Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dấu Binh Lửa

Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn Dấu Binh Lửa (1969). Tiếp theo là các tác phẩm: Dọc Đường Số Một, Ải Trần-gian (1970), Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Dựa Lưng Nỗi Chết (1973) và Tù Binh và Hòa Bình (1974). Những tác phẩm của ông đều lấy Chiến tranh Việt Nam làm bối cảnh. Sau 1975, ông bị bắt giam vào trại tập trung cải tạo 14 năm (1975-1989). Trong nhiều lần bị biệt giam hàng năm trời trong hầm tối, ông cũng làm ra nhiều bài thơ. Tuy sau ông được thả, nhưng lại bị quản chế tại gia ở Lái Thiêu, Bình Dương. Năm 1993 ông sang Mỹ định cư và cho ra mắt những tác phẩm: Những Chuyện Cần Được Kể Lại, Đường Trường Xa-xăm (1995), Đêm Tận Thất-thanh và Mùa Đông Giữ Lửa (1997). Năm 2002 cuốn Những Chuyện Cần Được Kể Lại được phát hành với ấn bản tiếng Anh dưới tựa The Stories Must Be Told. *** Theo lời dặn của C— Anh cố vấn văn chương— Tôi phải viết một cái tựa thật hách, ngắn, cô đọng và hay ho không chịu được... Nhưng viết thế nào để có thể gọi là " hách"? Thôi, tôi mở đầu bằng cách bày tỏ nguyên do đồng thời đề biện hộ cho những dòng viết ở những trang sau. Đến cái tuổi này lẽ tất nhiên tôi chẳng hy vọng gì nơi văn chương nữa, cũng không thể ước mơ nhờ cái ngõ văn chương để kiếm một chút danh gia. Hơn nữa, danh vọng của một người viết văn ở Việt Nam cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Bao nhiêu năm làm văn nghệ, cũ như Lê Văn Trương, Đinh Hùng, mới như Quách Thoại, đến khi chết đi thì cũng chẳng còn gì - Thế Phong đó - anh chàng làm văn nghệ như một gã tiền phong, "Nửa đường đi xuống" phải đóng bộ ka-ki độ nhật qua ngày với tờ báo của Không Quân. Thế nên tôi chẳng hy vọng gì ở cái "nghề của chàng" nữa. Nhưng vẫn muốn viết, viết như một "nhu cầu", nói cho có vẻ thiết tha. Tôi đâu phải là hoàng tử văn chương ngoại hạng, xem chuyện viết lách như một công việc nghiêm trang giữa người và thế giới bí ẩn của chữ nghĩa, viết đối với tôi đúng ra chỉ là một cách thoát hơi— Viết để khoỉ ấm ức bực mình. Sau tám năm ở lính, thời gian thoải mái thật hiếm hoi, những phiền toái có duyên cớ hay không, chính danh hay ẩn dấu hình như chực sẵn ở trong người, có cơ hội sẽ dấy lên như giông bão. Đôi khi tôi thấy thật yêu cái nghề này, nó tạo cho con người tính kiên nhẫn, lòng vị tha, chế ngự những hèn mọn của mình. Nhưng cũng có lúc tôi thấy nó thật tệ, không có một nghề nghiệp nào ù lì, cứng đọng và thụ động bằng " đi lính ", chỉ cần thừa hành trong một giới hạn thật sít sao, thế là đủ. Có nhiều lúc tôi muốn ném tung hết tôn ti trật tự, bộ quần áo trên người để thong dong giang hồ một chuyến tự do, nhưng đồng thời cũng vừa khám phá, đang bị buộc chặt, đã quen với đời sống này. Thật khó khăn khi phải nói chuyện với một anh dân sự, hình như tôi và hắn ta ở hai thế giới thật khác xa nhau. Tôi cũng muốn viết về đời sống lính với những con người thật lạ. Năm 1966, có gã lính thật trẻ ở đại đội tôi, hắn ta thấp bé da xanh mướt ốm yếu, nhưng uống rượu kinh khiếp, hai lít rượu đế hắn uống tỉnh bơ, hình như rượu không tạo nên phản ứng nào trong người. Ngoài cuộc rượu, y bình lặng kín đáo như một con ốc. Một hôm đứng gác, sẵn súng ở tay, hắn bắn vào đầu tự vận. Tôi không biết nỗi thất vọng kinh khủng nào trong đầu một thằng bé 19 tuổi. Đức " điên " Biệt động quân, quan Ba, Tiểu đoàn phó, đi hành quân mang khẩu M.79 chạy trước hàng lính, về Sài Gòn đi chơi, mặc một chiếc áo bà ba đen, dưới quần lính, chân mang dép Nhật, trang bị thêm một con dao đi rừng. Tôi không hiểu nó nhìn đời thế nào qua cặp kính trắng dày cộm khi trên người trang bị với phụ tùng như thế. Đại khái ở lính có những loại người " bất bình thường " như vậy, và trong đám bất bình thường trên lại chen lẫn vài kẻ bình thường thật kỳ quái. Thiên, anh chàng đi theo tôi trong hai năm, một ngày chỉ nói khoảng hai mươi tiếng: dạ, vâng... Thế là hết. Nó ở xa, tôi gọi đến vỡ phổi không tiếng trả lời, lát sau lặng lẽ đi đến. " Tao kêu mày có nghe không?..". " Dạ có ". " Thế sao mày không trả lời? ". Thiên bóp bóp hai bàn tay đứng im. Thấy những người lính khác bắt gà, nó cũng bắt một con treo trên ba-lô, đi một đoạn vắng người, thả chạy, xong làm dấu Thánh giá đọc kinh. Đi lính tôi có nhiều "thế" sống thật đặc biệt. Chiều 29 Tết năm 1963 ởchân đèo Rọ Tượng, Khánh Hòa, căn cứ Lầy, trời rét như cắt ruột, mưa phùn bay mù mịt, chúng tôi đứng trong nước sình ngập đến ngực, lạnh, đói, đã gần năm ngày liên tiếp mình mẩy không bao giờ được khô. Dân chúng đi từ Ninh Hòa về Nha Trang tưởng chúng tôi là tù binh, ném bánh ú từ trên xe xuống cho, một vài bà già chấm nước mắt khóc vì thương hại. Nhưng chúng tôi vẫn vui như tết, Năng và tôi nhặt bánh ú ngồi ăn ngon lành, cả hai đứa đều là những " Tân Sĩ Quan " vừa quỳ xuống đứng dậy cách đây một tháng để lãnh nhiệm vụ gánh vác non sông! Chúng tôi hãnh diện với nỗi cực khổ của mỗi phút chịu đựng, lòng không một chút ta thán... Nhưng lúc gặp nhau ở Sài Gòn, hai thằng đem nhà binh ra nạo đến sát ván không chút nể nang. Bình Giã đói và khát hai ngày đến nỗi lính phải hút nước ở rễ cây, có tên uống phải rễ cây độc đứng tim chết. Kéo quân ra Phù Mỹ, uống một nón sắt nước ruộng nhưng lòng không phiền hà. Mười chín tháng Ba 1965 kéo về Sài Gòn đóng ở Đài phát thanh, cô-ca lạnh mát nuốt vào khó khăn không làm dịu được nỗi oi ả ở trong lòng. Chính vì những cảnh đời đa đoan này mà tôi phải viết. Không viết thì phí đi, bạn bè bảo tôi như vậy. Thế là tôi viết, và đến bây giờ coi như xong, nhưng chắc rằng chưa đủ. Xem lại chợt thấy bùi ngùi và thương thân. Bao năm tháng tột cùng của cực khổ và gian nan, đầy dẫy tủi nhục để viết được chừng này? Thấy mình tội nghiệp lạ lùng. Rồi kết quả ra sao? Coi chừng lại bị đụng chạm, lôi thôi với chính phủ thì thật là khốn nạn! Người lính đánh máy hộ cảnh cáo. Trong thời gian sau này, thường thường những giấc mơ của tôi cuối cùng dẫn đến một chủ đề - Nước. Tôi mơ thấytrời mưa, mơ thấy được tắm trong dòng suối, được vùng vẫy trong sông lớn. Kỳ cục hơn có hôm tôi mơ bị mắc cạn trong cống rãnh. Về mặt sinh lý người ta bảo đó là hiện tượng yếu thận, tâm lý bảo đấy là ý định muốn giải thoát— Có thể đúng như vậy, vì tôi đang yếu thận đồng thời luôn luôn có cảm giác "lạ" với đời sống này. Tôi không coi những ngày đang sống là sống thực. Sống bây giờ là sống gởi, cõi mơ ước nào đó mới là quê hương thật. Nhưng đúng chỉ là mơ ước, vì còn một nơi chốn nào khác ngoài cuộc đời ngặt nghèo này— Chỉ còn một cõi trong tôi. Nhưng thôi, "tác phẩm" khi đã xong có phần đời của nó - hai mươi sáu tuổi - tám năm lính để lại gia tài trăm trang giấy! Có một vị đắng ở đầu lưỡi. Nhưng nói cùng ai? Tôi cũng trốn tôi trong câu hỏi này. Tuy nhiên khi viết xong, đọc lại thấy vừa lòng nhưng đồng thời một vài ý nghĩ thật lạ xảy đến. Những ý nghĩ trong chiều mưa, mưa thật lớn trên đồi cao, gió thật mạnh, doanh trại vắng vẻ như bãi tha ma. Ngồi một mình nhìn ra khoảng không gian xám đặc... Con chim sẻ trốn mưa bay vào phòng đậu trên thành giường, sù lông rũ nước kêu lên những tiếng nhỏ thật cô đơn. Tôi cũng như con chim nhỏ trong chiều mưa này. Và từ đó thấy trong lòng những tình lạ thật thiết tha, hồn hậu như của những ngày vừa mới lớn. Tôi thấy những điều viết quá hằn học, nhiều thù hận và độc đoán. Trước tiên đối với người Mỹ. Những sự kiện gần đây, cảnh hai phi hành gia bước chập choạng trên mặt trăng. Những bước đi đầu tiên của con người trên một hành tinh khác. Lẽ tất nhiên tôi không a dua theo một phong trào để hoan nghinh sự thành công của Apollo 11, đã từ lâu tôi không xem trọng thí nghiệm này. Chỉ có cảm phục khi nghĩ đến những công tác khoa học tinh vi và chính xác để ráp nối phi thuyền mẹ với Nguyệt xa, tiếng nói của những phi hành gia được chuyền thẳng về trái đất rõ mồm một. Trước thành công như trên làm sao tôi không hoan nghênh? Nhưng tổng quát tôi vẫn không thán phục, kết quả