Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Đi Vắng

Người đi vắng, tự cái tựa đó đã nói rất nhiều. Cô đơn. Vô hình. Bí ẩn. Khoảng trống. Người đi vắng (1999) là một trong những khởi điểm của dòng chảy Nguyễn Bình Phương vào thế giới vô thức, mộng mị, hồng hoang, sẽ được tiếp nối bằng Trí nhớ suy tàn (2000) và Thoạt kỳ thuỷ (2004). Cư dân của Người đi vắng là những hồn ma, những kẻ sống dở chết dở, những dòng sông, giọt sương, tiếng chuông... Nhưng có lẽ nhân vật nữ, Hoàn, chính là người đi vắng ly kỳ nhất. Tiểu thuyết dành phần mở đầu mô tả mối tình tay ba của Hoàn với Thắng và Cương, người chồng và người tình. Hoàn lao xe xuống vực, cơ thể huỷ hoại còn hồn phiêu diêu. Từ đó, xen kẽ những giấc mơ của Hoàn là kỷ niệm, âm hưởng, dư vị, dấu ấn mà tấm thân nhục dục trước đây của cô để lai trong hai người đàn ông. Trong Người đi vắng, tình yêu/tình dục/tâm linh gắn với nhau như hình với bóng. Chúng hiện lên lung linh, lẫn lộn vật chất tinh thần, chồng chéo giằng co nhau qua những sợi dây thần bí. Người đi vắng là truyện tình bất thường của những người tình bất kham và bất an. Dường như trong thẩm mỹ của mỗi nhà văn, nhân vật nữ lý tưởng thường có một dáng điệu riêng. Các cô gái của Bảo Ninh, từ Phương và Hạnh của Nỗi buồn chiến tranh (1991) đến Diệu Nương của Gíó dại (1992) đều có một "dáng đi mềm mại đung đưa toàn thân". Ở Trần Vũ, người đàn bà quyến rũ nhất trong thế quỳ. Quỳ, nhân vật nữ chính của Giấc mơ thổ (1995), "cúi gập người", "khom lưng", với các ngón tay khi thì "mát dịu" khi thì "nóng nảy", luôn "mần mần lăn lăn". Còn nằm là dáng vẻ, là số phận, mà Nguyễn Bình Phương chọn cho Hoàn của Người đi vắng. Khi yêu chồng: "Hoàn trở mình nằm ngửa, một cánh tay vắt qua đùi Thắng, khuôn mặt buông lỏng, thảnh thơi..." (tr.64). Với tình nhân: "Hoàn bị bẻ cong lưng, nửa người trên giường nửa duỗi thẳng ra nền nhà, tóc đổ tràn xuống". Khi kề cái chết: "Hoàn nằm thiêm thiếp mồm hé mở, một ống nhựa [...] bắt từ mũi ra ngoài buông thõng ở mép giường" (tr.101). Sau này, Nguyễn Bình Phương còn viết truyện ngắn Đi và tiểu thuyết Ngồi, nhưng anh dành hai tư thế đó cho các nhân vật nam. Không chỉ Hoàn, Thắng, Cương, Thư, hầu hết các nhân vật của Nguyễn Bình Phương đều là những kẻ bất an, những người đi vắng. Tiểu thuyết của anh là một hợp âm với vô vàn đối thoại, độc thoại, mà người đọc không phân biệt được ai là kẻ phát ngôn. Đó cùng là những giọng nói cất lên từ cõi âm, hay tiếng rao "khàn khàn ủ ê" của ông thiến lợn vang lên trong suốt tác phẩm nhưng không ai biết mặt. Các nhân vật của Nguyễn Bình Phương thường có bộ phận thính giác cực kỳ tinh nhạy. Thế giới của anh vì vậy vừa vắng vừa đầy, im lặng nhưng ồn ào, vô hình và hữu hình, thật và ảo, âm dương lẫn lộn. Nguyễn Bình Phương, như ta thấy, đã biến tình dục thành mục tiêu nghiên cứu và phương tiện chính của thi pháp. Tình dục trong Người đi vắng, tồn tại như một chất liệu, hơn nữa, một chủ đề văn học độc lập, mà không ẩn dụ hay hàm ý. Và đây là thành công lớn nhất của Nguyễn Bình Phương trong cuộc tìm kiếm quyết liệt này. *** Mình và họ, tôi tin quyển tiểu thuyết này nếu bước ra thế giới nó sẽ có một số phận oanh liệt với những gì nó đang có. Tôi tin cũng như tin sau Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương sẽ là một nhà văn đưa văn học Việt ra được ngoài biên giới. Biết đâu những gì các nhà văn đàn anh không làm được thì Nguyễn Bình Phương có thể… Nhà văn Nguyễn Bình Phương – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội Trong làng văn Việt, Nguyễn Bình Phương là một cây bút tiểu thuyết âm thầm, lặng lẽ, thuộc tuýp tác giả một mình một ngựa một con đường. Thật thì đến tận hôm nay, những gì về con người Nguyễn Bình Phương như tuổi tác, nhà cửa, gia đình…, tôi vẫn mù mờ dù đã quen anh đến hơn hai chục năm có lẻ và gắn với nhau không ít kỷ niệm. Phương là nhà văn hiếm hoi kiệm lời, lẩn mình, tránh mọi đám đông và giao tiếp thông thường thậm chí nhiều lúc tôi nghĩ anh không hề có bạn. Tất nhiên là bạn văn. Dạo mới quen Phương tôi thấy anh hay đi cặp với Nguyễn Lương Ngọc, một tài năng thơ đoản mệnh chết vì tai nạn giao thông. Nguyễn Lương Ngọc là bạn đồng học viết văn Nguyễn Du khóa 4, một khóa sản sinh ra nhiều tài năng cho văn đàn đất nước. Bản thân Ngọc lúc bấy giờ đã nổi tiếng với những bài thơ rất riêng về thi pháp. Thi thoảng Nguyễn Bình Phương cũng có giao du với đám nhà văn kỳ cựu cả văn lẫn rượu như Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh… Bấy giờ vào đầu thập niên 90 thế kỷ trước Phương còn độc thân và cư ngụ tại một căn hộ nhỏ tầng 4 ở khu Thành Công. Đó là giai đoạn duy nhất Nguyễn Bình Phương sinh hoạt cởi mở theo cánh bợm nhậu. Đôi lần say tôi được Phương đưa về tổ chim của anh để cư ngụ qua đêm. Lúc đó Phương chưa thật sự nổi danh dù anh đã có các tiểu thuyết Bả giời, Vào cõi và Những đứa trẻ chết già. Tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già là bước tiến vượt bậc của anh nhưng chỉ được giới văn chương tiếp nhận dè dặt, đặc biệt là sự im tiếng của cánh phê bình. Cánh này chỉ khi Nguyễn Bình Phương thành danh với một loạt tiểu thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này. Tôi gặp Nguyễn Bình Phương khi anh đang làm biên tập viên Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân. Bấy giờ đầu những năm 90 không khí văn chương vui lắm, ngày nhậu nhộn nhịp đêm về chong đèn cày cuốc. Bản thảo cứ ụn lên căng chật bàn viết. Cánh nhà văn đi đến đâu ào ạt đến đấy. Mâm rượu xôm trò đủ món cả ẩm thực lẫn văn vẻ. Bấy giờ văn đàn chịu ảnh hưởng của một loạt truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và bộ ba tiểu thuyết giải thưởng Hội Nhà văn là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường. Ra