Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quả Chuông Ác Mộng

Khi nhìn vào sự điên rồ của thế giới và thế giới của sự điên rồ, chúng ta luôn phải đối diện với câu hỏi: “Thực tại là gì và làm thế nào để chấp nhận nó?” Trong Quả chuông ác mộng, áp lực thực tại đã hủy hoại hoàn toàn Esther Greenwood xinh đẹp và tài năng, đẩy cô vào thế giới trầm cảm, chênh vênh giữa biên cảnh của khát vọng sống và ham muốn chết. Tự tử, một trò chơi u tối khó cưỡng của sợ hãi và tội lỗi, gây nghiện như ma túy, ban đầu chỉ mang tính thử nghiệm - nay vài giọt máu, mai một cơn nghẹt thở, chỉ cốt để xem cảm giác ấy ra sao. Dần dà, nó nhanh chóng bùng phát thành khát vọng điên cuồng của niềm tự diệt *** Đã 56 năm kể từ ngày nữ thi sĩ - nhà văn người Mỹ Sylvia Plath cho ra đời cuốn tiểu thuyết định mệnh Quả chuông ác mộng , một tác phẩm bán tự truyện được phát hành trước vụ tự sát của chính cô chưa đầy một tháng khiến nó mang một màu sắc dự báo đầy ám ảnh. Vì lo sợ cuốn tiểu thuyết có thể tác động tới đời sống của các nhân vật ở ngoài đời, nhà văn ban đầu đã xuất bản Quả chuông ác mộng dưới nghệ danh Victoria Lucas; và phải bốn năm sau cái chết của cô cuốn sách mới được tái bản dưới đích danh Sylvia Plath. Kể từ đó, Quả chuông ác mộng lập tức gây chấn động trong giới độc giả, bán được hàng triệu bản trên khắp nước Mỹ và được đưa vào chương trình giảng dạy phổ thông ở nhiều nơi trên thế giới. Câu chuyện kể về Esther Greenwood, một cô gái trẻ dường như đang đứng trước tương lai trải hoa hồng với công việc thực tập tại một tạp chí danh giá ở New York (Mỹ). Tuy nhiên với bao nỗi lo lắng sợ hãi về vai trò được đòi hỏi ở bản thân đối với gia đình và sự nghiệp, Esther ngày càng cảm thấy bị cô lập khỏi thế giới bên ngoài và dần đánh mất mọi hứng thú và hi vọng, cũng như khả năng thực hiện những nhiệm vụ đơn giản trong cuộc sống thường ngày. Cô bỏ học, bắt đầu tìm cách tự sát, và bị đưa đi chữa trị ở nhiều nhà thương điên. Những sự kiện chính trong truyện đều được rút ra từ chính cuộc đời của nữ nhà văn - công việc biên tập khắc nghiệt tại một nhà xuất bản có tiếng ở New York, ám ảnh tự sát, và những trải nghiệm chữa trị bằng sốc điện thiếu quy chuẩn. Khoảng gần mười năm trước khi sáng tác Quả chuông ác mộng, trong một lá thư gửi người bạn thân Sylvia Plath đã bộc bạch về cuộc vật lộn của mình với chứng trầm cảm: “Cái cách tôi quẩn quanh suốt cuộc đời mình trong bầu không khí loãng thếch dưới quả chuông này quả là khó tin". Quả chuông ác mộng được Công ty cổ phần Sách Tao Đàn và NXB Hội Nhà Văn xuất bản tháng 7.2019 Cả trước và sau Quả chuông ác mộng, hiếm có cuốn sách nào phơi bày những bằng chứng đích xác như thế về bản chất của bệnh tâm thần. Từ đầu truyện, trạng thái cách ly của Esther khỏi thực tại thể hiện rất rõ qua cách cô đón nhận các tác động ngoại lai rất bị động: “Bất chợt tôi cảm nhận được mặt đất dâng lên và đập vào mình. Bùn trào qua kẽ ngón tay...”. Đặc biệt ám ảnh là mỗi khi Esther nhìn vào gương, cô lại thấy hình ảnh ánh xạ kia như một cá thể tách biệt và vô hồn: “Khuôn mặt đang nhìn tôi trong gương giống như đang nhìn qua lưới sắt của phòng giam sau khi bị tra tấn lâu ngày”; “Trong gương phản chiếu hình ảnh tôi với đôi cánh trắng, tóc buộc đuôi ngựa, tái nhợt như hồn ma bồng bềnh giữa khung cảnh bên ngoài”. Plath gọi những cảm xúc này là bị nhốt bên trong một “quả chuông” - biểu tượng cho sự cô lập; chúng mạnh đến mức người ngồi bên trong cảm thấy bất lực trước bất kỳ một quyết định hay nhiệm vụ đơn giản nào của cuộc tồn sinh. Trên thực tế, vào những tháng cuối đời, bệnh trầm cảm đã khiến cho Sylvia Plath không còn khả năng sáng tác bất cứ thứ gì và đẩy cô vào trạng thái bất lực đến điên loạn. Cuối cùng cô đã chọn cách tự sát bằng hơi ga và không may mắn như Esther Greenwood trong sách, Sylvia Plath không bao giờ trở lại cuộc sống đời thường được nữa. Thế nhưng chụp lên quả chuông tâm lý là một quả chuông khổng lồ hơn mang tính xã hội. Phụ nữ Mỹ thời hậu Thế chiến thứ hai, giai đoạn đánh dấu bùng nổ dân số và chủ nghĩa tiêu thụ, được đóng khung trong quan niệm cô ta chỉ có thể trở thành một người phụ nữ đáng mơ ước trong vai trò vợ hiền, mẹ đảm, và phục sức những thứ đồ đắt