cũng không có gì cụ thể để giúp ích cho một khối dân khốn cùng nằm dài trên hai cõi Á, Phi. Trong khổ cực của quê hương này tôi không thể nào quá ngưỡng mộ thành công ở trời xa. Nhưng tôi chịu nhất là thái độ phóng khoáng, cử chỉ hào hiệp của người Mỹ trong vụ này, họ đã hãnh diện dưới danh nghĩa — Một sự tiến bộ của nhân loại. Sự rộng rãi này làm cho tôi kính phục. Ngoài ra một hôm có việc cần phải vào bệnh viện 3 Dã chiến Hoa Kỳ, thấy một anh lính Mỹ đẩy chiếc xe trên có một anh khác bị thương ở chân, anh chàng đẩy xe cũng là thương binh, gầy ốm, tóc vàng hoe mọc dài xuống gáy, mang đôi kính cận thị dày cộm, nét mặt hồn nhiên và treœ thơ. Và tôi đã nghĩ rằng khuôn mặt trẻo thơ đó, nếu đem biến thành đối tượng cho những nhận xét hằn học đầy thù nghịch của tôi thật đáng tội nghiệp. Chiến tranh đã kéo y qua đất nước này, chịu đựng những khổ cực vượt ra ngoài ý niệm của người Mỹ, nay bị thương đôi mắt vẫn còn trong sáng và trẻ thơ — Dấu hiệu của tâm hồn chưa bị vấy bẩn bởi cuộc chiến này. Nhìn sự ngây thơ trung thực đó, nghĩ đến những phán đoán của mình quả độc đoán và quá độ. Gần hai năm nay, mỗi ngày phải uống tám viên Nevrosvitamin 4 để làm dịu xuống những bứt rứt hiện thành phản ứng không kìm hãm... Thiếu những viên thuốc đỏ đó, người tôi như nung trên một lò lửa đang đỏ, đầu óc muốn nổ tung, chân tay ít nhất phải đập phá một vật gì, tôi sợ tiếng động và chốn đông người một cách bất thường. Nhưng hai tháng sau này tôi bỏ được nhu cầu uống thuốc đó, suốt ngày đánh trần nằm trên bãi cỏ trước phòng ngủ, doanh trại hậu cứ hoang vắng một cách dễ chịu, phía xa những ngọn đồi Tăng Nhơn Phú chạy dài bình yên. Trong sự bình yên này, đọc lại những điều đã viết quá trớn, thấy ân oán giang hồ, đụng chạm đến nhiều giới. Tôi muốn đưa cuốn sách cho những người nhỏ tuổi đọc, để dò xem phản ứng của những người chưa bị ảnh hửơng cuả chiến tranh, nhưng ngần ngại vì thấy những điều mình viết không trong sáng. Lẽ tất nhiên một cuốn bút ký không thể nào nằm dưới kìm kẹp của ý thức luân lý bình thường được, hơn nữa bút ký về cuộc chiến tranh nhọc nhằn. Nhưng nhìn thấy toàn bộ những điều đã viết chỉ có một nỗi hằn học, uất hận nên tự hỏi rằng có quá đáng hay không? Thấy đàn trẻ đi thi tú tài, nhớ lại mười năm trước cũng ở trong nguồn trong sáng đó, thế tại sao có những đổi thay tàn bạo và quá đáng như kia? Tôi lại gặp Banh, người bạn cũ ở Đà Nẵng, gặp Banh để nhớ lại một cái Tết thật tang thương, hai mươi chín Tết không thức ăn - hai mươi chín tết - thời gian thật khó thể đi kiếm một bữa cơm. Banh đạp xe trên hai mươi cây số về làng quê Quảng Nam xin mươi quả trứng vịt, và hai đứa đã đón xuân bằng những quả trứng trong suốt ba ngày Tết. Gặp Banh để nhớ rằng trong những ngày khốn khó đó, tôi vẫn luôn luôn thắp sáng cho mình ngọn lửa hy vọng và những tình cảm tốt đẹp. Những sự kiện kể trên gây cho tôi cảm giác ngại ngùng khi đọc lại những điều ghi được của tám năm binh lửa. Không lẽ suốt đoạn đời này tôi chỉ có khốn khó và thù hận thôi sao? Từ đó phát sinh ra những ý hướng chối bỏ, như dấu chàm của một niềm tuỉ hổ, và ao ước được thấy điều mình viết mang niềm vui hồn nhiên trong sáng. Nhưng tám năm lính của tôi niềm vui quả thật ít, ít đến tội nghiệp khi đem so sánh với nhọc nhằn đằng đẵng. Tám năm, thời gian gần bằng đoạn đời của gã nông phu Johann Moritz lang thang qua các trại tù của giai đoạn Âu Châu máu lửa, nhưng trước và sau tám năm đó, anh bạn Lỗ còn có những ngày vui hy vọng. Tôi có gì vui trước tám năm này và hy vọng nào về một Việt Nam hậu chiến. Nhưng thôi, có nói hoài thì cũng chỉ kéo dài thêm lời than thở hèn mọn. Điều mong ước là được xóa đi những hằn học và thù hận. Sự đụng chạm nếu có ở một vài đối tượng nào đó thì xin nghĩ rằng đây chỉ là những ý nghĩ của một người muốn chân thật với mình trong hoàn cảnh khắt khe. Lỗi không phải là ở sự thành thật đó. Đây là lỗi của một cảnh đời. Tội của những người trong chúng ta đã bất lực trước định mệnh, để bị cuốn trôi hết tình người — Thôi, đây là tội trong mỗi chúng ta. 10 tháng 9 năm 1969 Long Bình Việt Nam *** Tiếng Việt qủa thần diệu, có những chữ thật đơn sơ cũng đủ sức để tạo thành hình ảnh linh động. Những chữ với âm thanh tầm thường khô cứng như tiếng gõ vô nghĩa trên mặt bàn của một bàn tay nhàn rỗi, trong giây phút trống rỗng. "ở lính" nghe buồn buồn, nhạt nhạt, vô nghĩa nhưng chất chứa chịu đựng ngặt nghèo lặng lẽ. Tôi đã ở lính tám năm, sau thời gian đằng đẵng đó những danh từ to lớn như đầu quân, gia nhập quân đội, người chiến binh, đời quân ngũ hay thời thượng vụng về như tuổi lính, tuổi chiến trường đối với tôi vô duyên như sau lần ân ái ngượng ngùng. Tôi ở lính tám năm, năm nay hai mươi sáu, đi lính năm mười tám. Suốt tám năm của thời lớn lên tôi đem tặng hết cho quân đội, và không phaỉ đến bây giờ vì thất vọng, chán nản do công danh không toại ý, cuộc sống bị ép buộc không đúng như mơ ước nên cay cú hằn học với nhà binh. Không như vậy, tôi đi lính năm mười tám tuổi vào học trường tình nguyện ra làm ông quan Một. Chẳng có ai lôi kéo tôi vào trường ấy, tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ quan với ý nghĩ đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừng thông, hương nhựa thông toả đặc cả một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng... Chuyển quân đi trong sương đêm, giữa mây mù, ánh lửa mục tiêu đêm đông trong hốc núi hoang vắng, thế giới mạo hiểm giang hồ của Jack London phảng phất đâu đây. Tôi say mê, thích thú với những khám phá mới mẻ đó. Nắng cao nguyên những ngày cuối năm vàng tươi rực rỡ, đứng ở đồi nhìn xuống hồ suối Vàng trong vắt yên lặng... Người như muốn tan vỡ thành muôn ngàn mảnh nhỏ theo cơn gió bay chập chờn qua vùng đồi trùng điệp và loãng tan đi cùng nước hồ xanh ngắt. Cũng phảii nói thật những ngày đầu đời lính của tôi đầy trong sáng và đẹp đẽ. Trong sáng như giấc mơ của tuổi mười chín, giấc mơ mù mờ giăng cánh chim trắng bay chậm rãi qua rừng thông... Nhưng đời sống nhà binh không hẳn chỉ vậy, nó còn có sĩ quan cán bộ, nghi lễ, có đủ những phiền toái hỗn độn mà đời sống dân sự không ai nghĩ ra được; nên khung trời đầy sương mù bí ẩn ngoài khung của sổ hiện ra như một thách thức đối với đời sống kìm kẹp của tôi hiện tại. Đây cũng là một thời gian thật khủng hoảng, mỗi đêm nhìn về phía thành phố đầy ánh đèn tôi không ngủ được, tươœng như có một tiếng gọi cuœa đời sống ơœ bên ngoài quân ngũ đang nhắc nhơœ thúc giục, một đời sống thực sự tôi không có. Từ khung cửa sổ nhìn những giàn đồi im lặng thấp thoáng giữa thung lũng sương mù và đằng xa ánh đèn xanh vườn Bích Câu ma quái, diễm ảo, tôi thấy rõ trong tôi nỗi cô đơn khủng khiếp hiện hình sừng sững. Những lúc ấy tôi thấy được con người thật của mình, một gã trai trẻ, vô định hướng. Những cười đùa ban ngày, những buổi học, bữa ăn tập thể không ảnh hưởng gì đến con người trong tôi. Không thể có được một ý niệm về chuyên môn quân sự mà bằng tất cả mọi cách nhà trường cố nhét vào trong đầu óc. Đội hình tác chiến, cung cách chỉ huy, chi tiết kỹ thuật về vũ khí trôi qua trí não mơ hồ như một cơn gió nhẹ. Hai năm sống ở mái trường đó như một cơn phiếm du. Chỉ thật thắm thiết rung động khi nửa đêm về sáng dưới ánh đèn pha vọng gác kho đạn tôi khám phá được thế giới của cây cỏ đang thở, đang lớn lên. Những giây phút khoảng năm giờ sáng, sau phiên gác, nhìn xuống phòng sĩ quan trực, người lính kèn im lặng đưa lên môi thổi hồi kèn báo thức. Và không gì hơn suốt ngày chủ nhật một mình một ngựa chạy như bay vào hướng đồn Daksard. Con đường đỏ còn ướt sương đêm, trời chưa tan hẳn mù, ngựa phi như gió cuốn, ngựa đi vào trong một vùng mù đặc, rừng thông chuyển động ào ào, cả trời cao nguyên tan biến chập chờn theo vó ngựa. Kết quả sau hai năm ăn nhờ chánh phủ tôi được trở thành ông quan một, ra trường đi binh chủng hung hãn nhất. Tôi biến thành một người lính thực thụ, trận lớn, trận nhỏ, chiến dịch hai tháng, ba tháng, dài ngắn, từ Sài Gòn ra Bến Hải, tôi đi đủ. Những địa danh xa xôi bất kỳ một xó xỉnh hẻm hóc nào của miền Nam này tôi cũng có thể biết rõ một cách tường tận. Từ những miền nổi tiếng như Khe Sanh, Cồn Tiên đến những làng nhỏ từ cửa Việt đi ra - Diêm Hà Trung, Diêm Hà Nam - cái làng nhỏ cuối thung lũng sông Kim Sơn, làng Hà Tây, đèo ông Hổ đổ xuống Phù Củ ra Phù Ly, Phù Cát thẳng đến biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam, đầm Nước Ngọt. Lên đến Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam biên giới Lào-Việt, đầu ngọn sông Ia-Drang... Đâu đâu tôi cũng đến. Năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba tôi sống thoải mái, vì đã đi đủ, nhìn đủ. Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc, góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng cốt yếu là không ở ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự, đang ngã chết. Dù chết bên này hay bên kia, chết trong thù hận hay chết tình cờ. Những người đi tìm cái chết để biện giải cho đời sống. Tôi tham dự vào cuộc hành trình khốn nạn này. Giải thích này làm tôi yên ổn. Cũng trong những tháng năm đằng đẵng gian khổ ấy, tôi khám phá ra được hạnh phúc của đời người. Hạnh phúc thật sự không có, chỉ có những hạnh phúc tương đối và giản dị. Hạnh phúc là bếp lửa thật nóng, bữa cơm có canh, một mái lều tranh không dột, căng được chiếc võng, uống ly cà phê, đọc tờ báo, sau năm ngày vượt ba mươi cây số đường rừng, rừng thật dầy không thấy trời, trong rét cóng của miền Trung vào những ngày cuối năm. Hạnh phúc nồng nhiệt khi trở về nhà trong đêm khuya gõ cửa, vợ ra đón với con nhỏ ba tháng, kể từ ngày sinh chưa được nhìn bố. Hạnh phúc là cái gì chắc chắn, nắm được ở trong tay khi cánh cửa chiếc phi cơ đóng lại và thân thể được nhấc lên trong độ cao, nhìn lại thành phố Huế đang âm ỉ cháy. Đấy - đời lính - đã dạy cho tôi biết được giá trị của những sung sướng tầm thường đó. Chỉ có thế mà tôi phải trả giá trong tám năm thật dài với tận cùng của khổ cực và căng thẳng. Nhưng đến hôm nay, bước vào năm thứ mười hai đời lính tôi lại rơi vào sự khủng hoảng của những năm đầu tiên. Nỗi khủng hỏang tàn tệ tội nghiệp gấp vạn lần trước. Thời gian ở quân trường, tôi còn có thế giới kỳ ảo thiên nhiên, những ngày mới ra đơn vị, tôi tham dự để biện minh thái độ dấn thân, lao vào lửa đạn không thắc mắc, không ngần ngại — Tôi dấn thân để tìm kiếm niềm an ủi do tham dự hết lòng, đồng thời còn có điều khôn ngoan đã tìm ra những hạnh phúc tương đối — Loại thực phẩm trần gian hợp với khẩu vị. Nhưng đến những tháng ngày hôm nay thì qủa thực tôi bất lực. Bất lực để giaœi thích cho chính bản thân, sự có mặt tham dự trong dòng đời hỗn loạn và mệt nhọc này. Những chốn trú ẩn xưa bị phá vỡ tan hoang, nếu không nói đến những phản ứng trái ngược đã xảy ra. Trên đường đi đến Lái Thiêu, vườn dừa xanh ngắt, hoa huệ trắng tỏa hương thơm ngát không gợi nên một thiên nhiên an lành mơ mộng nhưng trái lại như một đối tượng đang phải chịu sự tàn phá sắp tới của chiến tranh; một đối tượng đau đớn của thiên nhiên không được thụ hửơng sắp sửa bị tiêu hủy. Những ngày dài hành quân không gây chịu thích thú, không tạo mới lạ, chỉ còn lại chịu đựng... Chịu đựng im lìm trong một niềm bất mãn đến ngộp thở. Tám năm lính, tôi hai mươi sáu tuổi, số tuổi gần ba mươi, không bạn bè, xa bằng hữu, số tuổi cuả nỗi cô đơn kinh khiếp biến con người hững hờ, tàn ác như một lát dao. Tôi hai mươi sáu tuổi để thấy rõ cái mặc cảm phạm tội trước kia chỉ là một ảo tưởng xa xỉ của tuổi mới lớn, ảo tưởng về trách nhiệm con người đối với nhau. Tôi hai mươi sáu tuổi đủ để nhận rõ rằng: Hạnh phúc quả là một vật ít ỏi tương đối, nhưng nếu mua bằng giá của đời sống mình thì thật vô lý. Đành rằng sống chẳng là một cái gì rực rỡ nhưng nếu đánh giá đời sống bằng khổ cực và cái chết thì thật là một việc rồ dại và ngu xuẩn. Như vậy tôi hai mươi sáu tuổi có được gì? Tôi có được một cái nhìn thông suốt hết cả. Nói như thế có vẻ tự kiêu và lố bịch. Nhưng nếu trung thực hơn: Sau tám năm ở lính, tôi hết còn là vùng đất để nghiệm và chịu ảnh hưởng. Tám năm ở lính để biết mình là một cánh chim tự do nhưng đã bị chặt cánh. Chính thương tích này làm sáng tỏ khả năng tự do bi đát của đời người. Gần đây báo Sống tục bản dưới hình thức báo Công Chúng có đặt câu hỏi: Người thời đại nghĩ gì? Trong đó có nêu lên chi tiết ai là thần tượng cho tuổi trẻ hôm nay? Tôi hai mươi sáu không trẻ lắm nhưng chưa già, cố tìm cho mình một thần tượng? Không có, làm gì có thần tượng cho tuổi trẻ khốn khổ của tôi. Làm sao tôi có được một thần tượng sau tám năm đằng đẵng đầy thù nghịch và ngặt nghèo. Người ta chỉ tìm được thần tượng khi lòng còn rung động. Bây giờ tôi có rung động nào trong tâm hồn? Năm vừa rồi đi đưa đám tang những thằng bạn thân, chỉ thấy trong lòng một thoáng bâng khuâng, chả bù trước đây tôi ôm xác của Phương, của Dũng chạy như điên trên sườn đồi nước mắt chảy dài trên má. Chiều trở về chỗ đóng quân nhìn chiếc võng của người chết tưởng chừng như thân thể sụp xuống tan đi trong vũng phiền buồn. Bây giờ tôi làm sao khóc được, làm sao để phẫn nộ, để nhớ thương, để mong ước. Thần tượng bây giờ là gì? Lãnh tụ? Lãnh tụ cỡ nào? Nhìn ảnh phó Tổng Thống Humphrey trong báo US News & Report cùng những câu trả lời của ông ta trong thời kỳ tranh cử Tổng Thống. Cái mồm nhỏ, trán hói, vẻ trai trẻ gỉa vờ khi xắn quần chạy trên bãi biển thấy ngượng ngùng đến khó chịu. Hay loại chính khách local?! Ô thần tượng cái khổ nào ở thứ lãnh tụ và chính khách hạng nhì này... Hay là Mao Trạch Đông? Không được nốt, cái mặt ị, đôi mắt ti hí, cuốn sách nhỏ chỉ hú hồn được thanh niên ở các nước Tây phương. Tôi cố tìm suốt một dãy các danh nhân còn sống hay đã chết để tìm cho được một người để ngưỡng mộ. Churchill? Cũng không được, đọc Mémoire của ông ta, cuốn L’Étau se referme không chịu được thái độ bất nhân đối với Nam Tư. Đến Exodux thì người Anh, ôi cũng là lũ thực dân. Nhớ đến lần hành quân ở Long Khánh thì Úc hay Anh cũng vậy, cũng là God save our King. Chả ra cái thống thế gì. Thế thì hết. Hết tiệt cái thế kỷ thần tượng, vì nếu qủa thật còn một chút thần tượng nào vất tưởng ở trên hành tinh này thì Jackie đã không xóa tan hình ảnh ông chồng rực rỡ để đi theo ông thương gia có phòng tắm lót vàng. Sống bên cạnh một thần tượng còn cho thần tượng đó "de" thì huống gì tôi, một kẻ da vàng xa xứ của ông thì ngưỡng mộ gì ông được, hở ông Kennedy. Đó là chưa kể đến nỗi hằn học mà ông Bob Kennedy để lại trong lòng những người lính Việt Nam. Hay thần tượng ỏ một anh nhược tiểu? Ché Guévara cũng không được. Đây chỉ là một loại James Bond cộng với Trần Độ mà thôi. Tóm lại thần tượng tất cả đều bị chôn chặt, bị cuốn hút, bị xóa tên, chỉ còn lại một vài thần tượng què quặt trên óc não bệnh hoạn, yếu đuối của một số người chưa sống đủ, thần tượng của những kẻ nổi loạn thành phố, những kẻ mang tâm trạng "bão tố trong cốc nước" những gã Mỹ con tóc dài, hippy, biểu tình chống đối trước trường Sĩ Quan Trừ Bị Hoa Kỳ. Sau tám năm ở lính, tôi mệt mỏi vô ngần. Mời các bạn đón đọc Dấu Binh Lửa của tác giả2 Phan Nhật Nam.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phép Màu Của Chúa
