Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trao Em Mặt Trời

Noah và Jude: chẳng ai bảo họ là một cặp song sinh. Một tên nhóc èo uột rụt rè kỳ quặc lúc nào cũng ôm khư khư cuốn sổ phác họa và vẽ lại tất cả những gì nó thấy. Một nữ thần ánh sáng với suối tóc vàng rực và thân hình nóng bỏng, ngạo nghễ lướt trên con sóng bạc, hiên ngang lao xuống Vực Tử Thần. Mỗi người mang theo mình một nửa câu chuyện, một nửa thế giới – từng mảnh ghép của tình yêu, sự phản bội, lòng thù hận, những nỗ lực hàn gắn, chữa lành dần hiện ra và khớp vào nhau tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh, một bức tranh bùng nổ màu sắc và ngập tràn những phép mầu. Trao em mặt trời khiến người đọc choáng ngợp trước những hình ảnh bay bổng tuyệt đẹp và nghẹt thở bởi cảm xúc của những mối tình đầu cùng tình cảm gia đình. Tác phẩm đem lại cho Jandy Nelson vô số giải thưởng danh giá và được nhiều tạp chí, diễn đàn văn học bình chọn là tiểu thuyết nổi bật nhất năm 2015. Đến nay, cuốn sách đã được xuất bản ở hơn 25 quốc gia và được hãng phim Warner Bros mua bản quyền để chuyển thể thành phim. “Một cuốn tiểu thuyết hoang dại, đẹp đẽ, sâu sắc và đầy cảm động. Giọng văn của Jandy Nelson sôi nổi và sống động đến nỗi những trang truyện của cô ấy gần như tỏa sáng trong bóng tối.” – Ransom Riggs, tác giả bộ truyện Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine *** DÀNH TẶNG BỐ VÀ CAROL Vượt qua ranh giới của những quan niệm về hành vi sai trái và hành vi đúng đắn, có một cánh đồng. Tôi sẽ gặp bạn ở đó. RUMI Tôi chỉ tin vào sự thiêng liêng của tình yêu trìu mến từ con tim và chân lý của trí tưởng tượng. JOHN KEATS Ở đâu có tình yêu thương vĩ đại, ở đó luôn có những phép màu. WILLA CATHER Cần có lòng dũng cảm để trưởng thành và trở thành con người thật sự của bạn. E. E. CUMMINGS *** Mọi chuyện đã bắt đầu như thế. Zephyr và Fry - hai kẻ tâm thần chống đối xã hội làm vua làm chúa khu này - phóng theo tôi, toàn bộ thảm rừng dưới chân rung chuyển trong khi tôi lao đi giữa không trung, giữa những hàng cây và giữa cơn hoảng sợ cuồng loạn. “Mày lại đây, thằng hèn!” Fry hét. Rồi Zephyr đè lên người tôi, ghìm chặt một rồi cả hai cánh tay tôi ra sau lưng, còn Fry giật lấy cuốn sổ ký họa. Tôi lao tới chực giật lại nhưng hai tay đang bị giữ chặt, hoàn toàn bất lực. Tôi quằn quại để thoát khỏi vòng tay ghì chặt của Zephyr. Không thể. Cố chớp mắt biến chúng thành lũ bướm đêm. Không. Chúng vẫn là chúng: hai thằng đần lớp Mười, cao bốn mét rưỡi, lấy trò quẳng lũ mười ba tuổi còn sống nhăn như tôi xuống vách đá để mua vui. Zephyr khóa đầu tôi từ phía sau, lồng ngực nhấp nhô của hắn áp vào lưng tôi, lưng tôi áp vào lồng ngực hắn. Cả hai đứa đều đầm đìa mồ hôi. Fry bắt đầu lật mở cuốn sổ. “Mày đang vẽ cái gì thế, Bong Bóng?” Tôi mường tượng cảnh hắn bị xe tải cán. Hắn giơ một trang ký họa lên. “Zeph, nhìn