tiền. Trái ngược với đàn ông, người có thể cùng lúc theo đuổi đam mê, thăng tiến trong sự nghiệp lẫn làm chủ một gia đình thì người phụ nữ chỉ có thể chọn một con đường cho chính mình. Đây chính là chỗ thế giới quan của Sylvia Plath mâu thuẫn với thực trạng xã hội, một phụ nữ đã hình thành tư tưởng nữ quyền từ rất sớm trước khi phong trào nữ quyền của thế kỷ 20 thực sự phổ biến rộng rãi. Trong Quả chuông ác mộng, Sylvia Plath đã gói gọn tư tưởng của mình trong hình ảnh ẩn dụ về cây vả: “Tôi thấy đời mình đang đâm cành trổ nhánh như cây vả xanh tươi trong truyện ngắn đã đọc. Ở đầu mỗi cành, như một trái vả tím mọng, một tương lai tươi sáng đang lấp lánh chào đón tôi. Trái đầu tiên là một người chồng, ngôi nhà và những đứa trẻ, một trái khác là thi sĩ nổi danh, một trái khác nữa là giáo sư kiệt xuất [...] Rồi trên cao, vượt lên những trái vả này là những trái khác mà tôi không thể nào nhận ra. Tôi thấy chính mình đang ngồi trên chạc của cây vả này, người đói lả, chỉ vì không thể quyết định mình sẽ chọn trái nào. Trái nào trong số đó tôi cũng muốn, nhưng chọn một trái nghĩa là bỏ lỡ số còn lại, thế nên tôi ngồi trơ đó, băn khoăn chọn lựa, rồi những trái vả bắt đầu nhăn nheo sạm màu, từng trái, từng trái một rụng rơi xuống chân tôi". Bên cạnh đó, Sylvia Plath còn đưa vào Quả chuông ác mộng yếu tố đồng tính nữ như một phản ứng trước sự thống trị của nam giới. Trong truyện, nhân vật Joan Gilling cũng từng hẹn hò với Buddy Willard, bạn trai cũ của Esther Greenwood. Tuy nhiên về cuối tác giả hé lộ Joan là lesbian và giống như Esther, cô chưa bao giờ thực sự thích Buddy Willard. Yếu tố nữ quyền thể hiện rất rõ khi từ đầu câu chuyện, cả Esther lẫn Joan đều từng đụng độ với những gã đàn ông đểu cáng, hung bạo, ve vãn, thì đến cuối truyện, họ đều được bàn tay hiền hậu của phụ nữ che chở, và Joan thậm chí sinh tình cảm với Esther hay với nữ bệnh nhân Dee Dee: “Một người đàn bà tìm thấy điều gì ở một người đàn bà khác mà cô ta không thấy ở đàn ông? Bác sĩ Nolan ngập ngừng. Rồi bà nói: Sự dịu hiền”. Đối với người ở trong quả chuông thủy tinh, trống rỗng và ngưng đọng như một đứa bé chết non, bản thân thế giới là một cơn ác mộng. Sylvia Plath đã sống giữa cơn ác mộng ấy trong 30 năm ngắn ngủi của đời cô và trút hết những nỗi trăn trở miên trường vào tiểu thuyết duy nhất cô từng viết. Không chỉ dẫn ta đi sâu vào những góc khuất tối tăm của bệnh trầm cảm, Quả chuông ác mộng còn là tâm sự của một phụ nữ với tầm tư tưởng vượt trước thời đại, là tuyên ngôn mạnh mẽ về nữ quyền ngày càng có giá trị giữa thời nay. *** Đó là một mùa hè dị thường, ngột ngạt và oi bức, mùa hè mà người ta đưa vợ chồng nhà Rosenberg lên ghế điện, còn tôi thì chẳng biết mình đang làm gì ở New York nữa. Tôi mù tịt về những vụ hành hình. Ý nghĩ phải lên ghế điện làm tôi phát ốm, nhưng đó là tất cả những gì có thể đọc được từ những tiêu đề giật gân trên báo chí cứ đập vào mắt tôi nơi các góc phố và ở mỗi lối xuống ga tàu điện ngầm ẩm mốc bốc mùi đậu phộng. Chúng chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng tôi không thể không tự hỏi sẽ như thế nào khi các dây thần kinh bị thiêu sống. Tôi nghĩ đó hẳn là điều kinh khủng nhất trần đời. New York quả thực tồi tệ. Tầm 9 giờ sáng, sự tươi mát ẩm ướt giả tạo rỉ ra trong đêm đã tan biến như đoạn kết của một giấc mơ ngọt ngào. Chỉ còn lại vẻ xám xịt dưới đáy các thung lũng hoa cương, những con đường nóng rẫy loang loáng dưới ánh mặt trời, những mui xe kêu ri rỉ và lấp lánh sáng, bụi khô như than đỏ đâm vào mắt, tràn vào tận họng. Tôi vẫn tiếp tục nghe về nhà Rosenberg trên radio nhiều đến nỗi khi ở văn phòng làm việc tôi không thể dứt bỏ nó ra khỏi tâm trí. Cũng giống như lần đầu tiên tôi nhìn thấy xác chết. Nhiều tuần sau, cái đầu thi thể - hay đúng hơn là những gì còn sót lại của nó - cứ lềnh bềnh lên món trứng và thịt nguội trong bữa sáng và đằng sau là gương mặt của Buddy Willard, người phải chịu trách nhiệm vì đã chỉ cho tôi thấy nó đầu tiên. Ngay sau đó, tôi cảm thấy như lúc nào cũng phải mang bên mình cái đầu lâu lơ lửng trên một sợi dây, tựa như một quả bong bóng màu đen không có mũi, hôi mùi giấm. (Tôi biết mình có gì đó không ổn vào mùa hè ấy, bởi lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ tới vụ án nhà Rosenberg và tôi ngu ngốc hết mức khi mua một lô quần áo đắt tiền, nhưng không chút tiện dụng nào chỉ để treo đầy tủ, và tất cả những thành công nho nhỏ mà tôi đã hạnh phúc khi gặt hái được ở trường trở nên vô nghĩa hoàn toàn khi đứng trước những cửa hiệu bằng đá cẩm thạch và kính, dọc theo đại lộ Madison.) Tôi phải tận hưởng thời khắc đẹp đẽ của cuộc đời. Tôi phải trở thành đối tượng ghen tị của hàng ngàn nữ sinh viên đại học ở khắp nước Mỹ, những cô gái không có mong muốn gì hơn là được dạo chơi với đôi giày da bóng cỡ số bảy mà tôi đã mua ở hiệu Bloomingdale nhân một lần đi ăn trưa, cùng với chiếc thắt lưng và túi xách đồng màu da đen bóng. Rồi khi ảnh tôi xuất hiện trên tờ tạp chí, nơi mười hai đứa chúng tôi đang làm việc, uống martini ở Starlight Roof, mình mặc áo yếm lấp lánh ánh kim cùng chiếc váy phồng bằng vải tulle trắng, được vây quanh bởi nhóm thanh niên xa lạ với cấu trúc xương kiểu Mỹ, thuê riêng cho những dịp thế này - hẳn mọi người sẽ cho rằng tôi đang quay cuồng thực sự. Họ sẽ bảo, hãy nhìn xem cái gì đang xảy ra ở cái đất nước này. Một cô gái tỉnh lẻ sống ở vùng sâu vùng xa nào đó suốt mười chín năm trời, nghèo đến nỗi không mua nổi một tờ tạp chí, đột nhiên nhận được một học bổng đại học, rồi giành hết giải thưởng này sang giải thưởng khác, và tạo ảnh hưởng ở New York ngon lành như thể lái chiếc xe riêng của mình vậy. Chỉ có điều tôi chẳng lái cái gì cả, kể cả bản thân mình. Tôi chỉ đi từ khách sạn đến nơi làm việc hoặc các bữa tiệc, rồi lại từ các bữa tiệc trở về khách sạn và tiếp tục đi làm như một chiếc xe điện tê cóng. Tôi nghĩ mình cũng có thể bị kích động như phần lớn những cô gái khác, nhưng tôi không thể tự phản ứng lại được. Tôi cảm thấy rất bình yên và trống trải tựa như mắt bão khi di chuyển một cách chậm chạp giữa tiếng mưa gào gió thét xung quanh. Mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn. Chúng tôi vừa đoạt giải trong kỳ thi do một tạp chí thời trang tổ chức dự thi những bài luận, truyện ngắn, thơ và quảng cáo thời trang. Giải thưởng là một công việc ở New York trong vòng một tháng, mọi chi phí đều đã được đài thọ, thêm vào đó là hàng lô hàng lốc những món thưởng khác: vé ba lê, xem trình diễn thời trang, làm tóc tại một tiệm danh tiếng và cơ hội gặp được những người thành đạt trong lĩnh vực mà chúng tôi mơ ước, để nhận được những lời khuyên thích hợp với mình. Tôi vẫn còn giữ cái hộp trang điểm mà họ đã tặng, vốn hợp với một cô nàng mắt nâu tóc vàng: một lọ mascara màu nâu với bàn chải nhỏ xíu, một ô phấn mắt màu xanh hình tròn chỉ vừa đủ lớn bằng đầu ngón tay, và ba thỏi son môi từ đỏ đến hồng, tất cả đều đặt trong một cái hộp nhỏ mạ vàng, mặt trong có kèm gương. Tôi cũng có một cái hộp đựng kính mát bằng nhựa trắng, được khảm xà cừ đủ màu và đính một con sao biển bằng nhựa màu xanh lá cây. Tôi nhận ra rằng việc trao tặng những món quà này chính là cách quảng cáo miễn phí của các doanh nghiệp, nhưng tôi không thể không giữ chúng. Tôi từng hất văng tất cả những món quà trong tầm tay. Suốt một thời gian dài, tôi giấu biệt chúng đi, nhưng rồi khi bình tâm lại, tôi lôi chúng ra và bày khắp nhà. Đôi khi tôi dùng son môi, và mới tuần trước tôi đã cắt con sao biển bằng nhựa khỏi bao kính để làm đồ chơi cho một đứa bé. Cả bọn mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn, cùng một bên dãy ở cùng một tầng gồm các phòng đơn. Phòng nọ kế tiếp phòng kia làm cho tôi nhớ đến các phòng ở ký túc xá. Đây không phải là một khách sạn đúng nghĩa - tôi muốn nói đến khách sạn mà đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn trên cùng một tầng. Khách sạn Amazon này chỉ dành cho phái nữ, phần lớn là những cô gái cùng lứa tuổi tôi, gia cảnh giàu có, mong ước cho con gái mình sống ở một nơi mà bọn đàn ông không thể lui tới và lừa dối được: tất cả bọn họ đều theo học những trường sang trọng chuyên đào tạo thư ký như Katy Gibbs, nơi họ phải mang mũ, tất dài và găng tay đến lớp; hoặc những người vừa tốt nghiệp các trường như Katy Gibbs và trở thành thư ký cho các ủy viên cao cấp, và cứ quanh quẩn ở New York mong tìm được một anh chàng thành đạt nào đó để kết hôn. Với tôi, những cô gái này buồn tẻ một cách khủng khiếp. Tôi thấy họ nằm phơi nắng, vừa ngáp vừa sơn móng tay và cố giữ cho làn da Bermuda rám nắng, nom họ nhạt nhẽo chết đi được. Tôi lân la tán chuyện với một người trong đám, cô nàng cho biết đã chán ngấy những chiếc thuyền buồm, chán ngấy những chuyến du hành bằng máy bay, và cả việc đi trượt tuyết ở Thụy Sĩ vào dịp Giáng sinh lẫn cánh đàn ông ở Brazil nữa. Đám con gái đó làm tôi phát ốm. Họ khiến tôi ghen tỵ nhưng không dám nói thành lời. Mười chín tuổi đầu, tôi chưa từng bước chân ra khỏi New England trừ chuyến đi New York này. Đây là cơ hội lớn đầu tiên của tôi, thế nhưng giờ đây, nó đang như những giọt nước dần dần trôi tuột qua kẽ tay. Tôi nghĩ một trong những phiền nhiễu của tôi chính là Doreen. Tôi chưa từng quen một đứa con gái nào như Doreen. Cô nàng tới từ một trường nữ sinh dành cho giới thượng lưu ở miền Nam. Cô có mái tóc bạch kim bồng bềnh như một cây kẹo bông quanh đầu, cặp mắt xanh như hai viên mã não trong trẻo, cô cứng cỏi, thanh lịch và ương ngạnh, nụ cười giễu cợt luôn nhếch trên môi. Tôi không cho rằng đó là sự cay độc, mà là kiểu giễu nhại, pha chút thần bí, như thể tất cả mọi người xung quanh đều ngốc nghếch và cô ta có thể buông lời bỡn cợt họ bất cứ lúc nào. Doreen để mắt tới tôi ngay lập tức. Cô làm tôi cảm thấy mình sắc sảo hơn mọi người, còn cô lại là con người rất hài hước. Doreen thường ngồi cạnh tôi mỗi lần hội họp và khi những vị khách danh tiếng tới thăm phát biểu, cô ta thì thầm vào tai tôi mấy lời nhận xét châm chọc tếu táo. Cô ta bảo với tôi rằng trường của cô ta rất chú trọng chuyện thời trang. Tất cả nữ sinh phải có túi xách may cùng một loại với quần áo, thành thử mỗi lần thay đồ lại phải đổi túi xách cho phù hợp. Kiểu chi tiết tỉ mỉ này khiến tôi rất ấn tượng. Nó biểu thị một cuộc sống tuyệt diệu, xa hoa mà suy đồi, và thu hút tôi như một thanh nam châm. Lần duy nhất mà Doreen hoạch họe tôi là về chuyện hoàn thành công việc đúng thời hạn. “Cậu đổ mồ hôi cho việc đó làm gì?” Doreen hỏi, cô nàng mặc nguyên bộ đồ bằng tơ màu hồng đào ngả ngốn trên giường tôi, lấy một miếng giấy ráp giũa những móng tay dài vàng khè vì nicotin, trong khi tôi đánh máy lại bài phỏng vấn một tiểu thuyết gia thuộc dạng best-seller. Đó lại là chuyện khác - còn thường thì chúng tôi khoác những bộ quần áo ngủ mùa hè bằng vải bông và áo choàng mặc ở nhà, hoặc có thể là những loại áo dài bằng vải kiểu mặc ngoài bãi biển. Duy có Doreen mới mặc những loại áo cực mỏng hay bằng ren gần như trong suốt, hoặc váy áo màu da, khiến người cô lúc nào cũng lách tách tình điện. Ở cô có một điểm thú vị nữa là luôn phảng phất một mùi mồ hôi hấp dẫn gợi tôi nhớ tới mùi hương khi ta vò nát những chiếc lá dương xỉ hình quạt giữa các ngón tay. “Cậu nên biết mụ Jay Cee sẽ không nổi điên lên nếu cậu gác câu chuyện này đến mai hoặc thứ Hai đâu.” Doreen châm một điếu thuốc và nhả khói chầm chậm qua lỗ mũi, khiến đôi mắt cô trở nên mơ hồ. “Mụ Jay Cee xấu như quỷ,” Doreen lạnh lùng nói tiếp. “Mình dám cá là lão chồng già của mụ phải tắt hết đèn trước khi gần gũi mụ, bằng không lão sẽ phát nôn ngay.” Jay Cee là sếp của tôi, và tôi rất quý bà, bất kể Doreen có nói gì đi nữa. Bà không phải là loại người phù phiếm vẫn thường thấy trên các tạp chí thời trang với hàng lông mi giả và đồ trang sức hào nhoáng. Jay Cee là người có đầu óc, nên vẻ xấu xí của bà xem ra chẳng có gì hệ trọng cả. Bà nói được vài thứ tiếng và biết rõ những tay viết cứng cựa trong nghề. Tôi cố hình dung ra cảnh bà Jay Cee cởi bộ đồng phục cứng nhắc cùng chiếc mũ dự tiệc, lên giường với lão chồng béo ị của bà, nhưng không tài nào hình dung được. Tôi luôn luôn rất khó khăn khi phải tưởng tượng ra cảnh người ta đang ngủ với nhau. Jay Cee luôn muốn dạy dỗ tôi, tất cả những bà lớn tuổi khác mà tôi quen biết đều như vậy, nhưng tôi cho rằng họ chẳng có điều gì để chỉ bảo tôi cả. Tôi đóng nắp máy chữ rồi khóa lại. Doreen cười nhăn nhở: “Thông minh đấy!” Chợt có tiếng gõ cửa. “Ai đấy?” Tôi không buồn đứng dậy. “Betsy đây. Cậu có đi dự tiệc không?” “Chắc có đấy.” Tôi vẫn không ra mở cửa. Betsy được đưa thẳng từ Kansas về đây cùng mái tóc hoe vàng tết kiểu đuôi ngựa và nụ cười kiểu những cô nàng