Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vũng Lầy - Carter Brown

Carter Brown là bút danh văn học của Alan Geoffrey Yates (1 tháng 8 năm 1923 - 5 tháng 5 năm 1985), một nhà văn người Anh chuyên tiểu thuyết trinh thám. Sinh ra tại Anh, Alan Yates kết hôn và định cư tại Úc vào năm 1948. Anh bắt đầu cuộc sống làm việc của mình như là một kỹ thuật viên điện ảnh, nhân viên bán hàng và trong quan hệ công chúng cho Qantas trước khi viết lên toàn thời gian. Yates nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học. Ông đã viết các phương Tây dưới bút danh Todd Conway, và khoa học viễn tưởng dưới thời Paul Valdez. Ông thậm chí còn tìm được thời gian để viết sách theo các phiên bản khác nhau của tên riêng của mình cũng như các bút danh khác, Dennis Sinclair và Sinclair MacKellar. Nhưng Peter Carter Brown, sau đó là Peter Carter Brown, sau đó là Carter Brown, và trở thành tác giả các tiểu thuyết bán chạy nhất thế giới. Tại Việt Nam, Ông được biết đến với series về Trung úy Wheeler. Một số tác phẩm của Carter Brown đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Xác Chết Vũng Lầy Đắm Đuối *** Trước khi xe cứu thương đến thì trung sĩ James Brown đã có mặt. Cùng với một nhân viên cảnh sát khác đứng canh ngoài cửa. Ngay tức khắc, ông quì xuống xem xét cái xác. Ông bắt mạch, lật mí mắt rồi nhìn tôi và nói: - Người này đã chết, nhưng chỉ mới vài phút đây thôi. Đây là triệu chứng mà tôi đã từng trông thấy. Nguyên nhân gây cái chết là một liều heroin qúa cao, khiến nạn nhân không còn hay biết gì trước khi tắt thở. Tôi nói: - Chàng trai này trông chẳng có vẻ gì là dân chích choác. Chẳng thấy vết thẹo nào trên tay anh ta. - Điều đó chẳng chứng tỏ gì. Có thể đây là lần đầu hắn chích và vì thiếu kinh nghiệm nên đã chích quá liều. Hoặc trước đó hắn không chích mà chỉ hít hoặc có thể hắn là tay sử dụng kim tiêm rất thành thạo. Với ống tiêm tốt và biết thận trọng, người ta có thể không để lại thẹo. - Dẫu sao, tôi nghĩ thế nào chăng nữa thì tôi chẳng quan tâm đến ý kiến của ông. Tôi biết ông là người bao dung đôí với bọn Hippi, nhưng tôi thì không ưa chúng. Với tôi, cái xác này có nghĩa là xã hội lương thiện bớt đi một tay nghiện ngập. Tôi bất bình nói: - Nhưng chỉ đơn giản kết luận như thế thì có hay gì. - Bộ ông muốn nói có ai đó chích cho tay này một mũi heroin? - Đó là chuyện có thể. Viên trung sĩ chậm rãi đứng dậy. - Tôi không bác bỏ quan điểm của ông, nhưng chỉ mong ông thử chứng minh xem. - Thử chứng minh? Vậy mà tôi vẫn tưởng rằng cảnh sát là những người có thể nhìn vấn đề dưới nhiều góc cạnh, trong trường hợp họ thấy những sự việc thiếu ăn khớp với kết luận hiển nhiên. - Ông Robert à, vì ít học nên tôi không giỏi tính toán như ông. Vậy thì ông hãy thay tôi xem xét vấn đề dưới nhiều góc cạnh và tôi sẽ kiểm tra xem có đúng hay không. Hai cảnh sát viên bật cười trước lời giễu cợt đó. Rồi xe cấp cứu đến. Hai gã mặc bờ lu trắng gật đầu chào các nhân viên cảnh sát rồi đặt cái xác lên cáng và vội vã khiêng ra khỏi phòng. Nhìn tôi, trung sĩ James Brown nói: - Giờ thì tôi sở cảnh sát để ký biên bản và sau đó, đi uống vài ly với các đồng nghiệp. Ông mỉm cười và rời phòng. Tôi nhìn theo ông, rồi rót cho mình một ly rượu. Tôi thấy nhức đầu kinh khủng nhưng biết mình con một số việc phải làm: chỉ cho Calvin một số điều nên tránh một khi đã nhận được tiền và báo cho bạn bè của Nai Nhảy Nhót biết rằng hắn đã về thiên đường của Người Da Đỏ. Ngoài ra, tôi có thể xem xét nhiều khía cạnh như viên trung sĩ đã gợi ý. Khi tôi đang vẩn vơ suy nghĩ thì chuông điện thoại reo. Ở đầu dây, một giọng nữ dịu dàng, lo âu: - Alô, có phải ông Radall Roberts? Ronda Holloway đây. Thưa ông, mẹ tôi và Charles đã lời qua tiếng lại và tôi rất e ngại. Tôi thầm nghĩ đó là chuyện nội bộ gia đình và tôi làm sao có thể giải quyết nhưng tôi cũng hiểu rằng giờ đây có lẽ tôi là người đàn ông lịch sự và thân thiết nhất của Ronda. Vì thế, tôi nói: - Charles có về nhà ăn tối? - Không anh không về và mẹ tôi đã lấy xe đi gặp anh ấy ở một nơi nào đó mà bà đã giấu tôi. Khi mẹ tôi vào nhà, tôi thấy bà rất bồn chồn lo lắng. Tuy vậy bà bảo rằng chẳng cho ai biết về những gì Charles đã nói hay đã làm. Qua giọng nói càng lúc càng the thé của Ronda, tôi biết nàng đang trong tâm trạng rất căng thẳng. Tôi khuyên nhủ: - Cô không nên quá lo lắng. Đó là chuyện thường xảy ra giữa các phụ huynh với đứa con bướng bỉnh, ngoan cố. Này Ronda, tối nay tôi sẽ đến gặp bộ lạc, họ tổ chức tiệc tùng và hẳn anh cô sẽ có mặt ở đó. Tôi sẽ cố gắng dàn xếp và sẽ cho cô biết sau. - Ồ! Cám ơn ông Robert. Tôi sẽ không quên ơn ông. Giọng nói của Ronda đột nhiên chỉ còn là tiếng thì thầm thổn thức. Cố giữ trầm tĩnh, tôi nói: - Giờ thì mẹ cô đã đỡ chưa? - Mẹ đã uống aspirin và lên giường nằm. - Được. Vậy thì nhiệm vụ của cô là an ủi mẹ. Phần tôi, tôi sẽ cho thằng anh cô một cú đá vào mông. Ngày mai, tôi sẽ gọi cho cô. - Cám ơn ông. Nhưng nhớ đừng có quá cứng nhắc với ông anh tôi nhé. - Tôi hiểu! Để khuyên nhủ Charles, tôi sẽ là một nhà tâm lý học. Ngày mai nhé. Trên đường đến dự dạ tiệc của bon Hippi, tôi nghĩ ngợi mông lung. Liệu điều gì sẽ chờ mình? Một cuộc vui thâu đêm với gái và rượu ư? Mọi người sẽ khiêu vũ trần truồng? Cảnh tượng hấp dẫn đó lởn vởn trong tâm trí tôi khi tôi rẽ xe vào con đường mòn đầy cỏ dại. Tôi dừng lại trước căn nhà gỗ, cũ kỹ, xiêu vẹo mà theo lẽ đã đổ sụp từ nhiều năm qua. Điều làm tôi ngạc nhiên là căn nhà này chỉ cách trốn đồi truỵ cua Harry Hầu Nhân vài trăm thước. Hẳn đây là những căn nhà mà chủ nhân của chúng chẳng thể cho ai mướn ngoài bọn Hippi. Trước lối vào là một cửa phụ ngoài được treo bằng vài con ốc heon rỉ. Cửa bên trong không đóng. Tôi đi vào, thầm nghĩ liệu mình có thể gặp Calvin mà không để Sauron trông thấy? Đó là một hy vọng khó có thể thành hiện thực. Nhưng tôi gặp may, vì vừa bước vào phòng khách âm u, tôi đã trông thấy Calvin. Nàng đang ngồi trên một ghế bành khá bẩn, nệm bung bông, te tua như bị móng vuốt của loài ác thú xé toạc. Không một bóng đèn, căn phòng chìm trong thứ ánh sáng lờ mờ hắt vào từ những ngọn đèn đường. Tuy vậy, tôi nhận ra ngay Calvin. Nàng ngồi thẳng người, cứng nhắc và nhìn tôi bằng ánh mắt mờ đục. Tôi nhón gót bước đến gần Calvin và hỏi nhỏ: - Cô khoẻ chứ? Bằng giọng trầm đơn điệu, nàng hỏi: - Vâng. Tôi rất mừng khi trông thấy ông đến. Tôi đã ngồi đây khá lâu để đợi ông. - Về chuyện tiền, cô đã thay đổi ý kiến? - Vâng. - Cô muốn nhận tiền ư? - Vâng. - Sauron đã khuyên cô nên nhận? Nàng há miệng: - Vâng… ... Mời các bạn đón đọc Vũng Lầy của tác giả Carter Brown.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Gặt Đỏ
MÙA GẶT ĐỎ - KHO BÁU BỊ ĐÁNH MẤT. Một tay súng đơn độc đi vào trong thị trấn. Anh ta sẽ dọn dẹp nó dù muốn hay là không? "Người chiến đấu với quái vật phải cẩn thận nếu không muốn trở thành một con quái vật khác". Được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Đây cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó có Yojimbo (1961), A Fistful of Dollars (1964) và Blood Simple (1984)… Truyện được mở đầu bằng việc Hãng thám tử tư Continental cử một đặc vụ tới Personville - thành phố đang chìm đắm trong bạo lực và sợ hãi dưới sự cai trị của các băng đảng tội phạm và đám quan chức tham nhũng - theo yêu cầu của Donald Willsson, chủ bút tờ báo địa phương và là người đang muốn lấy lại trật tự, công bằng cho thành phố. Nhưng khi nhân viên đặc vụ đó tới nơi thì phát hiện ra khách hàng của mình đã bị bắn chết. