Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Của Những Hồn Ma

Isabel Allende Llona (sinh ngày 2-8-1942) là một nhà văn Chile với tư cách công dân Mỹ. Allende có các tác phẩm đôi khi chứa đựng các khía cạnh của truyền thống “ma thuật hiện thực”, nổi tiếng với tiểu thuyết như “Ngôi nhà của các linh hồn” (La casa de los espíritu – 2002) đã thành công về mặt thương mại. Allende được mệnh danh là “tác gia sáng tác bằng tiếng Tây Ban Nha được đọc rộng rãi nhất”. Năm 2010, bà nhận được Giải thưởng văn học quốc gia Chile. Năm 2004, Allende được ghi tên vào Viện Hàn lâm nghệ thuật và văn học Hoa Kỳ. Tiểu thuyết của Allende đôi khi dựa vào kinh nghiệm của riêng cá nhân mình và thường tỏ lòng kính trọng đối với cuộc sống của phụ nữ, trong khi thêu dệt cùng các yếu tố của thần thoại và hiện thực. Bà thuyết giảng và đi lưu diễn tại nhiều trường đại học, cao đẳng Hoa Kỳ để giảng dạy văn học. Allende nhận tư cách công dân Hoa Kỳ vào năm 2003 và sống ở California với chồng từ năm 1989. Bà là người gốc xứ Basque, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Đây là cuốn sách hay, nhưng rất ít người biết vì nó không được giới thiệu rộng rãi. Cuốn sách được đánh giá ngang với “Trăm năm cô đơn” của Garcia Marquez. (Trích từ “Hội những người thích Tiểu thuyết kinh điển” trên mạng xã hội) *** Đây là tiểu thuyết dang dở duy nhất trong bộ ba tác phẩm hiện thực huyền ảo có tác động sâu sắc đến tôi, với hai tác phẩm còn lại là Thế kỷ ánh sáng và Trăm năm cô đơn. Gọi là dang dở, bởi lẽ khi tôi còn trẻ, ở nhà tôi chỉ có tập một trong bộ hai tập, thiếu mất tập hai. Hơn mười năm sau, tôi mới có đủ điều kiện để đặt mua một bản dịch bằng tiếng anh, và kết thúc việc đọc tác phẩm này. Có lẽ cái dang dở thì bao giờ cũng đẹp hơn thực tế, tôi có phần nào thất vọng với phần hai không giống như tôi tưởng tượng, nhưng nhìn lại một cách tổng thể, đây vẫn là một tác phẩm lớn, đặc biệt và tinh tế theo một kiểu mà chỉ có một người phụ nữ mới viết ra được.Cái gì trong tiểu thuyết này đã làm cho tôi của thời niên thiếu thích đến như thế ? Hồi đó tôi còn đơn giản, còn xao động bởi những câu đơn, chưa hiểu rằng một câu văn câu nói đứng riêng, dù hay đến đâu cũng không có giá trị nhiều, nghệ thuật không nằm nơi đầu lưỡi. Nhìn lại, tôi có thể hơi ngượng ngùng mà thừa nhận rằng đoạn độc thoại của Alba trích ở phần giới thiệu chính là thứ đã ảnh hưởng đến tôi, cho tôi cái quyết tâm sắt đá vào đúng khi tôi đang rất cần những lời cổ vũ, động viên, cũng khiến tôi ngày một hàm ơn điều tuyệt vời mang tên văn học :   “…ngày mà ông ngoại tôi vật ngửa bà hắn, Pantra Garcia, giữa những bụi lau bên bờ sông, ngày đó đã vẽ thêm một mắt xích những sự việc thế tất phải được hoàn thành. Sau đó đứa cháu của người phụ nữ bị hiếp lại lặp lại hành động đó với đứa cháu gái của kẻ hiếp dâm, và trong khoảng bốn mươi năm sau, có thể cháu trai của tôi sẽ vật cháu gái của hắn giữa những bụi lau sậy ven sông, và cứ thế, cho tới những thế kỷ sắp tới, trong một lịch sử vô tận những đau thương, đổ máu và tình yêu. Trong chuồng chó, tôi đã có ý định sắp đặt một trò chơi nhức đầu mà trong đó mỗi bộ phận đều được lắp vào đúng chỗ của nó… …tôi sẽ rất khó trả thù cho tất cả những người cần được trả thù, vì sự trả thù của tôi sẽ lại chỉ là một phần của vẫn cái nghi thức từ xưa, không thay đổi. Tôi muốn nghĩ đến công việc của tôi là sống và sứ mệnh của tôi không phải là kéo dài mãi mối căm thù, mà chỉ là công việc viết đầy những trang sách này trong khi chờ đợi Miguel trở về, trong khi chôn cất cho ông tôi, người hiện đang nằm nghỉ bên tôi, trong căn phòng này, trong khi tôi chờ đợi những thời kỳ tốt đẹp nhất định sẽ đến và thai nghén cho đứa nhỏ mà tôi mang trong bụng, đứa con của biết bao cuộc hãm hiếp, hoặc có thể là con của Miguel, nhưng trước hết, nó là con tôi.” Câu nói ở trên chứa đựng một điều mà rất ít người hiểu được : cần nhiều lòng dũng cảm, nghị lực và lòng nhẫn nại để vượt qua những thăng trầm trong cuộc sống, còn cần rất nhiều hơn thế để gạt đi quá khứ và bắt đầu lại mọi sự từ đầu, nhưng