đời sau thời điểm này Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương lặng lẽ như chính con người anh. Nó không tạo ra một ngọn sóng nào đối với dư luận song có một điều ai đọc cuốn tiểu thuyết này cũng đều vì nể tác giả. Tôi nghiền ngẫm nó với sự say mê khám phá về một giọng tiểu thuyết chững chạc, một lối hành văn ma mị dẫn nhập đến quái đản. Nói công bằng tôi bị cuốn tiểu thuyết chinh phục hoàn toàn. Thứ văn huyền ảo sệt đậm tâm linh phương Đông với thủ pháp phân thân hồn ma bóng quỷ áp vào mọi nhân vật của Nguyễn Bình Phương luôn là cái đích tôi hướng đến trong sáng tác của mình sau này. Đặc biệt là tiểu thuyết Tàn đen đốm đỏ viết về thế giới vong hồn của tôi. Không ai khác chính Nguyễn Bình Phương là nguồn cơn, là nguyên cớ cho cuốn tiểu thuyết đó ra đời. Như một cái duyên. Trại viết do Nhà Xuất bản Quân Đội Nhân Dân tổ chức ở Đại Lải năm 1994. Tôi ở một phòng không ai dám ở bởi theo đồn đại phòng đó có ma. Tôi vốn là lính chiến, ngổ ngáo chẳng sợ hãi gì ma quỷ nên bất chấp. Nguyễn Lương Ngọc cũng là người mạnh mẽ thấy thế cũng ở cùng. Được một tối, Ngọc lẳng lặng dọn đồ chuồn sang phòng khác không một lời giải thích. Phương thì khác, sáng tác của anh bất cứ trang văn nào cũng ma cũng hồn cũng mộng cũng mị. Tôi từng nói đùa Phương cũng là một con ma sống lần mò chẳng có quy luật chi cả bởi vậy nên anh dọn đến cùng phòng tôi. Có điều chi đó rất bí hiểm khi tối tối đích thân nhà văn Dương Duy Ngữ trại trưởng khóa ngoài cửa phòng tôi và giao cho Phương giám sát tôi rất chặt. Vậy mà một đêm không hiểu sao tôi lại lẳng lặng đi thẳng xuống hồ. Lúc đó tôi đã uống rượu say say. Chỉ láng máng nhớ có người rủ đi dạo ở hồ nước. Phương và anh Ngữ kịp tóm được tôi lôi lên khi tôi đã lội xuống nước ngang đầu gối. Trưa sau, đang ngủ ở phòng, Phương ú ớ kêu không thành tiếng, người ríu lại, tay lần lần móc bằng hết các túi đưa ra đến tận đồng lẻ cuối cùng. Hóa ra trong giấc ngủ Phương bị một đám trẻ con quây trói trấn lột tiền. Tỉnh lại mặt Phương tái dại, bảo phòng này có ma thật anh ạ, đấy, đêm qua không kịp lôi anh lại thì anh đã bị ma dẫn dìm xuống hồ rồi, giờ anh đã tin là có cái thế giới ấy chưa. Hỏi ra, đã lâu tại đây có người phụ nữ thắt cổ chết và chính khu nhà này từng có nhân viên bị mất con. Đến nước đó thì thằng tôi chuồn chuồn có cánh. Căn phòng đó sau này nhà nghỉ cũng bỏ chỉ làm phòng chứa đồ. Tác phẩm của nhà văn Nguyễn Bình Phương Nhân chuyện đó tự nhiên Phương bảo tôi anh là lính trận sao anh không viết một cuốn tiểu thuyết về ma nhỉ, ma chiến tranh ý. Tôi bảo hồn ma, điên dại thì ai viết hay bằng chú được. Nói thế nhưng từ lúc đó tôi khôn nguôi nghĩ ngợi về gợi ý của Phương. Và một cốt truyện chiến tranh hình thành rất nhanh. Tôi bỏ luôn hơn trăm trang tiểu thuyết đang viết dở để chính thức đăng ký viết cái mới. Tàn đen đốm đỏ được tôi viết chỉ chừng 3 tháng. Chương cuối cùng tôi viết ở một quán thịt chó Nhật Tân khi đang nhậu nhưng sự câu thúc khiến tôi ngừng nhậu viết hối hả một mạch và ngay đêm đó tôi gõ cửa nhà Phương đưa tập bản thảo viết tay. Phương đọc và biên tập cũng rất nhanh. Ngay trong năm 1994, Tàn đen đốm đỏ ra đời. Và đến giờ nó là cuốn sách hiếm hoi viết về thế giới vong hồn, thế giới do tôi tưởng tượng ra dành cho những người chết trận vô danh, không mồ, không mả, không tên, không tuổi, không hương, không khói, không được thừa nhận. Thẳm sâu tôi biết ơn Nguyễn Bình Phương đã giúp tôi không nhỏ để có được cuốn tiểu thuyết này. Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu trường viết văn Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục. Ra trường chuyển về đoàn kịch quân đội, và sau đó là Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân. Ở cương vị này Nguyễn Bình Phương là bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh. Một ngày đẹp giời, Phương chuyển về Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội và chỉ ít thời gian sau điều rất không ngờ với nhiều người là Nguyễn Bình Phương chững chạc ngồi vào ghế Tổng biên tập tạp chí. Hãy nhớ, tổng biên tập tạp chí văn chương lừng danh này đều là những nhà văn nổi tiếng, không ít người đeo hàm tướng và Nguyễn Bình Phương xứng đáng. Sau Những đứa trẻ chết già, Phương tiếp tục cho ra đời một loạt tiểu thuyết cùng một phong cách không lẫn vào người khác như Người đi vắng, Thoạt kỳ thủy, Ngồi… và mới nhất là cuốn tiểu thuyết có số phận kỳ lạ, Mình và họ. Đây là cuốn tiểu thuyết được Phương viết xong năm 2010 nhưng bị các nhà xuất bản trong nước từ chối in ấn và nó được xuất bản ở Mỹ dưới cái tên Xe lên xe xuống. Mãi đến năm 2014 nó mới được Nhà xuất bản Trẻ chấp nhận. Ngay lập tức Mình và họ nhận được hoan nghênh hưởng ứng của giới văn chương và độc giả. Có thể nói về tư tưởng và nghệ thuật đây là cuốn sách đỉnh cao của Nguyễn Bình Phương. Anh lấy nguyên cớ trận chiến biên giới với Trung Quốc năm 1979, 1984 để chuyển tải một thế giới con người Việt hiện đại, đa dạng và sinh động. Những con người dần mất đi cảm xúc trước các vấn đề cuộc sống kể cả cái ác. Mình và họ được Hội Nhà văn Hà Nội bỏ phiếu tuyệt đối trao giải thưởng thường niên. Cũng rất khác biệt ở cuốn tiểu thuyết này khi nó được bạn đọc ở Mỹ tán thưởng, điều rất khó chấp nhận khi tác giả là một sĩ quan quân đội và thường thì rất ít tác phẩm trong nước được độc giả ở Mỹ chào đón. Khác biệt nhưng tôi nghĩ không có gì là lạ bởi đây đích thực là một cuốn tiểu thuyết hay, có thể là cuốn đỉnh của tiểu thuyết Việt vốn lâu nay bình lặng không xuất hiện những cuốn xứng tầm. Những ai biết và chơi với Nguyễn Bình Phương đều thấy ở con người này luôn có sự trầm tĩnh và suy lắng ở cả hành động lẫn hình thể. Khuôn mặt như thường trực đeo trên đó một nghĩ suy nào đó