mấy gã trần truồng này xem.” Máu trong cơ thể tôi ngừng chảy. “Đấy không phải mấy gã. Đấy là David,” tôi bật lên thành tiếng, cầu mong giọng mình nghe không giống một con chuột nhảy, cầu mong hắn sẽ không lật tới những bức vẽ sau đó, những bức được vẽ hôm nay khi tôi đang bí mật theo dõi, những bức vẽ chúng đang ngoi lên khỏi mặt nước, nách kẹp ván lướt sóng, không mặc đồ lặn, chẳng mặc gì cả, toàn thân bóng nhẫy và, ờm: nắm tay nhau. Có lẽ tôi đã hơi phóng túng trong nghệ thuật. Và chúng sẽ nghĩ… Chúng sẽ giết tôi trong chớp mắt, chúng sẽ làm thế đấy. Thế giới bắt đầu chao đảo. Tôi quăng từng từ về phía Fry: “Anh biết chứ? Michelangelo? Từng nghe về ông ấy chưa?” Tôi sẽ không thể hiện giống bản chất của mình đâu. Hãy tỏ ra cứng rắn, rồi con sẽ cứng rắn, bố đã nhắc đi nhắc lại nhắc tới nhắc hồi như thế - như thể tôi là một cái ô èo oặt vậy. “Ừ, tao từng nghe về ông ta rồi,” Fry cất tiếng nói từ cái miệng rộng ngoác kết thành khối với những đường nét trương phình còn lại bên dưới vầng trán đồ sộ bậc nhất thế giới, khiến người ta rất dễ lầm tưởng hắn là một con hà mã. Hắn xé trang sổ. “Nghe nói ông ta đồng tính.” Đúng thế - mẹ tôi đã viết nguyên cả một cuốn sách về chuyện đó - mà chắc Fry cũng chẳng biết. Hắn gọi tất cả mọi người là đồng tính khi không gọi họ là pê đê hay đồ hèn. Và tôi: pê đê, thằng hèn và Bong Bóng. Zephyr bật lên một tiếng cười quỷ quyệt hắc ám. Tiếng cười ấy như rung thấu khắp cơ thể tôi. Fry giơ bức ký họa tiếp theo lên. Lại David. Nửa dưới của David. Một bức nghiên cứu chi tiết. Cơ thể tôi ớn lạnh. Giờ thì cả hai đứa đều cười hô hố. Tiếng cười vang vọng khắp khu rừng. Tiếng cười cất lên từ lũ chim. Một lần nữa, tôi nỗ lực thoát ra khỏi thế khóa của Zephyr để có thể giật lại cuốn sổ từ tay Fry, nhưng tôi chỉ khiến Zephyr ghì chặt thêm. Zephyr, thằng này khác quái nào Thor. Một cánh tay hắn nghiến chặt cổ tôi, tay kia quàng quanh thân trên tôi như một sợi dây an toàn. Hắn để ngực trần vì vừa chạy thẳng từ dưới biển lên, hơi ấm từ cơ thể hắn đang ngấm dần qua áo phông của tôi. Mùi kem chống nắng hương dừa sực nức khắp khoang mũi lẫn đầu óc tôi - cả mùi biển cả mặn mòi nữa, như thể hắn đang mang cả đại dương trên lưng mình vậy… Zephyr kéo theo con sóng như một tấm chăn phủ xuống sau lưng… Cảnh ấy đẹp quá, chuẩn quá (CHÂN DUNG: Chàng trai sải bước cùng biển xanh) - nhưng không phải bây giờ, Noah, hiển nhiên giờ không phải lúc để vẽ thằng đần này trong trí tưởng tượng. Tôi thả lỏng toàn thân, nếm vị muối biển mặn mòi trên môi, thầm tự nhủ đời mình thế là tàn… Mái tóc dài như rong biển của Zephyr ướt nhem nhép, nhỏ giọt xuống khắp cổ và hai vai tôi. Tôi nhận thấy cả hai chúng tôi đang cùng nhịp nhàng thở hổn hển. Tôi cố thở khác đi. Tôi cố chống lại định luật của trọng lực và lềnh bềnh nổi lên. Cũng không xong. Chẳng làm được gì cả. Gió đang thổi bay từng bức