thiện tâm. Tôi nhớ một lần hai đứa chúng tôi được mời tới văn phòng của một đạo diễn truyền hình mặc bộ đồ sọc, để xem thử có góc độ nào nơi chúng tôi khả dĩ phù hợp với một chương trình của ông không. Và Betsy bắt đầu nói về loại ngô đực ngô cái ở Kansas. Cô nàng hào hứng với thứ ngô chết tiệt này đến mức nhà đạo diễn phải rưng rưng mắt lệ, nhưng sau đó ông ta nói rằng lấy làm tiếc bởi chẳng có gì hữu dụng cả. Sau này, người phụ trách thẩm mỹ thuyết phục Betsy cắt tóc và cho cô nàng lên bìa báo, tôi thi thoảng còn thấy khuôn mặt của cô đang tươi cười trên mẫu quảng cáo “Vợ của P.Q mặc đồ nhà B.H. Wragge.” Betsy lúc nào cũng rủ tôi làm việc cùng cô và vài cô nàng khác nữa, cứ như thể đang cố cứu vớt tôi không bằng. Cô chẳng bao giờ rủ Doreen cả. Doreen lén gọi riêng với tôi là con nhỏ cao bồi Pollyanna. “Cậu có muốn đi cùng taxi với bọn tớ không?” Betsy hỏi vọng vào. Doreen lắc đầu. “Được rồi, Betsy.” Tôi nói. “Tớ sẽ đi cùng với Doreen.” “Ừ!” Tôi nghe tiếng Betsy đi xuống đại sảnh. “Tụi mình ghé qua một lát, khi nào oải quá thì về.” Doreen bảo tôi, dụi tắt điếu thuốc lá vào đế cây đèn đọc. “Rồi tụi mình xuống phố. Những buổi tiệc tùng ở đây làm mình nhớ lại những lần khiêu vũ trong phòng thể chất ở trường. Tại sao chúng nó cứ phải bám lấy bọn Yale? Chúng ngốc bỏ xừ!” Mời các bạn đón đọc Quả Chuông Ác Mộng của tác giả  Sylvia Plath & Trần Quế Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhím Thanh Lịch - Muriel Barbery
Câu chuyện được dẫn dắt bởi hai giọng kể. Renée, năm mươi tư tuổi, gác cổng cho một tòa nhà sang trọng tại quận VII Paris, người đã sử dụng nghề nghiệp của mình như một lớp vỏ bọc: “góa chồng, người thấp, xấu xí, béo tròn”, bà xây dựng một hình mẫu hài hước về nghề này để “gìn giữ” tốt hơn đam mê bác học của mình với phim của Ozu, những nhân vật của Tolstoi và tranh tĩnh vật Hà Lan.   Sóng đôi với bà Michel, tâm hồn đồng cảm bất ngờ với bà, đó là Paloma, một cô bé mười hai tuổi, đặc biệt thông minh và bất hạnh. Cô bé đã thấy được sự phi lý của cuộc sống, của những người thân của cô: cô chị học sư phạm, bà mẹ chuyên uống thuốc chống trầm cảm, ông bố có chút hèn nhát. Paloma đự định sẽ tự tử vào ngày sinh nhật lần thứ mười ba và trong khi chờ đợi, cô ghi lại những “suy nghĩ sâu” cũng như kiếm tìm một cái gì đó “đáng để sống”.   Tâm hồn thuần khiết nhưng đầu óc cay độc, hai con người cô đơn này tìm kiếm những khoảnh khắc của cái đẹp trong thế giới tư sản thu nhỏ nghẹt thở bởi những thành kiến.   Nhím thanh lịch giỡn chơi với những nghịch lý nhờ những nhân vật kín đáo nhưng gây ngạc nhiên. Hài hước. Sâu sắc. Nhạy cảm. Triết lý. Ngay từ phần mở đầu, chúng ta sẽ khám phá ra một trong những ý tưởng chủ đạo của tác phẩm: “ảo tưởng lớn và phổ biến cho rằng ý nghĩa của cuộc sống dễ dàng được nhận ra”. *** Lọt vào danh sách best-seller trong khi vẫn theo đuổi lối viết thanh lịch, sâu sắc và giàu tính triết lý không phải là điều nhiều nhà văn làm được. Bởi sự song hành giữa hai thuật ngữ sách bán chạy và văn phong thị trường đôi khi là một thách thức với người cầm bút trên con đường tìm kiếm một phong cách riêng. Muriel Barbery, nữ nhà văn Pháp đã phần nào đạt được điều đó với cuốn tiểu thuyết thứ hai của mình: Nhím thanh lịch. Tác phẩm đứng đầu danh sách những cuốn sách bán chạy của Pháp trong 102 tuần liên tiếp kể từ khi xuất bản hồi tháng 9.2006, sau đó giành giải thưởng của Hiệp hội các nhà sách Pháp, được dịch ra sáu thứ tiếng và hiện đang được chuyển thể thành phim. Tại Hàn Quốc và Ý, cuốn sách được độc giả chào đón nồng nhiệt và say mê. Giờ đây, với bản Anh ngữ phát hành ngày 7.9 qua, Nhím thanh lịch đang theo đuổi tham vọng vốn rất khó đạt được đối với giới tiểu thuyết gia đương đại Pháp: chinh phục độc giả Mỹ. Barbery cũng thừa nhận thách thức này, “nhưng cứ xem những gì cuốn sách gặt hái được cho tới nay, tôi nghĩ mình sẵn sàng tin mọi chuyện đều có thể”, cô cho biết.  