với cặp mắt nheo nheo tinh anh nhưng xa lạ với người đối diện. Phương rất ít khi đàm đạo tâm sự với ai. Tôi chơi lâu nhưng thân thì không. Từ khi Phương về Văn Nghệ Quân Đội chúng tôi không hề gặp lại dù chẳng ít lần điện thoại hẹn nhau. Có lẽ mọi thứ về cuộc sống của Phương đều dành hết cho văn chương. Gia đình của Phương thì tôi chịu không có bất cứ một thông tin nào. Nói đến gia đình lại nhớ cú vấp hy hữu của Nguyễn Bình Phương đúng hôm làm lễ cưới với Hoàng Tố Mai, ái nữ của nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến. Hôm đó báo Văn Nghệ Trẻ in truyện ngắn Đi của anh. Bạn bè trong lễ cưới rất vui đã cùng nhau ký vào trang có truyện ngắn để tặng vợ chồng Phương làm kỷ niệm. Ngay đó, truyện ngắn Đi bị phê phán nặng. Số báo in truyện ngắn bị thu hồi. Phương bị kỷ luật hạ quân hàm. Tờ báo thất lạc không đến được tay chủ nhân. Hôm rồi nhà thơ Nguyễn Thành Phong xác nhận đang cầm tờ báo đó. Dạo này thấy thi thoảng Nguyễn Bình Phương xuất hiện ở một vài đám bạn bè. Tính Phương không thích đông người chỉ chấp nhận nếu ngồi thì chừng vài ba người. Cũng lạ, một nhà văn không lấy internet làm phương tiện giao tiếp cũng như tìm hiểu xã hội đương đại, không lấy bạn bè để san sẻ nhưng tác phẩm của anh lại ăm ắp kiến thức của đời sống hiện đại. Một sự trải nghiệm có lẽ chỉ có ở một nhà văn có tầm. Với tôi, Nguyễn Bình Phương luôn tạo ra những bất ngờ thú vị. Tỷ như khi nghe tin anh trúng Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa rồi tôi mới ớ ra. Hóa ra Phương đã vào Hội Nhà văn từ bao giờ. Tôi cứ nghĩ Phương không thích hội hè, không thích cả quản lý mà chỉ chuyên tâm làm văn chương. Thật thú vị người luôn đi vắng ở mọi đám đông ở văn đàn giờ lại ở nơi đông nhất với vị trí Tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Quân Đội và Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Gặp lại Nguyễn Bình Phương ở lễ trao giải Hội Nhà văn Hà Nội hôm rồi, lại thêm một bất ngờ nữa với tôi. Phương soạn hẳn một diễn từ công phu và đọc nó trang trọng với sự xúc động của một người đoạt giải. Thái độ này là rất khác biệt với tính cách của anh. Nguyễn Bình Phương có lẽ là người duy nhất từ chối mọi sự vinh danh mình. Anh không có mặt trong hầu hết các cuộc ra mắt sách, từ chối những gì liên quan đến bề nổi của một nhà văn. Có lẽ ở giải thưởng này, Nguyễn Bình Phương đã được an ủi bởi số phận long đong đứa con mình. Thế nên anh đã công khai chấp nhận nó. Điều đó thật xứng đáng. Mình và họ, tôi tin quyển tiểu thuyết này nếu bước ra thế giới nó sẽ có một số phận oanh liệt với những gì nó đang có. Tôi tin cũng như tin sau Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương sẽ là một nhà văn đưa văn học Việt ra được ngoài biên giới. Biết đâu những gì các nhà văn đàn anh không làm được thì Nguyễn Bình Phương có thể. Biết đâu…. PHẠM NGỌC TIẾN Báo Tiền Phong, 2.2016 Mời các bạn đón đọc Người Đi Vắng của tác giả Nguyễn Bình Phương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Một Thế Giới Không Có Đàn Bà - Bùi Anh Tấn
Một Thế Giới Không Có Đàn Bà” của Bùi Anh Tấn đã phơi bày một thực tế đang có mặt bên cạnh cuộc sống của đa số công chúng: cuộc sống của những người sinh ra đã bị đồng tính luyến ái...Tiểu thuyết mở đầu bằng một án mạng, nạn nhân là một nhà khoa học độc thân, có uy tín. Trong suốt 500 trang sách, quá khứ của nhà khoa học - nạn nhân này được lật lại bằng những hoạt động nghiệp vụ của các sĩ quan công an, mở ra một thế giới lạ lùng phía sau ánh đèn vũ trường, nhà hàng, quán xá và những điểm hay lui tới của giới đồng tính. Vấn đề nhạy cảm này hiện đã khá phổ biến trong nước, nhưng trên thực tế vẫn còn là những quan điểm tranh luận chưa thống nhất giữa các nhà đạo đức, tâm lý, xã hội, giáo dục, luật pháp, tôn giáo… "Cốt truyện của "Một thế giới không có đàn bà" quả nhiều thắt nút, nhiều cao trào vực xoáy, tóm lại là nhiều tình huống kịch tính. Một cốt truyện hình sự đan xen một cốt truyện tâm lý. Tác giả tỏ ra là người am tường tâm lý học, xã hội học và tội phạm học những khoa học liên ngành rất cần thiết cho hoạt động của cơ quan chức năng như ngành Công an. Nhưng hơn hết, anh là một nhà văn muốn nhìn con người từ góc độ "nhân học"" (Nhà phê bình Bùi Việt Thắng) "Thế giới ấy đáng được biết đến, đáng được thông cảm hơn người ta tưởng. Cuốn sách đã phơi bày một thực tế đang có mặt bên cạnh cuộc sống của đa số công chúng: cuộc sống của những người sinh ra đã bị đồng tính luyến ái. Đề tài mới lạ trong văn học Việt Nam và hoàn toàn không dễ viết, chỉ cần non tay một chút có thể trở thành bất cập, còn lơi tay một chút sẽ dẫn đến thái quá. Bùi Anh Tấn đã tránh được cả hai, với cấu trúc thật sự của tiểu thuyết, cách dẫn truyện, diễn đạt và nhất là khả năng thâm nhập nội tâm nhân vật.(Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc) *** Chiếc taxi Mai Linh từ từ đỗ lại trước cửa, từ xa, Hoàng đã thấy chị Hai Huệ đang bế đứa nhỏ, trên tay nó đang cầm bó hoa vẫy vẫy chào chú, thằng bé ngoác miệng cười hết cỡ, nhe mấy cái răng sún trông rất dễ thương. Má anh đang đứng nắm tay đứa lớn, con bé đứng mà cứ nhảy chân sáo, miệng tíu tít liến thoắng nói làm cho bà nội nó không kịp mở miệng. Cả nhà đang chào đón Hoàng từ bệnh viện trở về. Lân thận trọng đỡ Hoàng chui ra, Hoàng bước ra "Má", anh ôm má rưng rưng. Tiếng thằng bé ngọng ngịu: "chú ba khóc kia má", con bé thì cười khanh khách "chú ba xấu quá, lớn rồi mà còn khóc nhè". Cả nhà mừng mừng tủi tủi đi vào nhà. Bước vào phòng trong, Hoàng chợt sững lại trước tấm ảnh của ba phóng to để trên bàn thờ. Ánh mắt ông nhìn anh hiền hậu, không nén được, anh gục đầu trên bàn thờ, khóc rống lên "ba". Thằng bé thấy chú khóc to quá, nó sợ, níu áo mẹ nhè nhẹ miệng. Huệ thì cúi đầu lau