vẽ của tôi khỏi tay Fry - giờ phần lớn là những bức chân dung gia đình - trong khi hắn xé từng trang, từng trang một. Hắn xé đôi bức vẽ Jude và tôi ở ngay chính giữa, chia cắt tôi khỏi bức tranh. Tôi nhìn bản thân theo gió bay đi. Tôi trông theo trong khi hắn lật giở ngày một gần tới những bức vẽ sẽ khiến tôi tiêu tùng. Bên tai tôi, tiếng mạch đập dội lên thình thịch. Rồi Zephyr nói, “Đừng xé, Fry. Chị nó bảo nó vẽ đẹp lắm đấy.” Bởi vì hắn thích Jude sao? Giờ thì hầu như thằng nào cũng thích chị, bởi chị có thể lướt sóng cừ hơn bất cứ ai, chị thích nhảy từ vách đá xuống và chẳng sợ gì, kể cả lũ cá mập trắng khổng lồ hay là bố đi chăng nữa. Và bởi mái tóc của chị - tôi tô mòn hết cả màu vàng chỉ để vẽ mái tóc ấy. Mái tóc dài cả trăm dặm và tất cả người dân Bắc California đều lo sẽ bị mắc vào đó, đặc biệt là đám trẻ con, lũ chó lông xù và giờ là cả những tay lướt sóng đần độn nữa. Còn cả bộ ngực nữa, bộ ngực mà tôi thề rằng xuất hiện chớp nhoáng như được chuyển phát đến chỉ trong một đêm. Khó tin thay, Fry nghe theo lời Zephyr và thả cuốn sổ xuống. Từ cuốn sổ, Jude ngó lên nhìn tôi, tươi cười, thấu hiểu. Cảm ơn chị, tôi thầm nói với chị trong tâm trí. Chị vẫn luôn giải cứu tôi, thường thì việc đó khá là đáng xấu hổ, nhưng không phải hôm nay. Việc hôm nay là hoàn toàn chính đáng. (CHÂN DUNG, CHÂN DUNG TỰ HỌA: Cặp song sinh: Noah nhìn vào gương, bóng Jude phản chiếu lại) “Mày biết bọn tao chuẩn bị làm gì mày mà, phải không?” giọng Zephyr ken két bên tai tôi, trở lại với chế độ sát nhân được lập trình sẵn như thường lệ. Cái tôi của hắn đặc sệt trong từng hơi thở. Cái tôi ấy đè quá nặng trên cơ thể tôi. “Em xin các anh đấy,” tôi van nài. “Em xin các anh đấy,” Fry nhại lại bằng cái giọng giả gái the thé. Bụng tôi quặn lại. Vực Quỷ, vách đá cao thứ nhì trên ngọn đồi, nơi chúng định ném tôi xuống, mang cái tên ấy cũng là có lý do của nó. Bên dưới bờ vực là cả một bãi đá nhọn lởm chởm và một xoáy nước hiểm độc sẽ lôi bộ xương mục ruỗng của ta xuống tận âm ty địa phủ. Tôi cố thoát khỏi vòng tay Zephyr một lần nữa. Rồi một lần nữa. “Tóm lấy chân nó, Fry!” Cả ba tấn thịt hà mã của Fry lao tới chộp lấy mắt cá chân tôi. Xin lỗi nhưng chuyện này sẽ không xảy ra. Chỉ đơn giản là không. Tôi ghét nước, dễ là tôi sẽ chết đuối và trôi dạt tới tận châu Á lắm. Tôi cần hộp sọ của mình nguyên vẹn. Nghiền nát nó sẽ chẳng khác nào đem quả tạ đến đánh sập một viện bảo tàng bí mật trước khi bất cứ ai được thấy trong đó có gì.   Mời các bạn đón đọc Trao Em Mặt Trời của tác giả Jandy Nelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vịnh Tokyo - Anthony Grey