khi anh muốn chặn đứng cái vòng quay nghiệt ngã và tàn ác mà số phận đã cài lên người anh, chặn đứng dòng thác những nhơ nhuốc và xấu xa vẫn cuốn anh đi không ngừng, làm ô uế tâm hồn anh, như thế vẫn là chưa đủ. Nếu muốn dừng cái vòng quay đó, nếu muốn gìn giữ lấy tâm hồn mình nguyên vẹn và xa rời cái tất yếu của lòng hận thù, sự hèn nhát, sự giả dối không tránh khỏi, hy vọng duy nhất mà anh có thể nắm lấy, là hãy nuôi dưỡng tình yêu trong trái tim mình. Rất lâu sau này tôi mới hiểu rằng để làm được điều đó, người ta có thể phải hi sinh tất cả phần còn lại. Tôi vẫn thường nghĩ đến thời điểm mà Allende đặt bút viết những dòng cuối này của cuốn tiểu thuyết của bà, cũng như khi Gorki đọc lên những câu nói tuyệt vời đầy ánh sáng về văn học trong một buổi hội nghị ở Nga, hay lúc những câu chữ từ ngòi bút của Aimatov thấm lên trang giấy, những thời điểm tưởng như rời rạc và xa lạ ấy đều có kết nối với tôi, thay đổi tâm hồn tôi, một đứa trẻ cô độc sinh ra nhiều năm sau đó trên một vùng đất gần như tận cùng thế giới, thay đổi cuộc đời tôi. Khi đó tôi cảm nhận được rõ rệt và sâu sắc sự vĩ đại của môn nghệ thuật mang tên văn học và có lẽ từ lúc ấy, cuộc sống của tôi đã gắn liền với nó. Năm tháng trôi đi, tôi bây giờ đã là người của tuổi ba mươi. Có thể nói, ngoài việc gìn giữ trái tim mình, tôi không đạt được gì nhiều. Cuộc sống vẫn tiếp tục, vật chất đầy đủ hơn, nước trôi về nơi thấp hơn, xung quanh tôi, con người tha hóa. Tôi của tuổi ba mươi không còn xúc động chỉ vì một câu nói nữa, dù câu nói đó có là của Isabel Allende. Lần đọc này điều làm tôi thích thú là những nhân vật nữ trong truyện, vốn được lấy cảm hứng từ chính những người trong gia đình của Allende. Dù khác nhau, bọn họ có một điểm chung : giống như Remedios của Garcia Marquez, muốn chinh phục được họ, không có cách nào khác ngoài việc cho họ thấy tình yêu trong trái tim anh. Và tình yêu ấy phải trong sạch, giản dị, chân thành. Chỉ có cách ấy thôi, họ không thể bị mua chuộc hoặc chinh phục bởi bất kỳ điều gì khác. Đây là một điểm mà nói chung những cô gái tầm thường không bao giờ hiểu, thậm chí thấy xa lạ, khó tiếp cận : tình yêu chân chính luôn luôn gắn liền với một cảm nhận sâu sắc về lẽ phải, nó có sức mạnh khiến những kẻ yêu nhau nhận thức được điều đúng sai một cách thật tự nhiên như bản năng. Từ Rosa người đẹp, Clara người tiên tri cho đến những cô gái bình thường hơn như Blanca, Amanda, Alba, tất cả những người phụ nữ trong tác phẩm này đều nổi bật lên vì chiều sâu tâm hồn của họ và không phải sắc đẹp của họ mà chính là cái chất nữ tính nguyên thủy và tinh tế đã khiến họ đều có sức thu hút khủng khiếp với đàn ông. Trong truyện, mối tình được khắc họa chi tiết nhất là giữa Esteban Trueba và Clara. Esteban là một mẫu đàn ông phấn đấu cho sự nghiệp, khởi đầu với chỉ một cái tên quý tộc và một gia đình sa sút nghèo hèn, anh làm việc như súc vật để đổi đời, để có tiền lấy được vị hôn thê là Rosa người đẹp. Đáng tiếc cô tiên tóc xanh này không phải là người của cõi trần, cô sớm ra đi để lại anh thanh niên cay đắng và điên giận số phận. Anh bộc lộ hết phần xấu xa của con người mình : làm việc như điên, bóc lột nông nô, hiếp dâm thôn nữ, sống như một kẻ man rợ. Clara là người mang anh trở lại với sự cân bằng, cô lấy hôn phu của người chị đã mất. Mỏng manh, lơ đãng, vui tươi và thần bí, Clara luôn là một cái gì đó mà Esteban không bao giờ nắm bắt được, quyền hành của anh không bao giờ áp đặt nổi cá tính của cô, những cơn giận dữ thô bạo của anh không bao giờ có tác dụng với cô, sự dâm đãng của anh không làm cô sợ hãi, quà tặng xa xỉ của anh không làm cô vui sướng, sự ngoại tình của anh không làm cô ghen tức. Từ khi lấy cô cho đến tận khi anh chết, rất lâu sau khi cô qua đời, Esteban luôn yêu cô đến mức mất cả lý trí. Tôi thực sự vui thích khi đọc những dòng Allende miêu tả cảm giác của Esteban về vợ, những suy nghĩ bực tức mà trìu mến, bất lực trong sự say mê của một kẻ vốn thô lỗ, chuyên quyền, không biết diễn đạt cảm xúc của mình, không hiểu rằng muốn được vợ yêu, chỉ có duy nhất