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu. *** Dashiell Hammett (1894 - 1961) là một trong những tác giả tiên phong của thể loại tiểu thuyết trinh thám đen, với các tác phẩm tiêu biểu như Mùa gặt đỏ (1929), Chim ưng Malta (1930) và Chìa khóa thủy tinh (1931). Những tiểu thuyết của ông thường mang phong cách mạnh mẽ, gay cấn, lối viết ngắn gọn, không hoa mỹ, tiết tấu nhanh, hấp dẫn, đậm mùi súng đạn. Mùa gặt đỏ, tác phẩm đầu tay của Hammett, mang đầy đủ những đặc trưng của thể loại trinh thám đen, đồng thời là hình mẫu cũng như nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trinh thám sau này: một bầu không khí nhớp nhúa ở phần tối của xã hội; một hình ảnh “người hùng không hoàn hảo” với quan niệm về công lý không hoàn toàn đồng nhất với pháp luật. Người thám tử vô danh ấy đến thành phố tội lỗi đó như một lãng khách độc hành thấy việc bất bình ra tay nghĩa hiệp, để rồi bắt đầu “mùa gặt”, mang lại bình yên cho thành phố… *** Review sách Mùa Gặt Đỏ Mùa gặt đỏ được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Tôi đã khá băn khoăn khi quyết định đọc hay không vì không muốn sa đà liên tục vào trinh thám. Thế nhưng vì một vài lí do, tôi vẫn đọc. Có thể vì thế mà tâm trạng đã không tốt khi tiếp cận cuốn sách. Truyện Trinh thám về những thế lực bên rìa công lý, kiểu mafia, mở đầu bằng cái chết của thân chủ khi chưa kịp làm việc với tay thám tử mà mình mời về. Nhiều nhân vật liên quan, nhiều vấn đề nổi cộm của thế giới thu nhỏ Personville được phơi bày. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu.Tiết tấu càng ngày càng nhanh với sự mưu mô, toan tính cả bằng trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong việc siết cò với những pha hành động tương đối kịch tính. Truyện thuộc dang trinh thám đen, hành động kịch tính và mang tính giải trí. Cơ bản có lẽ tại tôi không thích văn phong hơi khô của tác giả (hay dịch giả)??, hội thoại, lời văn ngắn gọn, súc tích. Tôi cũng không thích bìa, không thích tên gọi, chỉ an ủi được là việc biên tập đã ổn hơn khá nhiều so với những cuốn sách trước đây của PM. Tạm gác lại, biết đâu một ngày nào đó sẽ có hứng thú đọc lại và biết đâu sẽ thích. Cho tạm 3* vì cuốn sách chưa đủ hấp dẫn khiến tôi bị cuốn hút cũng như tò mò. Hồng Khánh 14.9.2019 *** Người phụ nữ trong bộ đồ xanh và người đàn ông trong bộ đồ xám Lần đầu tiên tôi nghe thấy Personville được đọc lái thành Poisonville là từ một gã tóc đỏ đầu đường xó chợ tên Hickey Dewey tại khách sạn Con Tàu Lớn ở Butte. Hắn cũng phát âm shirt thành shoit. Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì về cách hắn đọc tên thành phố, nhưng rồi tôi thấy những người đã phát âm đúng chữ “r” nhưng vẫn đọc sai như vậy. Tôi chỉ cho rằng việc đám trộm cướp dùng từ richardsnary thay cho dictionary thật quá sức nhạt nhẽo. Vài năm sau, khi đến Personville, tôi mới hiểu rõ hơn. Tôi gọi tới tờ Herald từ một bốt điện thoại tại ga, yêu cầu được nói chuyện với Donald Willsson và sau đó bảo anh ta rằng tôi đã tới. “Anh có thể tới nhà tôi lúc mười giờ tối nay được không?” Anh ta nói, giọng quả quyết. “Số 2101 đại lộ Mountain. Bắt một chiếc xe điện, xuống ở chỗ đại lộ Laurel, rồi đi bộ theo hướng Tây hai dãy nhà.” Tôi hứa sẽ có mặt. Rồi tôi tới khách sạn Great Western, vứt mấy chiếc túi xuống và ra ngoài ngắm nhìn thành phố. Thành phố này không đẹp. Hầu hết chủ thầu xây dựng ở đây đều có gu thẩm mỹ lòe loẹt. Có thể ban đầu họ đã đạt được mục đích. Rồi những lò luyện kim mọc lên sừng sững bên một ngọn núi ảm đạm ở phía Nam đã hun mọi thứ trong lớp khói màu vàng xỉn. Thế là chúng ta có một thành phố xấu xí với bốn mươi ngàn dân, nằm trong một khe hẻm xấu xí giữa hai ngọn núi xấu xí bị ô nhiễm vì sự khai mỏ. Bao trùm lấy nó là bầu không khí ám đầy bụi, như thể vừa chui ra từ ống khói của lò luyện kim. Người cảnh sát đầu tiên mà tôi gặp rõ ràng cần phải cạo râu. Người thứ hai có vài chiếc cúc bị đứt trên bộ đồng phục tồi tàn. Người thứ ba đứng ở giữa giao lộ chính của thành phố, giữa Broadway và phố Union, với một điếu xì gà trên miệng. Sau đó thì tôi không để ý đến họ nữa. Vào lúc chín giờ rưỡi, tôi bắt một chiếc xe điện và đi theo hướng mà Donald Willsson đã chỉ. Nó đưa tôi tới một ngôi nhà có hàng rào bao quanh bãi cỏ. Người giúp việc ra mở cửa bảo tôi rằng ông Willsson không có nhà. Trong khi tôi đang giải thích rằng mình có hẹn với anh ta thì một người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh, khoảng dưới ba mươi tuổi, bận bộ đồ vải crepe màu xanh bước tới. Ngay cả khi cười, sự lạnh nhạt vẫn ẩn hiện trong đôi mắt xanh của cô ta. Tôi giải thích lại một lần nữa. “Chồng tôi hiện không có nhà.” Âm giọng địa phương mờ nhạt khiến phát âm của cô ta hơi nhịu. “Nhưng nếu đã có hẹn thì chắc anh ấy sẽ về sớm thôi.” Cô ta dẫn tôi lên tầng, tới một căn phòng nhìn về hướng đại lộ Laurel. Căn phòng được sơn hai màu nâu đỏ và có rất nhiều sách. Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa da, nửa quay về phía người đối diện, nửa hướng về phía lò sưởi đang đỏ than, và cô ta bắt đầu tìm hiểu về chuyện giữa tôi và chồng cô ta. “Anh sống ở Personville à?” Cô ta hỏi trước. “Không. San Francisco.” “Nhưng đây không phải lần đầu anh tới Personville, phải vậy không?” “Đây là lần đầu tiên.” “Thật ư? Anh nghĩ sao về thành phố này?” “Tôi chưa quan sát đủ để có thể đưa ra ý kiến.” Đó là một lời nói dối. Tôi đã thấy đủ. “Tôi vừa mới tới lúc chiều.” Sự tò mò biến mất khỏi đôi mắt lấp lánh của cô ta. Rồi cô ta nói: “Anh sẽ thấy rằng đây là một chốn ảm đạm.” Rồi cô ta tiếp tục soi mói, “Tôi cho rằng tất cả các thành phố mỏ đều giống như thế này. Anh có tham gia vào ngành khai mỏ không?” “Hiện tại thì không.” Cô ta nhìn đồng hồ trên mặt lò sưởi và nói: “Donald thật thiếu chu đáo khi hẹn anh tới rồi lại để anh ngồi đợi, giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Đã quá giờ làm việc lâu quá rồi.” Tôi đáp rằng không sao. “Có lẽ đây không phải là vấn đề công việc.” Cô ta bóng gió. Tôi không trả lời. Cô ta cười, tiếng cười cộc lốc và có phần chói tai. “Thường thì tôi không tọc mạch thế này đâu”, cô ta vui vẻ nói, “nhưng anh quá kín đáo đến mức tôi không thể không tò mò. Anh không phải dân buôn rượu lậu đấy chứ? Donald đổi người rất thường xuyên.” Tôi để cô ta tự suy diễn và nở một nụ cười. Chuông điện thoại reo dưới tầng. Cô Willsson duỗi đôi chân đi dép lê xanh về phía lò sưởi đang đỏ than và vờ như không nghe thấy gì. Tôi không hiểu tại sao cô ta nghĩ thế là cần thiết. Cô ta bắt đầu, “Tôi sợ rằng mình sẽ ph…”, và dừng lại, nhìn về phía cô hầu đứng bên cửa. Người giúp việc nói rằng đầu dây bên kia muốn gặp cô Willsson. Cô ta cáo lỗi rồi ra ngoài. Cô ta không đi xuống tầng dưới mà nói qua máy điện thoại kéo dài, trong tầm nghe của tôi. Tôi nghe được, “Tôi, Willsson nghe đây… Vâng… Xin lỗi?… Ai đấy?… Anh có thể nói to lên không?… Gì cơ?… Vâng… Vâng… Ai đó?… A lô! A lô!” Rồi có tiếng dập máy và tiếng bước chân của cô ta vang lên trên hành lang. Tôi châm một điếu thuốc và nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của cô ta dưới thềm. Rồi tôi tới bên cửa sổ, vén rèm lên, nhìn xuống đại lộ Laurel và thấy phía sau ngôi nhà là một nhà để xe màu trắng. Ngay sau đó, một người phụ nữ mảnh mai đội mũ và bận áo khoác tối màu vội vã đi ra chỗ nhà để xe. Đó là cô Willsson. Cô ta lái chiếc Buick hai chỗ đi. Tôi quay lại ghế và chờ đợi. Bốn mươi lăm phút trôi qua. Lúc mười một giờ năm phút, tiếng phanh ô tô rít lên bên ngoài. Hai phút sau, cô Willsson bước vào phòng. Cô ta cởi mũ và áo khoác ra. Mặt cô ta trắng bệch, đôi mắt ủ dột. “Tôi vô cùng xin lỗi”, cô ta nói với khuôn miệng mím chặt chuyển động nhát gừng, “anh đã mất công ngồi đợi vô ích rồi. Tối nay chồng tôi sẽ không về nhà.” Tôi nói rằng tôi sẽ liên lạc với anh ta tại Herald sáng mai. Tôi đi về và tự hỏi tại sao mũi dép bên trái của cô ta lại dính thứ gì đó sẫm màu và ướt giống như máu vậy. • • • Tôi đi bộ đến Broadway và bắt một chiếc xe điện. Qua ba dãy nhà lớn ở phía Bắc khách sạn, tôi xuống xe để xem đám đông đang làm gì quanh lối vào Tòa thị chính. Tầm ba, bốn mươi người đàn ông và lác đác vài phụ nữ đang đứng trên vỉa hè, nhìn vào một cánh cửa gắn biển Sở Cảnh sát. Đám đông bao gồm những người công nhân mỏ và lò nung vẫn mặc nguyên đồ bảo hộ, những anh chàng mặc đồ lòe loẹt vừa bước ra từ tiệm bi-a và vũ trường, những gã chải chuốt với khuôn mặt nhợt nhạt, những người mang vẻ ngoài trì độn của một ông chồng đứng đắn, vài người phụ nữ cũng trì độn và đứng đắn y như vậy cùng vài ả gái điếm. Đến bên rìa đám đông, tôi dừng lại cạnh một người đàn ông nghiêm nghị mặc bộ đồ xám nhàu nhĩ. Khuôn mặt và đôi môi dày của anh ta trông cũng xám xịt, mặc dù nhìn qua anh ta không quá ba mươi tuổi. Khuôn mặt anh ta rộng, đường nét thô kệch và sáng sủa. Anh ta đeo một chiếc cà vạt đỏ thắt kiểu Windsor trên chiếc áo sơ mi bằng vải flannel màu xám. “Chuyện gì ồn ào vậy?” Tôi hỏi anh ta. Anh ta cẩn thận nhìn