nước mắt liên tục, con bé thấy bà nội bước đến bên chú vuốt tóc mà mắt bà cũng rưng rưng, nó vội chạy lại núp lấp ló sau lưng ba. Lân cười vuốt tóc con gái, anh cười méo xệch, nói to: - Kìa sao mọi người kỳ quá. Sao lại khóc ? phải mừng mới phải chứ. - Ba.. ba... Thằng bé giãy ra khỏi tay má, giang tay đòi qua với Lân. Anh cúi xuống bế cả 2 con trên tay và vùi đầu vào ngực thằng bé, nhột và nó cười nắc nẻ. Tiếng cười trong trẻo trẻ thơ phá tan bầu không khí u buồn trong nhà. Hoàng như sực tỉnh, lau nước mắt và đưa má ngồi xuống ghế. Huệ chạy vội xuống bếp dọn cơm và đứa con gái tuột khỏi người Lân, lon ton chạy xuống bếp phụ má. Đẻ con gái đầu, sướng cái là được nhờ sớm. Nhìn con, Lân sực nhớ đến lời nói của bạn bè. Dừng xe ở trước cổng bệnh viện, Lân khều vai Hoàng nhắc lại lần nữa "Em phải bình thường nghe Hoàng, đừng làm điều gì quá lố". "Dạ, em biết rồi", Hoàng đáp khẽ. Hai anh em đang vào thăm Trung ở trong bệnh viện. Ngay từ lúc đang còn nằm trong bệnh viện, Hoàng đã nằng nặc đòi qua thăm Trung, Lân phải hết lời thuyết phục em trai là chờ khỏe hẳn hãy qua, Hoàng bắt anh hứa đi hứa lại nhiều lần mới yên tâm. Thế nhưng anh biết Hoàng chẳng yên tâm chút nào, cứ nhìn thái độ ngóng trông từng ngày của Hoàng là anh biết. Sau mấy ngày nằm viện, khi về nhà, chưa đầy 1 buổi, chiều chưa hết giờ làm việc, Hoàng đã điện thoại qua cơ quan, năn nỉ Lân cho mình đến thăm Trung. Bận họp, đến tận tối, Lân mới về và đã thấy đồ đạc lỉnh kỉnh để trên bàn, nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của anh, Huệ nói "Em chuẩn bị 1 chút ít đồ cho Hoàng vào thăm chú Trung. Chẳng gì cũng là ơn nghĩa người ta đã từng cứu giúp mình". Huệ nói rất tự nhiên, có vẻ như cô ta không có ý gì khác, nhưng Lân hiểu rằng, Huệ rất thương Hoàng và cô chấp nhận ở Hoàng tất cả như 1 điều tự nhiên. Tấm lòng của người phụ nữ là vậy, bao giờ cũng nhân ái và bao la như biển cả, chỉ có những gã đàn ông như anh mới cục cằn, thô lỗ mà thôi. Đêm qua, trong khi mọi người đang xem tivi dưới nhà, không thấy Hoàng đâu, Lân lên lầu thì thấy em trai đang ngồi 1 mình trên sân thượng nhìn mông lung lên trời. Rót cho anh ly nước, không đợi Lân hỏi, Hoàng đã kể hết tất cả quãng đời từ khi mình bỏ nhà ra đi. Lần đầu tiên Hoàng nói thật tất cả sự đắng cay, dằn vặt, đau khổ từ khi biết bản thân là 1 người Đồng tình luyến ái đến nay. Lân nghe em nói mà trong lòng bùi ngùi, những điều anh hiểu và nghĩ về Hoàng vẫn còn sơ sài quá, anh đâu có ngờ Hoàng lại phải trả 1 giá đắt đến như vậy. "Về mối quan hệ với Trung, thực sự em có lỗi vì đã lôi Trung vào trong mối quan hệ đồng tính này. Giờ đây nghĩ lại em thấy ân hận và ăn năn quá, có thể cuộc đời em coi như là bỏ đi, nhưng em không thể hủy hoại tương lai của Trung, lôi kéo Trung vào con đường không có lối thoát này. Nhưng em muốn nói thật với anh 1 điều là em yêu và rất yêu Trung, đây là 1 tình cảm thực sự trong sạch phát xuất từ những tình cảm của chính bản thân em, từ con tim, bởi em yêu Trung và em cảm nhận được rằng Trung cũng hiểu điều ấy và Trung cũng như em, chúng em có thể sẵn sàng đổi tính mạng cho nhau, nếu như làm được điều gì đó cho người mình yêu. Không hề có 1 tí nhục dục bẩn thỉu nào ở đây. Rất khó giải thích cho anh hiểu nổi, bởi anh không phải là con người như em, nên anh sẽ không cảm nhận được điều em nói. Nhưng em muốn nói với anh rằng, em và Trung yêu nhau, 1 tình yêu của những kẻ đồng giới, thiếu thốn và lạc loài trong cô đơn nên khi tìm được đến với nhau, hiểu nhau thì đấy là 1 tình cảm tuyệt vời, không có 1 thứ tình cảm nào trên đời này có thể so sánh nổi. Nhưng cũng chính vì yêu Trung nên em không muốn mình lại giết cả tương lai của Trung, nhưng nếu phải dứt bỏ Trung, thì em đau khổ lắm". Hoàng gục đầu khắc khoải. Một cánh chim ăn đêm dang rộng cánh bay ngang bầu trời thốt lên những tiếng kêu buồn bã làm cho Lân giật mình. Những điều Hoàng nói quả thật anh không hiểu và không hình dung ra nổi, giá như trước kia anh đã chẳng phá lên cười hoặc sẽ là giận dữ, còn nay trong lòng anh chỉ là 1 niềm cảm thông bao la, sâu sắc và anh không hề khó chịu trong lòng khi nghe em trai mình nói. Kéo Hoàng dậy, nhìn vào đôi mắt đầm đìa của em trai, Lân nghiêm nghị "Cuộc đời này sẽ còn có rất nhiều điều phải làm, chúng ta là những người đàn ông, em cũng là 1 người đàn ông. Đây em hãy nhìn khoảng trời bao la này đi, đêm nay gió rất mát, trời đầy sao và như vậy ngày mai sẽ nắng to. Cuộc sống sẽ còn biết bao điều kỳ bí vĩ đại mà cần đôi tay và trí tuệ của chúng ta khám phá. Anh hiểu, trong cuộc đời này mỗi cá nhân đều mang trong mình những đau khổ bất hạnh của riêng mình, anh không muốn nói đấy là số phận, nhưng anh khẳng định đấy là sự thật và đã là sự thật thì chúng ta phải chấp nhận nó trong 1 thái độ dũng cảm. Phải biết tự đè nén, tự kìm chế bản thân, tự đấu tranh và nổ lực vươn lên, ta chiến thắng được chính bản thân ta thì tức là chiến thắng được tất cả. Em còn quá trẻ và em phải khẳng định được bản lĩnh 1 thằng đàn ông trong con người em, vì vậy em phải đứng lên 1 cách mạnh dạn để đấu tranh với đời và phải vững tin rằnh mình sẽ thắng. Đừng ủy mị như vậy, phải tin rằng mình sẽ thắng, và khi em tìm được niềm tin thì em sẽ thắng, rõ không ?". Cả 2 anh em lững thững đi vào bệnh viện, đang buổi chiều tối nên bệnh viện khá đông người thăm nuôi. Chợt Lân dừng lại trước 1 người đàn ông đứng tuổi đang cặm cụi đi ra, chào: "Chào giáo sư", giáo sư Vĩnh Chương giật mình ngẩng đầu lên thấy Lân: "Ồ, chào anh Lân". "Giáo sư đi về ?". "Không, tôi ra mua tờ báo, anh vào thăm Trung đấy hả ?". "Vâng". Giáo sư Vĩnh Chương vồn vã mời 2 người theo ông vào phòng bệnh. ... Mời các bạn đón đọc Một Thế Giới Không Có Đàn Bà của tác giả Bùi Anh Tấn.