một cách đấy là anh phải trở thành người tốt và không chỉ tốt với cô : “Căn bệnh kéo dài đã làm sứt mẻ cơ thể tôi và tính nết tôi càng trở nên tồi tệ… Đến cả Clara, người chưa bao giờ sợ hãi cơn cáu bẳn tồi tệ của tôi, một phần vì tôi cũng hết sức giữ gìn để không nổi giận với em, cuối cùng cũng đi đến sợ hãi. Nhìn em sợ hãi mình, tôi càng thấy trong người căng thẳng. Dần dà Clara tới chỗ có nhiều thay đổi. Em có dáng mỏi mệt và tôi thấy em như xa cách mình. Em đã không còn cảm tình với tôi, những cơn đau của tôi không còn khiến em thương hại mà lại làm em khó chịu, và tôi nhận thấy em như muốn tránh mặt tôi… Clara càng xa cách, tôi lại thấy sự cần thiết về tình yêu của em càng lớn. Nỗi thèm muốn mà tôi có khi cưới em đã không giảm bớt, tôi vẫn muốn được em hoàn toàn, đến tận những ý nghĩ sâu thẳm nhất của em, nhưng người phụ nữ trong vắt như không khí kia đi qua bên tôi như một hơi thở, và dù cho tôi có nắm giữ em bằng đôi bàn tay và ôm hôn em một cách tàn nhẫn, tôi vẫn không thể cầm giữ được em. Tinh thần em không ở cùng tôi … Chúng tôi chỉ gặp nhau trong giờ ăn, và lúc đó tôi là người vừa nói vừa nghe hết cuộc chuyện trò, vì em dường như bay trên những tầng mây lơ lửng. Em trở nên rất ít nói và để mất đâu nụ cười tươi mát và mạnh bạo, cái vẻ mà tôi thích thú nhất trong người em. Bây giờ em đã thôi không còn ngả đầu ra đằng sau mà há miệng cười ha hả. Hầu như không cả mỉm cười… …có lẽ tôi chẳng phải là một anh chồng tế nhị, lúc nào cũng biết tặng hoa và nói những chuyện có duyên, hay đẹp. Nhưng tôi cố gần em. Sao lại định nhỉ, lạy chúa ! Tôi đột nhập vào buồng em khi em đang say mê viết những cuốn vở ghi chép cuộc đời hoặc đang ngồi bên chiếc bàn gọi hồn. Tôi định cố chia sẻ cùng em cả những trò đó nữa, nhưng em không thích người khác xem những điều em ghi chép, và sự có mặt của tôi cắt đứt hứng thú của em khi đang chuyện trò với những hồn ma, cho nên tôi phải từ bỏ ý đồ… Có thể chúng tôi cũng có những sự hiểu lầm bởi nhiều lý do khác. Trên thực tế, rất ít khi chúng tôi đồng ý với nhau về một sự việc gì. Không phải tính nóng nẩy cáu bẳn của tôi là cái tội gây ra tất cả những cuộc tranh cãi và bất đồng ý kiến đó, vì tôi là một người chồng tốt, không còn chút nào bóng dáng của anh chàng điên cuồng khi chưa vợ xưa kia. Và em, em là người phụ nữ duy nhất của tôi. Cho đến bây giờ vẫn thế. Một hôm Clara cho đặt một khóa ngang trong cửa phòng em và không để cho tôi vào nằm cùng giường, ngoài những trường hợp tôi thúc ép ghê quá, dọa rằng nếu từ chối có nghĩa là cắt đứt hoàn toàn… việc đó kéo dài nhiều tuần lễ, tôi liền quyết định phải nói với em. Bình tĩnh em giải thích cho biết quan hệ vợ chồng giữa chúng tôi đã bị tổn thương, và vì vậy sự sẵn sàng đón nhận những yêu đương nhục thể trong em đã mất. Em diễn giải một cách tự nhiên rằng nếu đã chẳng còn gì để nói với nhau, thì cũng không có lý do gì nằm cùng một giường, và tỏ vẻ ngạc nhiên thấy suốt ngày tôi giận dữ với em, mà đến đêm lại muốn được em vuốt ve âu yếm. Tôi cố sức nói cho em rõ về phương diện đó đàn ông và đàn bà có đôi chút khác nhau, và tôi yêu quý em dù cho tôi có nhiều tai quái, nhưng tất cả đều vô ích… Điều lạ lùng là vấn đề tình dục của tôi, theo năm tháng trôi qua, trở nên có chọn lọc hơn, nhưng hầu như vẫn bừng bừng dễ cháy như thể trong thời trai tráng. Tôi thích ngắm nhìn phụ nữ, đến bây giờ vẫn như vậy. Nó như một khoái cảm thẩm mỹ, tinh thần. Nhưng chỉ riêng Clara bao giờ cũng khơi dậy trong tôi một thèm muốn cụ thể, tức khắc, bởi trong cuộc chung sống lâu dài, chúng tôi đã hiểu biết rõ về nhau, và người nọ bằng ngón tay của mình đã thông thuộc cái địa lý chính xác của người kia. Em biết đâu là những điểm nhạy cảm nhất của tôi, và có thể nói cho tôi biết đúng điều tôi cần nghe. Vào độ tuổi mà số đông nam giới đã chán vợ mình và cần thiết có sự kích thích của những người phụ nữ lạ để có thể tìm thấy tia lửa thèm muốn, tôi vẫn tin chắc chắn rằng chỉ có cùng Clara tôi mới có thể thực sự yêu đương, như thể trong thời kỳ trăng mật, không biết mệt. Nên tôi không hề có