tôi trước khi trả lời, như thế muốn chắc chắn rằng thông tin sẽ được gửi đi một cách an toàn. Mắt anh ta cũng xám như bộ đồ, nhưng trông chúng không hề mềm như thế. “Don Willsson đã đến ngồi bên tay phải của Chúa, nếu Chúa không ngại nhìn vào những vết đạn.” “Ai đã bắn anh ta?” Tôi hỏi. Người đàn ông gãi đầu và đáp lại: “Một kẻ nào đó mang súng.” Tôi muốn thông tin, chứ không phải sự hóm hỉnh. Tôi sẽ thử vận may với một người khác trong đám đông nếu gã đeo cà vạt đỏ này không khiến tôi hứng thú. Tôi bảo: “Tôi mới đến thành phố. Cứ diễn vở Punch và Judy* với tôi đi. Người lạ thì phải chịu thôi.” “Quý ngài Donald Willsson, chủ biên của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, mới được tìm thấy trên phố Hurricane, bị một kẻ vô danh nào đó bắn chết.” Anh ta nói một lèo bằng giọng đều đều. “Hết cảm thấy bị tổn thương rồi chứ?” “Cảm ơn.” Tôi đưa tay ra và chạm vào đầu chiếc cà vạt thắt lỏng của anh ta. “Có ý nghĩa gì không? Hay chỉ đeo vậy thôi?” “Tôi là Bill Quint.” “Hóa ra là anh!” Tôi kêu lên, giả bộ như mình đã biết cái tên này. “Chúa ơi, tôi rất mừng được gặp anh!” Tôi rút chiếc ví chứa danh thiếp ra và lục lọi trong đống danh thiếp mà tôi đã kiếm được bằng nhiều cách, ở nhiều nơi khác nhau. Tấm màu đỏ là cái tôi muốn tìm. Trên đó ghi tôi là Henry F. Neill, thủy thủ được đào tạo bài bản, thành viên cấp cao của Hiệp hội Công nhân Công nghiệp Thế giới*. Không một chữ nào là sự thật. Tôi đưa tấm danh thiếp cho Bill Quint. Anh ta đọc kỹ nó, cả mặt trước lẫn mặt sau, rồi trả lại và nhìn tôi từ đầu đến chân một cách ngờ vực. “Chẳng có gì để nhìn nữa đâu.” Anh ta nói. “Anh định đi đâu?” “Đâu cũng được.” Chúng tôi đi cạnh nhau, rẽ vào sau góc phố một cách bâng quơ. “Điều gì đã đưa anh tới đây, nếu anh là một thủy thủ?” Anh ta chợt hỏi. “Sao anh lại nghĩ vậy?” “Có tấm danh thiếp đó.” “Tôi còn có một cái ghi rằng mình là tiều phu nữa cơ.” Tôi nói. “Nếu anh muốn tôi trở thành thợ mỏ, tôi sẽ làm một cái ngay trong ngày mai.” “Anh không kiếm được đâu. Tôi điều hành ở đây.” “Thế nếu anh nhận được điện báo từ Chi* thì sao?” Tôi hỏi. “Mặc xác Chi! Tôi điều hành ở đây.” Anh ta hất đầu về phía nhà hàng và hỏi, “Uống gì không?” “Kiếm được không đã.*” Chúng tôi bước vào nhà hàng, leo lên các bậc thang và bước vào một căn phòng nhỏ với một dãy bàn dài trên tầng hai. Bill Quint gật đầu và nói, “Hullo!” với vài cậu trai và cô gái, rồi đưa tôi vào một trong nhũng căn buồng có màn che màu xanh lá nằm thẳng hàng dọc bức tường đối diện quầy bar. Chúng tôi dành hai giờ để uống rượu whiskey và nói chuyện. Người đàn ông trong bộ đồ xám cho rằng tôi chẳng liên quan gì tới tấm danh thiếp mà tôi vừa cho anh ta xem, cũng như những danh tính khác mà tôi đã đề cập. Anh ta cũng không cho rằng tôi là một thành viên cấp cao của Hiệp hội. Với vai trò là thủ lĩnh quan trọng của IWW ở Personville, anh ta cho rằng nhiệm vụ của mình là phải tìm ra sự thật về tôi, đồng thời không để mình bị dò hỏi ngược lại trong khi đang làm việc đó. Với tôi thế cũng chẳng sao. Tôi hứng thú với các vấn đề ở Personville. Anh ta thì không bận tâm tới chuyện đó mà chỉ tập trung vào tấm thẻ đỏ của tôi. Và đây là những gì tôi moi được từ anh ta: Trong vòng bốn mươi năm, Elihu Willsson - cha của người đàn ông bị giết đêm qua - đã sở hữu trái tim, linh hồn cũng như xác thịt của Personville. Lão là chủ tịch và cổ đông lớn nhất của Tập đoàn Khai mỏ Personville cũng như ngân hàng First National, là chủ sở hữu của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, những tờ báo duy nhất của thành phố, và đồng sở hữu gần như tất cả các doanh nghiệp quan trọng khác. Cùng với khối tài sản đó, lão cũng nắm trong tay một Thượng nghị sĩ Mỹ, vài dân biểu, thống đốc bang, thị trưởng thành phố và hầu hết các cơ quan lập pháp của bang. Elihu Willsson là Personville, và gần như là toàn bộ bang. Hồi chiến tranh, IWW - khi đó đang lan rộng về phía Tây - đã giúp đỡ Tập đoàn Khai mỏ Personville. Nói giúp đỡ là không hoàn toàn chính xác. Họ đã sử dụng sức mạnh để đòi hỏi quyền lợi. Elihu già buộc phải chấp nhận và nín nhịn chờ thời. Chuyện xảy ra vào năm 1921. Việc kinh doanh gặp khó khăn. Elihu già không quan tâm xem liệu có phải đóng cửa tạm thời hay không. Lão xé hết những bản thỏa thuận trước đó và đá đám công nhân trở lại tình trạng khó khăn trước thời chiến. Tất nhiên là các công nhân đã yêu cầu sự giúp đõ. Bill Quint được trụ sở chính của IWW ở Chicago cử đến để giải quyết tình hình. Anh ta phản đối bạo loạn hay đình công. Anh ta khuyên họ hãy sử dụng một mánh cũ, trở lại làm việc và phá hoại từ bên trong. Nhưng điều đó là không đủ với các công nhân của Personville. Họ muốn tên mình được biết đến, muốn tạo ra lịch sử. Vậy là bạo loạn nổ ra. Nó kéo dài tám tháng. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Chính các thành viên của Hiệp hội cũng phải đổ máu. Elihu già đã thuê các tay súng, lực lượng chống bạo loạn, vệ binh quốc gia và thậm chí là cả quân đội để chiến đấu cho mình. Khi đám tàn quân cuối cùng bị tiêu diệt, công đoàn của Personville chỉ còn là một xác pháo nổ tan tành. Nhưng, Bill Quint nói, Elihu già không biết gì về lịch sử nước Ý. Lão thắng, nhưng đã đánh mất quyền lực ở thành phố và tiểu bang. Để đánh bại đám thợ mỏ, lão đã để cho đám lính đánh thuê được tự do lộng hành. Khi cuộc chiến kết thúc, lão không thể loại bỏ chúng. Lão đã trao thành phố vào tay chúng và không đủ mạnh để lấy lại. Personville là một miếng mồi ngon và chúng đã chiếm lấy nó. Chúng giúp lão thắng cuộc chiến, và chiến lợi phẩm chúng yêu cầu là thành phố. Lão không thể công khai chống lại chúng. Chúng quá mạnh so với lão. Lão phải chịu trách nhiệm với những gì chúng đã làm trong cuộc bạo loạn. Khi câu chuyện tới được đó thì cả Bill Quint và tôi đều đã chếnh choáng. Anh ta bỏ kính xuống, gạt mớ tóc lòa xòa trước mặt và đưa câu chuyện về thì hiện tại: “Giờ kẻ mạnh nhất trong số chúng có lẽ là tay Pete Người Phần Lan. Thứ chúng ta đang uống đây cũng thuộc sở hữu của hắn. Rồi đến Lew Yard. Hắn có một tiệm cho vay trên phố Parker, chuyên thu tiền bảo lãnh và dính líu tới hầu hết các sự vụ nóng sốt của thành phố - đó là theo những gì người ta nói, và khá thân với Noonan - cảnh sát trưởng. Tay Max Thaler - biệt danh Kẻ Thầm Thì - cũng có rất nhiều bạn. Một gã da màu lươn lẹo có vấn đề ở cổ họng. Không thể nói được. Một tay cờ bạc. Ba kẻ đó, cùng với Noonan, đã giúp Elihu điều hành thành phố của lão - giúp nhiều hơn những gì lão muốn. Nhưng lão buộc phải hợp tác với chúng, hoặc là…” “Người bị bắn tối nay - con trai của Elihu - vị trí của anh ta là ở đâu?” Tôi hỏi. “Ông già đặt đâu thì gã ngồi đó, lúc nào cũng vậy.” “Ý anh là lão già đã khiến anh ta…?” “Có thể, nhưng tôi không cho là vậy. Tay Don đó chỉ vừa mới về nhà và bắt đầu điều hành tờ báo cho lão già. Lão quỷ già này, sắp xuống mồ đến nơi mà vẫn không để cho ai tóm đuôi mà không cắn lại. Nhưng lão phải cẩn trọng với đám kia. Lão đã mang con trai và người vợ quốc tịch Pháp của gã từ Paris về và sử dụng gã như một con khỉ trong rạp xiếc - một chiêu trò chết tiệt của một người cha. Don bắt đầu tiến hành cải tổ tờ báo. Dọn sạch sự tham nhũng và thối nát - đồng nghĩa với việc loại bỏ cả Pete, Lew và Kẻ Thầm Thì, đấy là nếu nó thành công. Anh hiểu rồi chứ? Nước cờ của lão già đã khiến chúng lâm vào thế bị động. Tôi đoán chúng chán chuyện đó rồi.” “Có gì đó sai sai trong suy đoán của anh.” Tôi nói. “Cái chốn đê tiện này còn cả đống thứ sai hơn nhiều. Uống đủ rồi chứ?” Tôi nói đã đủ. Chúng tôi xuống phố. Bill Quint bảo rằng anh ta đang ở trong khách sạn Miners trên đường Forest. Đường về của anh ta đi qua khách sạn của tôi, vậy nên chúng tôi đi cùng nhau. Có một gã cao lớn trông giống một tay cớm mặc thường phục đứng trước khách sạn của tôi, đang nói chuyện với một gã ngồi trong chiếc Stutz du lịch. “Trong xe là Kẻ Thầm Thì.” Bill Quint bảo tôi. Tôi bỏ qua người đàn ông lực lưỡng và thấy khuôn mặt trông nghiêng của Thaler. Hắn còn trẻ, da sậm và nhỏ con, với gương mặt đẹp như tượng tạc. “Hắn trông dễ thương đó.” Tôi nói. “Ừ hứ”, người đàn ông mặc đồ xám đồng ý, “và thuốc nổ cũng thế.” Mời các bạn đón đọc Mùa Gặt Đỏ của tác giả Dashiell Hammett & Nguyệt Minh (dịch).