Người Cát - E.T.A Hoffmann
Người Cát là một câu chuyện quái đản tiêu biểu của nền văn chương quái đản Đức Quốc, một câu chuyện do ngòi bút đặc sắc của E.T.A Hoffmann sáng tạo. Đáng lý nhà văn E.T.A Hoffmann đã là một nhà diễn tấu vĩ cầm nhưng sau ông chuyển qua văn chương. Ông đã đoạt được một thành tích đáng kể về những mẫu chuyện quái đản Đức Quốc. Không thể kể hết ra đây những tác phẩm của ông. Chúng ta ghi lại được một số truyện sau đây: Le magnétiseur; Ingace Denner; Le vase d’or; Les Elixirs du Diable; L’église des Jésuites; Krespel; Le Majorat; La masion hantée; Les Mines de Falun; Maitre Puce v.v... Với Hoffmann, chúng ta vẫn còn hoàn toàn ở trong lĩnh vực tiểu thuyết lãng mạn nhưng đã có một sự cố gắng đi vào thực tại hơn. Chúng ta không biết những nước non, xứ sở trong câu chuyện nằm ở những phương hướng nào trên quả đất nhưng luôn luôn chúng ta vẫn được mục kích những cảnh thần tiên mộng mị. Nhân vật trong câu truyện của Hoffmann thường có được trang phục, dáng điệu, nói năng của những kẻ đương thời với ông; Hoffmann luôn luôn không tránh sự bành trướng một cách dễ dàng những sự việc lạ lùng rùng rợn, Ông ta còn tỏ ra là một đứa bé khôn lanh, biết cười nụ, mỉa mai, thoi thúc người đọc, áp dụng những thể thức khiến người đọc được yên lòng thỏa mãn. Qua tấn bị kịch xảy ra giữa nhân vật của câu truyện và sự xúc động của người đọc, hình ảnh của tác giả luôn luôn hiện ra để xen nhập vào. Tác giả là một con người khéo léo và ít nhiều mang tính chất hài hước. Tính chất quái đản chưa thoát hẳn tính chất thần tiên mộng mị và sự phong phú của câu chuyện làm giảm rất nhiều về chất lượng. “Lúc còn thơ ấu, Nathanael phải đi ngủ trước khi Người Cát đến. Người Cát nầy không phải người bán cát điềm đạm như chúng ta vẫn thường thấy, mà là một nhân vật dữ tợn, một kẻ móc mắt trẻ con để mang về cho bầy cháu hắn, bầy cháu quay quần trong một cái tổ ở cung trăng. Nhiều đêm, mẹ của Nathanael buồn, khi những bước nặng nề vang lên trên bực thang. Đó là những bước chân của Người Cát. Một đêm nọ, đứa bé Nathanael nấp vào căn phòng bào chế của cha để rình xem Người Cát và em đã nhận ra được Người Cát không ai xa lạ, chính là nhà luật sư Coppelius thường ngày vẫn lui tới nhà em và kẻ nầy đã gây nơi đứa bé một sự ghê tởm thật sự. Con người kia muốn móc đôi mắt của Nathanael và may nhờ cha em cầu xin hắn nên hắn mới chịu tha, và đứa bé Nathanael lâm bịnh nặng. Coppelius chỉ trở lại có một lần tại căn phòng bào chế và sau đó, một tiếng nổ dữ dội đã giết chết cha của Nathanael. Sau này, lớn lên trở thành sinh viên, Nathanael tiếp xúc với một người bán phong vũ biểu và kính đeo mắt tên là Coppola. Những kính đeo mắt mà người bán kính kia sắp ra trên bàn và gọi rằng: những “kong mác” (đọc trại con mắt) khiến người thanh niên sợ hãi và rốt cuộc, chàng cũng bỏ tiền ra mua một loại kính viễn vọng nhỏ. Dụng cụ kỳ ảo nầy đã cho phép người thanh niên nhận thấy Olympia, con gái của G.S Spalanzani đẹp một cách kỳ dị. Người thanh niên Nathanael đem ra yêu nàng say đắm. Nhưng đúng ngày mà Nathanael chuẩn bị xong xuôi để hỏi nàng làm vợ, thì chàng phải chứng kiến một cuộc xô xát xảy ra giữa Spalanzani và Coppola, hai kẻ này đang tranh dành xâu xé thân hình của Olympia. Nàng chỉ là một pho tượng được cấu tạo bởi Spalanzani và chính Coppola đã gắn đôi mắt cho pho tượng ấy. Người thanh niên lại ngã xuống lâm một thứ bệnh mới và sau đó gần như được bình phục hẳn. Nhưng một ngày nọ, khi cùng với vị hôn thê Clara đứng trên mái cầu một thành cao, Nathanael đã khờ dại đem ra dùng lại cái kính dòm viễn vọng kia. Chàng nhìn thấy Coppelius. Cơn điên tái phát, người thanh niên vừa ngã vật vừa ré lớn và nát thân trên thảm đất khô” Người Cát vừa là một câu chuyện chỉ giáo y khoa, vừa là một câu chuyện quái đản. Địa hạt của sự “điên cuồng” và sự “lạ lùng” gặp nhau. Những ảo giác, ảo tưởng không phải là những hình thức có thể được chấp nhận trong cách nhìn của con người hay sao? Con người văn minh không thể tin một cách dễ dàng rằng ma quỉ xuất hiện chập chờn dưới mái nhà họ nhưng con người văn minh có thể chấp nhận rằng những kẻ điên có thể bị ám ảnh bởi những ảo giác, ảo tưởng. Đằng nào, con người văn minh cũng được thỏa mãn: qua câu truyện của Hoffmann, họ không tin rằng có ma quỉ thật sự và những ảo giác, ảo tưởng không thể xảy ra trong cuộc sống của họ. Một bên là câu truyện cổ tích và một bên khác là những khảo luận về y học. Sự khôn khéo của tác giả là biết dung hòa hai sự kiện trên, bằng cách quan niệm những ảo giác, ảo tưởng kia như những sự việc xảy ra một cách hiển nhiên do những bóng ma làm “chủ động”. Vì vậy, người đọc không phải mất thì giờ với một cốt truyện cũ kỹ lỗi thời, với sự tường thuật một trường hợp chỉ giáo y khoa mà thôi. Độc giả còn tham gia vào bên trong sự tan vỡ của mổ tâm hồn, độc giả sẽ hòa mình với nhân vật chính bị tai nạn, độc giả sẽ cảm thấy sự lo lắng, niềm băn khoăn. Sinh viên Nathanael vừa bị cám dỗ, vừa bị đe dọa bởi một “sức mạnh âm u”. Chàng thanh niên loạng choạng giữa hai thái cực chống đối, mâu thuẫn của sức suy tưởng. Nhưng câu truyện của Nathanael đưa đến hai lối nhận định: Theo Clara, vị hôn thê của chàng, Nathanael bị ám ảnh bởi những con ma bên ngoài mà chàng có thể tự ý xua đuổi được nếu biết luyện tập ý chí của mình. Nhưng đối với lối nhận định tương đối lạc quan này, một lối nhận định kêu gọi đến can đảm và lý trí. Nathanael muốn chống lại bằng một quan niệm bi quan và chính cái quan niệm nầy đã lôi cuốn chàng đến một niềm tuyệt vọng thụ động: “Sức mạnh âm u” kia từ ngoài mà vào, sức mạnh kia làm chủ tình hình, quyết định số mệnh của những kẻ do nó điều khiển. Điểm mà Clara chỉ thấy toàn là bệnh hoạn gây nên bởi những ngẫu nhiên tai biến, Nathanael lại tưởng nhìn thấy được ở đấy bàn tay của Định mệnh. Theo Clara Người Cát là ai. Một nhân vật huyền hoặc, hoang đường. Sự trùng nhau giữa Người Cát – Coppelius? Sản phẩm của sự liên tưởng hợp lý tưởng trong tâm trí một đứa bé. Sự buồn bã của bà mẹ? Bà ta tiếc tiền phải phung phí trong những cuộc tìm tòi, nghiên cứu chưa có kết quả. Cái chết của ông cha? Một rủi ro do sự bất cẩn trong công việc phân hóa kim khí. Sự giống nhau giữa Coppelius và Coppla? Sự gần giống nhau về cái tên? Hoàn toàn là những ngẫu nhiên, ngẫu hợp mà thôi. Nhưng Nathanael muốn nhận định qua một ý nghĩa tổng quát những điều mà Clara chỉ thấy toàn xảy ra là do những nguyên nhân