ý định đi tìm những người đàn bà khác. Tôi bắt đầu bao vây em khi bóng đêm đổ xuống. Về buổi chiều khi em ngồi viết, tôi giả vờ thưởng thức píp thuốc, nhưng thực tế tôi liếc mắt dò xét trộm. Nhẩm tính rằng em sắp sửa rút về phòng, vì thấy em đã bắt đầu lau ngòi bút và gấp những quyển vở lại, tôi liền đi trước ngay. Tôi khập khiễng bước vào phòng tắm, lau rửa, mặt một áo khoác trong nhà bằng nhung tơ mà tôi đã mua nhằm quyến rũ em, nhưng hình như em chưa bao giờ chú ý đến sự tồn tại của nó ; tôi dán tai vào cánh cửa và chờ em. Khi tôi thấy tiếng em bước trên hành lang, liền chạy ra ôm liền. Tôi đã thử đủ mọi cách, từ trút đầy người em những lời khen ngợi và tặng phẩm, cho đến dọa nạt sẽ tống ra khỏi cửa và dần cho một trận ba-toong dừ người, nhưng chẳng cách nào có thể lấp nổi vực thẳm ngăn cách giữa hai chúng tôi… Clara lảng tránh tôi bằng vẻ lơ đãng mà tôi rất ghét. Tôi không thể hiểu được cái gì đã làm cho em có sức hấp dẫn tôi đến thế. Em là một phụ nữ đã có tuổi, không đỏm dáng chút nào, khi bước đi hơi lê đôi chân, và đã không còn tính vui vẻ vô cớ nó làm cho em rất duyên dáng trong thời kỳ thanh niên. Clara cũng chẳng có vẻ quyến rũ hoặc dịu dàng âu yếm với tôi. Chắc chắn em không hề yêu tôi. Thật chẳng có lý do gì làm cho tôi phải thèm muốn em đến độ không mực thước và thô bạo nó đẩy tôi tới chỗ thất vọng và lố lăng như vậy. Thế nhưng tôi vẫn chẳng tránh được điều đó. Dáng đi đứng nhỏ nhẹ của em, mùi sạch sẽ của quần áo và xà phòng của em, ánh sáng của đôi mắt em, cái duyên dáng của chiếc gáy gầy nhỏ có những mớ tóc loăn xoăn bướng bỉnh rối tung của em, tất cả những thứ đó trong em tôi đều thấy thích. Sự mảnh dẻ của em gây cho tôi một cảm giác dịu hiền không chịu nổi, lại muốn che chở bênh vực em, ôm ấp làm cho em cười vang như những ngày xưa, lại cùng ngủ bên nhau, đầu em gục trên vai tôi, đôi chân thật nhỏ và ấm của em co dưới đôi chân tôi, tay em đặt trên ngực tôi, ôi thật dễ thương và quý giá. Đôi lần tôi có ý định trừng phạt em bằng lối giả vờ hờ hững, nhưng chỉ sau một vài ngày là tôi chịu thua ngay, vì em có vẻ yên tâm và sung sướng nhiều hơn trong thời gian tôi tỏ vẻ quên em. Tôi đục một lỗ thủng trên tường buồng tắm để nhìn trộm em, nhưng việc đó lại đẩy tôi vào một tình trạng nôn nao xáo động gớm ghê nên tôi lại phải bịt nó lại bằng vôi vữa…” Thật sự là chỉ có một người phụ nữ nhạy cảm và thông minh mới viết ra được những dòng này, thứ văn dịu dàng và tình cảm làm tôi cười nhiều lần khi gõ lại như thế này không thể là của một người đàn ông. Cũng không thể là của một cô bé như kiểu Banana Yoshimoto. Tôi nghĩ, giá mà Allende cứ tiếp tục viết như thế này thì sẽ hay biết mấy, một câu chuyện thuần chất phi chính trị, đi sâu vào đời sống và tâm hồn con người Chile nói riêng và Mỹ latin nói chung… Cuộc chiến giữa hai phe cực tả và cực hữu, giữa quân phiệt và cộng sản, những cuộc tàn sát ở phần hai đã làm câu chuyện có tính thời cuộc hơn, và bớt tính phi thời gian hơn. Nhiều năm trôi qua, sự khác biệt này giữa Ngôi nhà của những hồn ma và Trăm năm cô đơn đã lộ rõ. Isabel Allende không bằng được Garcia Marquez, nhưng tôi thấy bà cũng đã quá thành công.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Của Những Hồn Ma của tác giả Isabel Allende.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kiêu Hãnh Và Định Kiến
Kiêu Hãnh và Định Kiến là truyện được yêu thích nhất trong số các tác phẩm của Jane Austen. Kiêu Hãnh và Định Kiến kể về cuộc đối đầu giữa Elizabeth Bennet, con gái của một gia đình trung lưu, và Fitzwilliam Darcy, một địa chủ giàu có. Mặc dù họ để tâm tìm hiểu lẫn nhau, tác giả đã đảo ngược ý niệm thông thường về "thuở ban đầu": tính kiêu hãnh về giai cấp và tài sản của mình cùng định kiến về vị thế thấp kém của gia đình Elizabeth khiến Darcy lúc đầu muốn tránh xa cô, trong khi cô Elizabeth cũng kiêu hãnh vì lòng tự trọng của mình và có định kiến về cung cách trưởng giả của Darcy, trở nên một người con gái không giống như những người con gái khác chung quanh Darcy. Elizabeth, với cá tính nhạy bén, dí dỏm và