Cú Săn Đêm
Tháng Mười. Mùa đông đến sớm như tấm mạng sương giá xám xịt phủ lên cả thành phố, và lên tấm thân lõa thể của cô gái mười bảy tuổi bị sát hại trong một nghi lễ kỳ dị vương đầy lông vũ. Một lần nữa, chỉ huy đội trọng án Holger Munch và nữ đồng nghiệp Mia Krüger dấn thân vào cuộc truy đuổi, đào sâu vào những bí mật ẩn giấu của một thành phố tưởng như êm đềm, đến với những tâm hồn tổn thương bị quên lãng, để rồi đưa sự nghiệp và thậm chí cả đời mình vào cuộc chơi của tên sát nhân bệnh hoạn. Cú săn đêm, tập tiếp theo trong series truyện về Holger Munch và Mia Krüger của Samuel Bjørk tiếp tục đưa độc giả đến với vùng đất Bắc Âu lạnh giá ẩn chứa nhiều bí mật rợn người. “Những tình tiết của Cú săn đêm không những thu hút, mà còn phức tạp như một ma trận, với vô vàn sự kiện xoay vần phi phường, khiến chúng ta không thể rời mắt cho tới tận phút cuối.” - Crime Scene Magazine *** Vốn có ấn tượng tốt với tác giả Samuel Bjork từ sau quyển “Tôi du hành một mình” (không hiểu sao Biển cứ nghĩ tác giả này là người Do Thái nhưng thật ra ông là người Na Uy), tuy từng đọc được review chê quyển “Cú săn đêm” nhưng Biển vẫn bất chấp mua về đọc, thật may rằng đây cũng là một câu chuyện hay, đáng đọc. Trong quyển “Cú săn đêm”, thi thể một thiếu nữ khoảng 16 tuổi được tìm thấy giữa đám lông vũ, hiện trường được xếp đặt như một nghi lễ hiến tế kỳ lạ. Chỉ huy đội trọng án Holger Much, nữ cảnh sát Mia Kruger và các đồng nghiệp khác đảm nhận việc phá án. Holger Munch phải cố gắng dành thêm thời gian cho gia đình, Mia Kruger phải vật vã cân bằng giữa cuộc sống hiện tại và những ký ức đau buồn trong quá khứ, những người khác trong đội trọng án cũng phải đương đầu và tìm cách vượt qua những khó khăn riêng của họ. Vụ án xoay chuyển theo hướng tồi tệ khi họ tình cờ nhận được sự hỗ trợ của một nhân vật tài giỏi bí ẩn…   Tuy thích trinh thám Bắc Âu nhưng Biển chưa có dịp đọc nhiều truyện thuộc thể loại này, tuy nhiên hầu như quyển trinh thám Bắc Âu nào Biển đọc, các nhân vật cũng nghiện rượu hoặc / và thuốc lá. Chẳng lẽ tại khí hậu Bắc Âu quá lạnh nên con người phải dựa vào chất cồn và thuốc lá để giữ ấm, giữ minh mẫn? Trinh thám TQ thì hay ca tụng nhân vật quá đáng, ai cũng long lanh lộng lẫy khí chất siêu phàm thoát tục, còn trinh thám phương Tây / Bắc Âu thì hay tả thực khuyết điểm của nhân vật đến mức gần như hạ thấp họ. Trong quyển “Cú săn đêm” này, nhiều lúc Biển bực bội với tính cách yếu đuối và sự thiếu kiểm soát bản thân của các nhân vật chính lẫn phụ. Holger Munch là ông già 60 mà đôi lúc còn suy nghĩ hành xử như một gã trai trẻ chưa hiểu chuyện đời; Mia Kruger có tài năng thiên bẩm trong việc phá án nhưng mãi chẳng thể vượt qua nỗi đau mất chị gái từ 10 năm trước, suốt ngày chỉ lạm dụng chất cồn và các loại thuốc, còn trẻ còn sống tốt mà cứ liên tục nghĩ đến chuyện tự tử để đoàn tụ với gia đình ở thế giới bên kia; còn một nhân vật phụ khác có gia đình êm ấm, người yêu hết lòng cưng chìu, thế mà ngoại tình và bị hãm hại nguy hiểm đến tính mạng… Đồng ý rằng trong tiểu thuyết nếu xây dựng nhân vật quá hoàn hảo thì sẽ bị rơi vào hình tượng Mary Sue (xin hãy Google để biết Mary Sue là ai) nhưng nếu bản thân đã là người có trách nhiệm / học vấn / địa vị / tài sản thì nên sống sao để có ích cho chính mình và sinh linh khác. Thân làm cảnh sát mà đầu óc cứ lơ mơ, hành xử bất cẩn, đến sống chết của mình còn chưa quản được thì làm sao cứu giúp người khác. Đây có lẽ là một trong những trường hợp Biển thích truyện của tác giả nhưng không thích nhân vật do tác giả xây dựng. Nhân vật Biển thích nhất trong quyển này là Kristian Karlsen. Về cốt truyện thì Biển thấy ổn, có lẽ sẽ có độc giả cho rằng quyển này dông dài lê thê nhưng ngoại trừ các đoạn viết hơi dư thừa về khuyết điểm của nhân vật thì tình tiết truyện đủ lôi cuốn, đọc không nhàm chán. Riêng đoạn kết Biển phải đọc hai lần mới biết ai là người qua đời. Bối cảnh là mùa đông Bắc Âu nên trong truyện có nhiều câu chữ và từ ngữ nói về cái lạnh, vừa là sự lạnh lẽo của thời tiết vừa là sự lạnh lùng trong lòng người. Truyện cũng khiến Biển nghĩ ngợi một chút về các thể loại hung thủ, có khi vì tuổi thơ bất hạnh dẫn đến đầu óc không bình thường, rối loạn nhân cách phản xã hội. Hung thủ như vậy dẫu đem xử tử thì vẫn thấy đáng thương. Như mọi khi, bìa sách của Nhã Nam vẫn rất hoàn hảo. Sách trình bày đẹp, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Tuy khá thích nội dung và văn phong của tác giả Samuel Bjork nhưng nếu các quyển sau vẫn là nhân vật Mia Kruger nghiện rượu nghiện thuốc và thích tìm chết thì khả năng 50% là Biển sẽ không đọc tiếp, trừ khi cốt truyện quá xuất sắc. – Biển *** LỜI DẪN Vào một ngày thứ Sáu mùa xuân năm 1972, lúc cha xứ thành phố Sandefjord đang khóa cửa nhà thờ, một cuộc viếng thăm bất ngờ đã khiến ông phải mở cửa phòng làm việc lâu thêm một chút. Ông chưa từng gặp cô gái, nhưng ông nhận ra chàng trai. Anh ta là con cả của một trong những người đáng kính nhất trong thành phố, một tay trùm vận tải không những thuộc hàng giàu nhất Na Uy mà còn là người ủng hộ trung thành của nhà thờ, và bằng sự hào phóng của mình, bên cạnh nhiều điều khác, mười năm trước đã cho làm một bức tranh thờ lớn bằng gỗ gụ chạm khắc mười bảy cảnh đời của Chúa Jesus, một tác phẩm trang trí khiến vị cha xứ rất đỗi tự hào. Cặp đôi trẻ có một đề nghị đặc biệt. Họ muốn thành hôn, nhưng họ muốn cha xứ chủ trì nghi lễ và không có bất kỳ ai khác hiện diện. Đề nghị đó không có gì khác thường, nhưng lý do đằng sau nó thì lại kỳ lạ đến nỗi ban đầu, cha xứ tưởng cặp đôi hắn đang nói đùa. Nhưng ông hiểu tay trùm vận tải, ông biết rõ hắn sùng đạo và bảo thủ đến mức nào, và ông bắt đầu nhận ra cặp đôi trẻ quả thật nghiêm túc. Sức khỏe của tay trùm vận tải dạo gần đây không được tốt, có lời đồn hắn đang nằm chờ chết. Chàng trai trẻ đang ngồi trước mặt ông sẽ sớm được thừa kế một cơ nghiệp kếch xù; tuy nhiên, bố anh ta đã đính kèm một điều kiện vào quyền thừa kế: không giọt máu ngoại tộc nào được trộn lẫn với huyết thống gia đình. Người phụ nữ kết hôn với người kế nghiệp, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không được phép có con riêng từ những mối quan hệ trước. Mà rắc rối lại nằm ở đó. Người phụ nữ trẻ mà con trai của tay trùm vận tải đang yêu say đắm đã có con riêng từ cuộc hôn nhân trước. Một cô bé hai tuổi và một cậu nhóc đã lên bốn. Bọn trẻ sẽ được giấu đi xa, và khi đó vị cha xứ có thể lặng lẽ làm lễ thành hôn cho cặp đôi để có vẻ như cô dâu đáp ứng được yêu cầu của tay trùm vận tải, và sẽ không có ai nổi hứng tìm cách khui ra sự thật. Liệu việc đó có khả dĩ? Đây là kế hoạch mà cặp đôi đã vạch ra: chàng trai có một người họ hàng xa ở Úc. Bà ta hứa sẽ chăm sóc bọn nhỏ cho đến khi tay trùm vận tải qua đời. Một năm nữa, hoặc có lẽ là hai, và sau đó lũ trẻ có thể trở lại Na Uy. Ai mà biết được chứ, tay trùm vận tải có khi sẽ lên cổng thiên đàng sớm hơn dự kiến. Vị cha xứ nghĩ sao? Liệu ông có sẵn sàng giúp đỡ họ lúc cần? Vị cha xứ giả bộ như đang phân vân về đề nghị của họ, nhưng thật ra ông đã có quyết định. Chiếc phong bì mà chàng trai kín đáo để trên bàn rất dày, và tại sao lại không giúp đôi tình nhân trẻ chứ? Xét cho cùng, đòi hỏi của tay trùm vận tải quá mức vô lý, chẳng phải vậy sao? Cha xứ đồng ý làm lễ cho cặp đôi, và một tuần sau đó, trong buổi lễ nhỏ tổ chức tại nhà thờ đóng kín cửa, phía trước bức tranh thờ hoành tráng, họ đã thành hôn. Chưa đầy một năm sau, tháng Một năm 1973, cha xứ lại được viếng thăm lần nữa, lần này, người phụ nữ trẻ đến một mình. Rõ ràng cô đang rất bất an và thú nhận với ông cô không biết trông cậy vào ai khác. Tay trùm vận tải già đã qua đời, nhưng có điều gì đó không ổn. Cô không nghe được bất kỳ tin tức nào về bọn trẻ. Người ta hứa cô sẽ nhận được ảnh, thư, nhưng lại chẳng có gì hết, không một chữ nào, và cô bắt đầu nghi ngờ không biết người họ hàng xa ở Úc này có thật sự tồn tại hay không. Cô còn giãi bày với ông rằng người đàn ông cô lấy làm chồng hóa ra không như cô vẫn tưởng. Họ đã bất hòa đến mức không thèm nói chuyện với nhau, cũng không còn ngủ chung; anh ta có nhiều bí mật, những bí mật đen tối, những điều thậm chí cô còn không thể nói thành lời; những điều cô thậm chí khó có thể nghĩ tới. Liệu cha xứ có thể giúp cô? Ông trấn an cô, cam đoan là tất nhiên ông sẽ giúp, rằng ông sẽ cẩn thận suy nghĩ mọi chuyện, rồi ông dặn cô mấy ngày sau quay lại. Sáng hôm sau, người ta phát hiện ra thiếu phụ này đã chết, gục trên vô lăng trong xe hơi của mình giữa khe núi sâu gần căn nhà sang trọng của gia đình tay trùm vận tải tại Vesteroya, ngoài trung tâm Sandefjord. Báo chí bóng gió rằng người phụ nữ có thể đã lái xe khi đang say rượu, và cảnh sát quả thật đã xem cái chết của cô là một tai nạn thương tâm. Sau khi giúp đỡ gia đình thu xếp tang lễ, cha xứ quyết định tới thăm tay trùm vận tải trẻ tuổi. Ông giải thích, đúng theo sự thật, là người phụ nữ trẻ đã đến gặp ông hôm trước vụ tai nạn. Rằng cô rất lo lắng cho những đứa con của mình. Rằng có điều gì đó, chậc, có điều gì đó không hợp lý. Tay trùm vận tải trẻ lắng nghe và gật đầu. Giải thích rằng, buồn thay, dạo này vợ anh ta đang bệnh nặng. Phải uống thuốc. Uống rượu vô độ. Xét cho cùng, chính cha xứ đã chứng kiến cái kết cục bi thảm rồi đấy. Tay trùm vận tải trẻ viết một con số lên mẩu giấy rồi đẩy nó sang phía bên kia bàn làm việc. Thị trấn này chắc hẳn quá nhỏ đối với cha xứ? Chẳng phải sẽ tốt hơn nhiều nếu ông phụng sự Chúa ở một nơi khác, có lẽ gần thủ đô hơn? Cha xứ đứng lên khỏi ghế, và đó là lần cuối cùng ông gặp tay trùm vận tải trẻ tuổi và quyền lực. Vài tuần sau ông thu dọn hành lý. Ông không bao giờ đặt chân trở lại Sandefjord nữa. Trên sofa, cô gái nhỏ cố hết sức nằm yên dưới tấm chăn, đợi những đứa trẻ khác chìm vào giấc ngủ. Em đã quyết định. Tối nay, em sẽ làm việc đó. Em sẽ không phải sợ hãi nữa. Không phải chờ đợi nữa. Em đã bảy tuổi và đã người lớn lắm rồi. Em sẽ rời đi ngay khi trời vừa tối. Em đã không nuốt viên thuốc ngủ dành cho tối nay. Chỉ đẩy nó xuống dưới lưỡi, giữ nó ở đấy trong lúc em cho dì Julia thấy em ngoan như thế nào. “Cho dì xem nào.” Lè lưỡi ra. “Ngoan lắm. Người tiếp theo.” Anh trai em đã làm thế này một thời gian dài. Kể từ khi họ nhốt cậu vào trong hầm đất nện. Tối nào cậu cũng giấu viên thuốc dưới lưỡi chứ không nuốt. "Cho dì xem nào.” Lè lưỡi ra. “Ngoan lắm. Người tiếp theo.” Ba tuần trong bóng tối vì không chịu xin lỗi. Tất cả bọn trẻ đều biết cậu không làm gì sai, nhưng người lớn vẫn luôn nhốt cậu vào hầm. Kể từ lúc đó cậu đã thay đổi. Mọi tối cậu đều giấu viên thuốc dưới lưỡi chứ không nuốt, và khi viên thuốc của em bắt đầu phát huy tác dụng và em dần chìm vào giấc ngủ, em sẽ nhìn thấy cái bóng của cậu nhón chân rời khỏi phòng rồi biến mất. Cô gái nhỏ đợi cho đến khi nghe ra bọn nhóc đã chìm vào giấc ngủ rồi lẻn ra khỏi nhà. Trời đã vào đông nhưng vẫn còn ấm áp, hoàng hôn đã nhẹ nhàng buông xuống giữa những tán cây. Cô gái nhỏ đi chân trần băng qua khu vườn, nép mình trong bóng tối cho đến khi được cây cối che khuất. Sau khi chắc chắn mình sẽ không bị phát hiện, em chạy dọc con đường nhỏ nằm giữa những hàng cây cổ thụ hướng về phía cánh cổng mang dòng chữ “Kẻ xâm phạm sẽ bị truy tố”. Đây là nơi em quyết định bắt đầu cuộc tìm kiếm. Em đã nghe anh trai và một thằng nhóc khác thì thầm về nó. Một nhà kho cũ đổ nát, một cabin nhỏ bị bỏ quên nằm tít tận phía bên kia khu đất, nhưng em chưa bao giờ tận mắt thấy. Ngày nào cũng vậy, chúng luôn bị đánh thức vào sáu giờ sáng và lên giường vào chín giờ tối. Luôn là một quy trình giống nhau, không có sự thay đổi, với hai lần nghỉ mười lăm phút giữa các tiết học, bài tập về nhà, yoga, giặt giũ và đủ mọi việc vặt phải hoàn thành. Cô gái nhỏ mỉm cười trước tiếng dế kêu, và em cảm thấy những ngọn cỏ mềm mại đang mơn trớn bàn chân khi em rời khỏi con đường mòn và di chuyển thận trọng dọc hàng rào đến nơi em chắc mẩm cái cabin tọa lạc. Chẳng hiểu vì sao, em không sợ hãi. Em cảm thấy lâng lâng; nỗi khiếp sợ phải một lúc nữa mới đến; ngay bây giờ, em thấy hạnh phúc, tự do như một chú chim, một mình với những suy nghĩ trong khu rừng xinh đẹp tỏa mùi dễ chịu. Em cười rạng rỡ, lướt ngón tay bên trên một cái cây nhỏ giống hình ngôi sao; cảnh tượng gần giống như em thường mơ những khi viên thuốc ngủ không phát huy hết công dụng. Em vội thụp xuống bên dưới một cành cây và thậm chí không dám nhảy dựng lên khi nghe thấy tiếng sột soạt ở bụi cây gần đó. Có lẽ một con gấu túi đã đánh bạo trèo từ trên cây xuống. Em cười khúc khích một mình và tự hỏi không biết nếu vỗ về một con gấu túi thì sẽ như thế nào. Em biết chúng có móng vuốt sắc bén, và không được âu yếm cho lắm, nhưng em vẫn cố gắng tưởng tượng ra những xúc cảm khi xọc tay vào bộ lông mượt mà ấm áp của chúng, khi cái mũi mềm mại cù vào cổ em. Em suýt chút nửa quên mất lý do mình ra ngoài, nhưng rồi bỗng nhiên em nhớ ra và dừng khựng khi bức tường cabin xuất hiện ngay phía trước. Cô gái nhỏ nghiêng đầu chăm chú nhìn những tấm ván gỗ màu xám. Vậy ra nó có thật. Có một nơi ở trong rừng. Một nơi ta có thể ẩn náu. Được ở một mình. Em rón rén bước tới gần ngôi nhà gỗ và cảm thấy một niềm phấn khích râm ran khắp cơ thể khi em tiến dần đến cửa. Cô gái nhỏ không hề biết cảnh tượng đang đợi phía trước sẽ thay đổi cuộc đời em mãi mãi, và nó sẽ ám ảnh em hàng đêm suốt bao nhiêu năm tháng sắp tới: dưới tấm chắn trên chiếc sofa cứng, trên chuyến bay xuyên lục địa sau khi cảnh sát phát hiện ra những đứa trẻ đang kêu khóc, dưới chiếc chăn lông vịt trên chiếc giường êm ái tại một đất nước mới, nơi những âm thanh đều khác biệt. Em không biết gì về chuyện này khi với tay về phía nắm đấm cửa bằng gỗ và từ từ mở cánh cửa cọt kẹt. Bên trong tối thui. Mất một vài giây mắt em mới có thể nhìn rõ, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa. Lúc đầu chỉ là những đường nét mơ hồ, rồi mọi thứ trở nên rõ ràng hơn, cậu đang ở trong nhà. Anh trai em. Cậu không mặc quần áo. Cậu hoàn toàn trần truồng. Trần truồng, nhưng cơ thể lại được bao phủ bởi… lông vũ? Cậu co rúm trong góc, giống như một con chim, một sinh vật vặn vẹo từ thế giới khác, miệng ngậm gì đó. Một con thú nhỏ. Một con chuột? Anh trai em người phủ đầy lông vũ và đang ngậm một con chuột chết giữa hai hàm răng. Đây sẽ là hình ảnh thay đổi cuộc đời em mãi mãi. Anh trai em từ từ quay lại nhìn em, đôi mắt ngập tràn vẻ băn khoăn, như thể không nhận ra em là ai. Ánh sáng xuyên qua cái cửa sổ bẩn thỉu chiếu xuống đôi bàn tay phủ lông vũ của cậu, lúc này đang chậm chạp cử động trong không trung. Miệng cậu ngoác ra thành một nụ cười toe toét để lộ hàm răng trắng bóc trong lúc cậu lấy con chuột trong miệng ra, đôi mắt tái dại nhìn thẳng vào mắt em và nói, “Tôi là con cú.” Mời các bạn đón đọc Cú Săn Đêm của tác giả Samuel Bjørk.