bất ngờ bất thình lình mà thôi. Sự liên hợp tư tưởng trở thành những tương hợp huyền bí. Coppelius và Coppola làm thành nhân vật suy nhất với cái tên của hai nhân vật này cùng thoát từ nguyên âm “Coppa”, cái ổ của con mắt người. Chúng nó là Người Cát trong sự nhận định mơ hồ của Nathanael: khi thì móc mắt trẻ nhỏ, khi thì làm vật bất động, làm kính đeo mắt, đóng vai những con mắt bằng thịt, bằng máu. Chúng ta đi trên cái ranh giới đáng sợ của sự sinh hoạt và sự bất động: Olympia, sinh vật kinh khủng kia, có phải là cái máy không? Có phải là một thiếu nữ đáng mến, có quả tim vàng, có tâm hồn sâu sắc không? Sự đảo ngược lạ lùng của “sâu xa” và “nông cạn” ở nơi mà lý luận sáng suốt nhận ra những ngẫu nhiên, ngẫu hợp, tư tưởng huyền bí và mê hoặc, vì tưởng lĩnh hội được một chân lý duy nhất nấp dưới cát bụi của sự phức tạp, lại nhận thấy hiện ra những gì còn sâu sắc bí hiểm hơn. Clara, người thiếu nữ đã dấu ở tận đáy tâm hồn những kho tàng về tình yêu trong sáng, bị xem là “con người máy hạ cấp” trong khi con “người máy Olympia” chỉ biết lặp đi lặp lại hai tiếng A!A! lại được Nathanael xem như là một tâm hồn bí hiểm, thanh cao. Nội dung của câu truyện thật quả là quá sức lý sự, điều nầy tưởng không ai phải phản đối. Nhưng cái mà người ta để ý tới, chính là điểm mà vì quá lý sự nên câu truyện trở thành ghê gớm. Những trường hợp oái oăm của hồn thơ, những hoàn cảnh oái oăm của sự thần bí thật là hết sức khủng khiếp bởi vì những trường hợp, hoàn cảnh kia bị đánh đổ, đè bẹp. Đó là cuộc đấu tranh của ký trí chống lại với những giây phút điên loạn ấy, và do sự tranh đấu nầy đã phát sinh ra nguồn suy tưởng, thuận lợi cho một niềm thống khổ đắng cay. Gạt bỏ đi sự tranh chấp và chỉ lại những sự kiện đã xảy ra trong câu chuyện, hoặc giả bạn đọc sẽ tìm thấy sự trong sáng tầm thường mà Clara đã quen thuộc trong đoạn kết: “Cuối cùng nàng đã tìm được hạnh phúc êm đềm dưới mái gia đình, nàng đã sống cuộc sống hợp với bản chất vô tư và quan niệm của nàng” hoặc giả bạn đọc sẽ khám phá sự trong sáng huyền hoặc đã tạo cho Anselme, nhân vật chính trong “Le vase d’or” – sự đắm say thanh khiết của hồn thơ. Tâm hồn của Hoffmann nhất định đã chan hòa trong Kater-murr, sự trong sáng trưởng giả và sự kích thích mãng mạn của những Aufklarer thay phiên nhau diễn tiến một cách khôi hài. Trong câu truyện La vase d’or hồn thơ độc nhất đã nổi bật còn trong Người Cát thì lối hành văn suông vậy. Xin mời các bạn bắt đầu đi vào câu truyện. *** Câu chuyện tình này đen tối như những con đường hẽm của một bến tầu ở cửa thành phố Luân Đôn. Trong những con đường đìu hiu kia, bước chân người không vang lên được một tiếng động nhỏ. Những cánh cửa sổ khép nép không đón được một chút gió lành, và chiều xuống, cảnh trí trở nên lạnh lùng hoang vắng làm sao! Ở những xóm quạnh quẽ thê lương này, những cảm xúc êm dịu sáng tươi có thể mất hẳn nhưng tình yêu và lòng hy sinh vẫn tồn tại và còn mãnh liệt biết chừng nào! Những cảnh huy hoàng lộng lẫy bất công của Đô Thị hình như muốn thiêu hủy những gì cao đẹp, những gì gọi là Nghị lực, là Can đảm của xóm bùn nhơ ướt át. Không, ở những nơi nầy, cái Đẹp vẫn đương đầu, đương đầu với bao nhiêu sự lấn át trên. Tình yêu bén rễ trong cảnh bùn lầy tăm tối và vẫn tạo nên được khúc nhạc êm đềm, tạo nên được những cảnh vườn chang nắng đượm hương hoa, tạo nên được những đêm trăng sáng như pha lê, và những bài ca xuân thanh thót dịu dàng như suối chảy. Trong một của những con đường vắng vẻ này, cách xóm bến tầu một khoảng, có một tiệm giặt ủi do một người Trung Hoa làm chủ tên là Ng. Vong. Trong nhiều năm qua, một người đàn bà, gương mặt nửa Âu nửa Á, ngồi sau tấm cửa sổ của tiệm giặt. Nàng ngồi đấy, hết ngày nầy đến ngày khác, hết tháng này lại đến tháng khác. Những kẻ bần cùng của xóm nghèo mà sự khốn cùng không làm mất tình trắc ẩn, đã để ý và thương hại nàng. Nhưng người ta chỉ biết được một phần nhỏ của câu chuyện. Người đàn bà ấy là vợ của Ng. Yong chủ tiệm giặt và nàng câm. Suốt ngày, nàng ngồi ở cửa sổ và sự cô đơn hình như đã làm mất hẳn những nét buồn vui, gương mặt trở nên lạnh lùng một cách kỳ lạ. Nàng không nhìn ai và có lẽ cũng chẳng nghe ngóng gì. Nàng ngồi không nhúc nhích và im lặng như một pho tượng Tàu. Riêng đôi mắt nàng có vẻ mơ màng nhưng dữ tợn, đôi khi còn chiếu ra một sự hải hùng ghê rợn. Những lúc đó nhìn nàng, những người lạ chưa biết nàng rão bước đi mau để thoát khỏi cái nhìn của người đàn bà ấy, thoát khỏi cái đường hẽm tối tăm, mong gặp được con đường lớn sảng sủa, rộng rãi thênh thang hơn. Người ta sẽ không bao giờ biết được những tư tưởng hắc ám nào qua gương mặt thản nhiên đến ghê sợ kia. Người ta chỉ có thể tưởng tượng chút ít thôi. Một sự căm hờn, một niềm sợ hải, một mối thù, một sự trốn tránh, hoặc một kỷ niệm hắc ám của cuộc đời đã diễn lại trong cái tâm hồn ấy? Tất cả những việc đó, chúng ta đều không thể nói lên được. Thỉnh thoảng, không báo trước, vùng một cái, nàng đứng thẳng dậy, chạy ra cửa lớn của tiệm giặt. Trong phút đó, gương mặt nàng trở nên hoạt động và mất vẻ bình thản lạnh lùng thường ngày. Hình như nàng phải vận dụng tất cả sức lực để nói lên một điều gì. Trong khi nàng làm những cử chỉ tuyệt vọng về hướng bến tàu Antilles, ở miệng nàng chỉ thốt ra những loạt âm thanh ấm ớ líu lo không ai hiểu nổi. Lúc đó, người chồng chạy lại bên nàng, cầm tay nàng, dịu dàng mà cứng cỏi, để đưa nàng về chỗ ngồi cũ. Những người hàng xóm láng giềng tỏ ỷ thương hại cho người chồng, và có ý thầm phục bản chất của người đàn ông như Ng. Yong trong việc đối xử với một người vợ tàn tật. Ng. Yong đã giải thích cái họa đã xảy đến cho gia đình y. Khi nghe câu chuyện, hàng xóm khuyên y nên chăm sóc đến vợ kẻo tội nghiệp. Ng.Yong rất chăm sóc vợ. Ng.Yong luôn luôn ở bên cạnh vợ, mỗi khi nàng đi dạo chơi trong xóm. Trong những lúc đi dạo, nhiều khi nàng dừng bước, nhìn quanh quất tứ phía như muốn chạy tìm một nơi mà chỉ mình nàng biết. Nhận thấy gương mặt cầu xin, van lơn, đau xót của nàng, nhất là nhìn đôi môi run rẩy không thốt ra lời, tất cả những kẻ qua đường đều dừng chân như muốn dò hỏi căn nguyên. Trong phút đó, chồng nàng cầm tay dắt nàng đi. Trong số người chứng kiến sự việc trên, những kẻ không quen biết gia đình Ng.Yong thì đành bỏ đi, còn những người quen biết thì bước lại gần để an ủi cặp vợ chồng đáng thương đó. ... Mời các bạn đón đọc Người Cát của tác giả E.T.A Hoffmann.