cứng cỏi, được xem là một trong những nhân vật lôi cuốn nhất trong nền văn học Anh. *** Tóm tắt Kiêu Hãnh và Định Kiến kể về cuộc đối đầu giữa Elizabeth Bennet, con gái của một gia đình trung lưu, và Fitzwilliam Darcy, một địa chủ giàu có. Cả hai đều có những định kiến về nhau, và tình yêu của họ phải trải qua nhiều thử thách để có thể đến được với nhau. Câu chuyện bắt đầu khi Elizabeth Bennet và chị gái Jane được mời đến nhà của Bingley, một người bạn của Darcy. Tại đây, Elizabeth gặp Darcy và ngay lập tức bị ấn tượng bởi sự tự phụ và kiêu ngạo của anh. Darcy cũng không có thiện cảm với Elizabeth, và anh cho rằng cô là một cô gái nông cạn và thiếu giáo dục. Tuy nhiên, theo thời gian, Elizabeth và Darcy dần dần hiểu nhau hơn. Elizabeth nhận ra rằng Darcy không phải là một người xấu xa như cô nghĩ, và Darcy cũng bắt đầu thấy được những điểm tốt đẹp của Elizabeth. Cuối cùng, tình yêu của họ đã chiến thắng được mọi định kiến. Elizabeth và Darcy kết hôn và có một cuộc sống hạnh phúc. Đánh giá Kiêu Hãnh và Định Kiến là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Anh. Câu chuyện được kể một cách dí dỏm và sâu sắc, với những nhân vật được xây dựng một cách sinh động và chân thực. Elizabeth Bennet là một nhân vật nữ chính đáng nhớ, với cá tính mạnh mẽ và độc lập. Cô không ngại bày tỏ suy nghĩ và quan điểm của mình, ngay cả khi đó là những suy nghĩ trái ngược với những người xung quanh. Darcy cũng là một nhân vật phức tạp và thú vị. Anh là một người đàn ông giàu có và quyền lực, nhưng anh cũng có những điểm yếu và thiếu sót của riêng mình. Darcy phải học cách vượt qua những định kiến của mình để có thể yêu Elizabeth. Kiêu Hãnh và Định Kiến là một câu chuyện tình yêu lãng mạn, nhưng nó cũng là một câu chuyện về sự trưởng thành và thay đổi. Câu chuyện này đã truyền cảm hứng cho nhiều người trong suốt nhiều thế kỷ qua, và nó vẫn tiếp tục được yêu thích cho đến ngày nay. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Nhân vật Elizabeth Bennet là một trong những nhân vật nữ chính đáng nhớ nhất trong nền văn học Anh. Cô là một cô gái thông minh, dí dỏm và cứng cỏi, không ngại bày tỏ suy nghĩ và quan điểm của mình. Câu chuyện được kể một cách dí dỏm và sâu sắc, với những tình huống hài hước đan xen với những suy tư sâu sắc về tình yêu, hôn nhân và định kiến xã hội. Tác phẩm đã được chuyển thể thành nhiều bộ phim, vở kịch và chương trình truyền hình, và nó vẫn tiếp tục được yêu thích cho đến ngày nay.   Mời bạn đón đọc Kiêu Hãnh và Định Kiến của tác giả Jane Austen.
Chúa tể những chiếc nhẫn: Đoàn Hộ Nhẫn - J.R.R. Tolkien
AudioBook Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn   John Ronald Reuel Tolkien (1892 - 1973), một nhà ngôn ngữ, tiểu thuyết gia và giáo sư người Anh, được công chúng biết đến nhiều nhất qua các tác phẩm Anh chàng Hobbit (The Hobbit) và Chúa tể những chiếc nhẫn (The Lord of the Rings). Ông giảng dạy về ngôn ngữ Anglo-Saxon tại Đại học Oxford (giữ cương vị Giáo sư Rawlinson  Bosworth đầu ngành Anglo-Saxon của Oxford) từ năm 1925 đến 1945, và sau đó ông giữ ghế Giáo sư Merton đầu ngành ngôn ngữ và văn học Anh cũng tại Oxford từ 1945 đến 1959. Bộ tiểu thuyết của tác giả John Ronald Reuel Tolkien (J.R.R. Tolkien) gồm ba phần, 6 quyển. - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Đoàn Hộ Nhẫn tải eBook - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Hai Tòa Tháp tải eBook - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Nhà Vua Trở Về tải eBook Bản dịch tiếng Việt phần một vừa hoàn thành và ra mắt độc giả trong nước với tên Đoàn hộ nhẫn. "Đoàn hộ nhẫn" kể về cuộc hành trình gian lao của anh chàng Hobbit Frodo Bao Gai và những người bạn từ mọi chủng tộc của mình, nhằm giải cứu Trung Địa khỏi rơi vào tay Chúa tể Sauron và chiếc Nhẫn Chúa. Phần một này được chia thành 2 quyển, quyển đầu tiên nói về chuyến đi khỏi Quận của Frodo Bao Gai để chạy trốn những tay sai của Chúa tể Bóng tối Sauron, những Ma Nhẫn. Tiếp nối âm hưởng của Anh chàng Hobbit, câu chuyện bắt đầu với bữa tiệc sinh nhật của Bilbo