Chỉ hai năm trước, Barbery (hiện 39 tuổi) còn là giảng viên dạy triết ở vùng Normandy thuộc miền bắc nước Pháp, người mà những trang viết hư cấu trong thời gian rảnh rỗi đã làm nên một tác phẩm khá thành công năm 2000 là  Une Gourmandise. Câu chuyện về nhà phê bình ẩm thực nổi tiếng thế giới với niềm khao khát phút lâm chung là được nếm những dư vị bị lãng quên của cuộc đời, đã mang lại cho cô giải Single Award và một vài lời khích lệ từ các nhà phê bình. Sau đó, Nhím thanh lịch, cuốn sách được tuần san L’Express tán dương vì đã ngợi ca “chút thú vị của cuộc đời… với những xúc cảm phi thời gian của một Marcel Proust”, ngay lập tức đã gặt hái được thành công trên bình diện hệ tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác phẩm. Sức hấp dẫn của cuốn sách bắt nguồn từ giọng kể lôi cuốn của nhân vật chính, Renée Michel, người gác cổng 54 tuổi làm việc tại một khu căn hộ cao cấp ở Paris, người đã cố gắng che giấu học vấn uyên bác tự trau dồi của mình trước những kẻ giàu có, hợm mình sống trong tòa nhà. *** Muriel Barbery (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1969) là một tiểu thuyết gia và giáo viên triết học người Pháp. Cuốn tiểu thuyết năm 2006 của cô The Elegance of the Hedgehog đã nhanh chóng bán được hơn một triệu bản. Barbery sinh ra ở Casablanca, Morocco nhưng cô và bố mẹ đã chuyển đi khi chỉ mới hai tháng tuổi. Cô học tại Lycée Lakanal, vào École Normale Supérieure de Fontenay-Saint-Cloud vào năm 1990 và có được sự thăng tiến trong triết học vào năm 1993. Sau đó, cô dạy triết học tại Đại học de Bourgogne, ở một lycée, và tại Saint-Lô (Trường cao đẳng đào tạo giáo viên ở Pháp). Sau khi cô nghỉ việc, cô sống 2 năm tại Nhật Bản (2008 và 2009). Cô hiện tại đang sống ở châu Âu. Cuốn tiểu thuyết L'Élégance du hérisson của cô (được dịch sang tiếng Anh bởi Alison Anderson là The Elegance of the Hedgehog) đứng đầu danh sách bán chạy nhất của Pháp trong 30 tuần liên tiếp [2] và được tái bản 50 lần. Đến tháng 5 năm 2008, nó đã bán được hơn một triệu bản.[3] Nó đã trở thành một cuốn sách bán chạy nhất ở Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Hàn Quốc và ở nhiều quốc gia khác. Câu chuyện liên quan đến các cư dân của một tầng lớp thượng lưu ở một căn hộ Paris nhỏ. Cô và Paloma, cô con gái tuổi teen có trí tuệ (thậm chí cực đoan) của một gia đình thường trú, lần lượt thuật lại cuốn sách. Renée cũng xuất hiện ngắn gọn trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Barber, Une Gourmandise, xuất hiện trong bản dịch tiếng Anh của Anderson với tên Gourmet Rhapsody vào năm 2009.[4] The Elegance of the Hedgehog cũng được chuyển thể thành phim có tên Le Hérisson (tiếng Anh là Hedgehog) Mona Achache. Nó được phát hành vào năm 2009.   Mời các bạn đón đọc Nhím Thanh Lịch của tác giả Muriel Barbery.
Mãi Mãi Tuổi Mười Chín - Grigory Baklanov
Nhà văn Nga Grigory Baklanov sinh ngày 11-9-1923. Khi ông đến tuổi nhập ngũ, trong nước tiếng súng chiến tranh đã vang lên được hơn hai tháng, cuốn theo gần như cả thế hệ của ông. Baklanov xung phong ra mặt trận, lúc đầu là một người lính, và sau khi tốt nghiệp trường quân sự là một trung đội trưởng pháo cao xạ. Mười hai năm sau chiến tranh ông in truyện vừa đầu tiên “Hướng nam mũi đột kích chính”, tiếp theo là “Tấc đất” đã được độc giả đón nhận nhiệt liệt. Ngay lập tức giới phê bình chính thống xếp chúng vào loại “sự thật chiến hào”. Hoạt động văn học của Baklanov, tác giả các truyện vừa, tiểu thuyết, kịch bản phim, hồi ký chiến tranh, vẫn gặt hái được nhiều kết quả cho đến ngày hôm nay. *** T rận chiến đấu đã diễn ra nhiều giờ trong đám khói bụi che khuất cả mặt trời. Những chiếc xe tăng sa lầy trước hào chống tăng, chúng cố vượt qua hào, và một chiếc bốc cháy giữa cánh đồng. Nghe đâu bên cánh trái, bộ binh đang tiến, họ được trang bị áo giáp, mũ sắt, lưng che mộc sắt, ngực có áo giáp, dường như họ vượt qua hào chống tăng trước cả những chiếc xe tăng. Suốt cuộc chiến tranh Trêchiakov chưa trông thấy bộ bình ta như vậy, nhưng anh nghe nói cánh bộ binh ấy ở bên trái.   Chiếc xe tăng ba mươi tư tấn nằm bên miệng hào chống tăng bị phá hủy, bị đạn pháo cày rộng toác ra, và xác lính bộ binh nằm la liệt khắp chiến trường. Tất cả họ hòa vào cánh đồng vàng nục, ngưòi thì đội mũ ca-lô, người thì tóc húi cao gối đầu trên cỏ khô cứng, nhưng đều mặc những chiếc áo varơi cháy xém, cuộn lại vắt vai. Và không có tiếng nói của bất cứ ai — dù của trung đội trưởng, đại đội trưởng, người chỉ huy — có thể dựng họ dậy. Từ nay trở đi họ không phụ thuộc vào ai nữa, họ nằm trong cỏ trước hào chống tăng, dường như vẫn đang tiếp tục bò lên. Nghe tiếng nổ, Trêchiakov lao xuống, suýt nữa thi xéo phải một người lính bị đất sét phủ nửa người phía dưới. Cuộn dây điện màu xanh của ai đó nằm vắt ngang qua người anh ta.   