Tiểu thuyết lịch sử về các biến động tháng Bảy năm 1853, tàu chiến Mỹ làm chấn động nước Nhât, và gần đưa hai nứơc mỹ nhật tới chiến tranh *** Anthony Gray OBE là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, bao gồm một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. *** Nửa đêm, 7 tháng Bảy năm 1853 MỒ HÔI TRẮNG XOÁ TÚA RA TỪ LƯNG CON ngựa trạm gần như đang hấp hối khi chàng kị sĩ đội chiếc mũ trụ samurai thúc mạnh cựa giày vào nó và phóng như tên bắn vọt qua chiếc cầu vồng vắt qua vòng thành thứ ba phía trước toà thành trì đồ sộ của Shogun ở Yedo. Tới trước hàng lính gác mặc áo giáp chống giáo chắn ngang cánh cổng sắt nặng nề chàng kị sĩ hô vang: - Chokurei - da! Kinkyu Chokurei - da! Chàng rút ra từ dưới vạt áo chiến bào một cuộn giấy nhỏ được buộc bằng những sợi dây mạ vàng và giơ cao lên quá đầu. Những người lính gác đội mũ sắt mặc áo giáp bằng da và tre đã dợm chĩa mũi dáo về phía chàng, nhưng tiếng hô của chàng trai trẻ có vẻ là một samurai đã khiến họ dừng tay. Những lời chàng vừa hô là mật hiệu báo rằng chàng mang theo một "tin khẩn" do Hoàng đế gửi tới từ cung điện ẩn dật của Người ở Kyoto, cách Yedo ba trăm dặm về phía Tây nam. Và nữa, khi chàng đến gần hơn thì họ nhìn rõ ngôi sao sáu cánh, phù hiệu của thị tộc chàng được thêu bằng chỉ vàng trên vạt áo chiến bào jimbaory chỉ rõ rằng chàng là một nhà quý tộc ở đẳng cấp cao nhất. - Hayaku! Hayaku! Mau lên! Chàng khẩn thiết quát những tên lính gác đang lóng ngóng mở cổng và cố kìm con ngựa đang lảo đảo. Khe hở giữa hai cánh cổng vừa đủ rộng chàng đã thúc cho con ngựa chồm vọt qua hàng lính gác bên trong. Chàng dễ dàng vượt qua vài trạm gác nữa, mỗi lần lại hô vang và vung cao cuộn giấy, tận tới khi lên tới bậc thềm đá dẫn lên cửa chính của toà lâu đài. Đúng lúc chàng quăng người xuống khỏi yên thì con ngựa gục xuống, mép sùi bọt máu. Nhưng chàng samurai không hề liếc mắt nhìn lại, chàng nhảy vội lên bậc thềm đá, đôi song kiếm nhô ra khỏi tấm thắt lưng màu tro nhạt bó chặt lấy tấm kimono. Chàng giơ cuộn giấy có đóng triện của Hoàng đế cho viên chỉ huy đội vệ binh và ngay lập tức được đưa vào. Vừa đi vừa chạy, chàng vượt qua dãy hành lang lợp mái vòm cao, hai bên tường được dát toàn vàng lá. Nhảy ba bậc một, chàng đi sát vào bức tường trên có những hoạ tiết miêu tả cảnh những con chim huyền thoại đậu trên cành trúc và những rặng anh đào núi. Phía trên đầu, hàng xà gồ bằng gỗ được phủ lớp sơn mài hai màu đen và óng ánh vàng đỡ lấy mái vòm được trang trí tuyệt đẹp, nhưng chàng samurai trẻ tuổi chẳng hề liếc mắt đến tất cả những cái đó và chỉ dừng lại để hỏi những tên lính gác mặc đồng phục đứng dọc hành lang xem phải đi lối nào rồi lại hối hả bước đi. Khi đến trước cánh cửa của phòng Hội đồng Tướng quân, chàng tháo mũ trụ và rút cuộn giấy ra khỏi vạt áo chiến bào. Vẻ mặt khẩn cấp chàng trình bày với viên thị vệ trưởng của Hội đồng. Ngay sau đó chàng tháo zori và quỳ tiến vào trên đôi chân trần. Hàng trăm cặp mắt đổ dồn đầy dò hỏi khi chàng bước vào gian sảnh với vẻ mặt xanh tái. Tất cả bọn họ đều mặc những tấm áo daimyo rực rỡ, đó là những quận