Bao Gai. Trong bữa tiệc, Bilbo đã đột ngột biến mất trước mắt dân làng để bắt đầu cái mà ông gọi là "kỳ nghỉ vô tận", để lại cho Frodo toàn bộ tài sản, trong đó có chiếc Nhẫn Chúa, vật mà Chúa tể Sauron đang tìm kiếm, vật có thể giúp hắn một lần nữa cai trị vùng Trung Địa. Được vị Phù Thủy già Gandalf cảnh báo, Frodo cùng những người bạn Hobbit của mình là Sam, Merry và Pippin đã bí mật rời khỏi nơi sinh sống, trốn tránh sự truy tìm của lũ Kị Sĩ Đen - những Ma Nhẫn, để đến Thung Đáy Khe. Trên suốt đường đi, họ đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng cùng với sự xuất hiện của Sải Chân Dài và Glorfindel, cuối cùng nhóm Hobbit đã tới được Thung Đáy Khe. Quyển thứ hai tiếp nối câu chuyện ở Thung Đáy Khe, nơi mọi người lên kế hoạch để huỷ diệt chiếc nhẫn ở Vùng Đất Đen Mordor. Đánh Giá: “Cộng đồng Anh ngữ được phân làm hai: những người đã đọc Anh chàng Hobbit cùng Chúa tể những chiếc nhẫn, và những người sẽ đọc.” - Sunday Times “Tín đồ Thiên Chúa giáo chưa đọc hết Kinh thánh còn có thể tạm tha thứ, chứ một fan tiểu thuyết kỳ ảo mà chưa đọc cuốn phúc âm của thể loại kỳ ảo này thì không thể chấp nhận được.” - Amazon.com “Tolkien may mắn được ban tặng tài đặt tên chính xác và con mắt quan sát diệu kỳ; kết thúc cuốn I, bạn đọc đã nắm rõ lịch sử Hobbit, người Tiên, Người Lùn cùng sông núi quê hương họ chẳng kém gì nắm rõ xứ sở tuổi thơ mình. Và nếu nhìn nhận một câu chuyện kỳ ảo là nghiêm túc, ai cũng phải thấy rằng dù bề ngoài trình bày những nhân vật và sự kiện khác xa thế giới ta đang sống, đấy vẫn là tấm gương soi hiện thực duy nhất mà ta biết: hiện thực của chúng ta.” - W. H. Auden Mời các bạn đón đọc Chúa tể những chiếc nhẫn - Đoàn Hộ Nhẫn của tác giả J.R.R. Tolkien.
Giết Con Chim Nhại - Harper Lee.
AudioBook Giết Con Chim Nhại Giết con chim nhại (nguyên tác tiếng Anh: To Kill a Mockingbird) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Harper Lee; đây là cuốn tiểu thuyết rất được yêu chuộng, thuộc loại bán chạy nhất thế giới với hơn 10 triệu bản. Cuốn tiểu thuyết được xuất bản vào năm 1960 và đã giành được giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1961. Nội dung tiểu thuyết dựa vào cuộc đời của nhiều bạn bè và họ hàng tác giả, nhưng tên nhân vật đã được thay đổi. Tác giả cho biết hình mẫu nhân vật Jean Louise "Scout" Finch, người dẫn truyện, được xây dựng dựa vào chính bản thân mình. Giết con chim nhại là một câu chuyện bao gồm nhiều mô-típ, như sự ích kỷ, sự thù hận, lòng dũng cảm, sự kiêu hãnh, định kiến, và các giai đoạn trong cuộc đời, đặt trong bối cảnh cuộc sống miền Nam Hoa Kỳ. Cuốn tiểu thuyết đã được đạo diễn Robert Mulligan dựng thành phim với kịch bản do Horton Foote viết vào năm 1962. Cho tới nay, cuốn tiểu thuyết này là tác phẩm được xuất bản duy nhất của bà Harper Lee. Cuốn tiểu thuyết kể về câu chuyện của hai đứa trẻ ở lứa tuổi mới lớn, Jean Louise "Scout" Finch và Jeremy Atticus "Jem" Finch, sinh trưởng ở thị trấn nhỏ Maycomb, Alabama, nằm sâu trong miền nam nước Mỹ trong thập niên 1930. Chuyện xảy ra trong vòng 3 năm, được kể lại bởi người em. Trong truyện, cha của hai đứa trẻ, luật sư Atticus Finch được chỉ định để bào chữa một người da đen tên là Tom Robinson, bị buộc tội cưỡng hiếp một cô gái da trắng tên là Mayella Ewell. Sau khi tặng quà Giáng sinh cho hai chị em Jem và Scout là mấy khẩu súng hơi, ông Atticus dặn lũ trẻ là mặc dù chúng có thể "bắn bao nhiêu chim giẻ cùi xanh tùy thích", chúng phải nhớ "giết hại chim nhại là tội ác". Sau này cô Maudie Atkinson, hàng xóm của lũ trẻ, giải thích đó là vì chim nhại không bao giờ làm điều gì có hại, nó mang lại niềm vui bằng tiếng hót của chúng: "nó chẳng làm điều gì khác ngoài việc mang đến tiếng hót từ tận con tim cho chúng ta". Con chim nhại (mockingbird) được dùng lặp đi lặp lại như một hình tượng của nạn nhân và sự trong trắng trong suốt tác phẩm. Nó là biểu tượng của sự trong trắng và cái đẹp chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và lòng hận thù. Mời các bạn đón đọc Giết con chim nhại của tác giả Harper Lee.  
