê người, chứng kiến những phận người lụi tàn và bất hạnh mà họ không thể nào giúp đỡ gì được vì chính họ cũng đang bị cái đói cào xé. Trong hành trình đó, họ đã trưởng thành hơn, Lev đã can đảm hơn và có thể tự hào kể lại đã đoạt mạng hai tên Đức bằng dao khi chưa đủ mười tám tuổi. Họ dấn thân vào cuộc phiêu lưu với mục đích được sống, nhưng đôi khi chỉ mong ước có một miếng bánh mì thật hay một miếng xúc xích thật, hoặc Lev thì ganh tị với Kolya vì được ngủ với Sonya xinh đẹp tốt bụng, hay như Kolya sẽ mở tiệc ăn mừng nếu có thể đi ị. Khôi hài, trần trụi nhưng sâu cay, những bất hạnh này chẳng phải để tố cáo hiện thực chiến tranh, mà sao vẫn nghe sống mũi cay cay. Khi mà chất bi kịch hòa lẫn trong hài kịch, khi mà nước mắt của cái đau khổ được giấu sâu cùng trong những cái cười khôi hài, thì những cái bất hạnh này đã trở nên quá lớn để nghĩ đến. Họ chỉ chấp nhận số phận của mình.    Giọng văn phóng khoáng và táo tợn, ngôn ngữ rất đời và rất chân thực, dùng những mảnh đời bất hạnh và những khát khao trần trụi để mô tả tinh vi bức tranh hiện thực của chiến tranh làm bối cảnh cho một tình bạn lạ kỳ. Diễn biến nhanh và thu hút như một bộ phim điện ảnh, dễ dàng đọc liền mạch từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng, mới cười đó rồi lại tê dại đi sau đó, để lại sau cùng một ấn tượng mạnh mẽ về một tình bạn trong hoàn cảnh bắt buộc đã nhanh chóng nảy sinh và gắn bó không thể quên đến cuối đời. *** David Benioff sinh năm 1970 tại New York trong một gia đình Do Thái. Ông là nhà văn, nhà biên kịch, nhà sản xuất truyền hình và đạo diễn. David Benioff là một nhà biên kịch và nhà sản xuất truyền hình, nhà văn và đạo diễn người Mỹ. Cùng với cộng tác viên của mình D. B. Weiss, anh được biết đến nhiều nhất với tư cách là đồng sáng tạo, người dẫn chương trình và nhà văn của Game of Thrones, bộ phim chuyển thể từ HBO của George R. R. Mời các bạn đón đọc Thành Phố Trộm của tác giả David Benioff.