Mọi Ông Bố Đều Đã Từng Xếp Thứ Nhất - Azit Nexin
Tập truyện cười này gồm có: Bức thư đầu tiên Kiến trúc sư… đã xây nên châu Mỹ Mọi ông bố đều đã từng xếp thứ nhất Hãy quên tất cả những gì các em đã học! Có làm mới có ăn… Bài học luận lý Tôi không ngờ em lại như vậy!… Sự hối tiếc Người cha của tám cô gái Con chưa thể hiểu Cái xương Lễ sinh nhật Tôi đã làm quen với một thần đồng Nhiều giọt nước làm nên biển cả Chúng tôi bước sang năm mới bình an Con bé cẩu thả Một câu nói tục Hãy yêu nước Cần phải đọc một bài thơ như thế nào? Nhà trường và gia đình Con cái chúng ta giỏi thật! Em yêu quý! Khi nhà có khách Thật đáng hổ thẹn! Tình cảm gia đình Một lời nói dối Đêm văn nghệ thiếu nhi Cuộc thi truyện do trẻ em viết Có thể rất tuyệt! Thư của tác giả gửi các em *** Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 - 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Bút danh Aziz Nesin nguyên là tên cha ông, được ông sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün. Ông sinh tại Heybeliada, Istanbul dưới chế độ đế chế Ottoman năm 1915. Sau khi làm viên chức trong vài năm, ông trở thành người biên tập của một loạt tạp chí trào phúng châm biếm nghiêng về chủ nghĩa xã hội . Ông bị tống giam vài lần vì thái độ chính trị của mình. Aziz Nesin đã đưa ra một bản cáo trạng mạnh mẽ lên án sự áp bức và đối xử hung bạo với dân thường. Ông châm biếm bộ máy quan liêu và phơi bày sự bất công của nền kinh tế qua các tác phẩm được kết hợp giữa màu sắc địa phương và sự thật trần trụi một cách tinh tế. Aziz Nesin được trao tặng nhiều giải thưởng tại Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Bulgaria và Liên bang Xô Viết. Những tác phẩm của ông được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Trong nửa sau cuộc đời mình, ông được cho là tác giả Thổ Nhĩ Kỳ duy nhất sống hoàn toàn bằng thu nhập từ những cuốn sách của mình. Năm 1972, ông sáng lập Quỹ Nesin. Mục đích của Quỹ Nesin là mỗi năm đưa 4 trẻ em nghèo vào trụ sở của quỹ để che chở, nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo các em, bắt đầu từ bậc tiểu học cho tới khi các em hoàn thành bậc trung học, một trường dạy nghề hoặc cho tới khi các em có nghề nghiệp ổn định. Aziz Nesin đã tặng miễn phí cho Quỹ Nesin toàn bộ bản quyền tác giả của những tác phẩm của ông tại Thổ Nhĩ Kỳ và các nước khác, bao gồm tất cả những sách đã xuất bản của ông, tất cả các vở kịch được trình diễn, bản quyền tác giả cho những bộ phim, và toàn bộ các tác phẩm của ông được phát hay sử dụng trên đài phát thanh hoặc vô tuyến truyền hình. Aziz Nesin là một nhà hoạt động chính trị. Sau cuộc đảo chính quân sự năm 1980 do Kenan Evren cầm đầu, toàn bộ đất nước, kể cả giới trí thức, bị đặt dưới sự áp bức nặng nề. Aziz Nesin đã lãnh đạo một số trí thức trong hoạt động chống lại chính phủ quân sự, được biết đến với tên gọi Aydınlar Dilekçesi (Lời thỉnh cầu của trí thức). Ông đã dành trọn những năm cuối đời để chiến đấu chống lại trào lưu chính thống ngu dốt và cuồng tín. Ông đấu tranh cho quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là quyền được chỉ trích đạo Hồi một cách không thỏa hiệp. Đầu thập niên 1990, ông bắt đầu dịch cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi của Salman Rushdie với tựa đề Những vần thơ của quỷ Satan. Việc này đã khiến ông trở thành đích nhắm của những tổ chức Hồi giáo cực đoan đang được sự ủng hộ rộng rãi trong quần chúng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày mùng 2 tháng 7 năm 1993, trong lúc dự lễ hội văn hoá Alevi tại trung tâm Anatolian của thành phố Sivas, một đám đông tạo bởi những người Hồi giáo cực đoan đã tụ tập xung quanh khách sạn Madimak - nơi lễ hội đang được tổ chức. Họ kêu gọi một đạo luật Hồi giáo và cái chết dành cho những kẻ ngoại đạo. Sau nhiều giờ bao vây, đám đông đã đốt khách sạn. Khi ngọn lửa đã nhấm chìm những tầng thấp của toà nhà thì xe cứu hoả mới có thể tiếp cận, và Aziz Nesin cùng nhiều vị khác được cứu thoát. Tuy nhiên, 37 người đã thiệt mạng. Sự kiện này được xem như một đòn giáng mạnh vào quyền tự do ngôn luận và quyền con người tại Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đào sâu thêm sự rạn nứt giữa phe tôn giáo và những người có tư tưởng ngoại đạo tại đất nước này. Ngày mùng 6 tháng 7 năm 1995, ngay sau khi ký tên cho một quyển sách, Aziz Nesin đã qua đời do một cơn đau tim. Thi thể ông được chôn cất tại một nơi bí mật trong khu đất của Quỹ Nesin mà không tổ chức bất kỳ nghi lễ nào, thể theo ước nguyện của ông. Mời các bạn đón đọc Mọi Ông Bố Đều Đã Từng Xếp Thứ Nhất của tác giả Azit Nexin.