Kiến - Bernard Werber
Tên Sách: Kiến (Full PRC, EPUB) Tác Giả: Bernard Werber   Thể Loại: Giả Tưởng, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Dịch Giả: Lê Thu Hằng   Đánh Máy: Mọt Sách   Nguồn: vnthuquan.net   Ebook: http://www.dtv-ebook.com   Kiến - Bernard Werber (full prc, epub)   Giới Thiệu: Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghệ đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ trong ngôi nhà mà ông bác nhà côn trùng học già di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp chúng. Theo chân anh, chúng ta sẽ khám phá thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, khổng lồ và quyến rũ của những “người dưới đất” này trong một câu chuyện ly kỳ độc nhất vô nhị, nơi ở từng trang sự hồi hộp và ghê rợn đều được xây dựng dựa trên những cứ liệu khoa học chính xác nhất. Đọc "Kiến" rồi sau bị ám ảnh, nhìn thấy kiến không dám dí tay xuống nữa, không bởi vì bỗng dưng trở nên nhân từ không muốn sát sinh mà vì... sợ, hay nể thì đúng hơn cái giống loài bé tí... như mình đã biết vô cùng đơn giản, vô cùng trật tự và đạt hiệu quả cao trong mọi việc.   Bernard Werber sinh năm 1961 tại Toulouse, Pháp. Ngay từ khi mười bốn tuổi, anh đã viết truyện cho một tập san nhỏ về khoa học viễn tưởng. Sau khi học luật tại Toulouse và báo chí tại Pháp, Bernard Werber dành hơn mười năm làm nhà báo khoa học và đã từng cộng tác với rất nhiều tờ có tên tuổi như Nouvel Observateur, Le Point, Ça m'intéresse. Sau đó, anh tập trung vào viết văn. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 1992,Kiến, nhà văn này đã nổi tiếng với một phong cách viết độc đáo, pha trộn giữa loại truyện phiêu lưu, khoa học viễn tưởng và triết lý.Kiến đã giành giải thưởng của độc giả tờ Khoa học và Tương lai (Sciences et Avenir). Cuốn thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết về kiến,Le jour des fourmis (Ngày của kiến), ra đời ngay sau đó, đã được nhận giải thưởng lớn của độc giả tờ Elle. Các tác phẩm của Bernard Werber đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng. Với 15 triệu bản bán được trên toàn thế giới, cùng với Marc Levy, Bernard Werber là một trong những nhà văn Pháp đương đại nổi tiếng nhất. Ngoài tiểu thuyết, Bernard Werber còn được biết đến với truyện ngắn, truyện tranh, kịch và phim. Chú ý chỗ bạn đặt chân. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết quyến rũ này, bạn dám không nhìn thực tế theo cùng cách hiện giờ nữa. *** Một nền văn minh đầy kinh ngạc của loài kiến, một thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn và đáng sợ - đó là thế giới khắc nghiệt và kỳ diệu của những chú kiến bé nhỏ. Kiến không thuộc hàng tiểu thuyết khoa học kinh điển nhưng được xem là dấu son đỏ cho tiểu thuyết khoa học đương đại. Con người hoàn toàn có thể mường tượng ra tương lai không giống như hiện tại chút nào, một tương-lai-của-kiến. ----------------- Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghiệp đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ ngôi nhà mà ông bác là nhà côn trùng học giả di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp... kiến, cùng cái thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn của chúng... Hãy chú ý nơi bạn đặt chân. Đọc xong cuốn tiểu thuyết này rồi, bạn sẽ không còn nhìn thực tế theo cách hiện giờ nữa. Kiến đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, giành giải thưởng của độc giả tờ Sciences et Avenir, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bernard Werber, nhà văn Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. - “Trong Kiến, Bernard Werber đã làm được cho loài kiến những gì Richard Adams đã làm cho loài thỏ trong đồi thỏ…” – Bantam Doubleday Dell Publishing - “Đây là tiểu thuyết đầu tiên mà nhân vật chính là… kiến.” – Albin Michel - “Bernard Werber đã sáng tạo nên một thế giới loài vật gần gũi và chi tiết đến mức mỗi người đọc đều cảm thấy như mình là một phần của nó” – Kevin Grandfield. *** A nh sẽ thấy, không hoàn toàn như anh mong đợi đâu. Công chứng viên giải thích rằng tòa nhà được xếp hạng di tích lịch sử và nhiều nhà hiền triết thời Phục hưng đã từng sống ở đây, nhưng ông không nhớ là những ai. Họ xuống cầu thang, bước vào một hành lang tối om nơi công chứng viên dò dẫm hồi lâu, uổng công bật một cái nút trước khi thở dài: - Ái chà! Nó không chạy nữa. Họ tiến trong bóng tối, lộp cộp lần theo