Người Vệ Tinh
Oslo, năm 1969. Khi thanh tra cảnh sát trẻ tuổi Kolbjørn Kristiansen (còn gọi là K2) nhận được thông báo một tỉ phú đã gục chết trong bữa tiệc tối, anh vô cùng bàng hoàng. Bởi nạn nhân chính là Magdalon Schelderup, doanh nhân giàu có và là cựu chiến binh Kháng chiến, chỉ mới liên lạc với anh trước đó một ngày vì lo sợ mạng sống của mình đang bị đe dọa. Đây là cuốn tiểu thuyết thứ hai nằm trong xêri về bộ đôi K2 và Patricia của tác giả Hans Olav Lahlum dành tặng cho nữ hoàng trinh thám cổ điển Agatha Christie. Sau khi nổi tiếng nhờ phá thành công vụ án Người ruồi (với sự trợ giúp đắc lực từ Patricia Borchmann, cô gái 19 tuổi ngồi xe lăn nhưng có trí óc phán đoán siêu phàm), thanh tra cảnh sát trẻ tuổi Kolbjørn Kristiansen (gọi tắt là K2) nhận được cú điện thoại bất ngờ của tỷ phú Magdalon Schelderup muốn hẹn gặp anh vì ông ta cam đoan một trong những người gần gũi và thân thiết nhất của mình âm mưu sát hại ông vào tuần tới! Ngày hôm sau, K2 nhận được cuộc gọi thông báo Magdalon đã bị đầu độc chết trong bữa tiệc tại nhà riêng của chính ngài tỷ phú. Mười thực khách trong bữa tối đó gồm những người thân thiết của nạn nhân: người vợ hiện tại và con gái của bà, người vợ cũ, hai người con trai, cô thư ký riêng, em gái nạn nhân, giám đốc điều hành và cặp vợ chồng là đồng đội cũ từng cùng tham gia Kháng chiến với nạn nhân. K2 ngay lập tức thẩm vấn các nghi phạm và anh vô cùng bối rối trước sự dối trá trong lời khai của tất cả mười nhân chứng. Trong khi vụ án vẫn chưa được điều tra làm rõ thì hai người khác trong bữa tiệc lần lượt bị giết chết khiến vụ án càng đi vào ngõ cụt. Viên thanh tra buộc phải nhờ đến sự trợ giúp của cô gái 19 tuổi ngồi xe lăn Patricia để làm sáng tỏ nhiều bí ẩn về Magdalon và những người vệ tinh quanh ông ta, luôn chịu sự ảnh hưởng và chi phối của ông ta dù nạn nhân đã chết. Cốt truyện và nhân vật của cuốn tiểu thuyết Người vệ tinh lấy cảm hứng từ người thực. Tuy nhiên, các sự kiện xảy ra trong Thế chiến II và trong năm 1969 không dựa trên thực tế lịch sử. Với tình cảm tôn quý dành cho nữ hoàng trinh thám Agatha Christie và tinh thần làm việc bền bỉ, sáng tạo, một lần nữa tác giả Hans Olav Lahlum đã ghi được dấu ấn của mình trong thể loại trinh thám cổ điển với câu chuyện lôi cuốn về những số phận và tiểu sử khác nhau của nhiều người. *** Hans Olav Lahlum là một sử gia Na Uy, tác giả tội phạm, người chơi cờ vua và nhà tổ chức, và chính trị gia. Ông đã viết tiểu sử về Oscar Torp và Haakon Lie, và một cuốn sách lịch sử về tất cả các tổng thống của Hoa Kỳ.  Khi viết quyển tiểu thuyết trinh thám lịch sử này tôi đã vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của một nhà sử học, và đã cố gắng hết sức chân thật trong ngữ cảnh liên quan đến các sự kiện vào năm 1968 và Thế chiến thứ Hai. Tuy nhiên, người viết quyển tiểu thuyết này dù sao cũng là nhà văn Hans Olav Lahlum, chứ không phải nhà sử học cùng tên vốn được biết đến nhiều hơn. Và tôi cũng sử dụng sự tự do nghệ thuật mà các tác giả vẫn thường xuyên sử dụng. Tên các địa điểm và những con phố là chính xác, nhưng hầu hết những tòa nhà được đề cập đều là sản phẩm của trí tưởng tượng. Do đó, độc giả đặc biệt quan tâm sẽ có thể tìm thấy cả hai con phố Krebs và Erling Skjalgsson, nhưng sẽ không có những số nhà hoặc tòa nhà được mô tả trong quyển tiểu thuyết này. Tương tự như vậy, không thể tìm thấy một đồn cảnh sát ở Salen với cùng địa hình xung quanh hoặc cùng một kiến trúc như đã được mô tả trong chương Chín. Một vài nhân vật phụ đã được lấy cảm hứng trực tiếp từ những nhân vật lịch sử. Còn lại, tất cả những nhân vật chính, bao gồm cả nạn nhân vụ án, ông Harald Olesen, hoàn toàn là sản phẩm tưởng tượng của tác giả và không dựa trên bất kỳ nhân vật lịch sử nào, dù là của năm 1968 hay trong Thế chiến thứ Hai. Và đối với một vài nhân vật phụ được lấy cảm hứng từ nhân vật lịch sử kia, phải nhấn mạnh rằng sự miêu tả văn chương không dựa trên bất kỳ liên quan nào với một cuộc điều tra hình sự. Vụ án Feldmann, vốn được đề cập ngắn gọn trong tiểu thuyết này, là một trường hợp pháp lý được bàn tán rộng rãi từ năm 1946 đến 1947, trong đó hai người cựu dẫn đường qua biên giới bị kết tội sát hại một cặp vợ chồng người Do Thái trong chiến tranh với lí do tự vệ. Việc này đã được sử dụng như cứ liệu lịch sử cho quyển tiểu thuyết này, nhưng không tương ứng với cốt truyện hay bất kỳ nhân vật nào. Tuy nhiên, một vài nhân vật được lấy cảm hứng hoàn toàn hoặc một phần từ những người mà tôi biết ngày hôm nay - kể cả bản thân tôi. Trưởng bộ phận tiểu thuyết của nhà xuất bản Cappelen Damm, Anne Tlotaker, đã là người cố vấn quan trọng nhất của tôi về cả nội dung và bút pháp của quyển tiểu thuyết này. Tôi cũng nhận được những phản hồi hữu ích từ nhà phụ trách xuất bản, Anders Heger và biên tập viên Marius Wulfsberg. Tôi cũng muốn gửi ngàn lời cảm ơn đến một nhóm những cố vấn cá nhân, những người đã đọc tất cả các phần của bản thảo và cho tôi những lời phê bình mang tính xây dựng về mặt nội dung và/hoặc ngôn ngữ. Nhóm này bao gồm em gái tôi Ida Lahlum, cùng những người bạn tốt của tôi: Ingrid Baukhol, Mina Finstad Berg, Ingrid Busterud, Anne Lise Fredlund, Kathrine Ncess Hald, Hilde Harbo, Kristin Hatledal, Bjarte Leer-Salvesen, Torstein Lerhol, Espen Lie, Ellisiv Reppen, Jane Iren Solbrekken-Nygard, Karen Thue, Arne Tjolsen và ICatrine Tjolsen. Ellisiv và Mina cũng xứng đáng được nhắc đến, đặc biệt do mối quan tâm liên tục của họ đến dự án này và sự giúp đỡ thiết thực của họ trong những lần sửa bản thảo cuối cùng. Chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết liệu quyển tiểu thuyết trinh thám đầu tay này của tôi cũng sẽ là quyển cuối cùng hay nó sẽ khởi đầu của một chuỗi những tiểu thuyết trinh thám lịch sử. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể hy vọng rằng Người Ruồi cũng sẽ hấp dẫn người đọc như nó đã từng lôi cuốn tác giả. Độc giả có bất kỳ bình luận hoặc câu hỏi nào cho tác giả chỉ cần gửi email đến địa chỉ [email protected] hoặc đăng chúng lên trang Facebook của tôi. *** Ông tỷ phú đột tử ngay trong bữa tối và mười thực khách lập tức bị đưa vào vòng nghi vấn. Hai người vợ cũ và cô thư ký đang mang thai đứa con của ông. Hai người con trai, một cô con gái. Một bà em gái của tỷ phú. Ba người bạn từ thời chống phát xít Đức trong chiến tranh thế giới II. Ông tỷ phú bị dị ứng với lạc và ai là người đã rắc bột lạc vào đĩa thức ăn của ông, khiến ông bị lên cơn đau tim và chết ngay lập tức? Ngay trước khi ăn, ông đã nghi ngờ đĩa thức ăn bị bỏ độc và ra lệnh cho cậu con trai thứ hai ăn thử. Cho nên anh con trai là nghi phạm đầu tiên. Nhưng án mạng không chỉ dừng lại đấy. Thủ phạm giấu mặt còn tiếp tục đe dọa tính mạng của những người khác đã có mặt trong bữa tiệc. Viên thanh tra trẻ vào cuộc, với sự giúp đỡ của một cô gái mười chín tuổi. Điều đặc biệt ở cô gái này là cô ngồi trên xe lăn, hầu như không ra khỏi phòng mình. Nhưng cô có tài phân tích thiên bẩm và nhờ sự phân tích tội phạm của cô mà thanh tra đã dần dần gỡ mối giữa mê cung mười nghi phạm, giữa vụ án hiện tại và nghi án ám sát đồng đội kháng chiến, từ hai mươi lăm năm trước. Tiểu thuyết vì vậy ít đánh đấm mà thiên về phân tích, lập luận, phán đoán, để tìm ra logic của những sự việc. Nhân vật thanh tra cũng không phải là người hùng siêu nhân, mà trong nhiều tình huống cũng hoảng loạn và tê liệt khi linh cảm thủ phạm đang ẩn nấp trong bóng tối và đưa anh vào tầm ngắm. Anh cũng phạm nhiều sai lầm trong quá trình điều tra, và rất yếu mềm trước cô con gái mười tám tuổi của ông tỷ phú đã chết… Hơn một thập kỷ qua, văn chương Bắc Âu đã vượt thoát thời kỳ tẻ nhạt để bắt đầu nở rộ, đặc biệt trong thể loại trinh thám. Những nhà văn như Jo Nesbo đã tạo ra bứt phá để được người đọc chú ý. Cũng là người Na Uy, Hans Olav Lahlum không phải là con chim đầu đàn như Jo Nesbo, nhưng sách của ông cũng được đón nhận ở nhiều nước. Điều đặc biệt, đây là cuốn sách cuối cùng mà chị Thanh Vân dịch. “Người đàn bà dịch sách” này đã dịch hơn bảy chục cuốn, trong đó có Chúa trời của những chuyện vụn vặt, Những cây cầu ở quận Madison, Hồi ức của một geisha và một số tác phẩm của nhà văn đoạt giải Nobel J. M. Coetzee… Sáu năm qua, chống chọi với bệnh ung thư, chị vẫn miệt mài làm việc và dịch được thêm năm cuốn sách dày dặn. Chị ra đi đúng vào dịp giãn cách xã hội do dịch virus Corona. Sau khi hết giãn cách, người nhà tìm thấy số điện thoại và địa chỉ của bạn bè chị, thay mặt chị gửi tặng cuốn sách cuối cùng mà chị dịch. Đó chính là bản dịch tiểu thuyết Người vệ tinh này. *** Người vệ tinh là cuốn tiểu thuyết