công đứng đầu các lãnh địa trên khắp đất nước Nhật Bản, tất cả bọn họ quỳ quanh một chiếc bệ cao đặt chính giữa. Shogun ngồi trên chiếc bệ đó. Các daimyo chỉnh tề trong bộ triều phục gồm áo choàng vai, quần lụa buông lá toạ, đầu đội mũ sơn mài sáng lấp lánh, họ kinh ngạc nhìn chàng quý tộc áo quần xộc xệch. Khi chàng phủ phục, đầu cúi xuống tận nền nhà họ mới nhìn thấy búi tóc trên đầu chàng cũng dính đầy bụi bặm và bê bết mồ hôi. Trước khi phủ phục chàng đã tháo hai thanh kiếm ra khỏi thắt lưng áo choàng và đặt chúng cùng chiếc mũ trụ xuống tâm tatami bên mình. Cũng giống như quần áo chàng, hai thanh kiếm cùng chiếc mũ trụ đều bê bết bùn đất. Shogun ngồi trên bục cao, im lặng nhìn và chờ đợi. Ông ngồi xếp bằng, tấm áo choàng bằng lụa xám khiến cho ông có dáng vẻ của Đức Phật. Mặc dù ông vẫn ngồi rất thẳng, nhưng gương mặt gầy của ông vẫn có một vẻ xanh xao khác thường và những giọt mồ hôi ướt đẫm trên trán cho thấy ông tựa như đang bị bệnh nặng. Sự xuất hiện đột ngột của chàng trai đang thở hổn hển kia đã gây nên một chớp nhoáng cảnh giác trong đôi mắt của Shogun, nhưng ông đã nhanh chóng lấy lại được vẻ bình thản và khẽ quay đầu lại. Tiếp nhận hiệu lệnh đó, một vị trong hàng các daimyo đang quỳ trước bệ bèn nhổm lên và cúi đầu xuống thật thấp hướng về phía Shogun. Rồi vẫn tiếp tục cúi đầu thật thấp ông ta lùi tiếp ra xa để người đưa tin trẻ tuổi có thể lách vào quỳ xuống và tự giới thiệu. - Tâu Đại Tướng quân, tôi là Tanaka Yoshio, hoàng tử thuộc thị tộc Kago, tỉnh Kumatore - Chàng samurai nói giọng sang sảng - Tôi được uỷ nhiệm mang tới trình Đại Tướng quân một tin thượng khẩn từ Đức Đại Hoàng đế ở Kyoto. Mời các bạn đón đọc Vịnh Tokyo của tác giả Anthony Grey.
Chậm Rãi - Milan Kundera
Chúng tôi nảy ra ý muốn nghỉ chiều và qua đêm tại lâu đài. Nhiều lâu đài ở Pháp đã biến thành khách sạn: một vùng cây cối lọt thỏm trong một vùng không gian trơ trụi, khô cằn; một khoảng nhỏ để đi dạo với chim muông, cây cỏ giữa một hệ thống đường cao tốc rộng lớn. Tôi đang lái xe, qua tấm kính hậu tôi nhận thấy một chiếc xe con chạy phía sau. Ngọn đèn nhỏ bên trái nhấp nháy, cả chiếc xe phả ra những làn sóng nôn nóng. Người tài xế đang tìm cơ hội để vượt qua tôi; anh ta quan sát lựa thời cơ giống như một con diều hâu lựa lúc lao xuống chụp con chim sẻ. Véra, vợ tôi, nói với tôi: “Cứ năm mươi phút lại có một người chết vì tai nạn giao thông ở Pháp. Nhìn mà xem, tất cả cái đám đông điên cuồng đang quay lượn quanh chúng ta. Đó cũng chính là những người đã tỏ ra thận trọng kinh khủng khi có một bà già bị móc túi ngay trước mặt họ ở trên phố. Làm sao họ lại không cảm thấy sợ hãi khi ngồi sau tay lái?” Tôi biết nói gì đây? Có thể là thế này: con người đang cúi gập mình trên chiếc xe máy chỉ có thể tập trung chú ý vào khoảnh khắc hiện tại anh ta đang lao xe đi; anh ta bị buộc chặt vào mảng thời