các bức tường. Khi cuối cùng công chứng viên tìm thấy cái cửa, mở nó và nhấn, lần này thì thành công, trúng cái công tắc, ông thấy khách hàng của mình mặt mày biến sắc. - Không ổn à, ông Wells? - Một chứng sợ thôi. Không sao đâu. - Sợ bóng tối? - Vâng. Nhưng đã khá hơn rồi. Họ xem xét mọi ngóc ngách. Đó là tầng hầm rộng hai trăm mét vuông. Dù nó chỉ mở ra phía ngoài bằng vài ô cửa tầng hầm hiếm hoi, bé xíu và sát trần, Jonathan vẫn hài lòng về căn hộ. Các bức tường được dán giấy xám đơn điệu, và bụi phủ khắp nơi… Nhưng anh sẽ không tỏ ra khó tính hơn. Căn hộ của anh hiện nay chỉ rộng bằng một phần năm căn hộ này. Hơn nữa, anh không còn khả năng để trả tiền thuê; nhà máy khóa nơi anh làm mới đây đã quyết định bỏ qua công đoạn của anh. Món thừa kế của bác Edmond đúng là của trời cho không tin được. Hai ngày sau, anh dọn đến số 3, phố Sybarites với vợ mình là Lucie, cậu con trai Nicolas và con chó bông lùn cụt đuôi Ouarzazate của họ. - Mấy bức tường xám này không làm em ngại đâu, Lucie vừa nói vừa lấy tay nâng mái tóc đỏ dày của cô. Chúng mình có thể trang trí như chúng mình muốn. Mọi thứ ở đây đều phải làm lại hết. Như kiểu mình biến nhà tù thành khách sạn đấy. - Phòng của con ở đâu ạ? Nicolas hỏi. - Phía cuối, bên phải. - Ẳng ẳng, con chó sủa, và nó bắt đầu nhay nhay bắp chân Lucie mà không biết là cô đang bưng chồng bát đĩa đám cưới trong tay. Kết cục, nó nhanh chóng bị nhốt vào nhà vệ sinh; khóa hẳn hoi, vì nó biết nhảy tới tận tay nắm cửa và biết xoay để mở cửa. - Anh có biết rõ ông bác hào phóng của anh không? Lucie tiếp tục. - Bác Edmond? Thực ra, tất cả những gì anh nhớ, chỉ là bác nhấc anh lên giả làm máy bay, lúc anh còn rất nhỏ. Một lần anh sợ đến nỗi anh đã tè dầm lên bác ấy. Họ cười. - Đã nhát gan thế cơ à? Lucie trêu. Jonathan làm ra vẻ không nghe thấy gì. - Bác ấy không trách anh về chuyện đó. Bác chỉ nói với mẹ anh: “Được rồi, chúng ta biết là sẽ không cho nó thành phi công…” Sau đó, mẹ nói rằng bác theo sát suốt cuộc đời anh, nhưng anh không gặp lại bác từ ấy. - Bác làm nghề gì? - Đó là một nhà bác học. Một nhà sinh học, hình như thế. Jonathan trở nên trầm tư. Cuối cùng, thậm chí anh cũng không biết ân nhân của mình. Cách đó 6 km: BEL-O-KAN, Cao một mét. 50 tầng dưới lòng đất. 50 tầng trên mặt đất. Thành phố lớn nhất của vùng. Dân số ước tính: 18 triệu. Sản lượng hàng năm: - 50 lít mật rệp. - 10 lít mật sâu yên chi. - 4 kilô nấm mũ. - Đá được dũi: 1 tấn. - Số km hành lang đi lại được: 120. - Diện tích trên mặt đất: 2m2. Một tia sáng vụt qua. Một cái chân vừa nhúc nhích. Cử động đầu tiên từ đợt bắt đầu ngủ đông, cách đây ba tháng. Một cái chân khác từ từ tiến, kết thúc là hai cái chân dần dần tách ra. Một cái chân khác duỗi ra. Rồi đến bộ ngực. Rồi một cái thân. Rồi mười hai cái thân. Chúng rùng mình để giúp dòng máu trong suốt lưu thông trong các động mạch của mình. Máu chuyển từ trạng thái sền sệt sang nhão rồi lỏng. Dần dần van tim bắt đầu hoạt động trở lại. Nó đẩy máu tới tận cuối các chi. Các cơ sinh học nóng dần lên. Các khớp siêu phức tạp xoay từ từ. Khắp nơi, xương bánh chè với các mảng bảo vệ cố tìm thấy cực điểm xoắn của chúng. Chúng tỉnh dậy. Cơ thể lấy lại hơi. Các động tác của chúng rời rạc. Như vũ điệu quay chậm. Chúng lắc nhè nhẹ, vẩy vẩy. Chân trước chúng chập lại trước miệng như kiểu đang cầu nguyện, nhưng không phải, chúng làm ướt các chân của mình để đánh bóng râu. Mười hai con vừa thức dậy xoa cho nhau. Sau đó chúng tìm cách đánh thức những con bên cạnh. Nhưng chúng mới chỉ có đủ sức để nhúc nhích mỗi cơ thể mình, chúng không còn năng lượng để cho đi. Chúng bỏ cuộc. Rồi chúng khó nhọc tiến đến giữa những cơ thể cứng như tượng của các chị em mình. Chúng hướng về bên Ngoài rộng lớn. Toàn bộ cơ thể máu lạnh của chúng cần phải hứng lấy năng lượng mặt trời. Chúng tiếp tục tiến lên, mệt nhoài. Mỗi bước đi là cả một sự đau đớn. Chúng muốn nằm lại đến chừng nào và muốn được yên tĩnh như hàng triệu bạn đồng loại của chúng! Nhưng không. Chúng là những người đầu tiên thức tỉnh. Bây giờ chúng phải đánh thức toàn thành phố. Chúng qua thành phố. Ánh sáng mặt trời làm chúng chói mắt, nhưng tiếp xúc với năng lượng trong lành sảng khoái đến nhường nào. Mặt trời rọi chiếu trên cơ thể gầy của chúng ta, Lay tỉnh những cơ bắp đau nhức Và hợp nhất các suy nghĩ tản mát.   Mời các bạn đón đọc Kiến của tác giả Bernard Werber.