Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Đời Của Ajahn Chah (Tâm Thái)

Ajahn Chah (danh xưng chánh thức do chùa Wat Pah Pong, Thái Lan dùng, cũng có nơi phiên âm là Achaan Chah) (1918-1992) là một vị cao tăng Thái Lan nổi tiếng về pháp Thiền thuộc Phật giáo Nguyên Thủy. (Ajahn là danh tôn xưng, không phải là tên). Đại đức tu theo truyền thống khổ hạnh của các vị tăng chỉ sống trong rừng chứ không ở chùa tại các đô thị. Các vị tăng này nhiều khi chỉ sống dưới gốc cây hoặc sau này chỉ ở tại các nơi xa xôi, hẻo lánh, các vị chỉ lập một chỗ sơ sài để tu hành, mà không làm những công việc khác như: cúng lễ, dạy học, nghiên cứu kinh điển. Các vị tăng này xa lánh các nơi đông đúc vì muốn để hết thời giờ vào việc hành Thiền một cách toàn vẹn và nghiêm chỉnh. Ajahn Chah sinh trưởng trong một gia đình khá giả tại miền đông bắc Thái Lan. Đại đức xuất gia rất sớm và thọ giới Tỳ kheo năm 20 tuổi. Đại đức theo học nhiều thầy, trong đó có Ajahn Mun là vị tăng Thái lan nổi tiếng. Sau nhiều năm di chuyển trong rừng, tu theo pháp khổ hạnh, đại đức trở về gần vùng nơi sanh trưởng và sống tại một khu rừng rậm, không có người ở, chỉ có nhiều hổ, rắn. Nhưng sau một thời gian thì nhiều người biết và đến xin thụ huấn nên dần dà trở thành chùa Wat Pah Pong, gồm nhiều nhà nhỏ rải rác quanh đó. Sau đó tại Thái Lan hàng trăm chùa theo pháp Thiền của đại đức đã được thành hình do các đệ tử của đại đức dựng lập. Đại đức đã đi thuyết pháp tại Anh, Mỹ và Gia nã đại. Một số rất đông người Tây phương đã đến Wat Pah Pong thụ huấn và nhiều người đã thành Tăng và trở về nước tiếp tục truyền bá Phật pháp. Chùa lớn nhất tại ngoại quốc ở tại Chihurst (1979) và Amaravati (1984), Anh quốc với vị tăng gốc Mỹ Ajahn Sumedho trụ trì. Ngoài ra nhiều ngôi chùa khác cũng được thành lập tại Thụy Sỹ, Úc và Tân tây Lan. Ajahn Chah mất đi năm 1992 tại Thái Lan. Nhiều sách bằng tiếng Anh ghi lại những bài thuyết pháp của đại đức đã được xuất bản, một số đã được Trung Tâm Narada tại Kent, Washington dịch ra tiếng Việt.

Pháp Thiền của Ajahn Chah

Cũng như các pháp Thiền khác của Phật giáo Nam Tông nên có thể gọi pháp Thiền của đại đức là vipassana nhưng việc thực hành rất đặc biệt, được mô tả là "đi thẳng vào trọng tâm của Thiền Phật giáo"[4]. Pháp hành Thiền của đại đức giản dị và trực tiếp để định tâm và đạt trí huệ. Những bài thuyết pháp của đại đức đều dản dị, không cầu kỳ với những danh từ khó hiểu, có những thí dụ rất thiết thực nên đại đa số có thể hiểu và hành được, mà vẫn theo đúng Phật pháp thâm sâu. Đại đức không chọn một phương pháp cố định nào mà chỉ tùy theo hành giả mà chỉ dậy. Có người hỏi đại đức tại sao nhiều khi những lời giảng gần như mâu thuẫn nhau thì đại đức nói "Như tôi nhìn người bước đi trên đường, nếu người đó sắp té về rãnh bên phải thì tôi nói họ phải bước qua trái, nếu người đó sắp té về rãnh bên trái thì tôi nói họ phải bước qua phải. Việc tu tập chỉ là giữ cho tâm thăng bằng, không chấp vào gì cả, cần buông xả hết." [4]