Khi Trêchiakov cùng với Kưchin bò ra khỏi hào, vừa chạy trên trận địa, vừa rải dây theo, đạn réo gần đến nỗi lúc chạy đầu Trêchiakov lắc lư, như muốn dứt ra khỏi người. Một loạt pháo bất ngờ dội vào cả hai ngưòi. Trong khoảnh khắc nào đó, ngóc đầu khỏi mặt đất, anh trông thấy ở phía trước một đám tuyết đen xém giữa ngày nóng nực. Nó dựng thành bức tường dông bão cuồn cuộn và trên bức tường ấy, đàn bồ câu trắng đang bay lượn, và bỗng nhiên anh nhìn thấy một con chim trúng đạn. Lần đầu tiên trong đời Trêchiakov nhìn thấy điều đó. Chú bồ câu bay tung lên cao hơn đàn chim, quay tròn rồi rơi xuống, trên không trung chỉ còn những chiếc lông rụng từ đôi cánh giang rộng. Thế là cái lạnh tràn qua khắp tim anh: «Hôm nay nó sẽ giết mình!» — Anh chợt nghĩ và tự thấy hoảng sợ, vì đã nghĩ vậy. Và lát sau, anh chồm dậy chạy trên trận địa, tay giữ khẩu tiểu liên. Lính bộ bình khoác áo varơi đang khom người chạy phía trước, bỗng trở nên sáng trắng trước bức thành mây đen ngòm, giống như trên phim ảnh âm bản.   Trêchiakov hụp đầu trong khói súng, khi ngã xuống anh vẫn nghe thấy tiếng đạn cối đang bay xuống thấp. Và cả tiếng rên rỉ của ai đó ở ngav bên cạnh, nghẹn ngào, rên rỉ: «Ôi! Ối Ối! Ối giời ơi! ». Đạn cối nổ dữ đội hơn, Tiếng rên rỉ càng đau đớn hơn. Và còn nghe thấy hai giọng nói gầm lên vội vã: «Này, đã bảo...Đứa đây!». «Đưa cho ngay đấy... đưa ngay đấy….   Mời các bạn đón đọc Mãi Mãi Tuổi Mười Chín của tác giả Grigory Baklanov.
Con Lắc Của Foucault - Umberto Eco
Casaubon, một chuyên gia về các hiệp sĩ dòng Đền thời trung cổ, cùng với Diotalevi và Belbo, hai biên tập viên một nhà xuất bản ở Milan, Ý, nghe kể về một thông điệp được mã hóa nói về một âm mưu bí mật của các hiệp sĩ dòng Đền. Hứng thú bởi câu chuyện, họ liền bịa ra cái họ gọi là “Kế hoạch”, một thứ mà họ nghĩ là hoang đường, một mưu đồ vĩ đại kết nối các hiệp sĩ dòng Đền với nhiều nhóm bí truyền khác ở nhiều quốc gia xuyên qua nhiều thế kỷ với mục tiêu chiếm lĩnh Thế giới! Nhưng rồi, cái âm mưu mà họ nghĩ là sản phẩm hoàn toàn do họ tưởng tượng ra ấy rốt cuộc lại dẫn tới một kết cục đáng sợ trong thế giới thực, một kết cục mà họ không ngờ nổi và không người đọc nào ngờ nổi. Nếu đã say mê Tên của đóa hồng của Umberto Eco bởi sức hấp dẫn lạ kỳ của nó, bạn sẽ khó mà cưỡng được Con lắc Foucault, một cuốn thriller khác cũng “chẳng giống ai” của ông. Có lẽ, Umberto Eco muốn trao cho độc giả một cuốn sách để họ có thể thốt lên sau khi đọc xong: “Tôi đã đi cùng khắp, kiếm sự an bình, rốt cuộc chỉ tìm thấy nó khi ngồi ở một góc phòng với một quyển sách mà thôi.” Lồng trong một cốt truyện trinh thám hấp dẫn về những tội ác khủng khiếp đầy ám ảnh diễn ra trong bóng tối nhà thờ, được dẫn dắt bằng tài kể chuyện siêu việt, trên nền cuốn tiểu thuyết lịch sử uyên bác, đồ sộ và đầy tính biểu tượng, chứa đựng những kiến thức văn hóa, triết học, nghệ thuật và tôn giáo sâu rộng,  Ngay từ khi xuất bản lần đầu vào năm 1980, tiểu thuyết đầu tay của triết gia mỹ học hàn lâm, nhà bác học, nhà lý luận lừng danh thế giới Umberto Eco đã lập tức thành công vang dội, trở thành “cú sốc của tiểu thuyết đương đại”, một “siêu tiểu thuyết” được cả độc giả của văn chương bình dân lẫn bác học đón nhận nồng nhiệt khắp năm châu. *** Nhận định: “Cũng kiệt xuất và khó lường như Tên của đóa hồng, cũng ma mãnh và thông kim bác cổ y như thế… Một màn trình diễn của bậc cao thủ.” - San Francisco Chronicle Chính là để cho các người, những đứa con của học thuyết và tri thức, mà bọn ta viết ra cuốn sách này. Hãy nghiên cứu nó, nghiền ngẫm ý nghĩa mà bọn ta đã gieo ở nhiều chỗ khác nhau rồi tập hợp lại: thứ bọn ta phong kín ở nơi này thì bọn ta lại hé lộ ở nơi khác, để trí tuệ của các người thấu tỏ. − Heinrich Cornelius Agrippa von Nettesheim, De occulta philosophia, 3.65 Dị đoan mang tới vận xui. − Raymond Smullyan, 5000 TCN, 1.3.8 “Lôi cuốn... Câu chuyện công phu của Eco