Kendra Bryant và anh chồng Moe vốn là những người vô thần, họ không tin vào Chúa, chứ đừng nói là phép màu của Ngài. Thế nhưng giá trị niềm tin của Kendra bắt đầu lung lay sau khi cô mắc chứng viêm màng tim cấp tính và được phẫu thuật, nhận trái tim mới từ Erin. Erin cùng chồng và ba người không may qua đời trong một tai nạn giao thông, để lại cô bé Amy khi đó mới chỉ tám tuổi, tới sống cùng gia đình dì Ashley. Sau hai năm Erin qua đời, ông John Baxter quyết định Giáng sinh này sẽ mời vợ chồng Kendra tới tham dự bữa ăn tối truyền thống cùng với đại gia đình ông. Không ngờ, ý tưởng này của người cha vấp phải sự phản đối quyết liệt của những thành viên khác. Họ lo lắng sự hiện diện của Kendra sẽ ảnh hưởng xấu đến Amy, người duy nhất sống sót sau tai nạn kinh hoàng. Bản thân Kendra cũng đang gặp khó khăn trong việc tìm ý nghĩa của cơ hội sống thứ hai mà cô được trao cho. Cô hy vọng lời mời của ông John sẽ cho cô lời giải đáp và giúp cứu vãn cuộc hôn nhân đang bế tắc của mình. Cùng lúc đó, Maddie, cháu gái của John Baxter đang cầu xin một phép màu Giáng sinh cho cô em gái. Liệu điều kì diệu có đến với Maddie, Kendra cũng như các thành viên đại gia đình nhà John? Giữa những người tin tưởng vào Chúa, Kendra và Moe liệu có thể dễ dàng hòa đồng cùng mọi người? *** Độc giả nói gì về sách của Karen Kingsbury? “Những câu chuyện là hư cấu nhưng tác động là thực tế.” Debbie L.R “Karen Kingsbury đang thay đổi thế giới và người đọc cùng một lúc.” Lauren W. “Tôi đã đọc nhiều sách của Karen và mỗi lần đọc, tôi đều bật khóc. Tôi cảm giác như mình thật sự quen biết những nhân vật trong câu chuyện. Tim tôi như muốn nhảy ra ngoài với tất cả bọn họ khi có chuyện gì đó xảy ra.” Kathy N. “Mỗi khi cầm lên một quyển sách mới của Karen Kingsbury, có hai điều không bao giờ thay đổi: khăn giấy và đọc xong toàn bộ tác phẩm chỉ trong một ngày.” Nel L. “Tác giả xuất sắc nhất nước Mỹ.” Mary H. “Sách của Karen nhắc nhở tôi rằng: Chúa có thật trên đời. Tôi rất cần lời nhắc ấy!” Carrie F. “Mỗi lần đọc một quyển sách của Karen, tôi đều nghĩ ‘đây là cuốn sách hay nhất.’ Rồi khi tác phẩm tiếp theo ra mắt, tôi lại nghĩ ‘không, đây mới là hay nhất.’” April B.M. “Tiểu thuyết là những kỳ nghỉ ngắn và sách của Karen là điểm đến yêu thích của tôi.” Rachel S. *** Gia đình Baxter - Hôm qua và hôm nay Đối với một số độc giả, đây là lần đầu tiên bạn tiếp xúc với gia đình Baxter. Vâng, bạn có thể quay lại và đọc 23 cuốn sách về những nhân vật được yêu thích nhất này. Nhưng bạn không nhất thiết phải đọc chúng mới đọc được cuốn sách này. Thật ra sẽ còn những tác phẩm khác xuất bản trong vài năm tới. Nếu muốn, bạn có thể bắt đầu ngay từ đây. Vào mùa Giáng sinh. Cho dù bạn đã quen biết gia đình Baxter nhiều năm hay bây giờ mới gặp, dưới đây là phần tóm tắt nhanh về các thành viên, con cái và tuổi tác của họ. Đồng thời, vì các nhân vật đều là hư cấu nên tôi tự do định ra số tuổi của họ. Hãy giả định rằng đó là tuổi tác ở hiện tại. Bây giờ, hãy để tôi giới thiệu hay nhắc cho bạn nhớ về gia đình Baxter: Câu chuyện nhà Baxter bắt đầu ở Bloomington, bang Indiana và hiện nay, hầu hết thành viên vẫn còn sống ở đó. Ngôi nhà của họ nằm trên khoảng đất rộng bốn nghìn mét vuông ở vùng ngoại ô, có một con lạch uốn lượn chảy qua sân sau. Nhà có mái hiên rộng, khung cảnh khá đẹp và lưu giữ ký ức của cả đời người. Ông bà John và Elizabeth Baxter đã xây nên nơi này và cùng nhau nuôi dạy con cái ở đây. Hiện nay, nó thuộc sở hữu của một trong số các cô con gái – Ashley và chồng, Landon Blake. Đây vẫn là nơi đại gia đình Baxter sum họp trong những ngày lễ đặc biệt như Giáng sinh. John Baxter: John là người chủ gia đình đáng kính. Ông là một bác sĩ nổi tiếng ở Bloomington, đồng thời giảng dạy về y khoa ở trường Đại học Indiana. Người vợ đầu tiên của John là Elizabeth đã mất cách đây mười năm vì bệnh ung thư tái phát. Nhiều năm sau, ông lấy vợ khác là bà Elaine và hai người sống ở Bloomington. Dayne Matthews, 41 tuổi: Dayne là con trai cả của ông John và bà Elizabeth. Dayne sinh ra ngoài giá thú và được gia đình khác nhận nuôi ngay sau khi sinh. Bố mẹ nuôi của anh mất trong một tai nạn máy bay khi anh được 18 tuổi. Nhiều năm sau, Dayne trở thành một ngôi sao điện ảnh vô cùng nổi tiếng. Năm 30 tuổi, anh thuê luật sư tìm kiếm bố mẹ ruột của mình – ông bà John và Elizabeth Baxter. Dayne sống với mẹ một khoảng thời gian ngắn trước khi bà mất và vài năm sau, anh hòa nhập với những người thân ruột thịt khác trong gia đình. Dayne kết hôn với Katy – 39 tuổi. Đôi vợ chồng có ba đứa con: Sophie, 6 tuổi; Egan, 4 tuổi và Blaise, 2 tuổi. Họ là một phần rất quan trọng trong đại gia đình Baxter và thường chia thời gian sinh sống giữa Los Angeles và Bloomington. Brooke Baxter West, 39 tuổi: Brooke là bác sĩ nhi ở Bloomington, kết hôn với Peter West, 39 tuổi, cũng là bác sĩ. Hai người có hai cô con gái: Maddie, 18 tuổi và Hayley, 15 tuổi. Gia đình họ đã trải qua một bi kịch khi Hayley bị đuối nước năm lên 3 tuổi. Cô bé hồi phục một cách kỳ diệu nhưng vẫn còn khuyết tật do tai nạn. Kari Baxter Taylor, 37 tuổi: Kari là nhà thiết kế. Cô kết hôn với Ryan Taylor, 39 tuổi, là huấn luyện viên bóng đá ở trường Trung học Clear Creek. Kari cùng với chị Brooke quản lý Trung tâm Hỗ trợ phòng chống Khủng hoảng thai sản Bloomington.2* Kari và Ryan có ba đứa con: Jessie, 16 tuổi; RJ, 9 tuổi và Annie, 6 tuổi. Kari yêu Ryan từ khi cả hai học trung học. Họ hẹn hò với nhau suốt thời đại học nhưng rồi chia tay vì một hiểu lầm. Cô kết hôn với Tim Jacobs – một người đàn ông cũng quen biết trong trường đại học nhưng sau vài năm chung sống, anh ta ngoại tình. Sự không chung thủy dẫn đến việc Tim bị ám sát trong tay kẻ mật thám. Thảm kịch ấy hủy hoại cuộc đời Kari khi cô đang mang thai đứa con đầu lòng (Jessie). Cũng trong lúc đó, Ryan trở lại bên cô và mấy năm sau, họ nên vợ nên chồng. Cả gia đình sống ở Bloomington. * Bloomington Crisis Pregnancy Center. Ashley Baxter Blake, 35 tuổi: trước đây, Ashley từng là chú cừu đen3* nổi loạn của gia đình Baxter. Cô kết hôn với Landon Blake – 35 tuổi, làm việc ở Sở Cứu hỏa Bloomington. Đôi vợ chồng này có bốn người con: Cole, 15 tuổi; Amy, 10 tuổi; Devin, 8 tuổi và Janessa, 4 tuổi. Khi còn là một người mẹ đơn thân trẻ tuổi, Ashley đã phát chán với Đức Chúa Trời và cả gia đình mình. Rồi cô liên lạc lại với anh bạn lính cứu hỏa Landon – người luôn thầm thương trộm nhớ cô. Cuối cùng, Ashley và Landon kết hôn. Anh nhận Cole làm con. Hai vợ chồng có với nhau hai người con – Devin và Janessa nhưng giữa chúng, họ từng mất một bé gái – Sarah Marie ngay khi chào đời vì không có não. Amy – cháu gái của Ashley đã đến sống với họ vài năm trước khi bố mẹ cô bé – Erin Baxter Hogan và Sam Hogan, cùng với ba người chị, Clarissa, Chloe và Heidi Jo qua đời trong vụ tai nạn xe hơi thảm khốc. Amy là người duy nhất sống sót. Vợ chồng Ashley và gia đình sống ở Bloomington trong ngôi nhà cổ kính của gia đình Baxter – nơi cô cùng các anh chị em đã được nuôi lớn. Ashley vẫn vẽ tranh và bán những tác phẩm của mình ở cửa hàng địa phương rất thành công. * Trong tiếng Anh, thuật ngữ “cừu đen” (Black sheep) dùng để mô tả một thành viên tai tiếng nằm trong một nhóm hoặc là những đứa trẻ khác biệt trong một gia đình hoặc những nhân tố nổi loạn trong một tập thể. Luke Baxter, 33 tuổi: Luke là luật sư, kết hôn với Reagan Baxter, 33 tuổi, là một blogger. Hai vợ chồng họ có ba đứa con: Tommy, 13 tuổi; Malin, 8 tuổi và Johnny, 4 tuổi. Luke gặp Reagan ở trường đại học. Ban đầu, họ trải qua cuộc chia tay khá lâu sau khi Tommy ra đời ngoài hôn thú. Cuối cùng, cặp đôi kết hôn mặc dù không thể có thêm đứa con nào. Malin và Johnny đều được nhận nuôi. Bên cạnh gia đình Baxter, cuốn sách này còn về thăm lại gia đình Flanigan. Nhà Flanigan đã làm bạn với nhà Baxter nhiều năm. Trước đây, tôi đã viết năm cuốn sách về cô con gái lớn của họ - Bailey Flanigan. Để cho người đọc tác phẩm này và những tác phẩm sau có thể theo dõi, dưới đây là tên tuổi của các thành viên trong gia đình này: Jim và Jenny Flanigan, đều 45 tuổi. Jim là huấn luyện viên bóng đá cho đội Indianapolis Cotls và Jenny là nhà văn tự do làm việc tại nhà. Bailey, 22 tuổi kết hôn với Brandon Paul, 25 tuổi. Cả hai vợ chồng từng là diễn viên ở Hollywood và người chồng cực kỳ nổi tiếng. Hiện nay họ đang quản lý rạp hát Trẻ em Công giáo ở trung tâm Bloomington. Các em trai của Bailey là Connor, 19 tuổi, sinh viên Đại học Liberty; Shawn và Justin đều 17 tuổi, học lớp 11 ở trường Trung học Clear Creek; BJ, 16 tuổi, học lớp 10 và Ricky, 13 tuổi lên lớp 8. Mời các bạn đón đọc Phép Màu Của Chúa của tác giả Karen Kingsbury & Phương Hạ (dịch).