Hồng Ngọc
Đôi khi sống trong một gia đình chất chứa nhiều bí mật là một gánh nặng khó khăn. Đó là suy nghĩ của một Gwendolyn mới bước vào thời thiếu nữ, cho đến ngày đột nhiên cô thấy mình ở giữa London cách đây hai thế kỷ. Và định mệnh đã gõ cửa: cô chính là điều bí mật lớn nhất của gia đình. Một chuyến đi kỳ dị đã mang cô gái trung học của thời đại cellphone, đầy khiếu hài hước sành điệu, xuyên qua mấy thế kỷ để gặp gỡ các kiểu cách của thời xưa, chếnh choáng trong trò chơi chưa hề biết luật của Hội Thập Nhị bí hiểm, đồng hành cùng Gideon, cậu trai khác hẳn cô, người mà thoạt tiên cô không biết sẽ có ý nghĩa như thế nào đối với đời cô. Trong hoàn cảnh đó, định mệnh không còn can thiệp: nếu chìm sâu vào một mối tình, mọi thứ sẽ càng không đơn giản đối với Gwen… *** Kerstin Gier chính là cây bút châu Âu có thể khiến người ta quên ngay Stephanie Meyer bằng một chuyện tình Romeo - Juliet quyến rũ xảy giữa các vùng thời gian, làm xáo động các độc giả hiện đại theo một cách khác biệt! Hồng ngọc (Rubinrot) đã trở thành hiện tượng xuất bản ở Đức trong khoảng 5 năm trở lại đây, được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng và dựng phim năm 2013. *** Tặng Tuần lộc, Cá heo và Cú mèo, những bạn đồng hành luôn ở kề bên khi tôi viết, và tặng chiếc xe buýt nhỏ hai tầng màu đỏ đã làm tôi vui đúng lúc cần thiết. Công viên Hyde, London. 8 tháng Tư năm 1912. Anh ngó nghiêng nhìn quanh khi cô ngồi thụp xuống và òa khóc. Đúng như anh nghĩ, công viên giờ này vắng ngắt. Hồi đó còn lâu mới có mốt chạy tản bộ, còn thời tiết thì quá lạnh đối với những người vô gia cư ngủ trên ghế đá, trên mình đắp mỗi tờ báo mỏng. Anh cẩn thận lấy khăn bọc chiếc đồng hồ lại rồi đút vào ba lô. Cô ngồi rúm ró cạnh một gốc cây, trên thảm hoa nghệ tây đã úa tàn bên bờ Bắc hồ Serpentine. Vai cô run rẩy, tiếng cô nức nở như âm thanh tuyệt vọng của một con thú trúng thương. Anh không chịu nổi nữa. Nhưng kinh nghiệm khuyên anh tốt nhất nên để cô yên, vì vậy anh ngồi xuống nền cỏ ướt đẫm sương cạnh cô, đăm đăm nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương, và đợi. Anh đợi cô dịu bớt nỗi đau, một nỗi đau có lẽ sẽ chẳng bao giờ hết đeo bám cô. Tâm trạng anh lúc này cũng như cô, nhưng anh cố cầm lòng. Anh không muốn cô phải lo lắng thêm cho cả anh. “Người ta đã phát minh ra khăn giấy chưa nhỉ?” Rốt cuộc cô sụt sịt, ngoảnh gương mặt đẫm nước mắt nhìn anh. “Ai biết được,” anh nói. “Nhưng nếu cần thì anh có một chiếc khăn tay thêu đúng kiểu cho em đây.” “G.M. Anh lấy trộm của cô Grace?” “Tự cô ấy cho anh. Công chúa cứ thoải mái xì mũi đi.” Cô cười gượng gạo khi trả lại chiếc khăn cho anh. “Em xin lỗi, giờ thì em đã hủy hoại nó hoàn toàn rồi.” “Chẳng sao đâu! Những lúc như thế này thì cứ phơi nắng cho khô rồi dùng lại!” Anh nói. “Quan trọng là em thôi khóc.” Ngay lập tức, nước mắt cô lại ứa ra. “Lẽ ra chúng mình không được bỏ rơi con trong hoạn nạn. Nó cần mình! Giờ thì chưa biết liệu cái trò mà mình bày ra có tác dụng hay không, mà cũng không còn cơ hội để biết nữa rồi.” Lời cô khiến tim anh đau nhói. “Nhưng nếu chết rồi thì mình còn giúp được con bé ít hơn.” “Nếu có thể đem con trốn đi đâu đó ra nước ngoài, dùng tên giả, tới khi nó đủ khôn lớn…” Anh cương quyết lắc đầu ngắt lời cô. “Ở đâu thì người ta cũng sẽ tìm ra mình, chuyện này đem ra bàn cả ngàn lần rồi. Mình đâu có bỏ rơi con trong hoạn nạn, mình đã chọn cách đúng đắn duy nhất: cho con một cuộc sống bảo đảm. Ít nhất là trong mười sáu năm tới.” Cô thoáng im lặng. Xa xa, ở một nơi nào đó từ phía Tây Carriage Drive vẳng lại tiếng ngựa hí, dù đã sập tối. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.] “Em biết anh có lý,” cuối cùng cô nói. “Nhưng thật đau lòng khi nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ còn gặp lại con bé.” Cô đưa tay dụi đôi mắt sưng húp vì khóc. “Ít ra thì chúng ta sẽ chẳng có thì giờ mà buồn chán. Sớm muộn gì họ cũng tìm ra chúng ta, ngay cả ở thời điểm này, và Đội cận vệ sẽ truy bắt mình sát gót. Lão sẽ không dễ dàng vứt bỏ chiếc đồng hồ cũng như những kế hoạch của lão.” Anh mỉm cười khi trông thấy khao khát phiêu lưu lóe lên trong mắt cô, và anh biết, cuộc khủng hoảng đã tạm lắng. “Biết đâu mình còn ranh mãnh hơn cả lão, hoặc cỗ máy kia không hoạt động. Và thế là lão đành mắc kẹt.” “Được thế thì tốt. Nhưng nếu vậy thì chúng mình là những người duy nhất có thể làm phá sản kế hoạch của lão.” “Chỉ riêng lý do ấy đã chứng tỏ mình hành động đúng.” Anh đứng lên đập bùn bẩn trên quần bò. “Đi thôi! Đám cỏ chết tiệt này ướt sũng, mà em thì phải giữ gìn sức khỏe.” Anh kéo cô đứng lên và hôn cô. “Chúng mình làm gì bây giờ? Tìm một chỗ giấu đồng hồ?” Cô lưỡng lự nhìn cây cầu nối công viên Hyde và khu vườn Kensington. “Ừ. Nhưng trước hết mình phải vét sạch kho của Đội cận vệ và trữ tiền đã. Sau đó mình có thể đi tàu tới Southampton. Thứ tư tới, tàu Titanic sẽ bắt đầu chuyễn viễn du đầu tiên ở đó.” Cô bật cười. “Ý anh về giữ gìn sức khỏe là vậy đó! Được mà, em sẵn sàng.” Nhìn cô lại biết nở nụ cười khiến anh hạnh phúc, anh không kìm được, lại hôn cô lần nữa. “Thực ra anh nghĩ… em biết là các thuyền trưởng có quyền làm chủ hôn trên biển phải không, công chúa?” “Anh muốn kết hôn với em? Trên tàu Titanic? Anh điên rồi?” “Như thế sẽ rất lãng mạn.” “Nếu không tính đến vụ núi băng.” Cô tựa đầu vào ngực anh, giấu mặt vào chiếc áo khoác. “Em yêu anh vô cùng,” cô thì thào. “Em sẽ làm vợ anh chứ?” “Vâng,” cô đáp, vẫn vùi mặt trong ngực anh. “Nhưng với điều kiện muộn nhất là ở Queenstown, chúng mình sẽ xuống tàu.” “Công chúa, em sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu tiếp theo chưa?” “Sẵn sàng, nếu anh cũng thế,” cô đáp khẽ. *** Một cuộc hành trình vượt thời gian ngoài tầm kiểm soát thường được báo trước vài phút, đôi khi vài giờ hoặc thậm chí vài ngày, thông qua cảm giác choáng váng trong đầu, trong bụng và/ hoặc trong chân. Nhiều người mang gien cũng tường thuật lại chứng đau đầu tương tự bệnh tiền đình. Cuộc vượt thời gian đầu tiên - còn gọi là cuộc vượt thời gian tự thân - diễn ra ở độ tuổi từ mười sáu đến mười bảy của người mang gien. Trích Biên niên sử Đội cận vệ, Tập II: Những định luật phổ quát. Mời các bạn đón đọc Hồng Ngọc của tác giả Kerstin Gier.