thật tuyệt vời. Ngày giờ trôi đi theo dòng tưởng tượng.” - New York Times “Cuốn truyện của Eco như được hợp lực tạo nên bởi chính Arthur Conan Doyle và Thomas Mann. Một khi đã lật trang thứ nhất, thì nhất định không thể dừng đọc.” - Greensboro News “Tác phẩm tuyệt vời của một học giả biết cách dẫn dắt câu chuyện... Kinh ngạc ... mê đắm ... siêu việt.” - Houston Chronicle “Một loại tiểu thuyết làm đổi thay đầu óc người đọc... dẫn dắt chúng ta bước vào một thế giới kinh viện vừa thiêng liêng vừa đen tối với nhiều Giáo hoàng và những tên phản Chúa...” - Los Angeles Times “Câu chuyện đạo lý sống động về lòng cuồng tín, kinh sách và cuộc truy tầm chân lý...” -  Newsday *** Umberto Eco sinh ngày 5 tháng 1 năm 1932 tại Alessandria, Ý, hiện sống ở Milan. Thiên hướng đã thôi thúc ông làm trái ý cha, từ bỏ khoa Luật, chuyển sang nghiên cứu triết học và văn học Trung Cổ tại Đại học Turin. Trong thời gian này Umberto Eco trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, trở thành người vô thần và từ bỏ Giáo hội Công giáo. Năm 1954, ông bảo vệ luận văn về Thomas xứ Aquino (Nhà thần học Công giáo nổi tiếng nhất thời Trung Cổ), đạt học vị tiến sĩ triết học. Umberto Eco là nhà văn, nhà lý luận, triết gia, nhà ký hiệu học lừng danh – người từng là biên tập viên các chương trình văn hóa của Đài truyền hình quốc gia Ý (RAI), là người viết bình luận của tờ báo lớn nhất nước Ý L’Espresso, là giáo sư ký hiệu học của Đại học Bologne, dạy mỹ học và văn hóa học tại các trường đại học Milan, Florence, Turin, tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học nước ngoài. Tờ Los Angeles Times đánh giá ông là "một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong thời đại của chúng ta." Những tiểu thuyết đã vinh danh cho tên tuổi của ông: Tên của đóa hồng (Il nome della rosa-1980); Quả lắc của Foucault (Il pendolo di Foucault - 1988); Hòn đảo ngày xưa (L'isola del giorno prima - 1994); Baudolino(2000); Ngọn lửa bí ẩn của nữ hoàng Loana (La misteriosa fiamma della regina Loana - 2004); Nghĩa địa Praha (Il cimitero di Praga - 2010); ...   Mời các bạn đón đọc Con Lắc Của Foucault của tác giả Umberto Eco.
Và Thế Là Chúng Ta Tiêu - Joshua Ferris
Tại sao, tại sao nhắc đến dân văn phòng lại có người tưởng tượng đến một chàng trai hay cô gái có khuôn mặt rạng ngời, ngày tám tiếng trong phòng điều hoà mát rượi, sếp quý đồng nghiệp yêu, tháng tháng nhận lương bảy số không, đời lúc nào cũng rặt một màu hồng? Ảo tưởng, quá ảo tưởng ! Không biết ngồi lê đôi mách, không biết làm việc riêng trong giờ? Không vài lần bị sếp đập bàn mắng mỏ? Không bao giờ thấp thỏm lương bị trừ, phụ cấp giảm? Chưa từng lo lắng bị đồng nghiệp cười trước mặt đá sau lưng? Chẳng biết thế nào là nỗi hoang mang trong thời khủng hoảng kinh tế? Thế thì sao dám vỗ ngực tự xưng ta là dân văn phòng? Thôi thôi, nhìn thử vào Và thế là chúng ta tiêu đi, đời sống bi hài thăng trầm khúc khuỷu của dân văn phòng đấy. *** Joshua Ferris sinh năm 1974, tốt nghiệp cử nhân Văn chương và Triết học tại Đại học Iowa. Anh từng theo học khóa Viết Sáng tạo tại Đại học California ở Irvine. Và thế là chúng ta tiêu là tiểu thuyết đầu tay của anh. Cuốn sách đã được dịch ra 24 thứ tiếng đồng thời giành nhiều giải thưởng văn học trong đó có giải PEN/Hemingway. Hiện Ferris đang sống tại New York, Mỹ.   Cuốn sách Và Thế Là Chúng Ta Tiêu đã mang lại cho Joshua Ferris giải PEN/Hemingway, khiến anh được so sánh với Joseph Heller của Catch 22, đưa anh trở thành tác giả bestseller quốc tế, và trên hết thảy, lấy cho dân văn phòng một chỗ đứng nữa trong tiểu thuyết đương thời. *** Nhận định về tác phẩm: “Cái nhìn thoáng qua tưởng như một tiểu thuyết châm biếm về văn hóa chốn công sở, khi nhìn kỹ hơn, hóa ra lại là một tiểu thuyết rất nghiêm túc về chính nước Mỹ. Thậm chí, theo cách khiêm nhường của nó, một tiểu thuyết Mỹ vĩ đại.”  - Los Angeles Times       “Một tiểu thuyết xúc động đích thực về công việc, niềm tin, tình yêu và nỗi cô đơn.”  - Michael Upchurch, Seattle Times       “Ferris đã nắm bắt được, một cách xuất sắc, cái tù túng của cuộc sống văn phòng đương đại.”  - The New Yorker   Mời các bạn đón đọc Và Thế Là Chúng Ta Tiêu của tác giả Joshua Ferris.