BRUSH! Thanh Xuân Rực Rỡ Đến Thế
Trong một ngày hè rực lửa, giấc mơ trở thành cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp của Sorairo Suzuki chính thức tan vỡ. Cấp hai kết thúc, với mắt cá chân bó bột, lời tỏ tình thất bại, và một tương lai mù mịt Cuộc đời Sorairo rẽ bước ngoặt khi quyết định từ bỏ giấc mơ trở thành vận động viên và thi tuyển vào trường nghệ thuật. Ở trường cấp ba, cậu quen biết Kanade, cô gái kỳ lạ luôn đứng hút thuốc trên tầng thượng tòa nhà khoa mỹ thuật. Cấp hai đã kết thúc, cấp ba cũng không giống như những gì cậu tưởng tượng. Sorairo vẫn mù mịt về mọi thứ xung quanh. Cậu chỉ biết mình đã bị kéo và những năm tháng điên rồ nhất cuộc đời mình. *** Ngày 19 tháng 7 năm 1981 Đó là năm nhóm nhạc Pink Lady tan rã và tàu con thoi đầu tiên được phóng lên vũ trụ. Đang ngồi trên băng ghế dự bị, Sorairo Suzuki bỗng được huấn luyện viên Iwasaki gọi đến để ra sân ở vị trí đánh bóng số 5. “Tôi quên béng mất cậu luôn đấy, giờ cậu ra sân đi để gọi là có kỷ niệm trước khi rời câu lạc bộ.” Sorairo cố nuốt vào bụng những lời của huấn luyện viên Iwasaki, lòng thầm nghĩ: “À, thế thì vào sân một lát vậy. Để có chút kỷ niệm. Vậy đi!” “Dạ, vâng ạ”, Sorairo chạy ra đằng trước sân bóng chày, nét mặt nghiêm nghị. Ở vòng thứ hai của giải đấu Tokyo mùa hè, đội Kuroegawa Kanaka đang trên bờ vực vuột mất cúp vô địch. Tỷ số hiện nay là 0-11 nghiêng về phía đội Kokubunji Nishiaki. Sau trận đấu ngày hôm nay, học sinh năm ba sẽ ngừng chơi tại câu lạc bộ. Điều đó có nghĩa là Sorairo chưa từng được tham gia bất kỳ trận đấu nào, kể cả một trận đấu tập, vậy mà đã phải kết thúc sự nghiệp bóng chày ở đây. Cậu không giỏi ném và đánh bóng. Nói cách khác, Sorairo hoàn toàn vô dụng ở những kỹ năng quan trọng của bóng chày, nhưng cậu lại rất tin tưởng vào khả năng chạy của mình. Đổi vị trí cho đồng đội, Sorairo chuẩn bị đánh bóng. Tim cậu đập nhanh, hai chân run lẩy bẩy. Từ các khán đài vang lên tiếng reo hò, nhưng Sorairo chẳng hề để ý, cậu vô cùng hồi hộp. Kết quả trận đấu sẽ được quyết định tại thời khắc này nên phải cướp được gôn bằng mọi giá. Nghìn năm mới có cơ hội được vào sân thay người, Sorairo dồn hết dũng khí, nắm chặt cơ hội, sẵn sàng để chạy khi cầu thủ ném bóng vào vị trí. Át chủ bài của Kokubunji Nishiaki giơ bóng lên. Sorairo phản ứng nhanh chóng, nhưng vẫn đứng nguyên ở vị trí ban đầu. “Hô to lên nhé!” Một giọng nói cất lên từ băng ghế dự bị, hướng về phía Sorairo. Tuy nhiên, vào giờ phút này đây, Sorairo chẳng thể thốt lên được gì bởi nỗi lo lắng ngồn ngộn. Một. Hai. Cú tiếp theo. Khẽ bặm môi, Sorairo hiểu mình đang giữ trọng trách lớn. Nếu bây giờ cướp được gôn, cậu sẽ trở thành anh hùng. Mồ hôi túa khắp mặt cậu. Nắng tháng Bảy chói chang rọi thẳng xuống chiếc mũ cậu đội trên đầu. Cầu thủ ném bóng chậm rãi đi vào vị trí, mắt nhìn chằm chằm vào mục tiêu. Tia lửa tóe ra từ đôi mắt của đối thủ lẫn Sorairo. Cầu thủ ném bóng nâng chân. Sorairo quyết định sẽ chạy thật nhanh về gôn 2 bằng sức lực đã dồn nén suốt ba năm chơi bóng. Nhất định cậu sẽ làm được. Người ném bóng cố tình vung tay thật mạnh, và người bắt bóng lập tức trả bóng về gôn 2. Bóng bay thẳng vào găng của tuyển thủ chốt gôn 2. Sorairo trượt cả thân mình tới gôn. Va chạm. Trong khoảnh khắc ấy, Sorairo đã nghe thấy một tiếng “rắc”. Cả sân đấu và các hàng ghế khán giả cùng chìm vào thinh lặng. Sorairo hít một hơi dài. “Ặc.” Từ trong đám khói bụi, trọng tài tuyên bố Sorairo phải rời sân. Ôi… Sorairo thở dài thườn thượt rồi gục xuống. Mùa hè kết thúc thật rồi. Những ký ức đẹp đẽ trên sân bóng suốt ba năm qua lần lượt tái hiện trước mắt cậu. Khoảng trời xanh ngắt trên cao kia dường như càng trở nên bao la hơn. “Cậu kia, mau rời khỏi sân ngay!” Bị trọng tài giục giã, Sorairo thậm chí còn không được đắm mình trong tiếng hò reo. Cậu cố bặm môi, định đứng dậy, thế nhưng mắt cá chân đã bị bẻ gập theo một hướng kỳ lạ khiến cậu không tài nào đứng lên. “Sao thế này?” Dù không cảm thấy đau chút nào, nhưng thực tế mắt cá chân của Sorairo đã vỡ. Cậu được đồng đội đỡ vào băng ghế dự bị, sau đó tiếc nuối ôm mặt khóc. “Cậu đúng là đồ vô dụng! Đồ vô dụng!” Huấn luyện viên Iwasaki mắng xối xả khi Sorairo vẫn đang thổn thức. Nước mắt cậu tuôn trào mãnh liệt. Kết quả trận đấu không có gì thay đổi, đội bóng của cậu vuột mất cúp vàng. Mùa hè của các học sinh năm ba trường cấp hai Kuroegawa Kanaka đã kết thúc. Các đồng đội đều ném ánh nhìn lạnh lùng về phía Sorairo, như thể việc đánh mất cúp vàng lần này đều do lỗi của cậu. *** Sorairo phải nhập viện hai tuần vì gãy xương. Suốt thời gian nhập viện, cậu chỉ nghe chương trình FEN trên chiếc đài cát-xét hiệu Sony CF5950. Đây ban đầu là món đồ yêu thích của cha Sorairo - một người yêu thích âm nhạc, nhưng khi ông quyết định chuyển ra nước ngoài làm việc, nó được trao lại cho cậu. Mặc dù không muốn gặp lại người cha đã “mất dạng” suốt hơn hai năm nay thêm một lần nào nữa trong đời, nhưng khi nghe những bản nhạc nước ngoài phát ra từ chiếc đài cát-xét, Sorairo lại có cảm giác kỳ lạ, cảm tưởng như mình được nghe chuyện của người cha nơi bên kia đại dương vậy. Ngay cả khi đã xuất viện, cậu vẫn không có hứng làm bất cứ việc gì, chỉ dành hầu hết thời gian ở nhà. Niềm vui ư? Có lẽ đó là xem lại Mobile Suit Gundam và chương trình Best Hit USA, hay hát mấy bài như “Jessie’s girl”, “Magic”, “Private eyes”. Bây giờ, Sorairo đang phải đối mặt với một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến cả cuộc đời mình. Dù đã chơi bóng chày liên tục suốt ba năm, nhưng đến giờ phút này, rốt cuộc Sorairo cũng nhận ra rằng mình hoàn toàn không có chút năng khiếu bóng chày nào cả. Sorairo đã từng đặt mục tiêu là được thi đấu ở Koshien1, vậy mà còn chẳng vượt qua được vòng loại. Cho dù huấn luyện viên Iwasaki không mắng mỏ đi chăng nữa, tự bản thân Sorairo cũng hiểu rõ trình độ của mình. 1 Một sân vận động bóng chày lớn ở tỉnh Hyogo, Nhật Bản. Tháng Tám hằng năm, ở đây diễn ra Đại hội bóng chày toàn quốc. Ở Nhật có khoảng 4.000 trường cấp ba có câu lạc bộ bóng chày nhưng chỉ có 49 trường vượt qua được vòng loại địa phương để đến được Đại hội toàn quốc. Chính bởi con đường đến Koshien gian truân như thế nên người Nhật mới tôn xưng Koshien là “Miền đất thần thánh”. Dù đã cố thử nghĩ xem phải làm thế nào cho tốt, nhưng cậu vẫn hoàn toàn không thể xác định được tương lai mình rồi sẽ ra sao. “Nếu mình học bóng chày từ một kẻ dốt bóng chày, thì mình chỉ là một thằng ngốc.” Sorairo đau đớn lăn lộn một mình trong phòng. Chú mèo cưng bình thản tiến về phía cậu. Nghĩ đi nghĩ lại, Sorairo vẫn chẳng thể nghĩ được gì khác hơn ngoài bóng chày. Cậu nghiến răng ken két, song vẫn chẳng có gì bật ra. Điều mà cậu muốn làm ư? Khoan đã, có một điều đây rồi! Đó là hẹn hò với Momoko Yoshida của câu lạc bộ mỹ thuật - điều duy nhất mà Sorairo muốn làm trước khi tốt nghiệp. Trong lòng Sorairo vẫn luôn tồn tại một cảm giác gờn gợn khi không thể nói chuyện với bất cứ ai kể từ năm lớp 6. Không thể chơi bóng chày. Không thể học. Thậm chí nở nụ cười cũng không thể. Một Sorairo chẳng có nổi dù chỉ một điểm hấp dẫn thì sao có thể tỏ tình với Momoko? Vậy phải làm sao đây, phải làm như nào đây? Lăn lộn, rồi lại lăn lộn. *** Rốt cuộc kỳ nghỉ hè cũng kết thúc mà Sorairo vẫn chưa thể gọi điện cho Momoko. Sorairo tự an ủi bản thân bằng cách bao biện rằng cậu không thể đi đâu được bởi chân vẫn còn đau. Khi nghĩ tới kỳ nghỉ hè năm lớp 9, Sorairo cảm thấy nhất định phải làm được điều gì đó quan trọng, nhưng cuối cùng đã quyết định từ bỏ. Momoko đang làm gì nhỉ? Aaa, Sorairo rất muốn được cùng Momoko tới hồ bơi ở khu vui chơi Toshimaen. Vừa xem tấm hình của Momoko chụp trong chuyến tham quan Nakaji, vừa thoáng thấy bộ ảnh bikini trên tạp chí Yanmaga, cậu đã liền cắt ghép chúng lại trong đầu, rồi chìm trong ảo ảnh rằng Momoko đang diện bộ bikini