Đại cương pháp tu là theo dõi hơi thở ra vào cho đến khi tâm an định, sau đó quán xét sự diễn tiến của thân, tâm để thấy rõ tính cách Vô thường, Khổ, Vô ngã của chúng. Sự theo dõi, thấy biết (awareness) một cách tự nhiên về hơi thở cũng như về sự diễn tiến (sinh, trụ, diệt) của thân, tâm là điều căn bản của pháp Thiền này. Cần giữ sự hằng biết (mindfulness), tức sự thấy biết đó một cách liên tục, không bị ngoại cảnh cũng như những ý nghĩ lăng xăng làm gián đoạn. Theo đại đức thì đạo Phật chủ yếu là tu tâm để đạt đến giác ngộ, giải thoát. Tu tâm đây không chỉ riêng có nghĩa đơn giản là làm điều thiện, tránh điều ác, mà là nhìn thẳng vào tâm, quán xét cho kỹ để biết rõ sự hoạt động và bản tính của nó. Muốn tu tâm thì hành giả phải tự cố gắng, kiên trì chứ không có đấng thần linh nào làm thay mình được. Nhưng mỗi người có một tâm khác nhau nên cũng khó nói có một pháp nào áp dụng cho tất cả mọi người được, vì vậy đức Phật đã chỉ nhiều pháp khác nhau để mỗi người tùy căn cơ áp dụng. Như trong kinh Tứ Niệm Xứ (Pali: Satipatthana Sutta), là kinh căn bản của Thiền Vipassana, có kể đến nhiều pháp hành khác nhau chứ không định rõ một pháp riêng biệt nào. Vì vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi cùng một tên gọi là Vipassana mà phương pháp của mỗi vị tăng có thể thấy như khác nhau mặc dầu cùng chung một mục đích.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cuộc Đời Của Ajahn Chah PDF của tác giả Tâm Thái nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Phép Xuất Hồn - Đỗ Thuần Hậu (1971)
Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Phép Xuất Hồn – Đỗ Thuần Hậu (1971) - Vô Vi Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Khi được xuất hồn lên cao, thì hình bóng ta ngó xuống bản thể ta. Tùy theo sự chịu khó của mỗi người tự ưng thuận công phu cho dày công thì sẽ được xuất hồn đủ hình bóng và thông hiểu quá khứ vị lai cùng được dạo Thiên cảnh. Các bạn nên để ý, khi được xuất hồn thì phải mê, trong đó có cái tỉnh, rồi ta thấy trên nê hườn (mỏ ác) tê lạnh, rồi hồn mới xuất được. Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.” Lúc xuất hồn, bản thể của ta đang ngồi, nếu có sự đụng chạm nhẹ thì không biết, còn con muỗi cắn thì biết và vẫn nghe tiếng kêu của con vật “Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật – Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi “Huyền Quang khiếu” để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát” ĐỖ THUẦN HẬU”Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành” “Trong câu chuyện “Mơ duyên quái mộng” Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc “Hồn và Vía” gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa “Tiên Đồng” và ” Ngọc Nữ” là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy.”
BỤT SỬ LƯỢC BIÊN THIỆT TRUYỆN (1913) [4 QUYỂN]
Bụt sử lược biên (Thiệt truyện) là một cuốn sách gồm 4 tập thuật lại những sự tích về cuộc đời của Đức Phật và tư tưởng của Ngài, do một người Pháp, ông Pierre Rey, biên soạn, và do nhà xuất bản Schneider ấn hành vào năm 1913, tại Sài Gòn. (4 QUYỂN)
Thiền Định thực hành - Dã Trung Tử sưu tập
THIỀN ĐỊNH THỰC HÀNH“Không phải ngồi sững mới là Thiền. Tâm chẳng trụ trong, chẳng trụ ngoài, không giao-động, không rời đạo-pháp mà sinh-hoạt với thế-gian, làm lợi-ích cho đời cũng là Thiền” Bồ-tát Duy-Ma-Cật.Về phương-diện thực-hành phương-pháp thiền-định, tùy theo hoàn-cảnh, trình-độ và mục-đích mà sự thực-hành có khác nhau:– Thiền-định quán-chiếu vào lỗi-lầm để tìm phương khắc-phục.– Thiền-định quán-chiếu vào một vấn-đề tìm ra giải-pháp.– Thiền-định để tìm một trạng-thái thư-giãn thân tâm.– Thiền-định quán-chiếu vào từng hoạt-động của thân-xác để luyện sự gom-thần định-trí tăng-cường thần-huệ.– Thiền-định quán-chiếu vào mọi khổ-ách để sống chung hoà-bình với nó, hầu giữ thân tâm được an-tịnh, xa rời đau-khổ.Sau đây là phần giới-thiệu các cách thực-hành của từng phương-pháp thiền-định.Tags:FacebookTwitterMới hơnCũ hơnĐăng bởi:☯ Dân tộc KING hoạt động với tiêu chí phi tôn giáo, phi lợi nhuận, phi chính trị. Mục đích của dantocking.com là cung cấp thông tin quý giá từ các bậc tiền nhân, để hậu thế có thể dễ dàng tìm đọc. Không có mục đích nào khác!
Chí Tôn Ca nguyên nghĩa - Bhagavad Gita
Chí Tôn Ca kể về hành trình giác ngộ của Arjuna (hoàng tử của nhà Pandavas) về nhân sinh quan và tìm đến Chân ngã thông qua Yoga ngay trước khi cuộc chiến giữa năm anh em nhà Pandavas và một trăm anh em nhà Kauravas diễn ra dưới sự giảng dạy của Đức Chí Tôn (Krishna).  kể về hành trình giác ngộ của Arjuna (hoàng tử của nhà Pandavas) về nhân sinh quan và tìm đến Chân ngã thông qua Yoga ngay trước khi cuộc chiến giữa năm anh em nhà Pandavas và một trăm anh em nhà Kauravas diễn ra dưới sự giảng dạy của Đức Chí Tôn (Krishna). Trong Chí Tôn Ca, những yếu tố khác nhau, cạnh tranh với nhau bên trong hệ thống triết học Ấn Độ, đều đến với nhau và tích hợp thành một tổng đề bao hàm toàn diện. Giáo lý Áo nghĩa thư về đấng Brahman siêu việt, thuyết hữu thần Bhagavata, lòng hiếu thảo, thuyết nhị nguyên của phái Số luận (Sāṃkhya), và thiền định Du-già, đều rút ra từ tính hợp nhất hữu cơ. Tri giác về sự thật được đúc kết từ sự đổi mới cuộc đời. Cảnh giới tâm linh không phải cắt lìa khỏi cảnh giới cuộc đời. Tách lìa con người ra khỏi ước vọng ngoại tại và phẩm tính nội tâm là xâm phạm đến tính nguyên toàn của đời người. Hai dòng Thực tại, siêu việt và thực nghiệm, đều gần gũi nhau rất mật thiết. Con người, bằng cách phát huy yếu tính tâm linh nội tại, đã có được một dạng quan hệ mới với thế giới, phát triển thành tự do nơi tính nguyên toàn của cái Ngã không bị thỏa hiệp. Trở nên nhận biết về chính mình như là một cá nhân năng động và sáng tạo, đời sống không phải được điều động bằng kỷ luật uy quyền ngoại tại mà bằng quy luật nội tại của tự do hiến dâng cho chân lý.