trinh thám tiếp theo trong series về bộ đôi K2 và Patricia của Hans Olav Lahlum, nhà sử học, nhà văn người Na Uy. Ngay khi ra mắt, cuốn sách đã thu hút đông đảo độc giả hâm mộ trung thành của phong cách trinh thám suy luận cổ điển. CÁI CHẾT BẤT THƯỜNG VỚI 10 NGHI PHẠM Người vệ tinh mở đầu bằng cái chết của vị tỷ phú Magdalon Schelderup. Điều đáng nói là trước đó một ngày, như tiên liệu trước cái chết của mình, ông đã liên lạc với thanh tra trẻ tuổi K2 rằng mình sẽ bị sát hại. Một cái chết bất thường với số nghi phạm lên tới 10 người. Điều quan trọng hơn là lời khai của bọn họ đều lấp lửng và ai cũng có động cơ để giết người. Tiếp tục hợp tác với Patricia như trong Người ruồi, K2 và người cộng sự của mình sẽ cùng phá vụ án hóc búa này như thế nào đây? Mình không thích những cuốn sách trinh thám cổ điển cho lắm nhưng phải thừa nhận rằng, Người vệ tinh mang đến cho mình một cảm giác rất tuyệt. Một K2 là thanh tra đã có kinh nghiệm phá nhiều vụ án nhưng rất hấp tấp, nóng vội, dễ dàng đưa ra kết luận. Đối lập với anh là Patricia, một cô gái luôn phải ngồi xe lăn, suốt ngày ôm mình đọc sách, không có kinh nghiệm thực chiến. Thế nhưng Patricia lại lí trí và tỉnh táo hơn bao giờ hết. Những cái bẫy, mưu mô có thể đánh lừa được K2 nhưng Patricia thì không. Cũng chính sự đối lập này mà cách thức phá án của Người vệ tinh không hề khô khan như các cuốn sách khác cùng thể loại. Hai người cùng tương tác, bổ trợ cho đối phương và cùng nhau đem sự thật phơi bày ra ánh sáng. Tuy thời gian phá án rất nhanh nhưng trong mấy ngày này, sự hoang mang, lo lắng và cả sợ hãi liên tục bủa vây lấy K2 và Patricia. Những cuộc chạm trán, đối đầu của K2 và Patricia với tên sát nhân sẽ khiến bạn hồi hộp và nghẹt thở vì quá gay cấn và kịch tính. Những cú twist được bật mí sẽ khiến bạn há hốc và kinh ngạc trước tài năng của tác giả đấy. Bạn mình từng chia sẻ với mình rằng Hans Olav Lahlum xây dựng nhân vật K2 và Patricia khá giống với bộ đôi huyền thoại của làng trinh thám – Sherlock Holmes và Watson (series Sherlock Holmes đình đám) và mình cũng nghĩ vậy. Một nửa nóng vội nhưng cũng rất quyết đoán, nửa kia lại bình tĩnh, luôn suy xét cẩn thận, như nguyên tắc bù trừ vậy. THIỆN ÁC, HIỆN TẠI – QUÁ KHỨ SONG HÀNH Trên hành trình truy tìm hung thủ ấy, không chỉ manh mối, bí ẩn về cái chết ở hiện tại – Magdalon Schelderup mà quá khứ – những người đã chết từ thời Chiến tranh Thế giới thứ 2 cũng dần dần được hé lộ. Vốn là một nhà sử học, việc Magdalon Schelderup lồng ghép yếu tố lịch sử vào Người vệ tinh cũng không quá lạ. Đây cũng là một điểm cộng rất lớn cho cuốn sách này, bởi không nhiều cây viết có thể làm như vậy. Quả nhiên, thiện ác, tốt xấu, tất cả đều chỉ là lằn ranh giới mong manh của mỗi chúng ta, chỉ cần mất tự chủ một chút, tự khắc ta đã tự biến mình thành kẻ xấu lúc nào không hay… Nhiều người tài giỏi và quyền lực, dù cố tình hay không, đều khuyến khích người khác xoay quanh họ như các vệ tinh. Magdalon Schelderup chắc chắn là người như thế, và rõ ràng không có bất kỳ một sự chống đối nào. Kết quả là cả mười thực khách này đã chuyển động quanh ông ta trong nhiều năm theo các quỹ đạo khác nhau của riêng mình. Họ là những cá nhân vì một lý do cá nhân nào đó cứ quay quanh người khác theo một quỹ đạo nhất định là khái niệm của “người vệ tinh” được Hans Olav Lahlum sử dụng trong cuốn sách này. 10 nghi phạm ấy tựa như mười vệ tinh quay quanh nạn nhân Magdalon Schelderup với những mối quan hệ, gắn bó mật thiết. Nhưng rồi, cũng có những vệ tinh chệch khỏi quỹ đạo ấy và đâm sầm vào nhau. KẾT Người vệ tinh không phải là cuốn sách trinh thám hay nhất mình từng đọc nhưng xét về các tình tiết, nội dung thì chắc chắn đây là cuốn sách đứng top trong mình. Theo mình thì Người vệ tinh không đơn thuần chỉ là một cuốn sách trinh thám. Và mình biết rằng, “người vệ tinh” tồn tại trong xã hội này rất nhiều, thậm chí nó rất gần gũi và ngay trước mắt chúng ta. Cho dù thế nào đi nữa, hay luôn là chính mình, đừng để bản thân chịu sự chi phối của người khác. Là tốt hay xấu, tất cả đều do chính bạn lựa chọn. Hãy đọc Người vệ tinh và phiêu lưu trong hành trình truy tìm chân tướng cùng mình nhé. Chắc chắn cuốn sách này sẽ không khiến bạn thất vọng đâu.   Mời các bạn đón đọc Người Vệ Tinh của tác giả Hans Olav Lahlum & Đinh Thanh Vân (dịch).
Hạn Chót Lúc Bình Minh
Nàng - một cô gái với giấc mơ tan vỡ. Chàng - một người với bản án tù đang treo lơ lửng trên đầu. Hai con người nhỏ bé, bị mắc kẹt nơi thành phố hoa lệ này. Số phận đưa đẩy họ gặp nhau. Cả hai cùng hẹn ước sẽ rời khỏi chốn đau khổ này trên chiếc xe buýt khởi hành vào lúc bình minh. Nhưng khoảng cách ngăn giữa họ và điểm hẹn đó là một vụ án mạng bí ẩn, buộc họ phải tìm ra kẻ sát nhân trước 6 giờ sáng, trước khi hạn chót điểm. Trích dẫn hay: “Nó giống như một xoáy nước. Nếu anh ở yên trong tâm của nó, không tìm cách thoát ra, anh sẽ không cảm thấy gì hết. Nhưng khi anh tới quá gần rìa ngoài, cố gắng tìm một lối ra, chính lúc đó nó sẽ cuốn anh vào trong trở lại.” “Ước thì có ích gì chứ? Bạn sẽ chẳng được gì. À, vậy thì có hại gì chứ? Bạn cũng sẽ chẳng mất gì.” “Cuộc đời thật giống một cái bập bênh. Mỗi khi một người lên cao, một người khác ở đầu kia sẽ phải xuống thấp.” “Mấy cái kim đồng hồ này sẽ tiếp tục chạy nhưng không phải là vì chúng ta. Chúng ta cần phải rời khỏi đây khi trời sáng.” *** Reviewer: Điền Yên - vuonbachhop.wordpress.com Woolrich chưa bao giờ khiến tôi thất vọng. Mỗi lần đọc truyện của ông, tôi luôn tự hỏi tại sao trinh thám lại có thể trữ tình đến thế. Mà thậm chí còn không phải loại trinh thám kiểu yêu đương như ngôn tình trinh thám, mà là trinh thám đen – màu sắc của tác phẩm luôn u ám với bi kịch của nhân vật. Nhân vật chính của Hạn chót lúc bình minh là hai con người cô đơn nơi phồn hoa đô hội. Cô gái – Bricky – hàng đêm lên gót về căn phòng trọ tồi tàn, mệt mỏi rã rời với mảnh vụn của giấc mơ tan vỡ. Cô vốn muốn trở thành diễn viên Broadway nhưng cuối cùng chỉ có thể bán những vũ điệu của mình giá 5 cent một bản, trong vũ trường hằng đêm. Cô vẫn gửi thư về nhà báo với mẹ rằng con ổn, công việc rất tốt, cùng vài tờ đô la “đẫm máu”. Bricky gặp Quinn khi anh ngơ ngác và lạc lối. Họ tình cờ phát hiện cả hai sống cùng một khu phố – nơi họ đã từ bỏ sau lưng. Tôi vô cùng thích trường đoạn này, khi Woolrich viết về cuộc sống tỉnh lẻ một cách đơn giản, đẹp đẽ mà đầy nuối tiếc. Họ đã lay lắt ở thành phố quá lâu, không đủ can đảm rời bỏ nó một mình; mãi cho đến khi gặp nhau, nhưng dường như đã trễ. Quinn và Bricky vô tình bị cuốn vào một vụ án mạng. Nếu họ không kịp tìm ra thủ phạm thực sự thì sẽ không kịp chuyến xe buýt về quê – chuyến xe mà họ chờ đợi đã lâu, chuyến xe họ phải dùng hết dũng khí mới dám bước lên. Tác phẩm này cho thấy ai cũng có thể trở thành thám tử thần sầu khi họ bị dồn vào đường cùng. Một cô gái nhảy, một anh thợ sửa ống nước (thực ra anh sửa mọi thứ) phát huy khả năng quan sát, suy luận, giao tiếp đến mức lô hỏa thuần thanh. Những chi tiết cực kỳ nhỏ mà chắc chỉ có chuyên viên khám nghiệm hiện trường mới không bỏ sót cũng được họ khai thác triệt để. Hai người lần theo dấu vết, khi tưởng như tóm được thủ phạm đến nơi thì tác giả lại twist cho một nhát quay về điểm xuất phát. Tình tiết dồn dập khi truy bắt thủ phạm lại chùng xuống như gánh nặng ngày càng đè lên vai hai nhân vật chính khiến tôi vừa thở hắt ra như thể mới đọc xong một câu chính tả dài không dấu chấm phẩy, vừa nín hơi chuẩn bị tinh thần bước vào một trường đoạn hồi hộp khác. Đầu mỗi chương đều được minh họa bằng một cái đồng hồ, kim phút dịch chuyển ngày càng sát 6h. Cuộc chạy đua với thời gian của Quinn và Bricky có kịp cán đích đúng giờ hay không? Với trinh thám đen thì chẳng thể đoán được. Tác giả có thể cho họ HE, cũng có thể thẳng tay dồn họ vào ngõ cụt. Kết quả thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ ????)) *** “Tôi không biết nữa, có lẽ bản chất của con người chỉ có thể hoặc thành thật hoặc lươn lẹo, và người ta không thể đột ngột thay đổi từ thế này sang thế kia mà không phải trải qua đau đớn chất chồng” – Thể loại: Trinh thám đen, trinh thám cổ điển – Chấm điểm: 8.5/10 Hóa ra không phải cứ trinh thám cổ điển là khó đọc, và không phải cứ trinh thám đen thì không phải là một truyện trinh thám đầy logic. Mình chưa bao giờ thấy thất vọng về Cornell Woolrich. Và dù lâu không đọc nhiều trinh thám nữa, nhưng Hạn chót lúc bình minh đạt độ hay cả về tình tiết, cách giải quyết, tình cảm tính logic của trinh thám, ngay cả câu từ không thể hay hơn. Với nội dung xoay quanh Bricky và Quinn, 2 thanh niên lạc lõng giữa