ấy. Ngực. Đùi. Mông. Momoko nhìn thẳng vào mắt cậu, và gọi tên Sorairo. Bạn So-ra-i-ro. Ôi… Momoko. Momoko. Momoko. Cậu thật sự rất thích Momoko. Muốn nhìn thấy gương mặt của cô ấy, muốn được nghe thấy giọng nói của cô ấy. Nếu có thể, còn muốn được nhìn thấy tấm thân trần của cô ấy nữa. Cậu lại bắt đầu lăn lộn trên giường và đập đầu vào tường. Hai người không thể gặp nhau cho tới khi năm học bắt đầu. Nếu muốn đạt được mong muốn lúc này, cậu chẳng có cách nào khác ngoài xem những cuốn sách khiêu dâm mà mấy ông chú lái xe đường dài đã vứt lại ở góc công viên. Bọn thiếu niên như Sorairo gọi công viên, nơi chứa những cuốn sách khiêu dâm là “Biển của Eros” - theo tên một bài hát. Đây là bí mật chỉ chúng mới biết, và cả lũ tiết lộ cho nhau rằng công viên có thể thỏa mãn ham muốn của chúng. Một tấm ảnh chụp tấm thân trần quý giá đến nhường nào? Ham muốn mạnh mẽ là sức mạnh thúc đẩy bọn thiếu niên. Vào thời điểm đó, Sorairo cho rằng đây là điều duy nhất bản thân mong muốn trên đời này. Dù thế nào đi chăng nữa, cậu cũng muốn được ngắm tấm thân trần của một cô gái. Nếu như thần linh có thể biến ước muốn thành sự thật, chắc chắn đó phải là tấm thân trần của Momoko. Không, nhất định là cậu phải được nhìn thấy vào một ngày nào đó. Con mèo uống nước từ vòi rửa trong bếp. 2 Vào ngày đầu tiên của học kì hai, Sorairo bất lực chống nạng tới trường. Cậu không muốn thấy mặt bất cứ ai trong câu lạc bộ bóng chày vì những ánh mắt lạnh nhạt mà cậu đã phải nhận trong trận đấu cuối cùng. Khi Sorairo bước vào lớp, mọi người đều đang mở sách tham khảo và làm bài kiểm tra, dường như chẳng ai thèm quan tâm đến Sorairo với chiếc chân gãy. Sorairo có chút thất vọng, nhưng cũng chính vì bản thân Sorairo đã không làm bất cứ điều gì trong kỳ nghỉ hè, nên cậu cũng không thể đổ lỗi cho ai được. Sorairo bắt đầu lo nghĩ nhiều về việc thi cử. Thi cử, thi cử, kiểm tra. Sau kỳ nghỉ hè với quyết định từ bỏ bóng chày, Sorairo chẳng còn chút động lực nào để đến trường nữa. Oikawa, một thành viên của đội bóng chày cùng lớp với Sorairo, bước đến động viên cậu. Oikawa là một cậu trai có dáng người thấp bé, gương mặt xấu xí, cũng thuộc dạng dự bị ngàn năm mới được vào sân như Sorairo. “Này, dạo này sao rồi, bóng chày ấy?” Oikawa hỏi như trêu chọc Sorairo. Sorairo đã tưởng chuyện cũng chỉ có vậy, nhưng có vẻ là không phải. “Còn sao được chứ, tao từ bỏ rồi.” “Cái quái gì cơ?” “Cũng chẳng có cách nào khác cả. Câu lạc bộ Đi-về-nhà cũng tốt mà. Tao sẽ chẳng tham gia câu lạc bộ nào hết, kiếm bạn gái và trở nên hạnh phúc.” “Ai chứ mày thì không thể có bạn gái được đâu.” Oikawa liền lấy bút và viết lên chỗ chân bị bó bột của Sorairo dòng chữ “chim cánh cụt”. “Dừng lại đi, thằng ngốc này.” Oikawa cười ngây ngô với cái điệu muahaha đáng ghét. Hẳn là nó không còn việc gì để làm. Nó sau này cũng sẽ giống như Sorairo, trở thành một nạn nhân của ảo mộng Koshien, thứ đã lan rộng cả đất nước Nhật Bản. “À, mày đã nghe chưa? Chuyện của Kazuki ấy.” “Làm sao mà biết được chứ. Tao ở viện suốt mà.” Sorairo đáp lại xen chút hờn dỗi. “Chẳng ai trong đội bóng chày đến thăm tao. Quá đáng thật đấy.” “Đương nhiên là không đến thăm mày rồi. Tại mày nên mới thua còn gì. Thế chẳng phải tốt hơn à? Còn chuyện của Kazuki…” Sorairo định nói lại rằng chuyện thắng thua không phải do lỗi của một mình cậu, nhưng rồi không nói nữa vì cũng chẳng ích gì. Bởi Oikawa cũng chỉ là một cầu thủ dự bị, nên kết quả của trận đấu với cậu ta cũng chẳng hề có nghĩa lí. Vậy nên khác với các thành viên khác trong câu lạc bộ bóng chày, cậu không đối xử lạnh lùng với Sorairo. Tuy khuôn mặt hơi xấu xí một chút nhưng cậu lại là một chàng trai tốt bụng. Kazuki là con át chủ bài của câu lạc bộ bóng chày Kuroegawa Kanaka. Cũng là học sinh lớp 9 giống Sorairo, nhưng khác lớp. Cậu đang định sẽ gia nhập một trường có đội bóng chày thật mạnh thông qua giới thiệu. Câu lạc bộ cấp hai chỉ là một đội bóng yếu, nhưng tài năng của cậu lại được đánh giá cao. Hơn nữa, do có chiều cao 1m81, nên cậu lại càng đẹp trai tuyệt vời. Tóm lại, so với Sorairo, cậu là một chàng trai thuộc về một thế giới khác, theo các cách hiểu khác nhau. Mời các bạn đón đọc Brush! Thanh Xuân Rực Rỡ Đến Thế của tác giả Izuru Kanaka.
Biến Thân
Keigo một lần nữa khẳng định ông là bậc thầy của dòng tâm lý xã hội qua cuốn tiểu thuyết mới xuất bản. Biến thân là cuốn sách của ông hoàng trinh thám Nhật Bản Keigo Higashino. Tác phẩm mới được NXB Hồng Đức liên kết Công ty IPM phát hành ở Việt Nam qua bản dịch của Cẩm Hương. Biến thân kể về người thanh niên hiền lành tên Junichi (Jun). Jun hiền đến nỗi chẳng mấy khi phản đối lời người khác, thậm chí còn không dám giết một con chuột. Cuộc đấu tranh nội tâm Ngày kia, tai họa đột nhiên giáng xuống, người ta đưa Jun vào bệnh viện, tiến hành một ca phẫu thuật lần đầu tiên trên thế giới. Ra viện, Jun trở về với cuộc sống, với người yêu của mình, nhưng anh đã không còn hiền lành, trung hậu nữa. Jun trở nên hung hãn, bản năng và thú tính. Jun bắt đầu chuỗi ngày dằn vặt, đấu tranh với tính cách mới của bản thân. Cuộc chiến giữa cái thiện - phần bản tính hiền lành của Jun lúc trước và cái ác - phần bản tính mới xuất hiện sau cuộc đại phẫu, diễn ra trong anh. Và trên hành trình đó, anh bắt đầu khám phá ra sự thật, rằng các bác sĩ đã làm gì với bộ não của anh! Nhịp độ của Biến thân có thể khá chậm ở đoạn đầu, nhằm mục đích giới thiệu các nhân vật, giới thiệu cuộc phẫu thuật, hé mở dần những biến đổi trong tâm lý của nhân vật chính. Nhưng càng về sau, mạch truyện càng được đẩy đi nhanh hơn, các tình tiết xảy ra liên tục và cứ thế cuốn người đọc đến với cái kết. Cũng như hầu hết tác phẩm trước đây của Keigo, Biến thân sở hữu cốt truyện khá đặc sắc. Các tình tiết được liên kết với nhau chặt chẽ, mỗi chi tiết đều đóng một vai trò quan trọng trong việc thêu dệt nên bức tranh toàn cảnh. Điểm hay nhất ở cuốn sách này có lẽ đến từ việc lột tả nội tâm của hai tính cách trong cùng một con người. Keigo đã miêu tả một cách hoàn hảo sự dằn vặt nội tâm khủng khiếp của nhân vật chính. Ngay trong thân xác ấy, một cuộc chiến khốc liệt của cái thiện và cái ác, của thiên thần và ác quỷ để giành lấy quyền làm chủ. Bằng cách sử dụng sự đối lập giữa hai tính cách, Keigo đã nêu quan điểm của mình về một vài vấn nạn trong cuộc sống của con người. Trong cả hai nhân cách tồn tại trong con người của nhân vật, đâu là thiện, đâu là ác, ranh giới giữa chúng thật sự rất mong manh. Keigo đã đặt ra câu hỏi khiến độc giả phải suy ngẫm: “Liệu phần tính cách ác của Jun, có thật sự hủy hoại anh ấy? Hay chính phần thiện trước đây, đã ăn mòn bản thân anh bằng sự mờ nhạt, an phận?". Sức mạnh của tình yêu thương Nếu phần thiện trước đây của Jun tượng trưng cho tính cách hiền lành, hòa nhã, thì nó lại đi đôi với nhu nhược, an phận. Phần "ác" lại đi đôi với sự nhanh nhẹn, khao khát khẳng định bản thân, và không dung thứ cho sự giả dối, sai trái. Keigo đã mượn chính phần tính cách "ác" đó, để lột tả một sự thật tồn tại trong cuộc sống chúng ta, những người đang bị rơi vào cái bẫy của sự “ổn định”. Đó là sự trì trệ, sự an phận, trôi từ năm này sang năm khác, như những mẩu lục bình. Đó liệu có phải là sự ổn định mà chúng ta đang cần? Hay chính điều đó đang giết chết chúng ta từng ngày, từng giờ? Sau cùng, tình yêu thương cũng là vũ khí giúp ta chiến thắng tất cả! Bên cạnh việc nói lên những mặt tối của con người và xã hội, trong Biến thân, Keigo vẫn có chỗ để tôn vinh tình yêu thương. Rất nhiều tình yêu đã được nhắc đến, từ tình yêu đôi lứa, đến tình cảm gia đình. Điển hình và dễ thấy nhất, là tình yêu vô bờ bến của Megumi dành cho Junichi. Cô yêu anh vô điều kiện, kể cả anh có trở thành một con người khác, có xua đuổi cô hay thậm chí giết cô, cô vẫn chấp nhận. Bạn đọc có thể sẽ cảm thấy rất thương Megumi, cô phải đối mặt với một Junichi hoàn