gian bị cắt rời khỏi cả quá khứ và tương lai; anh ta bị dứt tung khỏi dòng chảy liên tục của thời gian; anh ta ở ngoài thời gian; nói cách khác, lúc đó anh ta đang trong trạng thái xuất thần, ở trạng thái đó anh ta không còn biết gì đến tuổi tác, vợ con, những nỗi âu lo của mình nữa cả, thế nên anh ta không thấy sợ, bởi vì nguồn gốc nỗi sợ là ở phía trước, phía tương lai, mà một người đã thoát khỏi tương lai thì không có gì phải sợ. Tốc độ là một hình thức xuất thần mà cuộc cách mạng kỹ thuật đã tặng cho con người. Ngược lại với người đi xe máy, người chạy bộ luôn luôn hiện diện trong cơ thể anh ta, buộc phải không ngừng nghĩ xem mình đã phồng chân, kiệt sức chưa; trong khi chạy anh ta cảm thấy trọng lượng, tuổi tác của mình, ý thức hơn bao giờ hết về bản thân và thời gian sống của mình. Mọi chuyện sẽ thay đổi khi con người giao phó khả năng tốc độ cho máy móc: kể từ khi đó, cơ thể riêng của anh ta bị đặt ra ngoài quá trình vận động, anh ta hiến mình cho cái tốc độ phi cơ thể, phi vật chất, tốc độ thuần túy, tốc độ tự nó, tốc độ xuất thần. *** Milan Kundera (sinh 1/4/1929 tại Brno, Cộng hòa Czech, định cư tại Pháp từ 1975) là một nhà văn lớn thế kỷ XX, một nhà tiểu thuyết có lối viết độc đáo, khác lạ. Tác phẩm của ông đã vào Việt Nam từ cuối thập niên 1990.  Tiểu thuyết “Sự bất tử” do tôi dịch đã đăng ở số 1 (1996) tạp chí “Văn học nước ngoài” của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1999 tiểu thuyết này cùng hai tiểu thuyết khác của Milan Kundera (“Chậm rãi”, “Bản nguyên”) cũng do tôi dịch đã được in thành sách dày 766 trang (Nxb Văn Học & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây).  Nhà văn Nguyên Ngọc đã dịch của Milan Kundera ba tập tiểu luận - “Nghệ thuật tiểu thuyết” (1998), “Những di chúc bị phản bội” (2001), “Một cuộc gặp gỡ” (2013) và một tiểu thuyết - “Lễ hội của vô nghĩa” (2015).  Dịch giả Cao Việt Dũng đã dịch của Milan Kundera ba tiểu thuyết – “Cuộc sống không ở đây” (2003), “Điệu valse giã từ” (2004), “Vô tri” (2010), một tập truyện ngắn – “Những mối tình nực cười” (2009) và một tập tiểu luận – “Màn” (2014).  Dịch giả Trịnh Y Thư ở Mỹ đã dịch của Milan Kundera tiểu thuyết “Đời nhẹ khôn kham” (2002), cuốn này vừa được in trong nước đầu 2018. Hôm nay, sau đúng hai mươi năm ra sách lần đầu, tôi đón nhận bản dịch “Sự bất tử” (496 trang) tái bản. Hai cuốn còn lại (“Chậm rãi” và “Bản nguyên”) sắp tới cũng sẽ ra lại. Cả ba cuốn này đều do Nhã Nam làm.  Nhà văn Nguyên Ngọc cho biết ba cuốn tiểu luận của Milan Kundera ông dịch cũng đang được công ty sách Bảo An Books xúc tiến tái bản. Các tác phẩm của tác giả Milan Kundera: Đời Nhẹ Khôn Kham Vô Tri Cuộc Hội Thảo Điệu Valse Giã Từ Những Di Chúc Bị Phản Bội Sẽ Không Ai Cười Chậm Rãi Sự Bất Tử Lễ Hội Của Vô Nghĩa Màn Một Cuộc Gặp Gỡ ... Mời các bạn đón đọc Chậm Rãi của tác giả Milan Kundera.