thành phố NewYork, không thể tình cờ hơn, lại là đồng hương, “anh chàng nhà hàng xóm” của Bricky. Họ từ bỏ quê nhà, mang theo ước mơ tìm đến cái xa hoa, những tưởng NewYork sẽ chắp cánh cho những ước mơ của họ. Nhưng “thành phố làm người ta già đi”, họ…thất bại ở NewYork, rồi họ bỗng sợ cái nhìn lạnh lẽo của thành phố này. Nửa đêm ngày hôm đó, họ gặp nhau ở vũ trường, nơi Bricky mang những bước nhảy của một giấc mơ tan vỡ tại thành phố, và Quinn – đang lo lắng với một hành động nông nổi khiến anh rơi tõm xuống vực sâu tuyệt vọng cũng do những thất bại, những ước mơ không thành ở NewYork này. Sự đồng cảm, lòng dũng cảm khi nghĩ về “quê nhà, người ta sẽ trẻ lại khi ở quê nhà” giúp họ đặt ra một lời hẹn với thời gian, lời hẹn trước lúc bình minh, để có thể làm lại tất cả ở nơi họ đã ra đi. Thế nhưng, một Bricky đã tan vỡ, đầy cảnh giác, mang nỗi sợ hãi tột cùng với thành phố này; và một Quinn với bản án lửng lơ trên đầu, một kẻ thù không rõ thông tin, những rắc rối bủa vây, những dữ kiện liều lĩnh tự quyết, liệu họ có kịp với “Hạn chót lúc bình minh” không? Xét về tính trinh thám, Hạn chót lúc bình minh là cuốn truyện được viết với đầy đủ những yếu tố mà 1 tác phẩm trinh thám muốn thu hút đều cần. Cốt chuyện trọn vẹn từ mở đầu đến kết thúc, tình tiết đưa ra được giải quyết không xót phần nào. Dù không xây dựng nên những cảnh sát hay thần thám, Woolrich vẫn có thể đặt những con người – đã phải chịu những hoàn cảnh không bình thường, vào tình huống tột cùng bắt họ phải lựa chọn giữa sống – chết, phải vận dụng 300% năng lực, khả năng quan sát, suy luận để thoát khỏi tình huống họ đang ngày càng lún sâu vào. Những chi tiết rùng rợn khi nhân vật phải đối diện với nguy hiểm, cách xử lý từng vướng mắc, sai lầm của từng nhân vật, cách suy luận để vượt qua tình huống cũng không phải không thể – nếu 1 ngày bạn gặp phải tình huống đó. Người đọc sẽ được trải qua cảm giác hồi hộp, cảm giác như đi bên cạnh mỗi ánh nhìn, từng bước chân của nhân vật chính. Về câu văn, không thể phủ nhận từng câu văn của Woolrich vẫn đầy hình ảnh, đầy tình như Cô dâu đen hay Ám ảnh đen, mà có khi còn hơn nhiều. Có lẽ một phần nhờ dịch giả dịch rất mượt. Có những đoạn văn thực sự chỉ cần đọc cũng đủ khiến mình hình dung cả khung cảnh lúc đó. Giả như “có những lúc cô quá mệt mỏi và kiệt quệ, thậm chí là để nói dối”, hoặc như “Lối vào căn phòng chết chóc hiện lên đen ngòm và trống rỗng phía trước trong đốm sáng run rẩy của que diêm trên tay gã đàn ông”. Mình nghĩ với những câu từ như này, quả thực nếu ai mạnh dạn chuyển thể thành phim tác phẩm này sẽ gặp cực nhiều khó khăn cả khâu lựa chọn diễn viên lẫn tạo khung cảnh, để có thể truyền tải trọn vẹn cảm giác hoang mang, bất lực từ thành phố, từ hoàn cảnh tác động đến từng milimet trên người mỗi nhân vật. Dĩ nhiên, vì là trinh thám đen và thời gian viết cũng không phải khi đã có quá nhiều công nghệ phân tích, nên cũng có vài tình tiết các nhân vật hơi sơ hở, cũng như suy luận thiếu chính xác (nhưng nên nhớ tuyến nhân vật của Woolrich không phải thám tử hay cảnh sát, và họ gặp sai lầm là chuyện đương nhiên). Thêm vào đó, yếu tố thời gian và lời hẹn trước lúc bình minh nên cảm giác 2 nhân vật có những đoạn xử lý lại thông minh quá. Cái kết và việc tìm ra hung thủ cũng mang lại chút cảm giác như tác giả do chạy đua với thời gian và muốn một kết cục HE nên khá vội vàng (cái vội vàng cho đến tận lúc tiếng còi hụ đầu tiên của giới chức trách vang lên, cho đến tận lúc Quinn và Bricky chạy đua để hoàn thành mong ước cuối cùng, mục tiêu quyết tâm giải quyết vụ án của họ). Còn lại thì mình hài lòng từ phông chữ trên bìa và trong truyện, hình ảnh chiếc đồng hồ ở mỗi chương, giấy in, nội dung, kết cục. Điều không thích nhất chắc là cái bìa truyện. Sao cứ phải vẽ hình ảnh nhân vật minh họa mang không có cảm giác của Mỹ gì cả! Nhìn cái bìa làm mình lần lữa mãi không đọc quyển này (hơi phí), đúng như trong truyện Woolrich viết: “Và nói cho cùng, hình ảnh của mọi người trong mắt bạn đều phải đi qua bộ lọc cá nhân, chứ không phải bản chất thực tế của họ” Ảnh mượn từ page Phúc Minh Twine Aquarius *** Đây là quyển tươi sáng và cái kết có hậu nhất trong mấy quyển của Woolrich mà Boog đọc. Ai cũng có thể trở thành thám tử? Không tin ư? Nếu thế hãy đọc Hạn chót lúc bình minh để trải nghiệm điều đó. Khi rơi vào hoàn cảnh bắt buộc phải tự cứu lấy mình, não bạn sẽ bắt buộc phải hoạt động, bạn sẽ trở nên thông minh và trở thành một thám tử bất đắc dĩ để tự cứu lấy mình. Nước Mỹ trong Hạn chót lúc bình minh hiện lên một cách rất khác, một góc nhìn khác. Chốn phồn hoa đô hội ấy không phải là miền đất hứa, là nơi chốn cho những người từ quê lên tìm kiếm cơ hội như Quinn hay Bricky. Với ước mơ được đứng trên sân khấu Broadway nhưng cô lại phải kiếm sống tại vũ trường. Cũng giống như cô, Quinn cũng tới thành phố để tìm cơ hội nhưng lại mắc kẹt giữa thành phố New York hoa lệ. Hai con người bất hạnh tình cờ gặp nhau, tìm thấy sự đồng cảm và hẹn ước sẽ cùng rời bỏ New York trên chuyến xe bus lúc bình minh. Nhưng họ phải chạy đua với thời gian để thoát khỏi rắc rối mà Quinn đang vướng vào. Liệu họ có thoát khỏi rắc rối trước lúc bình minh để kịp bắt chuyến xe bus lúc 6h. Vẫn lối viết hoa mỹ, lãng mạn mượt mà cùng cảm giác hồi hộp, bạn sẽ bị các nhân vật lôi cuốn tới tận giây phút cuối cùng. Mặc dù trở thành thám tử bất đắc dĩ nhưng Bricky khiến bạn đọc rất ấn tượng bởi sự thông minh, dũng cảm, kiên cường, là động lực giúp Quinn thoát khỏi rắc rối. Cũng bởi là thám tử bất đắc dĩ không phải thám tử chuyên nghiệp nên cũng có lúc họ sơ hở, rơi vào nguy hiểm. Cũng may là bóng tối của thành phố vẫn còn ủng hộ họ. Woolrich vẫn luôn đem đến cho bạn đọc một sự hấp dẫn không thể chối từ. Binh Boog   *** Cornell Woolrich (1903-1968) - cha đẻ của tiểu thuyết trinh thám đen, bậc thầy của sự hồi hộp. Với cách kể và dẫn dắt đầy lôi cuốn, mỗi tác phẩm của ông không hẳn là cuộc kiếm tìm chân dung kẻ sát nhân mà còn đưa lên sân khấu những nghịch lý về sự thật bị che giấu và những bất ngờ không đoán trước. Cornell Woolrich được coi là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn, đưa thể loại truyện noir fiction (tiểu thuyết đen) đến đỉnh cao của sự thành công. Ông cũng là tác giả trinh thám có số lượng truyện chuyển thể thành phim nhiều nhất thế giới, trên trang IMDB có tới 103 bộ phim được ghi tên ông. Những bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Woolrich thường trở thành đề tài nghiên cứu sáng giá liên quan đến “kỷ nguyên của thể loại phim noir”. Tấn công, hoang tưởng, mối đe dọa, cái chết, là những chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của Woolrich. Ngoài ra, khi nói đến tiểu thuyết của tác giả này, hình tượng người phụ nữ với “tính nữ” cũng là một nét tiêu biểu. Trong truyện của ông có những nỗi sợ hãi chẳng rõ ràng, cảm giác luôn bị đe dọa. Các nhân vật thì luôn trong một cuộc chạy đua với thời gian. Theo đó là những nỗi tuyệt vọng ngày càng lấp đầy. Điều đặc biệt trong truyện của Woolrich chính là những “anh hùng” thường là nạn nhân, bị buộc tội về tội ác mà họ không thực hiện, hoặc phạm tội vì những đau buồn, tuyệt vọng và bất công trong cuộc sống. Thế giới Woolrich tạo ra giống như một mê cung, đánh lạc hướng suy luận của người đọc. Tác giả đặt ra những “cái bẫy” cho các nhân vật chính không may mắn của mình và sau đó chờ đợi nhân vật chính sa vào bẫy và độc giả bị đánh lừa. Đầu tiên là tính bất khả thi. Tính “không thể” được sử dụng Woolrich làm cho tình huống trở nên khó hiểu hơn, che giấu sự thật đằng sau. Dường như, trong các tác phẩm của Woolrich các nhân vật ban đầu bao giờ cũng khởi điểm từ tình yêu, sự chung thủy, từ những điều tốt đẹp nhưng sau đó, bởi vì sự "tham lam" mà dần dần đánh mất đi bản ngã của chính bản thân mình. Kết hợp với đó, yếu tố bạo lực cũng được áp dụng triệt để để mang đến cảm xúc mãnh liệt cho người đọc. Với sự khai phá mới cho tiểu thuyết trinh thám, Cornell Woolrich đã cung cấp những ẩn dụ về sinh mệnh con người thật rẻ mạt, cái thứ đạo đức trắng đen lẫn lộn. Bằng lối kể hấp dẫn, luôn giấu kín sự thật, mỗi tác phẩm của ông luôn làm người xem phải tò mò. Ở Việt Nam, nhiều truyện ngắn của Cornell Woolrich đã được dịch và đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay vào cuối thập niên 1990, Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản năm 2018. Tác phẩm: Cô Dâu Đen Người Đàn Bà Trong Đêm Hạn Chót Lúc Bình Minh Điểm Hẹn Đen Đêm Ngàn Mắt Kết Hôn Với Người Chết Theo Em Vào Bóng Đêm Ám Ảnh Đen ... Mời các bạn đón đọc Hạn Chót Lúc Bình Minh của tác giả Cornell Woolrich.