toàn khác sau cuộc phẫu thuật, đối mặt sự cô đơn trong chính tình yêu của mình. Nhưng cô vẫn không bỏ cuộc. Và mọi thứ đã được đền đáp xứng đáng. Tiếp theo đó, tình yêu điên cuồng và rồ dại như tình yêu của tên sát thủ dành cho người mẹ của mình. Keigo đã có đoạn miêu tả điều này: “Tình yêu với mẹ của anh Shunsuke mãnh liệt tới mức không diễn tả được thành lời, yêu đến kinh người ấy. Sau khi mẹ mất, anh ấy nhốt mình trong phòng, cả ngày khóc rống gào thét, đến mức tôi còn sợ anh ấy quẫn trí mà chết mất”. Nguyên nhân sự hóa điên của nhân vật này cũng xuất phát từ chính cái chết của mẹ anh ta. Điều đó đủ để cảm nhận anh thương mẹ đến nhường nào. Cuối cùng, tình yêu âm thầm nhưng to lớn của Junichi dành cho Megumi. Cũng chính tình yêu đó đã tiếp thêm sức mạnh cho anh chiến thắng được phần ác trong con người, vào thời điểm gần như tâm hồn của anh đã hoàn toàn nhường chỗ cho nó! Suốt thời gian bị cái ác chiếm ngự, Jun đã gần như quên mọi thứ thuộc về con người trước đây. Nhưng có một điều Jun không quên, là “không thể quên rằng đã yêu Megumi”. *** ”Chết – sống không đơn thuần là hít thở hay tim đập, có sóng não, mà là để lại dấu vết trên cõi đời. Phải nhìn thấy dấu chân mình trên con đường đã qua, đồng thời chắc chắn đó chính là dấu chân của mình, mới gọi là sống”_ Junichi là một thanh niên hiền lành, có thể nói có phần nhu nhược và an phận, không thích đua tranh, đang sống một cuộc đời bình lặng bên cạnh cô bạn gái Megumi. Trong một lần đến văn phòng bất động sản, vì cứu một bé gái khỏi phát súng của tên cướp, anh đã bị bắn trúng đầu, và tỉnh dậy tại bệnh viện đại học Towa. Anh dần khám phá ra mình đã trở thành người thử nghiệm cho ca mổ đầu tiên trên thế giới – ca phẫu thuật thay não. Được đưa từ cõi chết trở về, tưởng chừng là hạnh phúc, nhưng dần dần Junichi phát hiện ra nào phải vậy. Bác sĩ Dogen và đồng sự đều đang cố gắng giấu giếm anh điều gì đó. Anh nhận ra bản thân mình đang biến đổi, từ những thói quen nhỏ nhặt nhất, đến cả sở thích hội họa cũng không còn. Tồi tệ hơn, tình cảm thuần khiết của anh đối với Megumi cũng dần dần phai nhạt. Và kinh khủng nhất là khi Junichi cảm thấy phần “con” của mình bắt đầu lớn dần, lấn át cả phần “người”. Anh dễ kích động hơn, cảm thấy khó chịu với những người kém cỏi hay không chịu cố gắng, và trở nên bạo lực, dễ gây hấn, thậm chí còn cảm thấy muốn giết người. Trước khi đánh mất hẳn con người trước đây, Junichi điên cuồng tìm hiểu, rốt cuộc điều gì đã xảy ra với mình trong cuộc phẫu thuật định mệnh ấy? Khách quan mà nói, Biến thân hoàn toàn không phải là một tiểu thuyết trinh thám. Cuộc điều tra của Junichi không phải nội dung chính của tiểu thuyết, và kết quả của nó cũng khá là dễ đoán. Tiểu thuyết này thiên về tâm lý, nó đi sâu vào phân tích nội tâm và những suy nghĩ, giằng xé của Junichi khi nhận ra việc dần đánh mất bản thân mình, và quá trình anh đấu tranh với điều đó. Chính vì thế, tôi sẽ so sánh với một tiểu thuyết thiên về tâm lý khác của Keigo, quyển Bí mật của Naoko. So với Naoko, quyển này hoàn toàn không bằng. Về tình tiết, Naoko hấp dẫn và gay cấn hơn. Về mô tả tâm lý, Naoko làm tôi đồng cảm và xót xa cho cả người chồng lẫn người vợ, còn quyển này không hiểu sao tôi chỉ như một khán giả đứng ngoài nhìn vào trận chiến của Junichi với vẻ lãnh đạm. Về kết thúc, Naoko tạo được một bất ngờ ở cuối truyện, điều mà Biến thân chẳng hề làm được. Đọc đến vài trang cuối cùng rồi, tôi vẫn còn hoang mang, cái “chất” của Keigo ở đâu khi không hề có pha bẻ lái (dù gắt hay không gắt cũng được), mọi diễn biến cứ đi theo con đường của nó, trơn tru đến bất ngờ. Nói tóm lại, tôi đã kỳ vọng ở Keigo nhiều hơn thế này. Nhã Nguyễn *** Review BIẾN THÂN – Keigo Higashino Dịch giả: Cẩm Hương. NXB: IPM và Hồng Đức Điểm: 8,5/10 BIẾN THÂN – Lại là một bi kịch xã hội đến từ Keigo Higashino  Junichi tỉnh dậy, cuộc đời của một người đàn ông hiền lành, ít nói không còn đơn giản như trước. Những tưởng khoảnh khắc anh vì cứu người mà trọng thương đã khiến anh ghé thăm căn nhà của Tử thần. Vậy thì sau khi được cứu sống nhờ sự hiện đại của y học, anh lại lần nữa “lăn xuống con dốc của địa ngục”. Không biết lần này, điều gì sẽ cứu anh khỏi lưỡi hái của Tử thần đây? Cả cuốn sách chủ yếu đi theo góc nhìn của Junichi, cũng chính là nhân vật TÔI. Đan xen giữa đó là các trang nhật ký của các nhân vật khác. Không phải tự dưng mà tác giả thêm vào mạch truyện những dòng nhật ký ấy. Đó chính là minh họa trực quan nhất cho sự BIẾN THÂN của Junichi. Xét về toàn bộ câu chuyện thì BIẾN THÂN ko mạnh về việc đánh lừa người đọc hay cốt truyện bất ngờ, mà BIẾN THÂN xuất sắc ở cách khắc họa tâm lý của nhân vật. Và trong tác phẩm này, Keigo đã phát huy tối đa tài hoa của mình trong việc vẽ nên những dằn vặt trong nội tâm nhân vật. Vậy mình ấn tượng gì ở cuốn sách này? Rõ ràng từ đầu đến cuối, chỉ có một danh xưng TÔI. Nhưng người đọc cảm nhận rõ được cái TÔI kia đang dần thay đổi. Lần theo từng dòng suy nghĩ của nhân vật, cảm nhận được sự đấu tranh giữa 2 Junichi trong từng tế bào thần kinh, người đọc phải tự hỏi rốt cuộc TÔI đã biến mất chưa? Để đến những trang cuối cùng, bạn sẽ nhận ra, người vẫn xưng TÔI đã trở thành một TÔI hoàn toàn khác từ lúc nào không hay. Tôi ở trong mặt kính đang lặng lẽ nhìn tôi… Rõ ràng đây là mắt của Naruse Junichi. Từ đầu đến cuối, luôn là tôi, luôn là Junichi. Nhưng đâu là Junichi, đâu là Junichi đã biến thân? Trên đây là những cảm nhận của mình về BIẾN THÂN, còn bạn thì sao? Lý Hoàng *** Ghi chép của Dogen (1) Thứ Bảy, 10/3. Ca phẫu thuật đã hoàn thành một cách suôn sẻ. Hiện tại chúng tôi chưa phát hiện ra điều gì bất thường, người nhận không có rối loạn tín hiệu hay sóng điện não lạ. Chúng tôi sẽ liên tục phân tích hình dạng sóng não và ghi chép đồ thị từng phút một, không thấy có phản ứng thải ghép, các hoạt động duy trì sự sống đang diễn ra thuận lợi. Tôi đã thông báo lần cuối cho người phát ngôn và gửi lời cảm ơn tới đội ngũ bác sĩ hỗ trợ. Trước buổi họp báo, tôi cũng đã gọi điện báo cáo cho trưởng khoa, ông bảo, “Sau đây thì trông chờ số mệnh thôi, phải không?” Chính xác là như thế. Các tính toán cho thấy tình trạng hôn mê sẽ tiếp tục kéo dài thêm vài tuần. Trong thời gian đó, chúng tôi sẽ quan sát người nhận trong phòng hồi sức tích cực. Khi cậu ấy tỉnh dậy, chúng tôi sẽ ứng phó linh hoạt tùy thuộc vào mức độ nhận thức của cậu ấy. Trợ lý Tachibana là người phụ trách việc này. Thi thể người hiến sau khi khâu lại đã được xử lý theo kế hoạch. Lúc họp báo cũng có vài câu hỏi đặt ra về người này, chúng tôi đều từ chối trả lời, với lý do đã thống nhất tại hội đồng y đức. Bây giờ là 11 giờ 30 phút đêm. Chẳng mấy chốc là ngày 11, một ngày dài và căng thẳng. Các mạch đã nối có hoạt động bình thường không? Tôi không khỏi bồn chồn, nóng lòng chờ người nhận tỉnh dậy.   1 Đầu tiên, tôi cảm thấy mình vẫn đang trôi bồng bềnh trong mơ, nhưng dần dần phần âm u tan đi, chỉ còn lại thứ bóng tối nhờ nhờ. Sau đó âm thanh sống dậy bên tai nghe như tiếng gió thổi xa xa, tiếp đến là tiếng kim loại leng keng. Cơ má tôi đột ngột co giật. “Có phản ứng rồi.” Giọng một thanh niên vang lên, và ngay bên cạnh là ai đó nữa. Tôi tự hỏi tại sao mình lại không nhìn thấy, và chẳng mấy chốc nhận ra mắt mình đang nhắm. Những ngón tay cảm nhận được làn chăn. Hình như tôi đang ngủ. Tôi chầm chậm mở mắt, ánh sáng trắng ập tới chói lòa. Tôi nheo mắt lại, chờ một lúc, khi đã thích nghi với ánh sáng, tôi mở mắt lần nữa. Tôi bắt gặp ba gương mặt, hai nam một nữ. Trông họ căng thẳng như thể đang nhìn thứ gì rất đáng sợ. Tất cả đều mặc blouse trắng. Đây là đâu? “Cậu nhìn thấy chúng tôi chứ?” Người cất tiếng hỏi là một người đàn ông với mái tóc bạc trắng, người lớn tuổi nhất trong bọn. Từ đuôi mắt đến trán chi chít nếp nhăn, mắt đeo cặp kính mạ vàng. Tôi muốn đáp “Tôi nhìn thấy”, nhưng không thể