Bỏ Vợ - Hồ Biểu Chánh
Ông Ba Chánh năm nay vừa quá 50 tuổi, tóc đã bạc hoa râm, nhưng răng còn chắc chắn, sức còn mạnh mẽ. Ông goá vợ đã hơn 6 năm rồi. Trong nhà chỉ có một đứa con gái, là cô Huyền, được 21 tuổi. Ông quen với thầy Thanh, nhà ở một xóm, mà làm việc dưới Sài Gòn, thường hay tới lui đàm luận với nhau chơi. Cách vài năm trước, vì thầy Thanh làm mai nói dẻo dai quá, nên ông mới gã cô Huyền cho thầy Võ Như Bình, người mồ côi, gốc ở đâu dưới Hậu Giang, thi đậu bằng thành chung rồi làm việc trong một hãng buôn dưới Sài Gòn. Ông nghĩ thầy Bình thân phận côi cút lại là người có học thức, nên gả con ông cũng không đòi hỏi vật chi hết, đám cưới làm sơ sài, mời năm ba người quen đến ăn uống một bữa mà thôi, mà cũng không cần rước Chánh lục bộ đến lập hôn thú. Từ ngày cưới rồi thì thầy Bình về ở theo bên vợ. Thầy có sắm một cái xe máy, để mỗi buổi sớm mai thầy đạp đi xuống Sài Gòn làm việc, trưa thầy ăn cơm quán và ở nghỉ tạm tại nhà của người làm chung một hãng, đến chiều tối thầy mới về Chí Hòa. Thầy Bình ở với cô Huyền đã sanh được một chút con trai, đặt tên là Nghiệp, mới 10 tháng mà sổ sữa, ngộ nghĩnh, chẳm hẳm lắm... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Bỏ Chồng - Hồ Biểu Chánh
Qua tháng mười một, mùa mưa đã dứt rồi, lại có ngọn gió bấc thổi lao rao. Buổi chiều, ở Sài Gòn, khí trời mát mẻ, làm cho con người từ trẻ chí già đều khỏe khoắn trong mình, nên đi ngoài đường ai cũng lộ cái vẻ hớn hở tươi cười. Thế mà, Chí Thiện, năm nay đã được 28 tuổi, làm thơ ký toán cho một hãng buôn lớn tại đường Kinh Lấp, đúng 7 giờ tối, thầy ở trong hãng bước ra, bộ đi chậm rãi, mặt mày buồn hiu, dường như thầy tiếc rẻ hãng đóng cửa sớm không cho thầy làm việc thêm nữa. Tay ôm một cuốn sách với một tờ nhựt báo, thầy thủng thẳng đi lại đường Pelerin đón xe autobus mà về Đa Kao. Bước lên xe thầy ngồi dưới ngọn đèn điện sáng trưng, mở tờ nhựt báo ra mà xem, không ngó kẻ qua người lại hai bên đường, mà cũng không để ý đến những kẻ đi trên xe. Tới Đa Kao xe ngừng, thầy xếp tờ nhựt trình rồi bước xuống tránh xe kéo, xe máy mà quẹo lên đường Paul Bert. Gần tới căn phố chỗ thầy ở, thầy thấy con Sáu, là đứa con gái, đương đứng dựa cột điện mà chơi với con thầy, tên con Yến, năm nay đã được 6 tuổi. Bấy giờ thầy mới xăn bước, đi riết lại. Con Yến kêu “ba” rồi chạy đón, ôm bắp vế thầy. Thầy cuối xuống, ôm mặt con mà hun, đưa cuốn sách với tờ nhựt báo cho con cầm, rồi nắm tay dắt con đi vô nhà. Trong nhà đèn sáng trưng, nhưng từ trước ra sau đều vắng hoe, không nghe tiếng, không thấy dạng một người nào hết. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Chồng của tác giả Hồ Biểu Chánh.