nói cho trôi chảy. Tôi há miệng. Họng và môi cứng chặt cứ như của ai khác. Thế nên tôi dùng nước bọt làm ướt cổ họng, ra sức thử, kết quả âm thanh chẳng ra âm thanh và tôi ho một cách nhọc nhằn. “Không phải cố đâu. Cậu gật hay lắc đầu cũng được.” Người đàn ông tóc bạc trắng nói bằng giọng thân tình. Tôi chớp mắt hai ba lần và gật đầu, ông thở phào nhẹ nhõm. “Bệnh nhân nghe được, hiểu được ngôn ngữ và nhìn được.” Tôi hít vào rồi mở miệng, thận trọng cảm nhận trạng thái cổ họng. “Đây… là… đâu?” Câu hỏi như cổ vũ tinh thần những người này. Mắt sáng lên, họ nhìn nhau. Thanh niên có cái cằm nhọn nói, “Bệnh nhân đã đặt câu hỏi. Chúng ta thành công rồi, thưa giáo sư.” Mặt anh ta đỏ bừng, có phải anh ta đang hào hứng không? Người đàn ông tóc bạc thoáng gật đầu rồi nhìn vào mắt tôi. “Đây là bệnh viện. Chúng ta đang ở Tòa số 2 Bệnh viện Đại học Towa. Cậu hiểu lời tôi nói chứ?” ông hỏi, và tôi khẽ gật đầu. Xác nhận rồi, ông tiếp tục, “Tôi là Dogen, người phụ trách phẫu thuật cho cậu. Hai người có mặt ở đây là trợ lý Wakao và Tachibana.” Thanh niên cằm nhọn và cô gái trẻ lần lượt cúi đầu chào tôi theo lời giới thiệu của người đàn ông. “Tôi… tại sao… ở đây?” “Cậu không nhớ phải không?” Tôi nhắm mắt lại, suy nghĩ về câu hỏi của ông Dogen, cảm giác như mình đã trải qua một giấc mơ dài. Trước giấc mơ đó thì thế nào nhỉ? “Nếu không nhớ nổi thì không phải cố đâu.” Ông Dogen đang nói thì một hình bóng bất ngờ nháng lên trong mắt tôi, một tên đàn ông. Tôi không quen hắn. Hắn đang cầm cái gì đó, chĩa vào tôi và hét lên. Không, kẻ đang hét là tôi chứ! Tay hắn lóe đỏ. “Súng…” Tôi mở mất, “Súng lục.” “Đúng thế, có vẻ cậu đã nhớ ra rồi đấy. Cậu bị bắn, bằng súng lục.” “Bị bắn…” Tôi cố lục lọi tâm trí, nhưng ký ức không rõ rệt, như thể đang phủ bụi. “Không được… tôi không nhớ nổi.” Tôi lắc đầu, khép mắt. Đúng lúc đó, hình như có cái gì kéo ra khỏi phía sau đầu tôi, và khắp người không còn cảm giác gì nữa. Mời các bạn đón đọc Biến Thân của tác giả Higashino Keigo & Cẩm Hương (dịch).
Vòng Đầu
Bản dịch khác Tầng Đầu Địa Ngục (do nhà văn Hoàng Hải Thuỷ dịch) Tiểu thuyết Vòng Đầu của Aleksandr I. Solzhenitsyn diễn tả cuộc sống mất tự do trong tù ngục của những chính trị phạm Nga trên Liên bang Xô Viết. Chính tác giả từng sống trong những ngục tù này nên những gì ông viết lại đều rất trung thực, rất sống, làm rung động tâm hồn người đọc. Trong truyện, ông viết lại cuộc đời của rất nhiều tù nhân, mỗi tù nhân là một trường hợp đặc biệt, một cảnh ngộ riêng. Vì muốn diễn tả thật nhiều trường hợp bị tù đày nên trong The First Circle có quá nhiều nhân vật không liên lạc gì đến cốt truyện. Với mục đích làm cho cốt truyện được đúc kết hơn, có liên lạc hơn, chúng tôi đã lược bỏ một số trang khi dịch The First Circle sang Tầng đầu địa ngục. Việc lược bỏ của chúng tôi chỉ làm cho tác phẩm thêm trong sáng, chặt chẽ, cốt truyện vẫn còn nguyên, những nhân vật chính vẫn có đủ mặt. Giá trị văn chương của The First Circle, qua bản dịch của chúng tôi, theo chúng tôi nghĩ, chỉ có tăng chứ không giảm. Chúng tôi mong bạn đọc nhận xét, so sánh, nhận biết sự cố gắng của chúng tôi và đồng ý với chúng tôi rằng khi chuyển ngữ một tác phẩm tiểu thuyết ngoại ngữ sang tiếng Việt, đôi khi việc lược bỏ vài đoạn không liên hệ đến cốt truyện là việc làm cần thiết và hợp lý. *** Trong cuốn tiểu thuyết này, Aleksandr trở thành John le Carre. Chỉ trong trường hợp của nhà văn Nga, khi biết lý lịch của mình là một người bị Liên Xô phủ nhận đích thực, vấn đề diễn ra theo một khía cạnh khác. Trên thực tế, ở phần cuối, chúng ta quay trở lại vũ trụ của cái gulag và hệ thống nhà tù địa ngục của nó khai thác mọi con người đi qua đó. Đó là Gulag, vòng tròn địa ngục của Dante, được dẫn dắt trong trường hợp này bởi một Virgil, người tung ra các khẩu hiệu thân Liên Xô, như thể mọi thứ đều vì một lợi ích cao đẹp hơn, một quê hương có thể loại bỏ bất kỳ cuộc sống hoặc quan điểm đe dọa nào. Nhưng đồng thời cuốn sách này là một cái gì đó khác, nó là một cuốn tiểu thuyết mãnh liệt nhằm tìm kiếm một cổ họng sâu lắng, một tiếng nói cảnh báo Hoa Kỳ về các dự án nguyên tử của Liên Xô. Và năng lượng nguyên tử có trong chiến tranh lạnh, cùng với cuộc chạy đua không gian, hai thử thách lớn, những trận chiến thất thường của người này và người kia, giống như những trò chơi rùng rợn. Tiếng nói đến từ chính Bộ Ngoại giao Nga. Chỉ có điều không ai từ KGB quản lý để tìm ra người gửi tin nhắn, được ghi lại một cách logic, giống như rất nhiều thứ được ban lãnh đạo Liên Xô giám sát. các nhà khoa học ở đó bị giới hạn bởi tính cách đe dọa của họ ... Và nếu ai đó không tiết lộ danh tính của họ, tất cả họ có thể phải trả giá ... *** Alekxandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1923 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông, thường bị bạn bè chế giễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cộng sản, năm 1936 vào Đoàn thanh niên Cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin. Năm 1937, ông đã từng dự định viết tiểu thuyết về Chiến tranh thế giới thứ nhất với tên Hãy yêu cách mạng. Năm 1939 ông tham gia lớp học hàm thụ ở Đại học Triết - Văn - Sử Moskva danh tiếng thời đó. Năm 1941 tốt nghiệp Đại học Rostov, nhập ngũ và được thưởng hai huân chương với quân hàm đại úy. Thời gian này Solzhenitsyn sáng tác một số tác phẩm, trong nhận thức và tư tưởng bắt đầu có những thay đổi. Tháng 7 năm 1945 ông bị kết án tù 8 năm vì một bức thư viết gửi bạn bày tỏ quan điểm chống lại Chủ nghĩa Stalin. Những năm tháng tù giam, đi qua nhiều nơi trên đất nước đã giúp ông sau này có được chất liệu sống thực cho những tác phẩm của mình. Năm 1952, ông bị ung thư, phải mổ trong bệnh viện tại trại giam và đã qua khỏi. Stalin mất, ông được phục hồi, về sống ở Moskva đến năm 1957 rồi đi Riazan dạy học. Trong thời gian này ông bắt đầu viết tiểu thuyết Tầng đầu địa ngục (В круге первом, 1955-1968) và in truyện vừa đầu tiên Một ngày của Ivan Denisovich (Один день Ивана Денисовича, 1958) cùng một số tác phẩm khác đã khiến ông rất nổi tiếng, đến mức được đề cử nhận giải thưởng Lenin. Năm 1967, sau khi Alekxandr Solzhenisyn gửi một bức thư ngỏ đến Đại hội nhà văn Liên Xô phản đối chế độ kiểm duyệt, ông bị chính quyền và báo chí phê phán kịch liệt, bị khai trừ khỏi Hội nhà văn, bị cấm in sách. Một số tác phẩm của ông không được in ở trong nước nhưng có người đem in ở nước ngoài mà không xin phép ông như Tầng đầu địa ngục, Trại ung thư (Раковый корпус), Tháng 8 năm 1914 (Август четырнадцатого), điều này càng khiến chính quyền Xô Viết phản ứng nhưng ông thì được nhiều người biết đến. Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post, Time NewYork Times. Năm 1991, sau thời cải tổ, chính quyền Liên Xô chính thức xóa án cho ông. Tháng 5 năm 1994 ông trở về sống ở Nga. Năm 2006 ông được tặng giải thưởng nhà nước của Liên Bang Nga vì những đóng góp xuất sắc trong hoạt động nhân đạo. Ngày 3 tháng 8 năm 2008, do căn bệnh đau tim, ông qua đời ở nhà riêng tại ngoại ô Moskva, hưởng thọ 89 tuổi. Trước đó ít lâu, ông đã mắc chứng huyết áp cao. Trong khi con trai ông là Stepan nói ông chết do bệnh đau tim, theo một số ghi nhận khác thì ông chết sau cơn đột quỵ. Hay tin, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã gửi lời chia buồn tới gia đình Solzhenitsyn. Nhà văn này còn được Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy mô tả là "một trong những lương tâm vĩ đại nhất của Nga trong thế kỷ 20", và rằng: "Sự đấu tranh không khoan nhượng, ý tưởng và cuộc đời dài với đầy sự kiện đã biến Solzhenitsyn thành một hình tượng trong sách vở, kế thừa Dostoyevsky". Vài tác phẩm của Solzhenitsyn đã được dịch ra tiếng Việt trước năm 1975: Một ngày của Ivan Denisovich, Quần đảo Gulag, Tầng đầu địa ngục.   Mời các bạn đón đọc Vòng Đầu của tác giả Aleksandr Solzhenitsyn.